ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

03 Tháng Tám 20206:40 CH(Xem: 26255)
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
diendanpghh-duc-hunh-giao-chudiendanpghh-duc-huynh-giao-chu
2020-09-04_101952

ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

của Vương Kim

 ---oOo---

THIÊN THỨ NHỨT

GIAI ĐOẠN RA ĐỜI MỞ ĐẠO

Chương I: Bối-cảnh xã-hội

Lịch sử thường chứng nhận, trong những hoàn cảnh xã hội băng hoại, nhơn tâm ly tán, thế đạo suy đồi, lòng người hung ác, mê muội bạo tàn… là lúc Thánh nhơn ra đời để dìu dắt nhơn dân, cải ác tùng lương, chấn chỉnh luân thường đạo nghĩa.

Như Đức Phật Thích Ca ra đời vào lúc xã hội Ấn Độ phân chia giai cấp trầm trọng, các mối ngoại đạo thạnh khởi, mê hoặc lòng người, gây thành một trạng huống hỗn loạn, làm cho tâm trí con người đảo điên, đời sống mê mờ tăm tối. Ngài ra đời để đem đạo trí huệ soi sáng lòng người, đức từ bi phá tan giai cấp xã hội.

Ở Trung Quốc, Đức Khổng Tử ra đời cũng vào thời Xuân Thu chiến quốc, các nước thôn tính lẫn nhau, trật tự xã hội rối ren, đời sống nhân dân cùng khốn, luân lý suy đồi, cang thường đảo lộn. Ngài ra đời đem lại đạo nghĩa, chỉnh lại nhơn luân, xây dựng lại trật tự xã hội băng hoại, đào tạo nên hạng người quân tử làm mẫu mực trong đời.

Ở Trung Đông, Chúa Cơ Đốc giáng lâm cũng vào thời con người hung ác, xã hội mê lầm. Ngài đem tình bác ái ban rải khắp nơi, treo gương hy sinh cao cả biểu dương tình thương bất diệt.

Cứ theo thông lệ, các bực Thánh nhơn hay các đấng cứu thế lâm phàm, luôn luôn phải hội ít nhất ba điều kiện sau đây:

1. Thời cơ hay vận mạng của quốc gia mà bực Thánh nhơn chọn lâm phàm có đúng lúc cần đến sự giúp đỡ của Thánh nhơn để dạy dỗ nhơn dân chưa?

2. Hoàn cảnh có thuận tiện cho sự xuất hiện của Thánh nhơn chưa? Nghĩa là một xã hội băng hoại đang cần đến Thánh nhơn cứu vãn.

3. Cơ duyên của chúng sanh có chính mùi và có thuận cho sự giáo hoá của Thánh nhơn chưa? Nghĩa là Thánh nhơn đã gieo duyên với nhân dân ở một địa phương nào đó, nay Thánh nhơn ra đời, do nhân duyên đã gieo mà Thánh nhơn được chúng sanh hưởng ứng.

Nếu Thánh nhơn ra đời mà không hội đủ ba điều kiện trên đây, nghĩa là chưa hạp thời cơ, không hạp hoàn cảnh hay không có cơ duyên với chúng sanh thì chẳng những trên không hạp lòng Trời, mà dưới không hạp lòng người thì lấy ai hưởng ứng hầu cứu thế độ dân, hoàn thành sứ mạng.

Xét về trường hợp Đức Huỳnh Giáo Chủ, chúng ta nhận thấy:

Về điều kiện thời cơ, Đức Huỳnh Giáo Chủ có cho biết: “Vì thời cơ đã đến, lý Thiên đình hoạch định, cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan…”

Về hoàn cảnh, Ngài đã nhận: “Thiên Tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế giới trong buổi Hạ nguơn này, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh, gây nên nghiệp quả, luật Trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi cùng các vì chơn Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà quy chánh thì mới mong Thiên đình ân xá bớt tội căn để kịp đến Long Hoa chầu Phật.”

Về khoản cơ duyên, Ngài đã nhận rằng:”Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân, vì thể lòng từ bi bác ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp ta nương cậy tu hành nên ngày 18 tháng 5 năm Kỹ mão, Ta hoá hiện ra đời cứu độ chúng sanh…”

Đức Huỳnh Giáo Chủ xuất thế cũng ở trong hoàn cảnh tương tợ như Đức Phật Thích Ca ở Ấn Độ, Đức Khổng Tử ở Trung Quốc và Chúa Cơ-Đốc ở Do Thái, nghĩa là ở vào thời kỳ xã hội băng hoại, luân lý suy đồi, nhơn dân đồ thán.

Trong suốt thời gian ngót 80 năm dưới ách đô hộ nghiệt ngã của ngoại bang, nước Việt Nam đã lâm vào tình trạng cực kỳ đen tối, hủ hóa cả hai phương diện Đời và Đạo.

A– VỀ PHƯƠNG DIỆN ĐỜI: Tháp tùng theo đoàn binh viễn chinh xâm lược, ngọn gió Tây Âu tràn vào Việt Nam làm ngả đổ thuần phong mỹ tục của ngàn xưa. Tiêm nhiễm lấy nền văn minh vật chất, trọng ở sự phù phiếm xa hoa về thể xác hơn tinh thần, người đời đua chen theo những thói hư tật xấu, làm bại hoại gia đình, hư hèn phong hóa.

I- Về gia đình: Việc loạn luân cang kỷ, càng ngày càng chất ngất, như giữa cha con thì mất cả hiếu từ, giữa vợ chồng thì mất cả ân nghĩa, giữa anh em thì mất cả kính thuận, giữa bè bạn thì mất cả thành thật, giữa chủ tớ thì mất cả trung tính… Ngoài ra, giữa tôi chúa không còn trung nghĩa, giữa thầy trò mất cả kỉnh thành. Nói tóm lại đạo luân thường đã hư hèn bại hoại:

Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân.

Nào kể chi là đạo Quân Thần,

Tôi giết chúa, con đành sát phụ.

Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,

Trò giết thầy tội ấy đáng không?

Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,

Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.

Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,

Giành của tiền cốt nhục giết nhau.

Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,

Tình nhân loại phân chia yểm bách.

II– Về phong hoá thì xã hội càng ngày càng đồi bại, nảy sanh ra nhiều hạng người: đàng điếm chơi bời, gian phi hung ác, ích kỷ sâu dân…

[1] Hạng đàng điếm chơi bời không lúc nào thạnh hành bằng từ khi có ngọn gió vật chất thổi mạnh vào làm cho con người say mê.

   a) Quen thói chè chén say sưa vất mả, la ó đánh đập, sanh ra lắm việc tồi tàn;

   b) Đàng điếm đĩ thỏa, son phấn lả lơi, trêu hoa cợt nguyệt, bày trò dâm loàn, khả ố;

   c) Đấu kê đổ bác, dối gạt lận lường, thua thiếu nợ nần sanh ra cướp giựt;

   d) Hút xách nghiện ngập, cạo ống vét nồi, cầm quần bán áo, làm những điều hèn hạ nhuốt nhơ.

Về vấn đề này, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khéo trách thiện trong mấy vần thơ dưới đây:

Ở thị thiềng đua chen xướng khởi,

Những tuồng hư do bọn gái lẫn trai.

Nào hút thuốc phiện hội ve chai,

Nào trùm đĩ ma cô, nghề hút máu.

Ai để mắt nhìn xem châu đáo,

Chẳng khỏi than dùm dân tộc quá hư hèn.

Diện áo quần son phấn lấn chen,

Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa.

Mảng điểm tô huy hoàng nhà cửa,

Ai khốn cùng để mặc đất, trời xoay.

[2] Hạng gian phi là những kẻ:

   a) Chuyên sống về nghề khoét vách đào tường, năm này tháng nọ chẳng chịu ra sức làm ăn, ngoài ra còn bày mưu này kế nọ lường gạt kẻ làm ăn chơn chất mà lòng không chút ăn năn cải hối.

   b) Chuyện sống về nghề mua giựt bán giành, buôn lậu đầu cơ, lường cân tráo đấu, hại kẻ quê mùa dốt nát, vì mình mà sống cơ cực thiếu thốn.

Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo Chủ thường khuyên:

Việc bán buôn phải giữ ngang cân,

Chớ tập tánh lận lường tráo đấu.

Các công cuộc của người tánh xấu,

Ta giữ gìn chớ có nhiễm vào.

   c) Chuyên sống nghề cho vay cắt cổ, vốn một lời mười, thi hành phát mãi, ở đợ nát lời gây nên một cảnh trạng bức hiếp thê thảm cho kẻ cô thân bần tiện.

[3] Hạng hung ác là những người:

   a) Chưởi cha mắng mẹ, rủa xả chòm riềng, không kiêng già cả, kêu réo Thánh Thần, miệng không ngớt lời độc ác với kẻ trong nhà cũng như người ngoài ngõ.

   b) Ỷ khôn lanh húng hiếp những người hiền lương khờ khật, từ miếng ăn cho đến thức mặc đều đặt trên lẽ hung tàn ác độc

[4] Hạng ích kỷ là hạng người chỉ biết sống riêng, ngày tháng cứ bo bo giữ của, không lòng bố thí. Chẳng những thế mà lại còn tham lam vùa hốt của người một cách sâu hiểm.

[5] Hạng sâu dân là hạng người giá áo túi cơm, phỉnh gạt dân chúng bằng ngòi viết ngọn roi khiến cho đám dân đen phải sống dưới sự đán áp bóc lột mà họ vẫn ngang nhiên không biết xấu xa hổ thẹn. Về hạng này Đức Huỳnh Giáo Chủ đã lắm phen thống trách như mấy vần thơ dưới đây:

Đời cũng lắm bao người giá áo,

Nương bã vinh nhiều hạng túi cơm.

Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,

Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.

[6] Hạng người ngộm là hạng người:

   a) Vô ích trong xã hội, sống một cách trơ trẽn dưới sự ám ảnh của nhục dục, chỉ biết ăn với ngủ, không khác gì đời sống của con vật. Về hạng này trong Sấm giảng có đoạn tả như vầy:

Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa,

Coi sự sống như Tiên nưa nửa;

Mê mồi thơm như cá lục châu.

Sao chẳng lo thức tỉnh quày đầu,

Cho khỏi thẹn với người Thượng cổ.

   b) Vô liêm sĩ, chỉ vùi đầu óc trong cuộc truy hoan dật lạc, lo chưng dọn hình vóc lả lơi, bày trò bướm ong hoa nguyệt một cách nhơ nhuốt tối tăm. Chẳng những thế mà lại còn tự phụ vào mớ học văn minh cặn bã, trở lại phỉ báng ông cha, khinh chê cổ tục, không chút liêm sĩ thẹn thùa. Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo Chủ không ngớt than phiền như mấy câu dưới đây:

Văn minh sửa mặt sửa mày,

Áo quần láng mướt ngày ngày ăn chơi.

Dọn xem hình vóc lả lơi,

Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa.

Trong tâm chứa những điều tà,

Lời ăn tiếng nói thật là quá lanh.

Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,

Chẳng trau hiền đức học hành làm chi?

Khôn ngoan thời những chuyện gì,

Cũng là lừa dối vậy thì dân quê.

Người xưa nó lại khinh chê,

Ông cha hủ bại u mê hơn mình.

Tự do trai gái kết tình,

Với lo trau sửa cho mình đẹp tươi.

Gái trai đến tuổi hai mươi,

Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả lơi.

So hình sửa sắc chiều mơi,

Đặng làm những chuyện trái đời vô liêm.

Cớ sao chê cổ trọng kim,

Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.

Thấy đời trần hạ thon von,

Ai nuôi cho lớn mà còn khinh khi.

Ông cha thuở trước ngu si,

Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.

Học hay lợi dụng tiền tài,

Lên quan xuống huyện ăn xài lả lê.

Gặp ai đói rách cười chê,

Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.

Chẳng lo rèn trí lập thân,

Để làm xảo trá khổ thân sau này (*)

_______________________________________________________________

(Chú thích: (*) Thanh Sĩ và Vương Kim: Để Hiểu Phật Giáo Hoà Hảo, tr 55-59)

Trên đây là trạng huống đồi trụy của xã hội Việt Nam về phương diện Đời, đến như về phương diện Đạo, tinh thần đọa lạc cũng không kém.

B– VỀ PHƯƠNG DIỆN ĐẠO: Nước ta từ ngàn xưa đã tiêm nhiễm đạo Nho và đạo Phật là hai mối đạo làm nền tảng cho phong hóa kỷ cương, xây dựng nên quốc thạnh dân cường, đào tạo nên hạng người anh hùng tiết liệt làm rạng rỡ cho quê hương đất nước.

Nhưng mấy lúc gần đây, những nền đạo lý nhân nghĩa tốt đẹp ấy đã bị làn sóng văn minh vật chất lôi cuốn, khiến cho thất chơn truyền và một ngày một suy lạc.

I– Về Đạo Nho thì thuyết tu, tề, trị, bình luân thường đạo nghĩa của ngàn xưa đã đến hồi suy vi hủ bại. Kẻ học Nho ngày nay không còn mấy người được phong độ quân tử, đem đạo Thánh Hiền truyền bá trong dân gian, chấn chỉnh cang thường đạo nghĩa, gây nên một học phong sĩ khí mà chỉ đem cái sở học ra áp dụng vào những việc buôn y bán lễ, làm thơ cợt nhã trêu đời, coi như dưới mắt không ai, hiêu hiêu tự đắc.

Về hạng hủ Nho nầy, Sấm Giảng có đoạn biểu trạng như vầy:

Đàng nhu thầy lễ cũng kỳ,

Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng.

Lại thêm đờn địch từng tưng,

Đem con heo sống mà dưng làm gì.

Chủ gia kẻ lạy người quì,

Làm chuyện dị kỳ giả dối hay không?

Nếu không thì trả lời không,

Bằng mà có dối thì hòng sửa đi.

Thương đời Ta luống sầu bi,

Học Nho cứ mãi làm thi ngạo đời.

Rung đùi ngâm chuyện trên trời,

Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.

Thấy đời Ta cũng héo von,

Học Nho mà chẳng làm tròn nghĩa nhơn. (*)

____________________________________________________________________________

(Chú thích: (*) Thanh Sĩ và Vương Kim: Để Hiểu Phật Giáo Hoà Hảo, tr.59)

Về hiện trạng suy đồi của đạo Nho, ông Thanh Sĩ có viết: Trong nước chúng ta, trước kia hầu hết trong nước từ hàng vua quan đến dân dã đều đồng nhất hưởng ứng lý thuyết của Khổng Tử là tu về nhân đạo. Mỗi người điều phải học việc: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Việc này, phô trương khắp xứ, ai cũng biết. Sau khi biết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín rồi họ thật hành, như: Tôi trung với vua, con hiếu với cha mẹ .v.v. dù ai cũng vậy. Nhưng từ sau ngày nước nhà bị trị, nghĩa là kể từ đời vua Tự Đức trở lại đây, làn sóng văn minh phương Âu tràn vào xứ sở, bôi xóa tất cả thành tích đạo nghĩa trước kia của dân tộc; từ đó đạo nghĩa bị bôi lọ tất cả, đổi lại lắm thói tồi bại trong xứ sở. Vì thế đạo luân thường phai dần đi, cho đến ngày nay, mặc dù có nhiều chùa miễu, nhiều tổ chức trùng hưng đạo Thánh Hiền, nhưng không trở lại như cũ. (*)

_____________________________________________________________________________

(Chú thích: (*) Chú nghĩa loạt bài Huấn Luyện Đạo Đức của Ban Hoằng Pháp tại Tây An Cổ Tự, tr 122).

II– Về Đạo Phật: Đạo Nho đã thế, đạo Phật cũng không hơn gì.

Trên lịch sử Việt Nam, Phật Giáo đặt vững cơ đồ ở đời Lý đời Trần. Nhưng trải qua bao cuộc thăng trầm của đất nước, chánh pháp cũng theo thời gian mà suy dần trong dĩ vãng. Thừa lúc loạn lạc, Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi tiếp theo thực dân đô hộ non một thế kỷ, tinh thần dân chúng hoang mang mất cả tự tin; những lối tu yếm thế, mê tín dị đoan pha màu phương thuật lại được dịp xây dựng quy mô, làm cho nền giáo pháp dân tộc phải thối triều trong khoảng thời gian ngót năm thế kỷ.

Ông Thanh Sĩ cũng nhận tình tệ suy đồi của đạo Phật ở Việt Nam như sau:

Cùng một cảnh huống đạo Khổng tử, đạo Phật Thích Ca ở xứ ta hồi thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần rất thịnh đạt, không những trong dân chúng mà luôn đến hàng vua chúa cũng cùng một tin tưởng mạnh mẽ…

Nhưng kể từ khi các vị Tổ bên Trung Hoa ngưng việc truyền y phó bát đến nay, phái Thần Tú càng lúc càng thêm mạnh, không những ở Trung Hoa mà còn truyền qua xứ ta, họ bày ra cách thờ cúng đầy thinh, âm, sắc, tướng (đờn đẩu, trống phách, lầu phướn xá hạc .v.v..) làm việc hữu hình, hữu ảnh, dân chúng xứ ta dần dần theo đó mà xa lần mối đạo Vô vi chánh pháp của Phật. Nền chánh giáo từ đó ngày càng lu, các ngôi chùa miếu phần nhiều chỉ là cái vỏ để các tà sư làm mê hoặc thập phương lợi dụng việc no cơm ấm áo vậy thôi, chớ họ không chủ vào việc dắt người đến chỗ sáng sủa giải thoát. (*)

________________________________________________________________________

(Chú thích: (*) Chú nghĩa loạt bài Huấn Luyện Đạo Đức của Ban Hoằng Pháp tại Tây An Cổ Tự, tr.122).

Về những lưu lệ do Thần Tú bày ra, như làm thầy đám, bày chuông mõ, lầu phướn xá hạc, làm trai đàn, bày lắm trò âm thinh sắc tướng… đã được Sám Giảng mô tả trong những đoạn sau:

Lũ thầy đám hay bày trò khỉ,

Mượn Kinh Luân tụng mướn lấy tiền.

Chốn Diêm Đình ghi tội liên miên,

Mà tăng chúng nào đâu có rõ.

Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,

Từ xưa nay có mấy ai thành;

Phật từ bi độ tử độ sanh,

Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.

Xá với phướn là trò kỳ quái,

Làm trai đàn che miệng thế gian,

Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,

Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.

Ngoài những tệ đoan vừa kể, còn nhiều điều sai lầm khác nữa như khoác áo thầy tu làm nhưn bông tụng mướn, bày việc đốt giấy tiền vàng bạc, cúng kiếng chè xôi, bày trò hát Phật mà trong Sám Giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ đã vạch trần nhiều đoạn sai lầm giả dối:

Kinh với Sám tụng nghe thảnh thót,

Lũ nhưn bông tập luyện đã rành:

Đẩu với đờn kèn trống nhịp sanh,

Làm ăn rập đặng đòi cao giá.

Tâm trần tục còn phân nhơn ngã,

Thì làm sao thoát khỏi luân hồi;

Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,

Chớ có đốt tốn tiền vô lý.

Xưa Thần Tú bày điều tà mị.

Mà dắt dìu bá tánh đời Đường;

Thấy chúng sanh lầm lạc đáng thương,

Cõi âm phủ đâu ăn của hối.

Đúc Phật lớn chùa cao bối rối,

Mà làm cho Phật giáo suy đồi;

Tu vô vi chớ cúng chè xôi,

Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót.

Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,

Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài;

Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai

Cúng với lạy khó trừ cho đặng.

Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,

Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?

Lập trai đàn chạy chọt lao xao,

Bôi lem mặt bày tuồng hát Phật.

Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,

Vậy hãy mau bỏ bớt dị đoan.

Cao Đài Giáo cũng nhận thời kỳ nầy Tam Giáo đã thất truyền nên nhơn sanh lần lần tiêu Đạo Đức, phế tinh thần, mới chuộng sự hữu hình, nên bày những âm thinh sắc tướng. Không ai còn để ý lưu tâm đến chổ thâm huyền cao viễn, chỉ ưa sự dễ dàng, tạn thấy tạn nghe, rồi cứ dãy lòng nhơn dục tham mê, mới gây tội án nặng nề, phải mang lấy sừng lông mà bị thối hóa lại súc sanh và luân hồi lục đạo.

Sự thất chơn truyền ấy đã biểu lộ ra các biến tướng trong Tam Giáo.

1/ Đạo Thích, Đạo Thiền bày dị đoan từ thời Thần Tú làm mê hoặc nhơn sanh. Vậy cũng phổ độ, cũng giựt giành mà chỉ đem con người vào đường u ám, lạc lầm. Kinh Sấm truyền lại mà không khảo cứu, kiếm tầm cho ra chơn lý, chẳng trí tham thiền, không gom thần nhập định.

2/ Còn Nho Giáo, sau đời Mạnh Tử, càng ngày càng lạc lầm, đường thiên lý chẳng cần, chổ thâm nhiệm không rõ, chỉ học đặng khoe tài hay giỏi, dục lợi cầu danh, tổn nhơn ích kỷ, chớ không chịu học để sửa mình, tầm hiểu cho tột cùng cái lý cao siêu huyền bí, cái cơ nguồn cội muôn loài… (*)

______________________________________________________________________

(Chú thích: (*) Đại Thừa Chơn giáo tr 428).

Nói tóm lại, xã hội Việt Nam, sau ngày bị Pháp đô hộ, đã băng hoại cả hai phương diện đời sống vật chất và tinh thần.

Nhan nhản những cảnh tượng đồi trụy xảy ra khắp hang cùng ngõ hẻm, lắm trò bại lý thương luân.

Nơi thành thị vật chất hào hoa đã đánh mất bao nhiêu mầm non của đất nước, sống với dâm ô, cờ bạc rượu chè, nhà thổ á phiện, gục ngã trên đường trụy lạc.

Chốn thôn quê, tệ lậu mê tín dị đoan gieo rắc ủy mị yếu hèn trong tâm hồn nông dân thiếu học. Đa số đồng bào chịu cảnh mù chữ. Đời sống đều quây quần theo thầy bùa, thầy pháp, thầy ngải, thầy lỗ ban, xin xâm bói quẻ , hối lộ Thánh Thần, sống cùng ma quỉ, làm ngăn cản con đường tiến thủ quốc gia, tiêu trầm đức tự tín dân tộc.

Người đời phó thác tánh mạng cho thầy pháp thầy phù, cho ma quỉ. Hằng đêm cùng làng khắp xóm, vang lên tiếng trống tiếng kèn, tiếng hò hét của thầy pháp, của nhưn bông, của đồng bóng.

Đầu óc của hạng dân quê thất học đã thế, đến như hạng thanh niên tân học thì trái lại, một khi cặp sách đến trường là xây mộng làm quan, riêng hưởng vinh hoa phú quý trên mồ hôi nước mắt của đám dân đen chất phác.

Đến như giới cần lao thì chịu đựng số phận tôi đòi, bị bóc lột, khủng bố mà không dám than van, phản kháng.

Chính trong hoàn cảnh đen tối thê thảm ấy, Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời.

Chương II: Thân-thế

 

Sanh trưởng:– Đức Huỳnh Giáo Chủ, tên tộc là Huỳnh Phú Sổ, sanh tại làng Hòa Hảo một thôn nằm trên Bắc ngạn sông Vàm Nao, thuộc Quận Tân Châu, Tỉnh Châu Đốc, ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi, tính ra nhằm ngày 15 tháng giêng năm 1920.

Thân sanh của Ngài là Đức Ông Huỳnh Công Bộ, lúc bấy giờ làm Hương Cả làng Hòa Hảo. Thân mẫu của Ngài là Đức Bà Lê Thị Nhậm. Đức Ông có hai đời vợ, đời vợ trước sanh được hai gái, hiện nay người chị thứ hai còn sống góa chồng, còn người em thì đã chết. Khi bà lớn mất, Đức Ông tục huyền với bà Lê Thị Nhậm và sanh được ba người con:

Con đầu là Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Con thứ là Huỳnh Thị Kim Biên.

Con út là Huỳnh Thạnh Mậu.

Cô Huỳnh Thị Kim Biên, nay là Bà Lâm Đồng Thanh, còn cậu Huỳnh Thạnh Mậu thì đã bị V.M giết năm 1945, vì đã tham gia cuộc biểu tình chống độc tài Cộng Sản, do anh em tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tổ chức tại Cần Thơ ngày mồng 3 tháng 8 năm Ất Dậu, nhằm ngày 8-9-1945.

Ngày 2 tháng 9 năm Ất Dậu chúng đem cậu ra hành quyết, cùng một lúc với:

Trần Văn Hoành con của Trần Văn Soái,

Nguyễn Xuân Thiếp tức thi sĩ Việt Châu.

Hiện nay tại sân vận động cũ, anh em tín đồ có xây mộ bốn liệt sĩ Hòa Hảo (trong đó có một ngôi mộ vô danh) và cất miếu thờ, hằng năm đều có làm lễ kỷ niệm vào ngày mồng 2 tháng 9 âm lịch.

Đức Huỳnh Giáo Chủ thường được gọi là Thầy tư Hòa Hảo hay tôn xưng Đức Huỳnh Giáo Chủ còn tín đồ thì gọi Ngài là Thầy hay Đức Thầy, và nền đạo của Ngài khai sáng được mang danh là Phật Giáo Hòa Hảo, một tông phái đạo Phật thành lập tại làng Hòa Hảo. Từ trước đến nay, việc lấy địa danh làm tông danh là điều thường thấy trong đạo Phật. Như Phái Thiên Thai Tông bên Trung Hoa sở dĩ thành danh là vì xây dựng già lam trên núi Thiên Thai cũng như phái Trúc Lâm Yên Tử ở nước Việt Nam chúng ta được thành danh cũng do Ngài Điều Ngự Giác Hoàng tức vua Trần Nhân Tông khai sáng một Thiền phái Việt Nam trên núi Yên Tử, Tỉnh Quảng Yên.

Tánh tình:-  Ngay từ khi còn bé, Ngài đã tỏ ra hơn người trong mọi phương diện. Tánh Ngài điềm đạm, ít chịu trửng giỡn cợt đùa, thường tìm nơi thanh vắng ngồi trầm tư mặc tưởng. Ngài không thích đờn ca xướng hát; vì thế những chỗ hội hè đình đám, những nơi tụ hợp đông người, Ngài luôn luôn xa lánh.

Từ lúc bé bỏng, Ngài đã có tánh hiếu sanh, không chịu bắt bướm, chuồn chuồn hay bắt dế để chọi nhau chơi. Những thú vui như đá cá thia thia, đá gà, những thú vui có ý sát hại, hay làm tổn thương thì Ngài không thích. Có lần Ngài ra ruộng, gặp con cóc, Ngài la lên nhưng đến khi các trẻ khác bu lại kiếm bắt thì Ngài lấy chơn đè lấy con cóc cho mọi người không nhìn thấy. Đến khi chúng bạn tản ra, Ngài mới lấy chơn lên cho con cóc thoát nạn. Lòng hiếu sanh của Ngài đã biểu lộ qua nhiều cử chỉ nhơn từ thương xót các loài vật.

Ngài có tánh cả thẹn đối với phụ nữ. Khi đến tuổi trưởng thành, hễ ai đề cập đến vấn đề hôn nhơn là bị Ngài phản đối ngay. Ngài thường tuyên bố: thích sống độc thân để được tự do hoạt động.

Học lực:- Từ khi cắp sách đến trường, Ngài đã tỏ ra xuất sắc hơn chúng bạn. Ban sơ, Đức Ông cho Ngài học các lớp sơ đẳng tại trường Hòa Hảo lúc bấy giờ tạm lấy nhà Công sở trước đình thần làm trường sở. Năm 1950, Công sở bị dở; nay là Thư viện Hòa Hảo. Cứ như được biết niên học năm 1927-1928, Ngài đã học với ông Giáo Phan Văn Khoái.

Sau khi học hết các lớp sơ đẳng ở Hòa Hảo, Đức Ông cho Ngài tiếp tục học tại trường Tiểu học bổ túc Tân Châu với ông giáo Lê Văn Tám dạy lớp nhì, năm thứ nhất (Cours Moyen I). Trong lúc ấy, Ngài ở trọ nhà ông Huỳnh Văn Sánh, thợ bạc ở Tân Châu. Sau khi đậu bằng Tiểu học (Certificat dEtudes élémentaires), Ngài phải thôi học vì bịnh hoạn, mặc dầu Đức Ông đủ sức cho Ngài tiếp tục học thêm nữa.

Sức Khỏe:– Thật ra thì lúc nào Ngài cũng đau ốm luôn, không mấy khi được khỏe mạnh. Lâu lâu lại phát lên cơn sốt rét dữ dội, vì vậy mà Ngài xanh xao ẻo lả, có lúc mất ăn mất ngủ nhiều ngày, xem chừng bịnh tình trầm trọng lắm, có thể chết được.

Đức Ông Đức Bà hết sức lo buồn, hằng kiếm thầy chữa trị mà bịnh vẫn không thấy thuyên giảm. Ban đầu còn chạy chữa ở những thầy thuốc Bắc thuốc Nam trong làng mà không hết, trái lại bịnh trạng thì xem khác thường khi mạnh khi yếu khiến mọi người nghi là mắc bịnh tà và nghĩ đến cách chữa trị bằng pháp thuật bùa ngải.

Nghe đồn ở núi Trà Sư có ông Thầy Xom hay Đạo Xom, tục danh là Lê Hồng Nhật một tu sĩ nổi tiếng giỏi pháp thuật, đã từng chữa mạnh nhiều bịnh bằng bùa ngải. Đức Ông bèn cho chở Ngài đến nhưng rốt cuộc cũng không thấy hiệu quả.

Ngoài ra, Đức Ông còn đưa Ngài xuống ông Bảy Còn ở chợ Cà Mau thôn Long Kiến nhờ chữa trị. Ông Bảy là cháu nội của ông ĐạoThắng một cao đệ của Đức Phật Thầy Tây An và đã được truyền nhiều diệu pháp để cứu dân độ thế. Ông Đạo Thắng truyền lại cho thân phụ ông Bảy và ông này truyền trao lại cho ông Bảy tiếp tục nghiệp ông cha. Ông Bảy vốn là người thân thuộc của Đức Ông nên Đức Ông rất tin cậy, đưa Ngài đến nhờ chữa trị. Ban đầu thấy có mòi thuyên giảm nhưng về sau bịnh vẫn không thấy gì thay đổi.

Nghe đồn ở Mặc Cần Dưng có ông Lục Cả chữa bịnh tà rất hay, Đức Ông cũng lo chở Ngài đến nhờ chữa trị, nhưng bịnh Ngài không khác gì giả ngộ, mới thấy nguy kịch đó, lại liền thấy mạnh khỏe.

Như lần chở Ngài đi, sau bảy ngày bỏ ăn bỏ ngủ, tưởng là nguy kịch lắm, chẳng ngờ lúc đi ghe, Ngài lấy cơm nguội ra ăn hết hai tô lại uống thêm hai tô nước sông. Phàm người bỏ ăn năm bảy ngày, muốn ăn lại phải cho uống nước cháo rồi lần lần cho ăn cháo lỏng, dạ dày mới chịu nổi. Vậy mà Ngài vẫn khỏe như người thường và không thấy sao cả.

Lúc bấy giờ lại có tin đồn bếp Ngoan, tục danh là Lê Minh Chiếu, ở Chợ Vàm một tay lão luyện về bùa ngải của Miên và Xiêm, từng học với Thầy ngải ở Tà Lơn và chữa lành các bịnh bị thư, bị ngải hay mắc bịnh tà. Trong lúc bức ngặt, Đức Ông cho chở Ngài lên Chợ Vàm, nhưng bếp Ngoan chữa cũng trơ trơ.

Điều đáng lo ngại nhứt là mấy lúc sau nầy, Ngài lại vướng thêm bịnh huợt tinh khá trầm trọng. Do chứng bịnh nầy mà Ngài trở nên xanh xao vàng vọt, con người tiều tụy, không còn thiết gì đến việc học hành. Về sau Ngài có thổ lộ cho một tín đồ ở Bạc Liêu biết: đó là ơn trên định dọn phần xác tinh khiết, chẳng khác nào sút ve cho sạch trước khi đựng lấy nước trong.

Ra làm bịnh:- Bắt đầu từ năm Kỷ Mão, năm Ngài được 21 tuổi, sau khi thôi học về nhà, Ngài thường tỏ ra nhiều cử chỉ kỳ lạ, khi thì nằm thiêm thiếp, bỏ ăn bỏ ngủ, lúc thì mạnh mẽ như người không bịnh, đi đứng như thường, nói năng hoạt bát.

Đức Ông cũng như bao nhiêu người khác, đều cho Ngài có tà ma quỉ quái chi dựa vào nên mới có trạng thái khác thường như vậy.

Mặc dầu, Đức Ông lo chữa chạy cho Ngài tận tình, nhưng Ngài thì cứ nói rằng không có bịnh chi cả, vì nể Đức Ông nên mới đi chạy thầy chạy thuốc như vậy.

Một hôm, Ngài đi lên đầu trên xóm dưới truyền rao: nếu ai có mắc bịnh chi, cứ đem lại cho Ngài chữa trị cho. Thấy vậy Đức Ông bĩu môi: Bịnh mình chề ề như vậy mà không lo, còn đòi đi chữa bịnh người ta.

Ban đầu không ai tin Ngài có thể chữa bịnh, nhưng có một vài bịnh ngặt nghèo, kể như hết phương cứu chữa, nghe Ngài nói chữa được nên cũng liều đem đến, may ra có phép Tiên phép Phật gì chăng. Vả lại, Ngài không có làm chi nguy đến tánh mạng con bịnh, hơn nữa phương pháp của Ngài dùng để chữa hay thuốc thang của Ngài cho uống không có gì nguy hiểm. Vì vậy mà người ta đánh liều chở bịnh đến nhờ Ngài cứu chữa. Nhưng lạ lùng thay, bịnh nào Ngài chịu chữa cũng đều được mạnh lành, mặc dầu đã tốn bao nhiêu tiền của và thuốc men.

Do cách chữa trị huyền diệu ấy mà tiếng đồn lan rộng ra. Nhứt là từ ngày Ngài chữa bịnh cho con gái của ông Hương chủ Hùng ở Hưng Nhơn mắc bịnh trùng, thập tử nhứt sanh, đã chạy chữa đủ thầy pháp thầy bùa trong vùng mà không hết. Nghe Ngài chữa bịnh bằng phương pháp huyền diệu nên chở ra nhờ Ngài chữa trị.

Ngài dùng nước rải vào mặt bịnh nhân khiến bất tỉnh, ngất xỉu. Ngài bỏ đó, thân nhân lấy làm lo ngại, nhưng Ngài bảo khiêng vào nhà sau, đợi đến giờ Tý, Ngài sẽ chữa cho. Quả nhiên khi đến giờ, Ngài đem một chén nước lã bảo cạy miệng ra đổ. Trong chốc lát, cô ấy tỉnh lại rồi mạnh luôn và từ đó gia đình của Hương chủ Hùng không còn lo ngại về bịnh trùng nữa. Bắt đầu từ khi chữa dứt bịnh trùng cho gia đình ông Hương chủ Hùng, tiếng tăm của Ngài vang dậy khắp nơi. Chừng đó ngày nào người ta cũng nườm nượp chở bịnh đến, nhứt là các bịnh điên hay bịnh tà, xưa nay có tiếng là hung dữ không ai chữa nổi, nay chở đến chật nhà chật cửa.

Lúc bấy giờ nhà Đức Ông chật nức, nào bịnh nhơn, nào những người hiếu kỳ đến xem chữa bịnh, chen nhau không còn chổ trống. Có nhiều con bịnh hết sức hung tợn, ở nhà la ó hay hành hung không ai dám lại gần, phải dùng thế bắt trói mới đem đi được. Thế mà khi đến Ngài, Ngài bảo lấy dây chuối cột tay dẫn lên, bịnh nhơn riu ríu đi theo không chống cự. Cũng có con bịnh chưa chịu phép, còn la ó hay múa tay múa chơn, Ngài rút chiếc khăn quăng ra và hét: Chư Thần đâu… để vậy sao? Hét vừa dứt tiếng thì bịnh nhơn chạy đến chụp lấy chiếc khăn quấn vào tay, càng siết chặt hai tay lại, vừa khóc lóc van lơn xin Ngài tha thứ.

Ngài nói: Nếu biết ăn năn thì hãy xuất ra, người ta có vợ có chồng rồi, đừng có xen vào phá gia cang người ta. Hãy hứa không còn phá nữa, ta mới dung thứ. Con bịnh khóc lóc hứa từ nay không còn dám phá nữa. Ngài bảo mở trói, con bịnh tự tháo chiếc khăn ra. Ngài dạy lại lễ Phật, cho uống một chén nước lã rồi ra về.

Ngoài bịnh trùng, bịnh điên, Ngài còn chữa nhiều thứ bịnh khác nữa, như dịch tả, phung đơn, nhứt là cai thuốc phiện, bỏ rượu một cách tài tình.

Phương pháp chữa trị của Ngài hết sức giản dị, Ngài cho uống nước lã, hoặc giấy vàng hay giấy nhựt báo xé nhỏ ra. Về phương dược thì các thứ lá cây như: lá xoài, lá ổi, lá mít… , các thứ bông như: bông trang, bông thọ. Còn về niệt để đeo thì dùng chỉ trắng se lại, có khi không có chỉ thì dùng dây chuối, dây bố…

Chỉ có bấy nhiêu dược liệu, hết sức giản dị, không tốn tiền mà bịnh nào uống vào cũng khỏi. Lạ nhứt là những người ghiền á phiện hay ghiền rượu, chỉ uống nước lã mà bỏ rượu bỏ á phiện cái một, không hành phạt chi chi cả.

Ngoài ra Ngài cũng có cho toa thuốc Bắc, ai có mắc bịnh, cứ theo đó bổ về sắc uống: mười bịnh hết mười, khỏi phải đem đến Ngài chữa trị. Những phương thuốc còn ghi chép trong quyển “Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ”. Đến ngày nay nhiều người mắc bịnh đã theo toa thuốc ấy hốt về uống vẫn thấy hiệu nghiệm như một thứ thuốc Tiên.

 

Chương III: Ra tế-độ

 

Gây đức tin: Sở dĩ Ngài trổ tài “dùng huyền diệu của Tiên gia” chữa bịnh một cách thần diệu như thế là để chứng tỏ Ngài không phải là hạng phàm nhơn. Như mọi người đều biết; từ nhỏ đến lớn Ngài có học thuốc với ai đâu, thế mà nay bỗng dưng chữa bịnh, chữa đâu hết đó, nhứt là những bịnh đau tà hay điên cuồng thì càng làm cho người đời phải đặt ra câu hỏi: Đây có lẽ là một vị Tiên, Phật, Thánh, Thần chi chi mượn xác phàm để ra đời cứu thế chăng?

Từ chỗ nghi ngờ phát sanh lòng tin tưởng (Nghi sanh tín). Đức tin đó càng ngày càng tăng trưởng là do hành động hay phương pháp chữa trị của Đức Huỳnh Giáo Chủ.

a) Chữa căn chớ không chữa quả, nghĩa là bịnh nào đau căn thì Ngài nhận chữa, còn bịnh nào đau về quả thì Ngài từ chối. Như có lần (ở Nhơn Nghĩa) có một bịnh điên chở đến; Ngài cũng cho uống thuốc và làm cho con bịnh bớt điên, nhưng Ngài bảo thân nhân chở về nhà, rán cầu nguyện và làm phước may ra mới bớt. Điều này chứng tỏ Ngài soi rõ căn quả của con bịnh, bịnh nào thuộc về căn, bịnh nào thuộc về quả. Đó cũng là bằng chứng rằng Ngài là bực siêu phàm mới có năng khiếu ấy.

b) Trong lúc chữa trị, với những bịnh hung tợn, Ngài thường kêu gọi chư Thần, chư vị sai khiến, như bảo trói hay khảo tra thì liền sau đó con bịnh tự trói lấy, tự lấy roi đánh vào người rồi lăn lộn than khóc, van xin Ngài đừng cho khảo tra nữa để nó cung khai. Ngài sai khiến được chư thần như thế, hẳn Ngài là bực phi phàm, Phật Tiên Thần Thánh chi chi mới có uy lực sai thần tróc quỉ như vậy.

c) Có nhiều chứng bịnh. Ngài không chữa bằng phương pháp huyền diệu như cho uống lá cây hay các thứ bông mà lại bằng phương pháp thường của một vị lương y như bao nhiêu lương y trong làng, nghĩa là ra toa, rồi cầm toa ấy đến tiệm thuốc Bắc, hốt thuốc về sắc uống. Ngài có học thuốc Bắc hồi nào đâu, thế mà Ngài viết các tên thuốc rất đúng, đến các thầy thuốc Bắc cũng phải kinh ngạc. Điều này chứng tỏ Ngài không phải là hạng người thường nhơn.

d) Mỗi khi Ngài chữa bịnh, thường bắt con bịnh uống nước cúng Phật và khi lành mạnh, bắt phải lạy bàn thờ Phật. Ngoài ra Ngài còn dạy khi về nhà rán niệm Phật và cầu nguyện, làm lành lánh dữ. Sau ngày Ngài chánh thức mở đạo, nếu có ai muốn qui y thì thì Ngài nhận cho qui y và bắt phải học các bài nguyện rồi về lập bàn thờ Phật, hằng đêm lễ bái. Điều nầy chứng tỏ Ngài qui ngưỡng theo Phật, một vị siêu phàm trong hàng ngũ Phật Thánh.

đ) Từ ngày Ngài ra chữa trị, độ bịnh cứu đời, thường sai khiến chư thần chư vị thì những đồng bóng hay cốt ông nầy bà nọ không còn dám về đồng hay nhập cốt nữa. Chủ nhơn quá tha thiết cầu thỉnh thì có vị về cho biết rằng: Nay có Phật, Bồ Tát ra đời cứu dân độ thế, uy lực rất lớn nên chúng không dám về đồng hay bén mảng lại gần, vì tự nhận thấy mình là phần còn ăn thịt uống rượu, nên không dám lại gần các hàng Phật Thánh, sợ bị chư thần chư vị đánh đuổi.

Do đó mà người trong làng được biết đến phần thiêng liêng hay Đức Huỳnh Giáo Chủ về mặt siêu hình là một vị có phẩm trật cao siêu trong hàng Phật Thánh.

Do những phương pháp chữa trị huyền diệu, cũng như ngôn hành của Đức Huỳnh Giáo Chủ thi thiết đối với đời mà người ta nhận Ngài là một đấng siêu phàm. Hoặc vì nhờ được ” mạnh mà cảm lòng từ bi của chư vị với Trăm Quan“, nên người đời qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ và đặt cả đức tin vào sự cứu độ của Ngài.

Nói tóm lại, sở dĩ Ngài “dùng huyền diệu của Tiên gia” độ bịnh là để gây lấy lòng cảm mến, rồi từ cảm mến được cứu độ mà người đời đặt cả đức tin vào sự giáo độ của Ngài.

Thuyết giảng:– Để gây niềm tin vào tâm não của mọi người, ngoài phương pháp “dùng huyền diệu của Tiên gia“, chữa bịnh, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn thuyết giảng những giáo lý cao siêu của Đạo Phật “cho kẻ có lòng mộ Đạo qui căn, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ“, Ngài thuyết giảng cả ngày lẫn đêm mà không biết mỏi. Ngoài bịnh nhơn đến chữa trị, nay thêm hạng người đến nghe Đạo lý xin thơ bài, thành thử nhà Đức Ông không còn chỗ chứa.

Chính phương pháp giảng thuyết đã thu hút đông người hơn lối chữa trị huyền diệu, vì trong những lời thuyết giáo có ẩn ý thiên cơ, thức tỉnh lòng người hầu ăn năn cải hóa làm lành lánh dữ.

Nhứt là Ngài ám thông tâm lý, biết rõ lòng người, nói rất đúng như người ở trong nhà. Không ẩn khúc nào có thể giấu giếm Ngài được. Ngài còn thấu cả tiền căn hậu kiếp của mỗi người qua thơ bài của Ngài viết tặng, càng làm mọi người khâm phục qui ngưỡng càng lúc càng đông. Chúng (?) tin tưởng Ngài là một vị siêu phàm có sứ mạng xuống trần cứu dân độ thế.

Lối nói của Ngài rất hấp dẫn. Ai nghe cũng cảm, vì Ngài hết sức bình dị và luôn khiêm tốn, không hề xưng hô lớn lối.

Vừa thuyết giảng, vừa cho bài thơ, đượm nhuần giọng văn tao nhã, sực nức lời lẽ cao siêu của Đức Phật, vì vậy có mãnh lực giác tỉnh phi thường người đời phát tâm Bồ Đề, qui đầu chánh pháp.

Sau một thời gian chữa bịnh và thuyết giảng đem niềm tin tưởng vào lòng người, Ngài cảm thấy cơ duyên đã đến cho Ngài thọ lấy sắc lịnh của Thiên Đình mở cơ phổ hóa, giác tỉnh quần mê hầu có hoàn thành sứ mạng tuyển chọn người hiền đến Hội Long Hoa và lập đời Thượng Nguơn an lạc.

Lễ Cáo Hoàng Thiên:– Phàm làm một việc gì, trước khi lãnh lấy trách nhiệm, như vị Tổng Thống hay Thủ Tướng chẳng hạn, phải làm lễ ra mắt, tuyên cáo quốc dân. Hồi thời xưa muốn đưa một vị tướng lên cầm quân, như Văn Vương chọn Khương Tử  Nha hay Hớn Bái Công chọn Hàn Tín làm tướng đều có tổ chức lễ đăng đàn bái tướng để chánh thức phong tướng và đồng thời trao ấn tín cho vị tướng ấy có đủ uy quyền ra cầm binh khiển tướng, thi hành nghiêm lịnh.

Trường hợp của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế. Trước khi chánh thức lãnh Sắc lịnh của Thiên Đình ra cứu dân độ thế. Ngài cũng phải tổ chức lễ Cáo Hoàng Thiên để chánh thức nhận lấy trách nhiệm.

Ngài chọn ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão làm lễ Cáo Hoàng Thiên. Cứ theo lời ông Nguyễn Văn Truyền, nguyên Kiểm soát trong Ban Trị Sự xã Hòa Hảo kể lại thì chính ông lãnh việc trang trí một bàn hương án trước sân nhà Đức Ông. Trên bàn ấy có để ba cái chung nước, một chén bông, một lư hương và một cặp đèn.

 

Sau khi bàn hương án đã dọn, Ngài cho mời Đức Ông là chủ nhà ra chứng kiến, nhưng Đức Ông không chịu ra; đến khi bà Tám em Đức Ông và nhiều người thân thuộc lại yêu cầu nhiều lần cực chẳng đã, Đức Ông mới nhận, nhưng để mình trần ra ngồi bẹp xuống bực thềm trước nhà và nói một câu cụt ngủn: Đó, làm gì thì làm đi.

Đức Thầy bèn đốt hương xá bốn hướng rồi quay lại bàn hương án khấn vái một hồi lâu mới cắm hương và lễ bốn lạy.

Thế là cuộc lễ Cáo Hoàng Thiên đã xong. Ông Truyền lại có phận sự dẹp bàn hương án như khi đã dọn ra.

Viết Sấm Giảng:– Đã chữa bịnh, đã thuyết giảng, tuy đã gây được niềm tin ở một số người, nhưng chưa chỉ pháp môn tu hành là điều mà những người muốn tu hành cần phải có, để nương theo đó mà tu học hầu cho đắc thành quả vị Phật Thánh hay hoàn toàn giải thoát.

Vì vậy, sau khi làm lễ Cáo Hoàng Thiên, Ngài chăm chú vào việc viết Sấm Giảng, để trình bày hay phổ truyền giáo pháp của Ngài. Người ta có thể do nơi đó để biết rõ Ngài có phải là một bực Chơn Sư và giáo pháp của Ngài có phải là Chánh pháp không?

Ngài viết dễ dàng, không cần đến giấy nháp. Tác phẩm của Ngài phần lớn thuộc loại văn vần, với tác dụng là để cho hạng dân quê ít học, dễ đọc và dễ nhớ. Vả lại loại văn vần có sức truyền cảm hơn loại văn xuôi.

Sau đây là những quyển giảng của Ngài đã viết:

1. Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm. – Đây là quyển thứ nhứt có 912 câu, viết tại Hòa Hảo vào khoảng sau khi làm lễ Cáo Hoàng Thiên năm Kỷ Mão (1939). Trong quyển giảng nầy, đại ước, Ngài cho biết trước khi trực tiếp giáo độ chúng sanh, Ngài đã phương tiện hóa hiện dạo lục châu, giả dạng người già kẻ trẻ, kẻ buôn bán ăn xin, chèo đò rước khách… để có dịp đánh thức người đời rằng có Phật Tiên xuống thế.

Có nhiều bằng chứng xác nhận dấu vết cuộc châu du của Ngài.

Như trường hợp cô Lê Thị Cứng ở Hòa Hảo mất trộm được Ngài nhắc việc cô nầy coi bói ở những câu như sau:

Có người ở xóm bằng nay,

Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn.

Du thần bày tỏ nguồn cơn,

Rằng người nghèo khó đang hờn phận duyên.

Điên nghe vội vã quày thuyền,

Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.

Coi rồi bày tỏ nguồn cơn,

Xin cô đừng giận đừng hờn làm chi.

Cô Cứng xác nhận, sau khi mất trộm, có một chiếc ghe chở bốn người, trong đó có một người tự nhận làm thầy bói, ghé nhà cô để coi bói.

Một đoạn nữa trong Sấm Giảng nói về trường hợp ông chủ Phối ở lòng Ông Chưởng mà Ngài ghé nhà đàm đạo với ông Đạo Ba như Ngài đã đề cập trong Sấm Giảng:

Xuống thuyền xuôi nước thẳng xông,

Ghé nhà chủ Phối xem lòng Đạo Ba.

Ngồi chơi đạo lý bàn qua,

Mấy bà có biết lúa mà bay không?

Có người đạo lý hơi thông,

Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.

Điên nghe liền mới tỏ bày,

Lúa bay về núi dành rày ngày sau.

Hỏi qua tu niệm âm hao,

Không biết câu nào trái ý Đạo Ba.

Buồn đời Điên mới bước ra,

Tay gay chèo quế dạo mà khắp nơi.

Khi đọc đến đoạn giảng nầy ông Đạo Ba nhìn nhận có y như vậy.

Ngoài ra còn trường hợp của ông năm Hẳng ở làng Kiến An thường xưng là Quan Vân Trường mượn xác mà Ngài có ghé, như đoạn sau đây đã thổ lộ trong Sấm Giảng:

Thảm thương bá tánh lắm ôi!

Bồng Lai Tiên cảnh rao rồi một khi.

Nếu ai rảnh việc thời đi,

Còn mắc nợ thì ở lại dương gian.

Có người xưng hiệu ông Quan,

Tên thiệt Vân Tràng ở dưới Dinh Ông.

Thấy đời cũng bắt động lòng,

Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.

Mình người tu niệm vậy mà,

Nói chi lớn tiếng người mà khinh khi.

Người nhà cảm tạ một khi,

Cúng năm cắc bạc tiền đi non Bồng.

Việc nầy ông năm Hẳng cũng nhìn nhận là đúng sự thật có một ông già râu tóc bạc phơ ghé nhà ông thuyết giảng và chính ông có cúng năm cắc bạc, tiền đi non Bồng.

Còn nhiều bằng chứng khác nữa ghi dấu Ngài có đi dạo Lục Châu, khi giả dạng người nầy người khác mà phần đông đều được mục kích hay đàm luận.

2. Kệ dân của người Khùng.– Đây là quyển thứ hai, có 476 câu, viết tại Hòa Hảo ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939)

Đại ý quyển nầy, Ngài chỉ vạch máy huyền cơ cho nhơn sanh được biết, có sớm hồi đầu trở lại tinh tấn tu hành hầu được cứu rỗi trong ngày tận diệt hay vãng sanh Cực Lạc như đoạn giảng sau đây:

Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,

Máy thiên cơ mỗi phút một thay.

Nẻo thạnh suy như thể tên bay,

Đường vinh nhục rủi may một lát.

Ai phú quí vào đài ra các,

Ta Điên Khùng thương hết thế trần.

Khuyên chúng sanh chẳng biết mấy lần,

Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.

Hay là:

Đến chừng đó bốn phương có giặc,

Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.

Vậy sớm mau kiếm chữ Ma ha,

Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa…

Đồng thời Ngài đem chánh pháp vô vi của Đức Phật Thích Ca đối kháng lại giáo pháp âm thinh sắc tướng của Thần Tú đang thạnh hành:

Khuyên sư vãi mau mau cải hối,

Làm vô vi chánh Đạo mới mầu.

Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,

Hãy tìm kiếm cái không mới có.

Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần đỏ,

Tạo làm chi những cốt với hình,

Khùng nói cho già trẻ làm tin,

Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú.

Hay là:

Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,

Từ xưa nay có mấy ai thành.

Phật từ bi độ tử độ sanh,

Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.

Xá với phướn là trò kỳ quái,

Làm trai đàn che miệng thế gian.

Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,

Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.

Thương bá tánh vì không rõ hiểu,

Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn toàn,

Thấy lạc lầm Đây động lòng son,

Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ.

 

3. Sấm Giảng. Đây là quyển thứ ba, gồm có 612 câu, viết tại Hòa Hảo vào năm Kỷ Mão (1939). Đại ý quyển nầy đoạn đầu mách cho biết những tai nạn hãi hùng gớm ghê trong lúc biến di, như đoạn sau đây:

Thương đời Ta mượn bút nghiên,

Thở than ít tiếng giải phiền lòng son.

Bắt đầu cha nọ lạc con,

Thân nầy thương chúng hao mòn từ đây.

Minh Hoàng chưa ngự đài mây,

Gẫm trong thế sự còn dày gian truân.

Đò đưa cứu kẻ trầm luân,

Đặng chờ vận đến mới mừng chúa tôi,

Thảm thương thế sự lắm ôi!

Dẫy đầy thê thảm lắm hồi mê ly.

Hay là:

Lao xao bể Bắc non Tần,

Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.

Tranh phân cho rõ tài ba,

Cùng nhau giành giựt mới là thây phơi.

Khổ lao đà sắp đến nơi,

Thế gian bớt miệng kêu mời cõi âm.

Đồng thời dạy cho trai gái lớn nhỏ biết cách ăn thói ở đúng theo luân thường đạo nghĩa; có như thế mới mong sống sót trong những ngày lập hội, như đoạn giảng sau đây:

Nào là luân lý tứ ân,

Phải lo đền đáp xác thân mới còn.

Ai mà sửa đặng vuông tròn,

Long Hoa đến hội lầu son dựa kề.

 

Dạy về bổn phận làm trai:

Dạy rồi cái đạo tu hiền,

Làm trai nhỏ tuổi tình duyên đang nồng.

Cũng đừng ghẹo gái có chồng,

Cũng đừng phá hoại chữ đồng gái trinh.

Ra đường chọc ghẹo gái xinh,

Nữa sau mắc phải yêu tinh hư mình.

Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,

Vâng lời cha mẹ mà gìn gia cang.

Nghiêm đàng chịu lịnh cho an,

Loạn luân cang kỷ hổ han tiếng đời.

Anh em đừng có đổi dời,

Phụ phàng dưa muối se lơi nghĩa tình.

Dạy về bổn phận làm gái:

Lớn lên phận gái cần chuyên,

Làm ăn thì phải cho siêng mới là.

Phải gìn dục vọng lòng tà,

Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân.

Nghe lời cha mẹ cân phân,

Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.

Tình duyên chẳng kíp thì chầy,

Chớ đừng cải lịnh gió mây ngoại tình.

4. Giác mê tâm kệ.– Đây là quyển thứ tư, gồm có 846 câu, viết tại Hòa Hảo ngày 20 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939).

Đại để trong quyển nầy, Ngài tuyên giáo pháp môn hành đạo của Đức Phật Thích Ca như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo… cho người đời noi theo đó tu hành cho đắc quả.

Ngài không dứt khuyên chúng sanh rán tìm diệu lý trong Sấm kinh và rán làm tròn nhơn đạo, vì là thời kỳ chư Phật Thánh tuyển chọn người hiền đức. Và chỉ người hiền đức mới được sống còn sau ngày hoại diệt của cõi thế gian.

Trong bá tánh muốn nơi cao quí,

Phải truy tầm huyền bí nơi cơ.

Từ Sám kinh cho đến thi thơ,

Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu.

Tạo làm chi những trung với hiếu,

Ấy là người bổn phận phải trau.

Khuyên dương trần đừng nệ cần lao,

Cũng rán sửa rán trau nền đạo.

Tu đầu tóc không cần phải cạo,

Miễn cho rồi cái đạo làm người.

Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười,

Vì buồn bực thấy đời biến chuyển.

Các chư Phật từ đây lựa tuyển,

Coi ai là đức hạnh hiền từ.

Lời sách xưa cận thủy tri ngư,

Cận sơn lãnh trần gian tri điểu.

Trong Sấm giảng nếu ai không hiểu,

Tầm kệ nầy Ta chỉ nẻo đường.

Quyết dạy trần nên nói lời thường,

Cho sanh chúng đời nay dễ biết.

5. Khuyến Thiện.– Đây là quyển thứ năm, gồm có 756 câu, viết tại Chợ Quán năm Tân Tỵ (1941).

Trong quyển nầy, Ngài kể lại gương xuất gia tầm đạo của Phật Thích Ca:

Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,

Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.

Ta cũng chẳng hoàn toàn thông thạo,

Nhưng phân cùng bổn đạo xa gần.

Có một điều già trẻ ân cần,

Là phải biết nguyên nhân Phật giáo.

Sau đó Ngài khuyên người đời tu theo pháp môn Tịnh độ để cầu sanh về Cực Lạc, vì trong thời kỳ mạt pháp nầy, đây là một Pháp môn cứu cánh, phù hạp với căn cơ của tất cả chúng sanh trong thời Nguơn hạ:

Môn Tịnh độ là phương cứu cánh,

Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.

Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,

Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng…

Hay là:

Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ.

Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.

Nếu như ai cố chí làm lành,

Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc.

Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,

Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh;

Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành,

Được cứu cánh về nơi an dưỡng.

Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,

Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.

Ngoài ra, Ngài còn kể lại Tám điều khổ của chúng sanh và khuyên trừ Thập ác.

 

6. Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền. Đây là quyển thứ  sáu, viết trong vòng tháng 5 năm 1945 tại Sài Gòn, theo lối văn xuôi (tản văn) khác hơn 5 quyển trước viết theo lối văn vần (vận văn).

Trong quyển nầy, Ngài giải thích Tứ Ân, Thập Thiện, Bát Chánh và những nghi thức hành đạo cần biết của một tín đồ.

Ngoài ra Ngài còn viết nhiều bài rời và cho thi văn rất nhiều mà sau nầy anh em tín đồ kết tập lại thành quyển “Thi văn Giáo Lý” gồm trên 500 trang kể cả những toa thuốc Nam để trị bịnh cho bá tánh thập phương.

Những bộc lộ của Sấm Giảng.

Trong Sấm Giảng có câu:

Rút trong các luật các kinh,

Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.

Câu nầy đủ minh chứng những điều Ngài giảng đều rút tỉa tinh lý của Phật trong Tam Tạng Kinh là Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Thế sao các tác phẩm của Ngài không gọi là Kinh hay Luận mà gọi là Sấm Giảng.

Sấm có nghĩa là những lời tiên tri cho biết trước về thời cuộc, Giảng là bày giáo lý cao siêu của Đạo Phật.

Do sự tiên tri cho những điều sắp xảy ra về cõi đời Hạ nguơn sắp chấm dứt để bước sang cõi Thượng nguơn, những tai biến hãi hùng trong những ngày hoại diệt cõi đời mạt kiếp nầy mà người đời thức tỉnh giác mê nhận cõi đời nầy là giả tạm hầu có sớm ăn năn cải hối tu hành theo Đạo Phật thì mới mong được Phật Thánh Tiên cứu rỗi, sống sót trong ngày lập đời Thượng Nguơn an lạc.

Về việc bộc lộ thiên cơ (Sấm) chúng ta có thể phân tách ra hai sự việc:

1. Tiên tri thời cuộc:– Trong Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tiên tri nhiều việc ngày nay đã thấy ứng hiện, càng tăng trưởng đức tin của tín đồ vào sự giác ngộ của Ngài.

Như tiên tri về sanh hoạt đắt đỏ, sưu cao thuế nặng, kinh tế suy sụp, tiền bạc mất giá…

Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,

Thấy dân mang sưu thuế mà thương;

Chẳng qua là Nam Việt vô vương,

Nên tai ách xảy ra thảm thiết.

Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,

Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.

Hay là:

Thương hại bấy lê dân đứt ruột,

Thảm vợ con đói rách đùm đeo;

Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,

Thêm gạo lúa lại tăng giá mắt.

Hoặc là:

Hết đây rồi đến dị kỳ,

Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Về thảm cảnh thì:

Mai sau nhiều cuộc đất cày,

Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa.

Hay là :

Trong bổn đạo từ đây kim chỉ,

Đói với nghèo sắp tới bây giờ.

Những thảm cảnh ấy, ngày nay đã thấy ứng hiện trước mắt mọi người. Cũng như Ngài đã cho biết trước trận thế chiến thứ hai, khởi từ năm Mèo (1939) và chấm dứt năm Gà (1945) ở những câu:

Mèo kêu bá tánh lao xao,

Đến chừng Rồng Rắn máu đào chỉn ghê.

Con Ngựa lại đá con Dê,

Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.

Khỉ kia cũng bị xáo xào,

Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng.

Còn nhiều lời tiên tri khác nữa nói về thời cuộc, nhưng đây chỉ kể vài việc đã ứng hiện để chứng minh là Ngài mách trước trong Sấm Giảng có thật, chẳng kíp thì chầy ứng hiện không sai.

2. Cho biết chuyển kiếp.– Trong bài “Sứ mạng của Đức Thầy” có đoạn nói rằng: “Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế“. Ở một đoạn khác, Ngài lại viết: ”Những  kiếp gần đây, may mắn gặp minh sư, cơ truyền Phật pháp, gội nhuần ân đức Phật, lòng đã quảng đại từ bi, hềm vì nỗi cảnh quốc phá gia vong, máy huyền cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ“.

Và Ngài cho biết kiếp nầy là kiếp chót như ngài đã viết: “Ta nghĩ nhiều tiền kiếp ta cũng hy sinh vì Đạo nào quản xác thân. Kiếp chót này đây há lại tiếc chi thân phàm tục… “

Theo đó thì Ngài đã chuyển nhiều kiếp. Nhờ vậy mà khi đọc Sấm Giảng, ta không còn ngạc nhiên thấy nhiều đoạn, nhiều danh xưng trùng hợp với nhiều vị siêu phàm khác. Chẳng hạn như:

a) Xưng Khùng Điên: Điều mà ai cũng nhận thấy là các vị trong Bửu Sơn Kỳ Hương, từ Đức Phật Thầy Tây An trải qua Ông Sư Vãi Bán Khoai… một khi lâm phàm cứu thế đều xưng hiệu Khùng Điên, ý chứng để đối lại người đời thường xưng khôn lanh quỉ quái.

Đây ông Sư Vãi Bán Khoai xưng Khùng:

Khùng sao mà biết thiên cơ,

Cũng là Phật khiến cho Khùng dại điên.

Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng xưng Khùng và cũng nhận biết thiên cơ:

Khùng toàn biết âm dương kết liễu,

Khùng huyền cơ, Khùng đạo Thích Ca.

Về xưng Điên, ông Sư Vãi có viết:

Điên nầy Điên Phật Điên Thầy,

Chẳng sợ ai rầy nên nói cù nhây.

Còn Đức Huỳnh Giáo Chủ thì là:

Điên như Ta, Điên giống Tiên Rồng,

Điên gở ách xích xiềng thế tục.

b) Đối chiếu tư tưởng.– Ngoài việc xưng hiệu Khùng Điên, còn nhiều tư tưởng trùng hợp giữa Đức Phật Thầy Tây An, ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Về nhan đề giảng sách, có sự trùng nghĩa trùng tên như:

Đức Phật Thầy Tây An có bài “Giác mê”, còn Đức Huỳnh Giáo Chủ thì có “Giác mê tâm kệ” tức quyển thứ tư trong bộ Sấm Giảng.

Ông Sư Vãi Bán Khoai có quyển “Sấm Giảng người đời” mở đầu bằng câu “Hạ nguơn Giáp Tý bằng nay”, thì Đức Huỳnh Giáo Chủ có quyển “Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm” tức quyển thứ nhứt, cũng với câu mở đầu “Hạ Nguơn nay đã hết đời”.

Ngoài sự trùng nhan đề, còn nhiều đoạn trùng ý giữa ông Sư Vãi Bán Khoai với Đức Huỳnh Giáo Chủ. Như đoạn giảng sau đây nói về “Một Thầy ba Tớ”

Đây là lời ông Sư Vãi Bán Khoai tự thuật:

Chừng nào nước chảy đông nguồn,

Một Thầy ba Tớ hết đường lao đao.

Hay là:

Nào khi nắng bụi bay tuôn,

Một Thầy ba Tớ chẳng buồn lại vui.

Và đây Đức Huỳnh Giáo Chủ nói về “Một Thầy ba Tớ”:

Khùng thời ba Tớ một Thầy,

Giảng dạy dẫy đầy rõ việc thiên cơ.

Ông Sư Vãi Bán Khoai còn cho biết cả danh hiệu của Thầy và Tớ nữa:

Huệ Lựu ký tả một bài,

Viễn ban châu quận hậu lai khán tường.

Hay là:

Huệ Lựu bút ký tả rồi,

Đặng cho thiên hạ dấu soi để đời.

Đức Huỳnh Giáo Chủ chẳng những lặp lại tên Thầy, còn cho biết tên tớ nữa:

Đừng thấy ngu dạy mà khi,

Thầy là Huệ Lựu, Tớ thì Huệ Tâm.

Ngoài sự trùng ngôn trùng ý, đánh dấu sự liên hệ tiền kiếp giữa ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn bức màn huyền vi giữa Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng sẽ được vén lên, khi ta đọc những câu như sau:

Như khi Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:

Khùng thời quê ngụ núi Sam

Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.

Núi Sam là nơi Đức Phật Thầy Tây An tịch, nay còn di tích là phần mộ không nấm của Ngài còn lưu dấu.

Một đoạn khác trong Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng lặp lại di tịch núi Sam để cho người nhận ra chuyển kiếp của Ngài:

Thương lê thứ bày tường trong đục

Mặc ý ai nghe phải thì làm:

Lời của người di tịch núi Sam,

Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc,

Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc.

Chẳng ở yên còn xuống phàm trần,

Ấy vì thương trăm họ vạn dân,

Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ,

Giả bán buôn thức giấc người đời.

Rằng ngày nay có Phật có Trời,

Kẻo dân chúng nhiều người kiêu ngạo.

Đọc qua các khoản trùng ngôn trùng ý và đối chiếu tư tưởng giữa Đức Phật Thầy Tây An, Ông Sư Vãi Bán Khoai với Đức Huỳnh Giáo Chủ, người đời nhận rõ sự chuyển kiếp của Ngài như Ngài đã xác nhận, khi viết: “Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng, chớ dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế”.

Do đó, ta không lấy làm lạ, ngoài những người chịu ơn cứu chữa hay phục tài ám thông tâm lý hoặc được cho thi bài soi tỏ căn cơ, đã đành thọ giáo qui y với Ngài, mà còn một số tín đồ của Đức Phật Thầy Tây An, ông Sư Vãi Bán Khoai hay những người trong giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, sau khi đọc Sấm Giảng đều chẳng ngần ngại qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Tiếng đồn ngày một lan rộng ra, thu hút một số đông người đến thử thách.

Thử thách.– Từ ngày thi thơ, Sấm Giảng ra đời, sau khi đọc qua, có một số Nho gia hay phái tân học tầm đến thử thách, trước nhứt cho rõ tài cán của Ngài (không học mà thông), sau là tìm hiểu xuất xứ của vị siêu phàm xuống thế và sứ mạng vị ấy như thế nào?

Nếu kể ra hết các trường hợp thử thách thì quá dài, đây chúng tôi chỉ chọn ra một số điển hình để xác nhận về ám thông tâm lý và tài biện bác trác tuyệt của Ngài, ngoài hạng phi phàm chưa chắc đã đối đáp nổi một cách tuyệt luân như thế.

1. Thầy Ba Thận tức ông Phan Khắc Thận một nhà lão nho, học trò của cụ Tú Thường, một hôm được ông Huỳnh Hữu Phỉ đem thi bài của Đức Thầy về trao cho ông coi, trong đó có bài “Tam châu hữu ngạn”. Sau khi đọc, ông chê gì mà làm thơ nửa nạc nửa mỡ. Ông họa và gởi đến Ngài xin đáp lại.

Ngài bảo người mang thơ về nói: Ngài làm thơ là để khuyên người đời tu niệm, chớ không ra đời làm thơ để họa đáp.

Người mang thơ về thuật lại, ông Ba Thận nói: Như vậy tôi phải đến gặp ông mới được.

Sau đó, ông kêu 4 người  học trò giỏi nhứt của ông cùng đi với ông đến gặp Đức Thầy, sau hai đêm nặn óc làm hai bài thơ định thử  thách. Nhưng khi ông vừa bước đến nhà thì Ngài chạy ra tiếp và vồn vã: Bộ ông muốn làm thơ lắm sao ông lão. Liền đó, Ngài mời ông vào và bắt đầu câu chuyện mà trong đó Ngài đáp hết những điều ông lão muốn hỏi trong 2 bài thơ.

Đến khi ra về, người cùng đi theo hỏi sao không thấy ông đem hai bài thơ ra hỏi Ngài thì Thầy Ba Thận cho biết rằng trong lúc nói chuyện Ngài đã trả lời hết rồi mặc dầu hai bài thơ vẫn còn nằm trong túi áo.

2. Ông Hương sư Vàng, người ở làng Hòa Hảo, một hôm đem quyển “ Sấm Giảng Người Đời” của ông Sư Vải Bán Khoai đến toan thử Ngài, vừa bước vào nhà thì Ngài chận lại hỏi: Phải quyển ”Sấm Giảng Người Đời” của ông Sư Vải Bán Khoai đây không? Vừa nói, Ngài vừa lấy trong túi ông Hương Sự Vàng quyển giảng rồi trao cho ông này bảo dò coi Ngài đọc có trúng không?

Thế rồi Ngài đọc thuộc lòng: ông Hương Sự Vàng dò không sai một chữ, vô cùng ngạc nhiên, vì biết từ nhỏ đến lớn Ngài chưa hề gặp quyển giảng ấy.

Chẳng những thế, Ngài còn cho biết xuất xứ của quyển ấy: Tôi đã viết quyển giảng nầy mấy chục năm về trước khi tôi còn ở Cao Miên . . .

3. Ông Huỳnh Hữu Phỉ ở Chợ Vàm, một hôm mượn được quyển giảng “Lan Thiên” của ông Cử Đa từ Hà Tiên mang về, đem đến định hỏi Ngài. Nhưng khi ông Phỉ bước đến cửa thì Ngài khoác màn ra hỏi liền: Có phải quyển Giảng “Lan Thiên” đây không? Nói xong, Ngài thò tay vào túi ông Phỉ móc ra quyển Giảng, Ngài cuốn tròn lại rồi bắt đầu đọc từ trang đầu cho tới hai ba trang sau mới trao quyển Giảng lại cho ông Phỉ để dò lại coi có đúng như Ngài đã đọc không?

Ông Phỉ vô cùng ngạc nhiên vì quyển Giảng ấy có thể nói là lần thứ nhứt được thấy, bởi nó do một người tu ở Hà Tiên mang về, chưa ai biết đến, thế mà Ngài đọc ron rót không thiếu một câu không sai một chữ; nếu không phải là tác giả, vị tất đã thuộc làu như vậy.

4. Họa thi: Về việc họa thơ thách thức để xem tài, nhứt là làm thơ  bằng chữ Hán, có hai trường hợp đáng kể.

   a) Trường hợp ông Huỳnh Hiệp Hòa ở làng Bình Thủy (Long Xuyên) là một nhà Nho có tiếng. Ông có làm bài thơ sau đây đem đến thách thức Ngài họa.

 

Phiến ngôn đại chấn điểm Nam cương,

Khẩu tụng Văn vương vị bốc tường.

Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,

Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.

Mã lai thủ thị danh thương pháp,

Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.

Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,

Tứ minh tam vị hiển văn chương.

Trong bài thơ nầy nếu chiết tự sáu câu đầu thì thấy ông Hòa có ẩn ý hỏi Ngài có phải: Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám không?

Ngài liền họa, cả vần bằng lẩn vần trắc, cũng bằng Hán văn như sau:

Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,

Háo thắng bi ly đạo khổ tường.

Tề tướng Cam phong an diện nhị,

Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.

Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp,

Phật lý di khai đại hội trường.

Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,

Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

Trong bài họa nầy, Ngài khéo léo cho biết danh hiệu Ngài. Nếu ta tinh ý sẽ thấy rõ ở hai câu kết.

   b) Trường hợp ông Nguyễn Kỳ Trân tức Chín Diệm ở làng Định Yên, quận Lấp Vò, cũng là một bực túc nho đầy lòng ưu ái quốc gia, khi thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ ra mở đạo, đem mùi tôn giáo khuyến dụ nhơn sanh sợ làm lợi cho bọn xâm lăng thống trị, nên có làm bài thi như sau:

Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên,

Vị tri đại đức giáng, Hà Tiên?

Hi Di ngũ quí kim an tại,

Thái Thượng tam vương cổ bất truyền.

Độc nhãn sa đà tàng Bắc địa,

Liên mi chơn mạng ẩn Nam thiên.

Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,

Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên.

 

Trong bài nầy ông Diệm có ý trách Đức Thầy, đại ý nói rằng: Bọn giặc mạnh xâm lăng nước nhà đã mấy mươi năm rồi. Vậy không biết Ngài là vị Tiên chi xuống trần? Những bực như Hi-Đi (Trần Đoàn), Thái Thượng (Khương Tử Nha) đều đi ở ẩn đất Bắc trời Nam, chỉ thấy hiện giờ con cá đỏ đuôi (cờ tam sắc) khắp đất nước. Nếu Ngài là bực minh lương thì Ngài cũng nên đả một roi (tiên).

Và đây là bài họa của Ngài, cũng bằng chữ Hán mặc dầu từ trước đến nay, Ngài chưa từng học:

Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên,

Sơn Trung hồi dã bí danh tiên.

Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại,

Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.

Trình mỗ ngộ kim giai cổ địa,

Xích mi hải hội luật trừng thiên.

Dị phi minh đế đồ tôn nhựt,

Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.

Trong bài nầy, chúng ta thấy Ngài họa chẳng những vận bình mà cả vận trắc nữa, đại ý trả lời bài thơ xướng và cũng nói rõ danh hiệu và quê quán của Ngài nữa. Ngài còn cho biết ở hai câu kết, thời kỳ của minh đế chưa đến, chớ khi đến rồi thì chẳng những đả một roi mà sẽ biết bao roi nữa.

Thật là tài tình, vì khi đưa thơ đến, Ngài liền họa ngay tại chỗ, cả vần bình lẫn vần trắc, với những câu chữ Hán trác tuyệt. Ở đây lượt bớt bài thứ hai, chỉ chép bài thứ nhứt của ông Chín Diệm và bài họa của Ngài.

5. Ông Bảy Còn tức ông Nguyễn Phước Còn ở gần chợ Cà Mau xã Long Kiến, quận Chợ Mới, và là cháu nội ông Đạo Thắng một trong Thập Nhị Hiền Thủ của Đức Phật Thầy Tây An. Những vị Hiền Thủ đều được Đức Thầy truyền diệu pháp nên có thần thông chữa trị bịnh nhơn bằng phương pháp huyền diệu, như uống nước lã, phù hay các thứ lá thứ bông. Khi ông Đạo Thắng tịch, truyền lại cho thân phụ ông Bảy Còn, rồi ông nầy đến lược truyền lại cho con cách chữa trị mầu nhiệm ấy.

 

Khi Đức Huỳnh Giáo Chủ mới phát bịnh, vì là chỗ quen thuộc với ông Bảy Còn nên Đức Ông chở Ngài xuống nhờ cứu chữa, nhưng chữa mãi mà vô hiệu.

Nay nghe tin Đức Thầy ra đời chữa bịnh và tỏ ra phi phàm thì ông Bảy không tin. Ông cho đó là ma quỉ chi chi, nên không chịu đến xem cho biết.

Theo lời ông Bảy cho biết: có một đêm, ông nằm mộng thấy chư Thần đến cho biết là Phật đã giáng thế ở Hòa Hảo. Thức dậy, ông cho đó là điều mộng mị nên không đi.

Một đêm khác, ông cũng nằm mộng thấy chư Thần kêu ông một lần nữa, nhưng ông cũng không tin.

Đến lần thứ ba, lần nầy chư Thần quở trách ông nên ông bắt đầu tin và định đi Hòa Hảo cho biết hư thiệt.

Cứ theo lời ông Bảy thuật, ông lại nhà ông Út, chú của Đức Thầy trước. Trong lúc ông đang chuyện vãng với ông Út thì Đức Thầy bước sang lại nắm tay ông mà nói rằng:

– Dữ hôn! Đợi chư Thần đòi ba lần, ông mới chịu đi. Thôi mời ông qua nhà.

Khi ông Bảy bước sang, Đức Thầy mời ông Bảy ngồi rồi nói:

– Ông Bảy muốn thử tôi phải không?

Nói xong, Ngài bước vào trong lấy viết mực làm một bài thơ trao cho ông Bảy và nói:

– Ông đọc đi coi có phải không?

Bài thơ ấy là bài thơ khoán thủ cách cú mà Đức Phật Thầy Tây An đã mật truyền cho ông Đạo Thắng, dặn sau nầy có ai đưa ra bài thơ nầy tức là Ngài tái thế. Bài thơ ấy, nguyên văn như sau:

ĐẠT ĐẠO NGAO DU CHÂU DI VIỄN CẬN

Đạt Đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,

Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.

Ngao Du thế giới hoàn sanh chúng,

Quí tiện trí ngu trạch nhơn hiền.

Châu Di phục thỉ an bá tánh,

Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.

Viễn Cận chư châu qui nhứt thống,

An cư lạc nghiệp phước vô biên.

Nên để ý tám chữ khoán thủ cách cú: (Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận) đều thuộc bộ Xước.

Ông Bảy trả lời là không biết chữ quốc ngữ nên nhờ Ngài đọc lại cho ông nghe.

Khi nghe xong, ông Bảy đã khâm phục rồi, nhưng Ngài còn làm thêm một bài nữa, tức bài “Bát Nhẫn” mà nội tổ ông Bảy đã chép trong phòng của Đức Phật Thầy và hằng lấy đó làm bài giáo huấn truyền lại cho con cháu. Đây là bài Bát nhẫn:

 BÁT NHẪN

Nhẫn Năng Xử Thế thị nhơn hiền,

Nhẫn Giái kỳ tâm thận thủ tiên.

Nhẫn dã Hương Lân hòa ý hỷ,

Nhẫn thành Phu Phụ thuận tình duyên.

Nhẫn Tâm nhựt nhựt thường an lạc,

Nhẫn Tánh niên niên đắc bảo truyền.

Nhẫn Đức bình an tiêu vạn sự,

Nhẫn Thành phú quí vĩnh miên miên.

Khi nghe xong bài “Bát nhẫn”, Ông Bảy xụp xuống lạy nhưng Đức Thầy đỡ dậy mà rằng: Không nên, ông Bảy. Phần xác đáng con cháu, ông lạy như thế không nên. Như ông muốn lạy, hãy lạy bàn Phật kia.   

6. Trường hợp đã qui y.– Đây không phải là một cuộc thử thách mà là một việc chứng tỏ thêm về sự ám thông tâm lý của Ngài. Nguyên có nhiều tín đồ sau khi đọc Sấm Giảng và học thuộc Bài Qui Y và Bài Ngũ Nguyện, tự đốt hương đến bàn Cửu Huyền và Bàn Thờ Phật, phát nguyện và qui y đúng như cách thức đã chỉ dạy trong quyển “Những điều cần biết của kẻ Tu Hiền” tức quyển Qui tắc hành đạo.

Mặc dầu ở nhà đã tự làm lễ qui y với ngôi Tam Bảo rồi, nhưng khi đến Ngài, lại xin Ngài chứng cho họ làm lễ qui y, ý chừng có được Ngài chứng giám mới có giá trị.

Nhưng Ngài đỡ lời mà rằng: Anh em đã qui y rồi, mặc dầu không có mặt tôi, nhưng tôi cũng đã chứng giám rồi. Một khi anh em tự làm lễ qui y là có tôi đến chứng. Vậy anh em khỏi làm lễ qui y một lần nữa.

Điều nầy đủ chứng tỏ Ngài đã ám thông tâm lý. Mọi việc gì người đời làm, thiện hay ác. Ngài đều rõ thấu, chẳng cần phải báo cáo, Ngài cũng tường lãm. Vì thế trong sách Nho có câu của Khổng Tử khuyên:”Thận kỳ độc”, nghĩa là nên cẩn thận lúc ở một mình trong phòng kín, vì lúc đó mặc dầu không có ai, nhưng ý nghĩ thầm kín của mình đều được Thần minh soi xét, rõ ràng như hành động ở ngã tư đường.

                                       Chương IV: Đăng sơn 

Mặc dầu với phương pháp chữa bịnh một cách huyền diệu, cho thi bài, viết Sấm Giảng, đã tỏ ra “không học mà thông” và ám thông tâm lý tức đã có tha tâm thông, khiến cho dân chúng qui ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo Chủ một ngày một đông, thế mà Đức Ông vẫn không tin, Ngài tìm đủ cách khuyên Đức Ông tu hành, nhưng Ông Cả (lời Đức Thầy thường gọi) không chịu nghe chỉ lo cờ bạc rượu chè.

Có hôm Đức Bà lo cúng lạy, Đức Ông mới kêu ngạo: Khi Bà về Tây phương, cho tôi “có giang”. Đức Thầy đang nằm, vùng ngồi dậy nói: Nếu ông đi trước bà thì ông mới quá giang với ai. Ông nên biết: Ông tu Ông đắc, Bà tu Bà đắc.

Vẫn thấy Đức Thầy làm bịnh và bịnh nhơn thường ngất xỉu, Đức Ông lấy làm lo sợ, nên một hôm nói rằng: Nếu muốn làm bịnh phải lên non lên núi, lãnh sắc lịnh về làm, chớ làm lậu như thế nầy, có ngày thường mạng cả đám.

Nhơn câu nói đó, Đức Thầy mới gài Đức Ông: Như thế là tôi phải dắt phần xác đi núi.

Thấy vậy, Đức Ông nói: Nếu đi núi thì phải cho tôi đi theo để giữ phần xác chớ không thể đi một mình được. Do đó mà có việc đăng sơn. Cốt ý là Ngài muốn tăng trưởng đức tin cho một số người chưa hoàn toàn tin vào sự giáo độ của Ngài.

Có tất cả 4 kỳ đi núi.

1. Đăng sơn kỳ nhứt.– Đăng sơn kỳ nầy, Ngài dẫn Đức Ông đi núi Tà Lơn là một dãy núi nằm trong tỉnh Cần Giọt (Kampot) trên đất Cao Miên. Trong lúc chuẩn bị, có người hỏi Ngài: Trong lúc Ngài đi, có ai ở nhà tiếp tục chữa bịnh không? Ngài đáp: Ở nhà có ông Sơn (chỉ ông năm Chơn), cứ hỏi ổng thì biết hành trình mỗi ngày của tôi và nếu có ai đau ốm thì nhờ ông Năm chữa cho.

Quả thật khi Ngài đi rồi, mỗi ngày ông Chơn đều cho biết Ngài với ông Cả hiện ở đâu, ngủ tại núi nào. Khi Đức Ông trở về hỏi lại thật không có sai.

Trước khi lên đường, Ngài dặn Đức Ông đem đồ lớn theo, tức khăn đống áo dài để có lên núi làm lễ. Khởi hành vào buổi chiều và khi đến núi Sam thì tối. Đêm đó nghỉ tại Tây An Tự nhưng Ngài không ngủ, cứ thức ca hát suốt đêm. Ông sư trong chùa bảo ông Cả ra rầy Ngài thì Ngài trả lời: chùa nầy là của tôi, còn ông sư là người ở đậu.

Sáng ra, Ngài gặp cô Mười giữ mộ Phật Thầy bảo cô hãy xuống núi chớ nên ở lâu, rồi Ngài cùng Đức Ông lìa núi Sam. Khi đi Đức Ông có mua theo 4 ổ bánh mì, nhưng lần lượt Ngài bảo ông Cả cúng hết dọc đường. Ngài nói đi viếng cảnh Tiên Phật mà còn sợ đói. Sợ không có gì ăn, ông Cả có mua một mớ ổi xách theo, nhưng Ngài cũng không cho ăn. Trên đường đi qua Cao Miên, có xe Pháp từ Nam Vang chạy xuống Ngài bảo Đức Ông né một bên đường còn Ngài thì đứng dựa vào cột dây thép. Khi đến Sóc Mẹt (Tuk Meas) Ngài có ghé chữa bịnh cho một đứa trẻ, con người Miên. Cha mẹ nó không biết tiếng Việt, Ngài lại nói tiếng Miên, mặc dầu từ trước đến nay Ngài chưa hề học.

 

Chiều hôm ấy, Ngài dẫn Đức Ông lên núi, thì trời đã tối. Đêm đó, Đức Ông thấy 2 con cọp, cặp mắt sáng tợ đèn xe thì hoảng hốt bụm mắt lại. Thấy vậy, Ngài nói: Không sao đâu. Họ đến ủng hộ mình đó. Liền đó Ngài ra lịnh cho hai ông hổ đi.

Sáng ngày Ngài dắt Đức Ông đi, khi lội suối, khi trèo đèo rất vất vả, đến một cái hồ đầy sen, lá to lớn, cọng bằng đầu gối, gương bằng cái nia. Ngài nói đây là thứ lá sen Tây vức, Đức Ông than đói, Ngài chỉ nước dưới ao, Đức Ông lấy tay bụm lên uống thì thấy khỏe khoắn vô cùng.

Đi hết ngày, đêm lại ngủ. Trước khi ngủ, Đức Ông ra ngoài bẻ cỏ làm dấu đến chừng sáng dậy thì không phải chỗ cũ mà đã dời đi một nơi khác.

Đi được một đoạn đường, Đức Thầy tự nhiên ngồi xuống khóc mà rằng: Ông ơi! Không còn ai trong mình tôi nữa, chắc phen nầy phải bị cọp ăn. Đức Ông đâm ra lo sợ thì Ngài phá lên cười và trấn tỉnh Đức Ông.

Đêm đến, Đức Ông thấy bốn ông cọp. Hôm sau khi khởi hành, Đức Ông thấy lạnh buốt cả người. Ngài nói chư Thần thấy Ông ngộ nên vuốt ve chớ không sao. Đi được một đoạn đường Ngài bảo Đức Ông mặc đồ lớn vào, rồi chỉ một người ngồi trên vồ đá mà rằng: Đây là ông Nguyễn Trung Trực. Người ta nói ông bị Tây giết mà nay ông còn sống đó.

Vậy ông Cả nên lại làm lễ và nói chuyện với Quan Thượng Đẳng. Đức Ông đến nói chuyện và làm lễ hai lạy rồi từ tạ ra đi. Thấy nực, Đức Ông cổi khăn đống áo dài ra.

Đi một đỗi nữa, Ngài lại bảo Đức Ông mặc lại đồ lớn và chỉ một người ngồi trên vồ đá và nói: Đây là ông Trần Văn Thành tục gọi là ông Quản Thành hay Đức Cố Quản. Ông nên ra mắt người. Đức Ông đến đàm đạo và lễ hai lạy. Đức Cố khuyên Đức Ông về rán tu hành, ngày kia sẽ gặp lại nhau (1).

——–

(1). Theo lời thuật của Ông Truyền, nguyên kiểm soát Ban Trị Sự Thánh địa.

Đức Ông tiếp tục theo Đức Thầy lặn suối trèo non được 4 ngày thì than mỏi mệt đòi về. Ngài khuyên rán đi nhưng Đức Ông đi không nổi. Lúc ấy gặp được một khúc mây, Ngài đưa cho Đức Ông làm gậy, gượng chống chỏi mà đi. Đến một chỗ thấy có đèn nhang đang cháy, Ngài bảo Đức Ông đến làm lễ qui y.

Sáng ngày xuống núi, khi tới triền, Đức Ông ngồi nghỉ mệt, đến lúc đứng dậy ra đi lại quên cây gậy, thành thử Đức Ông định đem khúc mây về rốt cuộc cũng không đem được.

Về đến Tân Châu, Ngài ở lại ngủ nhà Ba Sánh một đêm, còn Đức Ông thì đi về trước. Sáng ngày sau Ngài vào chùa cô năm Hí ở làng Long Phú rồi đi qua làng Phú Thuận thăm chị là cô hai Đê, chữa bịnh cho đứa con của cô nầy mới trở về Hòa Hảo.

Cuộc đăng sơn nầy định đi trong 8 ngày, nhưng mới 6 ngày Đức Ông đòi về thành ra còn thiếu 2 ngày. Do đó mà khi về nhà, bảy ngày sau, Đức Ông phát xưng bàn chân trái, đau nhức trong 2 tháng mới lành. Cứ theo Đức Thầy cho biết: Đi kỳ này là để giải quả căn cho Đức Ông, cũng như các vị Hòa thượng đã mấy mươi năm công phu sám hối. Ông Cả không chịu giải quả kia thì phải chịu sự đau nhức nầy.

Sau khi đi núi về, Đức Ông rất hân hoan mà báo cho anh em đến thăm biết rằng:”Tôi đã gặp vàng thiệt rồi, các ông ôi! các ông hãy tin đi”.

2. Đăng sơn kỳ nhì.– Kỳ nầy Đức Thầy đi với Ông Ngô Ngọc Chơn tục gọi là đạo Năm, vào khoảng tháng 7 năm Kỷ Mão (1939).

Khởi hành đi bộ qua Cái Đầm rồi xuống đò qua Năng Gù, đón xe xuống lộ tẻ Mặc Cần Dưng rồi sang xe đi Xà-Tón (Tri Tôn). Đến chợ Xà -Tón, hai Thầy trò đi về hướng núi Tô, băng qua một cánh rừng rồi dò theo đường mòn mà đi, dọc đường gặp người Miên, Ngài dùng tiếng Miên nói chuyện một hồi rồi mới đi.

Lên núi, lần lượt đến Sân Tiên, Điện Năm Căn, Mũi Hải nơi có một chiếc thuyền chìm thành đá, rồi thẳng lên chót núi đến Điện Kín, nghỉ đó một đêm, sáng hôm sau mới qua núi Cấm.

Khi đến Rầy Đét, đường lên núi, hai Thầy trò vẹt phá chông gai, đến hôm sau mới tới Vồ Bò Hong, nghỉ đây một đêm. Đêm đó Ngài kêu ông Yết Ma đang chữa bịnh, lại kêu bằng con và bảo xuất trình một vật báu của “Người xưa để lại”. Ông Yết Ma đem tờ giấy bạch có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương ra trình và lạy Ngài hai lạy để tạ lỗi gặp bực “Trên Trước” mà không biết.

Đến 4 giờ khuya, Thầy trò đi về hướng Tây; bữa sau xuống núi, không tiếp tục lộ trình đi Hà Tiên mà lại quay về Châu Đốc, đến kiếm Bếp Ngoan ở trại lính Mã tà bảo rằng đã đến thời kỳ rồi đừng giúp việc cho ngoại địch nữa, hãy bỏ nghề bùa ngải mà theo Thầy.

Ngài qua Tân Châu, đi xe về Chợ Vàm rồi qua bãi Phú Thuận thăm chị, ngủ đây một đêm để ông Chơn về trước, còn Ngài trưa hôm sau mới về.

3. Đăng sơn kỳ ba.– Kỳ nầy Đức Thầy dẫn theo 5 tín đồ là : Ông Phan Văn Báo tức Hai Báo ở Phú An, Ông Nguyễn Tấn Bực tức Biện Hùm ở Phú An, anh của Đại tá Rớt, Ông Nguyễn Văn Gia tức Ba Gia, Ông Nguyễn Văn Ban tức Sáu Ban và Ông Ngô Ngọc Chơn tức Đạo Năm.

Sáu Thầy trò khởi hành tại Hòa Hảo ngày 21 tháng 8 năm Kỷ Mão, đi viếng núi Két, đến núi nầy trong ngày và nghỉ đêm tại đó. Sáng lại, Thầy trò xuống núi rồi qua núi Cấm, đi Rầy Đét đăng sơn. Thấy ai nấy đều mệt mỏi, Đức Thầy mới khuyên: Rán đi để giải quả.

Trải qua nhiều đoạn đường cây cối um tùm, đoàn lữ hành đến một vùng rộng lớn có tòng bá, nhứt là thiên tuế sum sê, thỉnh thoảng lại có những tảng đá phẳng lỳ, nhiều cây bằng đọt như có ai hớt. Cảnh trí u nhàn, quả là một Kiểng Tiên tại thế. Lần lượt đi đến chùa Phật Lớn, Điện Đá Dựng, nơi đây ông Ba Gia thấy một ông hổ lớn. Nghỉ đó một đêm rồi hôm sau trở xuống chùa Ba Đạo, qua Thất Cao Đài, Điện Rau Tần. Trong khi nghỉ đêm ở đây, Đức Thầy có chữa bịnh cho một người mà thầy phù thủy đang chữa không hết.

Sáng lại, Thầy trò xuống núi, qua núi Tô, lên Điện Kín, lại Sân Tiên nghỉ một đêm. Tại Điện Kín có đường hầm đi qua núi Cấm. Ông Chơn có đốt đèn đi thử một đỗi mới trở lại.

Hôm sau, sáu Thầy trò trở về Châu Đốc, qua Tân Châu rồi về Hòa Hảo. Khi đi chuyến đó về Biện Hùm phát bịnh, đau thập tử nhất sanh. Có người đến trình với Đức Thầy và yêu cầu Ngài cứu chữa. Ngài nói: Ai bảo bẻ cây trái của người ta chi cho bị phạt, về bảo nó nguyện vái tạ lỗi, uống nước cúng thì hết. Quả thật Biện Hùm nhìn nhận có bẻ đem về một túi ớt hiểm mà ông thấy mọc đầy trên núi.

4. Đăng sơn kỳ tư.-  Kỳ nầy Đức Thầy dẫn ông Ngô Thành Bá tục gọi Biện Đài ở Hòa Hảo đi núi Tà Lơn.

Khởi hành ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Thìn (1940), hai Thầy trò được chở bằng xe đạp qua Cái Đầm, đi đò sang Năng Gù, đón xe đi Châu Đốc rồi sang xe khác vào Tịnh Biên. Đến đây vào 3 giờ, nghỉ đêm nhà của chị ông Đài. Đêm đó Ngài giảng đạo cho nhiều người nghe.

Sáng hôm sau lên xe đi Cần Giọt, đến nơi độ 3 giờ chiều. Hai Thầy trò đi vào chân núi và ngủ trọ nhà ông lão 70 tuổi, đệ tử của ông Cử Đa. Đêm đó, Ngài có đọc thuộc lòng một đoạn giảng quyển thứ ba cho ông lão nghe và khuyến khích tu hành, hẹn sẽ gặp lại.

Sáng hôm sau từ giã ông lão, hai Thầy trò lên núi. Đi tới chơn núi hồi 8 giờ, qua phía trong máy nước, đường Cam Chại, xuống tắm dưới suối, rồi mỗi người thay một bộ đồ dà. Sau đó theo đường Cam Chại lên núi, vào độ 1 giờ trưa thì tới Trung Tòa hay Long Thoàn, ghé vào một ngôi chùa nhỏ, tặng nhà sư ba quyển giảng rồi từ giã ra đi.

Đến ngã tẻ, Đức Thầy bảo đi qua điện Cô Nhứt, đi tắt qua Bà Ngự sẽ gần hơn một phần ba đường đi điện Minh Châu. Vì đi tắt nên đường dốc ngược gập ghềnh, bước muốn sụt lui, mệt lả người, mồ hôi ra như tắm.

Vào lối 3 giờ chiều mới tới điện Cô Nhứt. Từ đây đường bằng phẳng dễ đi nên 5 giờ chiều thì Thầy trò trở ra lộ lớn bề ngang bốn thước, quẹo qua tay trái độ 500 thước thì tới điện Cao Vân. Đêm đó Thầy trò ngủ trên một tảng đá bằng phẳng.

Sáng ngày mồng 9, Thầy trò đi đến Ruộng Năm Dây độ 10 giờ trưa, có đường đi qua Bà Ngự nơi ông Cử được điểm đạo.

Đến đây hết đường mòn, Thầy trò phải băng qua đèo, lội qua suối, thấy tòng bá chen nhau, cực kỳ xinh đẹp; dò lần đến Châu Thiên là một nơi “Tiểu Bồng Lai Tiên Cảnh”.

Nửa giờ sau lại đến Tứ Giao Điện thì mặt trời vừa chen lặn. Nhẹ bước vào điện, không thấy bóng người, chỉ thấy tương chao, chén đũa ngổn ngang trên bàn.

Đói quá ông Đài xin Thầy lấy cơm khô ra nấu rồi luộc đọt rau mà ăn. Bữa cơm đó, ông Đài cho là ngon nhứt trong đời ông. Điện nầy có 4 tảng đá lớn giao khít nhau thành hình chữ thập nên gọi là Tứ Giao Điện.

Đêm đó Thầy trò dẫn nhau lên nóc điện, lên hương đèn cầu nguyện, rồi xuống điện nằm trên sạp bằng cau rừng, Đức Thầy nói: trên trước dạy Thầy đem mầy lên non một tháng. Từ đây còn lên Lan Thiên Trường Sanh, qua Nhị Hoàng, lên núi Tổ mới trở về.

Nhưng ông Đài thấy lương thực kém khuyết mà đường sá còn xa thì sợ chết đói nên đòi về. Thế là sáng ngày mồng 10, Đức Thầy bảo sửa soạn trở về vì ở nhà có việc lộn xộn (vụ Đạo Tưởng giết người tế cờ ở Tân Châu và bị Pháp tàn sát). Trên đường về, Đức Thầy có ghé điện Quan Ngự sử của cựu trào, khi Pháp thôn tính Việt Nam, vào ẩn tu cho đến đắc đạo.

Ngài bảo ông Đài lên đèn hương đảnh lễ còn Ngài thì dùng tiếng bí mật nói với Quan Ngự sử. Xong xuôi Thầy trò ra đi, Thầy thì cầm một khúc cây dọn đường đi trước, còn trò thì nối gót theo sau, hết lên triền lúc xuống núi, sau đến một cái hang tối om, mùi hôi hám. Đức Thầy hỏi ông Đài: Mầy muốn coi cọp núi không ? Đây, mầy chun vô sẽ gặp. Nói xong, Ngài đẩy ông Đài vô, nhưng ông Đài thụt lại và nói: Úy, Thầy ôi! coi kìa dấu chân ông thầy dẫm đầy hang; vô không được đâu.

Ngài nói: Sao mầy nhát quá vậy. Ngài bảo mãi nhưng ông Đài không dám chun. Rốt cuộc Ngài nói: Không chun vô thì thôi. Ta hãy đi.

Nói rồi, hai Thầy trò ra đi, đến 10 giờ trổ ra một cái suối lớn có chổ rộng 100 thước tây. Đến 3 giờ, Đức Thầy dẫn đi dốc ngược lên núi vào ngay một cái điện. Ngài nói tiếng trên và bảo ông Đài lên hương đảnh lễ.

Trong lúc đi đường, có khi Ngài lớn tiếng kêu chư Thần: Hỡi các vị Thánh Thần! hãy theo Thầy xuống núi cứu thế độ dân. Hôm nay Thầy đã lâm phàm rồi, sao các ông còn ở đây.

Sáng ngày 11, Thầy trò đi đến một con suối, nước đổ ồ ồ, cùng nhau xuống tắm rồi mới đi. Ngài bỏ ông Đài ở sau đến cả công đất. Ngài phải dừng chơn đứng đợi, khi ông Đài đến thì hoảng hốt vì thấy một con cọp đang uống nước gần đó.

Đi đến 10 giờ trưa, ông Đài đi hết nổi, tối tăm mày mặt, ôm vào một gốc cây. Ngài trở lại vuốt ngực, đọc chú và cho ông Đài nhai một nắm lá có chất ngọt. Vài phút sau thì ông Đài khỏe lại.

Từ đó trở đi, đường sá hiểm trở, có chỗ phải bò, khi vượt lên, lúc lại tuột xuống. Ngài dẫn ông Đài lên một ngọn núi cao vót ít có cây mọc. Trên núi có suối chảy, nước trong như mắt mèo. Có lúc Ngài lội ngang suối, còn ông Đài thì vịn theo thân cây ngã ngang mà bò qua. Ngài rầy sao không lội nước thì ông Đài đáp: Lội chi cho ướt mình.

Ngài nói: Thầy đi đàng nào, trò phải đi đàng nấy. Từ đây cấm mầy không đi như vậy nữa.

Đi một đổi, Ngài ngồi lại, ôm đầu gối mà than: Phen nầy chắc chết. Trên trước dẫn Thầy đến đây rồi bỏ đi đâu mất. Hôm nay Thầy có chết cũng an thân vì Thầy không có gia đình, sự sản, vợ con; chỉ thảm thương mầy có con vợ, sự sản mà hôm nay nghe lời Khùng Điên đến đây tuyệt mạng, đau khổ biết chừng nào!

Ông Đài nghe nói phát sợ, nhưng cũng cố gắng đáp: trên trước còn trong mình Thầy, chớ có đi đâu.

– Sao mầy biết?

– Vì Thầy nói tiếng âm đằng điện.

– Tại miệng Thầy muốn nói.

– Tại sao miệng tôi nói không được. Thầy nghĩ coi, núi nầy tuy lớn, nhưng xét lại cơm khô ăn còn được ba bốn ngày.

Xin Thầy đi theo ngọn núi này, có lẽ một tuần nữa cũng trổ ra. Nếu hết lương thực thì ăn đỡ lá cây, đỡ đói cũng được.

Đức Thầy trợn mắt hỏi: Mầy chết sao dám nói vậy. Chẳng qua Thầy thử lòng mầy, chớ sự nghiệp mầy chừng đôi ba ngàn, gia quyến mầy chừng bảy chục người, chớ bao nhiêu. Còn Thầy đây nếu mai một đi rồi thì muôn triệu tín đồ trong buổi Hạ nguơn nầy lấy ai dắt dẫn.

Thầy trò lại lên đường. Ông Đài vấp chơn đổ máu, nhức đi không được. Ngài liền dùng phép mầu chữa cho hết đau. Ngài lại nói: Thầy trò mình đi mấy ngày đã đuối chơn, để Thầy kêu hai con cọp đặng Thầy trò mình cỡi đi cho khỏe.

Ông Đài từ chối không dám.

Ngài hỏi: Mầy muốn cỡi tượng không? Ông Đài cũng không dám.

Tối đêm đó, Thầy trò ngủ dựa mé suối. Khuya lại nghe tiếng rắc rắc, ông Đài mở mắt thấy bạch hổ thì sợ quá. Đức Thầy nói: Đó là Thần Bạch Hổ đến ủng hộ chúng ta.

Sáng ngày 12, đường đi vẫn còn khó nhọc. Ông Đài thấy nhánh cây mới chặt xéo, lá còn tươi xanh, lượm lên hỏi Thầy thì Ngài cho biết: Đó là dấu hiệu trên trước dẫn đường. Thầy trò phải băng qua một truông mây mới trổ ra lộ đá, đi về Cần Giọt đúng 6 giờ chiều. Về đây mới rõ vụ Đạo Tưởng nổi dậy ở Tân Châu.

Ngày 13, lối 3 giờ chiều, xe về đến Nhà Bàn. Hương giáo Tập đến mời Thầy về nhà dùng cơm. Đêm đó có người hỏi Thầy về những vật Phật Thầy Tây An trao cho ông Đình Tây đều được Ngài trả lời rành mạch.

Có ông lại bạch Ngài rằng: Bạch Thầy, mấy ông Đạo trên núi thường luyện phép để ngày sau phò vua giúp nước? Còn Đức Thầy sao không dạy đệ tử luyện phép như Tiên đạo?

Ngài đáp: Đạo Phật chỉ dạy con người lo tu tâm sửa tánh cho được trọn lành trọn sáng, còn phù phép thuộc về tà giáo. Còn ham phù phép tức là nuôi óc cạnh tranh cầu danh lợi; phép linh cũng như cá linh: nước vừa chớm giựt, loại cá nầy đua nhau lên nước trước nên phải chịu chết sớm. Các ông đừng ham linh mà bỏ mình.

Sáng hôm sau, ngày 14 Đức Thầy dẫn ông Đài đi núi Trà Sư, khi lên đến chót, Ngài chỉ con đường Nhà Bàn xuống Xà Tón và cho biết đến thời kỳ hỗn loạn thì con đường nầy phơi thây chật đất, máu chảy đầy đồng.

Trưa lại Thầy trò về nghỉ và lối 4 giờ chiều, Ngài dẫn ông Đài và sáu bảy anh em tín đồ đi núi Két; lên đến Sân Tiên, Ngài ngâm cho Hương giáo Tập chép bốn bài thi sau đây:

Non Tiên gió mát toại lòng thay!

Tức cảnh thi văn nhả một bài.

Cố tưởng ước mong về nhược thủy,

Ngặt vì không cánh lấy gì bay.

                     o0o

Dắt xác phàm phu viếng non đoài,

Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.

Chư sơn Bảy núi đồng qui tựu,

Thầy Tớ Kiểng Tiên rõ mặt mày.

                   o0o

Nhìn xem cây cỏ gió lung lay,

Sáng lại lui chơn trở gót hài.

Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,

Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay.(1)

_________________________________________________________

(1). Theo quyển: Dõi gót theo Thầy của Ngô thành Bá tự Đài.

VIẾNG THĂM CÁC LÀNG KẾ CẬN. 

Sau khi dùng huyền diệu của Tiên gia chữa bịnh và đem giáo pháp nhiệm mầu của Đức Thích Ca phổ truyền bằng thi bài hay Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã thu nhận một số đông tín đồ. Vì cảm lấy ân đức cứu tử huờn sanh, vì nhận chân Ngài qua thi văn Sấm Giảng, thiên hạ từ vùng gần đến làng xa, đổ xô nhau xin thọ giáo qui y.

Một khi đặt vững đức tin vào lòng người và nhơn chút rỗi rảnh, Đức Thầy mới đi viếng các vùng lân cận, trước đến thăm viếng tín đồ, sau để đón nhận những người chưa có dịp ra mắt Ngài, mặc dầu đã nghe danh nhưng chưa được diện kiến.

Hồi xưa Đức Phật Thích Ca sở dĩ thường đi vân du nơi nầy chốn nọ, cốt ý là để biện giải những lý lẽ nhiệm mầu hầu phá tan tà thuyết dị đoan ngoại đạo. Do đó mà Ngài thu phục nhiều tín đồ trong hàng ngoại đạo quay về với chánh pháp, như trường hợp của Thập lực Ca Diếp. Hơn nữa dung nghi đẹp đẽ của Ngài, nếu không đi đó đi đây thì những người có duyên lành không có dịp chiêm ngưỡng, cảm mộ dung nhan, sanh lòng hoan hỷ rồi qui ngưỡng, theo như trường hợp của A-Nan tôn giả. Ngoài ra, thân Phật có phát ra hào quang, người nào may mắn xuông lấy hay tiếp nhận ánh sáng từ quang ấy thì thân tâm trở nên thanh tịnh, kích phát tâm Bồ đề, hướng về chánh pháp, cầu đạo vô sanh.

Ngày nay, Đức Huỳnh Giáo Chủ vân du, tuy không như Đức Phật, nhưng đây là một dịp để gần gũi hầu chỉ dạy mọi điều đạo đức, những lẽ nhiệm ý mầu cho những người có duyên lành sớm qui đầu Phật pháp. Cũng có trường hợp, Ngài gợi lại mối duyên xưa mà Ngài đã gieo trong những kiếp trước như trường hợp Ngài đến viếng làng Mỹ Hội Đông.

I. Viếng làng Mỹ Hội Đông.  Làng Mỹ Hội Đông nằm trên Cù lao ông Chưởng, giáp mặt với sông Hậu và Nam ngạn Vàm Nao, đối diện với làng Hòa Hảo và cù lao Bình Thủy.

Ngài sang viếng ngày 22 tháng giêng năm Canh Thìn (1940). Trong kỳ viếng nầy, có hai việc đáng ghi nhận:

1. Ông Lương văn Tốt tức Thầy Tám Tốt, một vị lương y ở Mỹ Hội Đông, khi nghe  Ngài đến thì ra lộ đón chào. Ông đã nghe tiếng Ngài, đã có đến ra mắt ở Hòa Hảo, nhưng còn muốn thử Ngài một lần nữa, nên khi Ngài đi ngang thì ông ra đón hỏi:

– Hôm nay, Ông Tư cũng đi du lịch nữa sao?

Ngài cải chánh tại chỗ.

– Không! Tôi đi ngao du mà!

Từ danh từ “du lịch”, Ngài sửa lại danh từ “ngao du” đủ chứng tỏ Ngài là bực siêu phàm.

Nghe Đức Thầy cải chính như vậy, ông Tám Tốt hốt hoảng, chào Ngài một cách kính cẩn và sau đó nói cho mọi người biết, Ngài dùng hai tiếng “ngao du” đủ chứng minh Ngài không phải là người phàm nhơn. Chỉ có bực Tiên Thánh mới dùng hai tiếng “ngao du”, thay vì “du lịch” của hàng phàm tục.

2. Ở Mỹ Hội Đông có gánh họ Lâm, trong thời kỳ Cần Vương chống Pháp đã có công cho ông Nguyễn Trung Trực tá túc, sau khi bị Pháp phá vỡ cơ sở kháng chiến ở miền Đông và Đồng Tháp, di binh về miền Tây, đến tá ngụ nhà ông Lâm Hàm Ninh ở xã Mỹ Hội Đông một thời gian. Binh tướng của Ngài thì đóng ở Tà Niên tỉnh Kiên Giang, còn riêng Ngài thì tá túc ở gánh họ Lâm, để tránh sự dòm ngó, theo dõi của Pháp và đám Việt gian tay sai. Trong lúc tá túc, Ngài thường liên lạc với Đức Cố Quản ở Bình Thạnh Đông và đặt một số người liên lạc hay vận lương cho binh sĩ đồn trú ở Tà Niên.

Một điều huyền bí là chừng như có sự giao cảm tự nhiên giữa gánh họ Lâm và Đức Huỳnh Giáo Chủ nên chi khi hay tin Ngài ra đời ở Hòa Hảo thì người trong gánh họ Lâm hầu hết đều đến qui ngưỡng.

Chiều ngày 20 tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) ông Cả Mười trong gánh Họ Lâm có đến ra mắt Ngài và được Ngài cho hai bài thơ chữ Hán như sau:

Thiên lý vị nhiên tự sĩ hiền,

Ngôn xuất Lam Kiều dị khả biên.

Tam tấn tài phi ngô tất ảo,

Lưỡng hồn nhứt phổ họa lưỡng xuyên.

                       o0o

Thân thiện cô nhi nhược thủy hà,

Phi hùng Nhan Khước tỵ ngôn xoa.

Phổ yến tử tôn canh kiêm mộng,

Thể thống tam đồ lạc âu ca.

Sau khi đem về nhà, ông Cả Mười mặc dầu là một nhà Nho đã cùng nhiều nhà nho khác trong làng Mỹ Hội Đông bàn mãi mà không ra nghĩa. Cho nên hôm ngày 22 tháng giêng năm Canh Thìn (1940) nhân dịp Đức Thầy viếng làng Mỹ Hội, có ghé nhà ông Cả Mười. Ông bèn xin Ngài dịch ra chữ nôm hay quốc ngữ thì được Ngài dịch ra tiếng Việt như sau:

Trời đất chưa phân gọi sĩ hiền,

Lầu Tiên lời lẽ lạ gần biên.

Ba lần tranh đoạt, Ta ắt biến,

Gặp kẻ hai hồn độ hai xuyên.

                     o0o

Mình lành có kẻ độ qua sông,

Như có Thầy Nhan ẩn mặt hồng.

Tích trước Tiên thân thường đãi khách,

Ba đời an lạc hưởng hầu công.

Và trong bài thơ trường thiên “Viếng làng Mỹ Hội Đông” Ngài tặng anh em tín đồ có câu:

Duyên lành rõ được Khùng Điên,

Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần.

II. Viếng làng Phú An.  Sau khi viếng làng Mỹ Hội Đông, Ngài đi viếng làng Phú An, một xã giáp ranh với xã Hòa Hảo, ở về phía Bắc.

Ngày 23 tháng giêng năm Canh Thìn, tức sau một hôm viếng Mỹ Hội Đông. Ngài hiệp với ông Năm Hiệu và Biện Hùm đi xe đạp lên Chợ Vàm. Trong chuyến đi nầy có hai việc đáng ghi nhận:

1. Trên đường đi Chợ Vàm, Ngài có cứu sống cô năm Mang mắc bịnh thời khí rất nặng, hết phương cứu chữa.

Thấy đông người tới lui, Ngài ghé hỏi, người nhà cho biết tự sự và yêu cầu Ngài cứu độ. Ngài nhận lời, bèn dùng nước lã bảo cho bịnh nhơn uống và đồng thời dạy đặt bàn hương án giữa trời.

Khi đặt xong, hỏi Ngài cho biết phải vái làm sao?

Ngài nói: Thì để cúng vái người ta.

Danh từ “người ta” quá tổng quát, nên có người hỏi lại cho rõ nghĩa hơn. Ngài không trả lời, đi thẳng lên bàn hương án, nói trổng:

– Thôi! có hưởng rồi thì đi đi. Đừng có phá người ta.

Thế là hết bịnh, cô năm Mang được cứu khỏi.

Đoàn lữ hành tiếp tục đi thẳng lên Chợ Vàm và ghé nhà Hương Hào Phỉ là một gia đình đã qui ngưỡng theo Ngài từ khi Ngài mới ra đời mở đạo.

2. Khi vào nhà Hương Hào Phỉ, Ngài đi thẳng lên lầu. Nên biết lúc bấy giờ, còn dưới thời Pháp thống trị, mọi hành vi của Ngài đều bị lính kín theo dõi. Ngài lên lầu là cốt để tránh cặp mắt dòm ngó của công an và tránh cho những người đến tiếp xúc không bị làm khó dễ.

Ngài ngũ đêm nhà ông Phỉ. Đêm đó, Ngài thuyết pháp để thức tỉnh anh em tín đồ hiểu rõ sứ mạng của Ngài trong cơ hoại diệt của buổi Hạ nguơn mà quyết chí tu hành vẹn tròn đạo nghĩa hầu có:

Trả cho rồi nợ tiền khiên,

Đến ngày hiệp mặt Kiểng Tiên vui vầy.

Ngoài số tín đồ, Ngài còn tiếp một số nhà giáo do Ông Diệp Hồng Tỏ giới thiệu và nhứt là Thầy Ba Thận, một lão nho đã có lần đem thơ định thử Ngài nhưng chưa kịp đem ra thì Ngài đã đáp trước.

Đêm nay, cảm tình ông đến thăm, Ngài có cho hai bài thơ khích lệ như sau:

Đêm vắng mà sao cảm quá dài,

Văn nhu lão trưởng tiếng bi ai.

Tầm nơi yếu lý câu huyền diệu,

Thương thảm cho đời thưởng huệ mai.

                       o0o

Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền,

Dặm trường tới viếng mượn ngòi nghiên.

Tỏ tình yêu quí người lương thiện,

Trông đợi ngày kia khỏi xích xiềng.

 

Chương V: Sứ mạng

 

Nhận thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời trị bịnh một cách mầu nhiệm, thuyết pháp, cho bài thi cùng viết Sấm Giảng một cách phi phàm, người đời càng tọc mạch tìm hiểu xuất xứ của Ngài. Có người đường đột làm thơ hỏi Ngài là ai? Như trong phần thi họa, ông Huỳnh Hiệp Hòa ở Bình Thủy làm thơ hỏi Ngài có phải là Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám không thì Ngài đáp lại một cách khéo léo trong đó cho biết Ngài là ai, nhưng phải tinh ý lắm mới thấy được, vì bài thơ ấy làm bằng Hán văn.

Đến như ông Lương Văn Tốt ở Mỹ Hội Đông thì đường đột hơn, hỏi tách bạch bằng thơ Việt, danh hiệu của Ngài, như mấy vần sau đây:

Mộ đạo ơn trên chưa hiệu danh,

Xin ông phân cạn chúng nghe rành.

Thì Ngài đáp lại ngay:

Vưng lịnh Phật tôn chưa hiệu danh,

Ngặt vì pháp luật khó phân rành.

Cứ theo đó thì sự giáng phàm của Ngài, hẳn có sứ mạng, sắc lịnh nhưng vì hoàn cảnh không thuận tiện nên chưa có thể bộc lộ đó thôi.

Thật ra, theo Ông Thanh Sĩ, các đấng siêu phàm một khi xuống trần, nếu thật là bực chơn chánh, có mạng lịnh thì luôn luôn khiêm tốn và kín đáo, không hề xưng danh hiệu. Bởi theo Ông Thanh Sĩ, hễ xưng thì thế nào cũng xọp, nhứt là hạng không chơn chánh, không có sứ mạng thì ưa xưng danh hiệu, xưng một cách lớn lối, lố bịch.

Phàm ở đời, những thứ thiệt thì ít khi bày khoe; chỉ có thứ giả mới sợ người đời không biết nên hay giả danh, lòe loẹt. Thứ thiệt dầu không bày khoe, trước sau gì, vàng y vẫn là vàng y, còn thứ xi thứ giả thì trước sau gì cũng phai màu, tróc lớp sơn phết.

Dầu không xưng hô, nhưng nếu ta tinh ý, theo dõi hành vi ngôn ngữ của họ mà ta nhận là chơn thuần mỹ thì đó là phần chơn chánh: hay đọc kỹ những gì các đấng ấy viết ra, ta cũng tìm được xuất xứ cùng cấp bực của vị siêu phàm ấy không khó.

Ai biết chữ Hán, khi đọc hai câu sau đây của Đức Huỳnh Giáo Chủ đáp ông Nguyễn Kỳ Trân tức Chín Diệm ở Định Yên:

Trình mỗ ngộ kim giai Cổ địa,

Xích mi hải hội luật trừng thiên.

Hay hai câu của Ngài đáp ông Huỳnh Hiệp Hòa ở Bình Thủy sau đây:

Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,

Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

Thì chúng ta biết rõ Ngài là ai rồi. Dầu vậy cũng chưa rõ bằng khi chúng ta đọc Sấm Giảng hay thi văn của Ngài, có nhiều đoạn Ngài không giấu giếm.

Xuất xứ.– Ngài không ngần ngại cho biết xuất xứ của Ngài ở cõi nào xuống, ý chừng Ngài muốn tăng trưởng đức tin, hay đánh tan sự nghi ngờ của người đời còn do dự chưa cả quyết đặt trọng lòng tin tưởng vào sự giáo độ của Ngài hầu sớm tu hành để khỏi bị đọa sa trong thời kỳ hoại diệt.

Có lẽ vì thế mà Ngài cho biết Ngài có ngôi vị bên Tây phương Cực lạc:

Bồng Lai, Điên lại có ngôi.

Tây phương Cực Lạc, Khùng ngồi tòa sen.

Vì thương xót vạn dân đến hồi tai ách nên đành lìa bỏ cảnh thơm tho của mùi sen báu xuống trần cứu thế độ dân:

Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc,

Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.

Ấy vì thương trăm họ vạn dân,

Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

Trong bài họa lại bài ông Tùng ở Cái Đầm, Ngài cũng xác nhận là ở Tây Phương, vì yêu dân chúng mà xuống trần:

Cũng biết càn khôn vẫn một bầu,

Tây phương yêu chúng chẳng ngồi lâu.

Ngài không nở yên vui nơi cõi Cực Lạc khi mà thế gian còn lầm than lao khổ:

Nếu thế gian còn chốn mê tân,

Thì ta chẳng yên vui Cực Lạc.

Nhứt là được lịnh của Thiên hoàng nên phải lìa chín phẩm ngọc tòa, lâm phàm giả dạng Khùng Điên truyền đạo lý, như một đoạn sau đây trong bài ” Để chơn đất Bắc”:

Liên hoa chín phẩm ở Ngọc Tòa,

Được lịnh Thiên hoàng nấy sai Ta,

Hạ giới dạy khuyên truyền đạo lý,

Giả dạng Điên Khùng mượn thi ca.

Lãnh sắc lịnh. Phương chi Ngài giáng trần kỳ nầy lo do nhiều sắc lịnh.

Ngài chịu lịnh của Phật A Di Đà:

Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,

Đức Di Đà truyền mở đạo lành;

Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,

Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.

Và truyền dạy ở miền Nam Việt Nam:

Khùng vưng lịnh Tây phương Phật Tổ,

Nên giáo truyền khắp cả Nam Kỳ.

Hay là:

Hạ nguơn sanh chúng ám u,

Tây phương sắc lịnh vân du Nam Kỳ.

Và chịu mạng lịnh của Phật A Đi Đà nên giáo pháp của Ngài truyền dạy, chuyên chú vào pháp môn Tịnh độ:

Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,

Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.

Do đó, sứ mạng của Ngài đều qui vào việc dắt dìu sanh chúng về cõi Tây phương Cực Lạc:

Chí toan gieo giống Bồ Đề,

Kiếm người lương thiện dắt về Tây phương.

Ngoài sắc lịnh của Phật A Di Đà, Ngài còn lãnh Sắc chỉ của Đức Phật Thích Ca, như Ngài thổ lộ:

Ta vì vưng sắc lịnh ngọc tòa.

Đền Linh Khứu sơn trung chịu mạng.

Và giáo pháp mà Ngài lãnh phổ truyền không riêng ở Nam Kỳ mà khắp thế giới:

Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,

Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp.

Ngài tự nhận là đệ tử của Phật Thích Ca:”Tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca“, và thổ lộ:

Ta là kẻ vô hình hữu ảnh,

Ẩn xác phàm gìn đạo Thích Ca.

Mối đạo mà Ngài lãnh sứ mạng giáo truyền là một nền đạo vô vi, khác lối âm thinh sắc tướng của Thần Tú. Thế nên với mục đích hưng truyền hay xương minh đạo Phật, Ngài không ngớt kêu gọi và khuyên dứt:

Khuyên sư vãi mau mau cải hối,

Làm vô vi chánh đạo mới mầu;

Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,

Hãy tìm kiếm cái không mới có.

Vì vậy mà Ngài chủ trương: Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú.

Và Ngài xuống trần đây là nối theo chí của Phật Thích Ca:

Ta thương đời len lỏi xuống trần,

Đạo vô vi của Phật ân cần,

Nối theo chí Thích Ca ngày trước.

Đồng thời với sắc lịnh của Phật Thích Ca, Ngài còn lãnh Chiếu của Ngọc Hoàng Thượng Đế, như Ngài đã viết:

Cúi đầu tâu lại cửu trùng,

Ngọc Hoàng ban chiếu lão Khùng giáo dân.

Hay là:

Lời văn tao nhã hữu tình,

Bởi vưng sắc lịnh Thiên đình sai Ta.

Vừa lãnh chiếu của Ngọc Đế, vừa vưng sắc lịnh của Phật Tổ:

Thừa vưng sắc lịnh của Trời,

Cùng ông Phật Tổ giáo đời khuyên dân.

Ngoài lịnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngài còn chịu lịnh của Phật Vương:

Điên nầy vưng lịnh Phật Vương,

Với lịnh Phật đường đi xuống giảng dân.

Ngài nói rõ lịnh Phật Vương qui định cho Ngài những việc gì, như đoạn văn Ngài viết sau đây:

“Phật Vương đã chỉ rõ máy diệu huyền chuyển lập Hội Long Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ thiện căn để giáo truyền Đại Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc Hòa Bình cho vạn quốc chư bang”.

Ngài cũng còn chịu lịnh của Đức Quan Âm như Ngài đã viết:

Quan Âm Nam Hải Phổ Đà,

Cùng Thầy ra lịnh nên Ta giáo truyền.

Hay là:

Lịnh Quan Âm dạy biểu Khùng troàn (truyền),

Cho bổn đạo rõ nguồn chơn lý.

Thiên chức của Đức Quan Âm là tầm thanh cứu khổ, nhứt là trong giai đoạn khổ ách nầy, chúng sanh càng phải nhờ đến phép huệ linh của Ngài cứu an bá tánh.

Nói tóm lại, Đức Huỳnh Giáo Chủ xuống trần kỳ nầy chịu tất cả mạng lịnh của 5 vị: Đức Phật A Di Đà để phổ truyền pháp môn Tịnh độ, Phật Thích Ca để hưng truyền Chánh pháp Vô vi; Ngọc Hoàng Thượng Đế để lập bảng Phong Thần; Đức Phật Vương để lập Hội Long Hoa chọn người hiền đức đưa qua cõi Thượng nguơn an lạc và Quan Âm Nam Hải để cứu độ chúng sanh trong thời kỳ đầy khổ ách của buổi Hạ nguơn sắp chấm dứt.

Nhiệm vụ. Với những sắc lịnh cùng chiếu chỉ truyền dạy lâm phàm, Ngài phải hoàn thành một trọng trách hết sức to tát có thể tóm lược một số trong mấy nhiệm vụ trọng yếu như sau:

1. Chấn hưng Phật pháp: Từ ngày chư Tổ bặt truyền y bát đến nay, chơn pháp của Phật bị người đời làm sai tinh nghĩa nên thành ra một ngày một suy đồi. Vì vậy, Ngài lâm phàm lần nầy là để hoàn thành sứ mạng chấn hưng Phật pháp như Ngài đã viết:

Phận tớ xác phàm tớ sẽ vưng,

Cúng dường cho Phật, Phật đành ưng.

Dù cho phải chịu ngàn cay đắng,

Cũng nguyện đạo mầu sẽ chấn hưng.

Hay là:

Lòng thương lê thứ đáo Ta bà,

Thừa chuyển pháp luân dụng khuyến ca.

2. Cứu độ chúng sanh khỏi sông mê bể khổ– Sứ mạng chánh yếu của Ngài là cứu độ chúng sanh bằng nhiều phương tiện, như Ngài đã viết:

Thấy biển khổ đâu an lòng đặng,

Xông thuyền ra cứu vớt chúng sanh.

Hay là:

Ta quyết lòng rứt nợ oan khiên,

Cứu bá tánh khỏi nơi lao khổ.

Hoặc là:

Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,

Ra tay tế độ dắt lần về ngôi.

3. Chỉ đường về Tây phương Cực Lạc. Với phương tiện thứ nhứt của sự cứu độ là bằng pháp môn Tịnh độ mà Ngài đã thọ lãnh của Phật A Di Đà, Ngài quyết chỉ đường cho chúng sanh về Tây phương Cực Lạc, hưởng quả bất sanh bất diệt như Ngài đã bày tỏ:

Tìm Cực Lạc, Đây rành đường ngõ,

Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu.

Tận thế gian còn bao lâu,

Mà chẳng chịu làm tròn nhơn đạo.

Hay là:

Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh,

Đây chỉ đường Cực Lạc Vãng sanh.

Hoặc là:

Chí toan gieo giống Bồ đề,

Kiếm người lương thiện dắt về Tây Phương.

4. Tìm con lành hay tạo hiền đức để dự Hội thi sang qua đời Thượng nguơn an lạc, đó là phương tiện thứ hai của sự cứu độ, như Ngài nhắc nhở:

Khoa tràng lịnh mở hội thi,

Nên ta xuống bút dạy thì trần gian.

Chớ mình hồn dựa lâm san,

Thảnh thơi còn xuống thế gian làm gì?

Ước mơ thượng cổ hồi qui,

Thế trần no ấm phú thi an nhàn.

Hay là:

Khuyên trong lê thứ trẻ già,

Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho.

Hoặc là:

Kẻ hiền đức sau nầy được hưởng,

Phép thần linh của Đức Di Đà.

Hay tìm con lành:

Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện,

Tìm con lành dắt lại Phật đường.

5. Lập Hội Long Hoa. Phương tiện thứ ba của sự cứu độ là Ngài lãnh lịnh của Đức Ngọc Đế lập bảng Phong Thần hầu phong tước cho những người có lòng trung nghĩa, như Ngài đã thổ lộ:

Thân bần tăng mặc bộ sòng nâu,

Cuộc thiên lý một bầu đã hản.

Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,

Trên đài cao gọi các linh hồn.

6. Ông Thanh sĩ cũng nhận Đức Thầy có sứ mạng lập bảng Phong Thần:

Khuyên đừng có lắm phân vân,

Không Thầy cái Hội Phong Thần ai phong.

7. Đưa người đến Bồng Lai Tiên Cảnh. Phương tiện thứ năm của sự cứu độ là đưa người đến Bồng Lai Tiên cảnh hay cõi Thượng nguơn an lạc, như Ngài đã xác nhận:

Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn,

Cảnh non Bồng kỳ hẹn ngày kia.

Hay là:

Ước mong dân khỏi nạn tai,

Dắt dìu Tiên cảnh Bồng Lai nhiều người.

Hoặc là:

Khuyên dạy dân tinh minh đạo đức,

Tu hành được thấy cảnh Bồng Lai.

Và ngày nào đó: chèo thuyền đến Bồng Lai thì ngày ấy Ngài mới thảnh thơi, hoàn thành sứ mạng:

Quyết chèo thuyền đến chốn Bồng Lai,

Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão.

8. Trừ con nghiệt thú. Ngoài sứ mạng cứu độ ngườii hiền, Ngài còn lãnh nhiệm vụ trừ con nghiệt súc trong ngày âm dương biến động như Ngài cho biết trước:

Con sông nước chảy vòng cầu,

Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.

Chừng ấy nổi dậy phong ba,

Có con nghiệt thú nuốt mà người hung.

Đến chừng ấy thú phục tùng,

Bá gia mới biết người Khùng là ai?

Và Ngài cũng lãnh sứ mạng thâu con long ác ngiệt:

Thâu cho được con long ác nghiệt.

Thì khắp nơi mới biết mến yêu.

9. Cầm cân thưởng phạt. Ngoài sứ mạng cứu độ chúng sanh, và trừ loài ác nghiệt, Ngài còn lãnh sứ mạng đại diện công lý cầm cân thưởng phạt kẻ lành dữ theo luật nhân quả báo ứng, như Ngài đã báo tin:

Lão đây vưng lịnh Phật tôn,

Lãnh câu thưởng phạt chư môn dữ lành.

Hay là:

Có ngày mở rộng qui khôi,

Non Thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân.

10. Tá quốc an bang. Ngoài ra Ngài còn sứ mạng tá quốc an bang, xây dựng sơn hà, tạo nền hạnh phúc cho nhơn sanh trong ngày Thượng Nguơn hồi phục, như Ngài đã tiết lộ:

Một tay tá quốc an bang,

Nước nhà vững đặt Hớn đàng hiển vang.

Trên đây là mười trách nhiệm trọng yếu mà Ngài phải đảm phụ và thực hiện trong kỳ chuyển kiếp lần nầy. Một khi hoàn thành sứ mạng, Ngài mới trở về ngôi vị cũ.

Nói tóm lại, sứ mạng của Ngài có thể đúc kết làm mấy điểm như sau:

1. Chấn hưng hay xương minh chánh pháp

2. Cứu độ chúng sanh bằng cách:

– Chỉ đường về Tây phương Cực Lạc bằng Pháp môn Tịnh Độ.

– Đào tạo hạng người hiền đức hầu có đủ điều kiện dự Hội Long Hoa, sống còn đời Thượng nguơn an lạc.

– Cứu rỗi các phần hồn đưa vào bảng Phong Thần,

– Đưa người đến Bồng Lai Tiên Cảnh hay cõi đời Thượng nguơn bằng con đường tu Tứ Ân hay Tu Nhân đề làm tròn nhân đạo.

3. Trừ ác thú.

4. Cầm cân thưởng phạt kẻ lành dữ trong ngày lập Hội hay ngày phán xét cuối cùng.

5. Tá quốc an bang trong ngày Thượng nguơn xây dựng.

Chí nguyện. Để hoàn thành sứ mạng cao cả của chư Phật giao phó, Ngài đã thệ nguyện, như các Đại Bồ Tát hay Phật xưa đã thệ nguyện trước khi thực hành một sứ mạng cao cả.

Như Đức Phật A Di Đà đã phát 48 lời nguyện để thành lập cõi Cực Lạc làm nơi an trụ cho những ai muốn vãng sanh về cõi của Ngài hầu đắt quả vô sanh hay bất thối.

Đến trường hợp của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế, Ngài lập thệ rất lớn làm nơi y cứ hầu có vững bước trên con đường hoàn thành sứ mạng dầu phải chịu gian nan nguy khốn:

Cảnh thiên trước thơm tho nồng nặc,

Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.

Ấy vì thương trăm họ vạn dân,

Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

Chỉ một chí hướng quyết độ đời mà thôi:

Dầu cho xoay chuyển đất trời,

Lòng ta chí dốc độ đời mà thôi.

Dầu phải chịu đắng cay, chẳng quản thân danh khổ lụy:

Thân danh chẳng quản chông gai chi sờn.

Thương đời phải chịu đắng cay,

Dầu phải làm thân lươn lấm lem bùn trịnh:

Tớ với Thầy nào quản thân lươn,

Muốn cứu thế sá chi bùn trịnh.

Dầu đời bạc đãi cũng quyết nêu cao ngọn đèn chân lý soi đường minh thiện cho bá tánh hết tối tăm:

Quản chi lực kém tài hèn,

Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.

Chí nguyện của Ngài là độ tận chúng sanh:

Một lòng nguyện độ tận chúng sanh.

Mặc tình trước sự ghét ưa của sanh chúng:

Quyết lòng độ tận trong sanh chúng,

Ai ghét ai ưa cũng mặc tình.

Hay là:

Có sông có núi cùng cây cỏ,

Độ tận chúng sanh khỏi dại khờ.

Ngài sẵn sàng gánh chịu mọi tai nàn thế giới, sau bớt nỗi khổ đau với những người có tâm lành quyết lòng tu tỉnh:

Nhìn dân châu lụy ủ ê,

Biết bao trút hết gánh về Ta mang.

Mang cho hết tai nàn thế giới,

Kẻ tâm lành bớt đợi chờ trông.

Hoặc là:

Nghiêng hai vai gánh nặng non sông,

Với trăm họ lầm than bể khổ.

Ngài sẵn sàng uống cho đời chén thuốc cay:

Hay vì sanh chúng còn lao lý,

Nguyện uống cho đời chén thuốc cay.

Và sẵn sàng chịu khổ cho bá tánh: Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh.

Có thể nói, cao cả nhứt là lời thệ nguyện: ngày nào thế gian còn đau khổ thì ngày ấy Ngài chẳng riêng vui nơi cõi Tịnh độ:

Nếu thế gian còn chốn mê tân,

Thì Ta chẳng yên vui Cực Lạc.

Và khi nào nền Đại Đạo được khai thông, đuốc từ bi được rọi khắp, bể trầm luân đã khô cạn thì ngày ấy Ngài mới đành trở về ngôi vị cũ:

Nếu chừng nào khai thông Đại Đạo,

Đuốc từ bi rọi khắp dương gian.

Bể trầm luân khô cạn sáu đàng,

Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh.

Câu thệ nguyện nầy thật là lớn lao to tát, sánh không khác câu thệ nguyện của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Tôi từ ngày nay cho đến tột đời vị lai không biết bao nhiêu số, quyết vì những chúng sanh tôi khổ ở trong sáu đường mà thi thiết nhiều phương tiện khiến cho giải thoát được hết, rồi thân tôi đây mới thành Phật đạo”

Bản nguyện bi thiết ấy được viên mãn là khi nào cõi Địa ngục bị xóa bỏ, cũng như bản nguyện của Đức Huỳnh Giáo Chủ được giải thệ là khi nào cõi thế gian khô cạn sáu nẻo luân hồi.

Cái ngày mà chúng sanh hết còn trầm luân trong bể khổ ấy, tức là ngày thế gian hết phiền não, ngày Chúa vững ngai vàng trong cõi Thượng Nguơn Thánh Đức thì ngày đó Ngài mới rời cảnh tục trở lại cảnh Tiên:

Chúa vững ngai vàng, Sãi mới yên,

Rời ngay cảnh tục trở về Tiên.

Chẳng còn tham luyến nơi trần thế,

Vì cả thế gian hết não phiền.

Chí nguyện của Đức Huỳnh Giáo Chủ, xem đó, thật là bi thiết, thật là vĩ đại, chỉ hàng Đại Bồ Tát mới phát hoằng thệ nguyện như thế.

Chương VI: Lưu cư

 

ĐỘNG CƠ. Gần gót một năm ra cứu đời, dùng huyền diện của Tiên gia độ bịnh, ra thi thơ Sấm Giảng thức tỉnh người đời, nhứt là những người có căn tu hành theo Đức Phật Thầy Tây An, đã nhận chân Đức Huỳnh Giáo Chủ là một vị siêu phàm giáng trần có sứ mạng cứu dân độ thế, nên qui ngưỡng một ngày một đông, gây thành một phong trào khá lan rộng, khiến nhà cầm quyền để ý đến, bèn cho mật thám theo dò la, nhưng chưa vội can thiệp.

a) Động cơ thứ nhứt. Có nhiều sự việc đáng làm cho chúng e ngại, lo ngại nhứt là số tín đồ mỗi lúc mỗi tăng một cách kinh khủng.

Và điểm đáng lo ngại khiến nhà cầm quyền Pháp đi đến quyết định an trí hay lưu cư Ngài là những điểm sau đây:

Trong Sấm Giảng có những câu bộc lộ huyền cơ làm cho chúng nghi là Ngài có mưu định Cần Vương hay chủ trương phục hồi đế nghiệp.

Để đáp ứng sự đòi hỏi của tín đồ quá đông đảo, Sấm Giảng phải in thành sách, chớ không thể chép tay hay đánh máy như lúc ban sơ. Nhưng muốn in, nhà in đòi hỏi phải có giấy phép của sở kiểm duyệt. Như có lần anh em đem kiểm duyệt, nhà cầm quyền giữ lại một thời gian, vì có những câu chúng không chấp thuận. Nếu bằng lòng sửa chữa lại, chúng mới cho phép in. Những điểm chúng kiểm duyệt là những câu nói về Thánh Chúa.

Chẳng hạn như câu:

Chẳng qua là Nam Việt vô vương,

Nên tai ách xảy ra thảm thiết.

Sau phải sửa lại:

Chẳng qua là Nam Việt vô duơn,

Nên tai ách xảy ra thảm thiết,

Hay những câu nói về thiên cơ:

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,

Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Sau phải sửa lại:

Hết đây rồi đến dị kỳ,

Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Hay là câu:

Để gặp chúa ngồi mà than khóc,

Gỡ làm sao hết rối thì về.

Sau phải sửa lại:

Để gặp Phật ngồi mà than khóc,

Gỡ làm sao hết rối mà về.

Cũng như trong bài Ngũ nguyện, về câu nguyện thứ nhứt:

“Nam mô nhứt nguyện cầu: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhơn hoàng Long Hoa hải hội, Thượng Phật từ bi, Minh Vương trị chúng, thế giới bình an”.

Sau phải sửa lại:

“Nam mô nhứt nguyện cầu: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhơn hoàng, Liên hoa hải hội, Thượng Phật từ bi, Phật vương độ chúng, thế giới bình an”.

Ngoài ra, chúng còn cho lính theo dõi và chép được những bài chưa in ra, nhưng được truyền tay, truyền khẩu nhau có tánh cách chống Pháp.

Chẳng hạn như bài Bánh mì:

Mì kia gốc phải nước mình không?

Nghe thấy rao mì thốt động lòng.

Chiếc bánh não nùng mùi khách lạ,

Bát cơm đau đớn máu ông cha.

Văn minh những vỏ trưng ba mặt,

Thắm thía tim gan ứa mấy dòng.

Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,

Say mì lắm kẻ bán non sông.

Bài nầy chưa mấy rõ nghĩa chống Pháp bằng bài “Cờ tam sắc”

Tam sắc cờ bay phất phới mà!

Ngồi nhìn nhớ kỹ héo lòng ta.

Thuở xưa đâu có cờ tam sắc,

Gặp cảnh vong bang ứa ruột ra.

Về bài “Cờ tam sắc”, Đức Thầy cảm thấy thế nào cũng bị bọn gia nô của Pháp bắt bí nên chi Ngài sửa lại để đánh lạc hướng đám “chó săn chim mồi”. Ngài sửa lại như vầy:

Tam sắc cờ bay phất phớ mà

Ngồi nhìn khoăn khoái cõi lòng ta.

Thuở xưa đâu có cờ tam sắc,

Nay hiệp Tây Đông thể ruột rà.

Quả thật, sau đó tay sai của Pháp đến muốn nghe bài thơ ấy, nhưng cụt hứng khi nghe một tín đồ đọc lại bài thơ đã sửa chữa.

Mặc dầu sách in được kiểm duyệt, các bài truyền khẩu được lột bỏ những điểm chống Pháp, nhưng những khoản kiểm duyệt cũng như những bài truyền khẩu có tánh cách chống Pháp được kết tập thành hồ sơ kể cả những cuộc đối đáp của Đức Huỳnh Giáo Chủ với những người đến tiếp kiến, những ý kiến được xem là bài Pháp hay phục hồi đế nghiệp hoặc phục quốc cũng được chúng sưu tầm và mật báo tất cả. Chẳng hạn như câu Ngài đáp một người hỏi Ngài tại sao tu mà còn để tóc, không thế phát như các nhà sư thì Ngài đáp một cách khí khái: Vì tôi không muốn để người ta cạo đầu.

Danh từ “cạo đầu” được bọn gia nô diễn dịch là có ý bất phục đối với nhà cầm quyền bảo hộ.

Sở Liêm phóng cho sưu tập những tư tưởng “phản nghịch” ấy lập thành hồ sơ, và sau khi nghiên cứu, chúng đi đến kết luận: Đức Huỳnh Giáo Chủ là người khá nguy hiểm và nền Đạo của Ngài là một tổ chức “chống Pháp” trá hình tôn giáo rất nguy hại cho an ninh, chánh sách thực dân thống trị. Do đó mà chúng quyết định an trí Ngài.

b) Động cơ thứ hai. Ngoài tài liệu thu thập trong Sấm Giảng có tánh cách chống Pháp, còn có việc Ông Đạo Tưởng nổi loạn ở Tân Châu cũng là một động cơ khiến nhà cầm quyền Pháp quyết định lưu cư Đức Huỳnh Giáo Chủ để ngừa hậu hoạn.

Như kỳ đăng sơn thứ tư, khi còn ở trên núi Tà Lơn, Đức Thầy có nói với Biện Đài lý do tại đâu phải về. Lý do đó là vụ Đạo Tưởng nổi loạn ở Tân Châu. Và khi về đến Cần Giọt được nghe tài xế và lơ xe chạy đường Châu Đốc và Cần Giọt tường thuật vụ Đạo Tưởng giết người tế cờ rất rõ. Vụ ấy xảy ra như sau:

Ông Đạo Tưởng tên thật là Lâm Văn Quốc, cũng gọi Đạo Quốc, có lập một am để tu tại xã Long Phú cách quận lỵ Tân Châu độ một cây số ngàn. Ông tự nhận là môn phái của Bửu Sơn Kỳ Hương gốc Thất Sơn và qui tụ một số tín đồ khá đông.

Một hôm, ông tự xưng là Minh hoàng và phong tước cho một số môn đệ, nào là chức Vương, Quốc sư, Nguyên soái, Tiên phong, Đô đốc, chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa phục quốc. Ông huấn luyện võ nghệ, cho rèn gươm đao và khoe có phép làm súng bắn không nổ.

Thế rồi đêm mùng 8 rạng ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn, Ông phát động cuộc khởi nghĩa. Hành động đầu tiên là giết người để tế cờ. Con vật được ông chọn hy sinh là gia đình Hương tuần Hiếm bị nghi làm tay sai cho Pháp. Sau khi bố trí châu đáo, bọn ông vây nhà và bắt vợ chồng Hương tuần Hiếm chặt đầu làm lễ tế cờ, gây thành một cuộc náo loạn kinh hoàng tại Tân Châu.

Nhà cầm quyền Pháp bèn cho lính đến đàn áp. Đạo Tưởng và đồng bọn tin ở tà thuật làm cho súng bắn không nổ nên hiên ngang đem gươm giáo ra chống cự. Rốt cuộc súng vẫn nổ và bọn Đạo Tưởng đều bị bắn hạ; kết quả năm bảy mạng bị giết và gần 30 người bị bắt.

Thế là màn xưng bá đồ vương của Đạo Tưởng chấm dứt.

Cuộc rối loạn do một nhóm người tự nhận là tu hành, là môn phái Bửu Sơn Kỳ Hương gây ra làm cho nhà cầm quyền Pháp có thái độ cứng rắn đối với Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Để tránh hậu hoạn, một cuộc nổi dậy của tôn giáo, tương tự như vụ Đạo Tưởng, nhứt là đã có tài liệu chứng thật Đức Huỳnh Giáo Chủ có tinh thần chống Pháp và đạo của Ngài thu hút tín đồ không thể tưởng tượng, có thể nguy hại cho chế độ thực dân thống trị. Nên chi bọn thực dân quyết định dời Ngài ra khỏi tỉnh Châu Đốc và an trí ở một nơi khác.

a) Đi Châu Đốc. Quyết định nầy được mật báo cho quận trưởng Tân Châu lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Lễ. Ông nầy có bà vợ là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Sau khi được chồng cho biết ý định của người Pháp, bà Lễ liền chiều ngày mồng 10 tháng 4 Canh Thìn đi xe ngựa xuống Chợ Vàm cho ông Huỳnh Hữu Phỉ hay cái hung tin ấy.

Ông Phỉ cấp tốc đi xe đạp xuống Hòa Hảo cho Đức Thầy hay để có lo toan cách ứng phó. Ngài rất thản nhiên, trong lúc anh em tín đồ đều lo âu, sợ cho Ngài phải bị tai họa đến lụy thân khổ xác.

Ngài tươi tỉnh nói để trấn an mọi người: không có gì mà phải sợ. Không ai làm hại được Thầy đâu. Anh em cứ an tâm. Mặc dầu Ngài nói vậy, chớ toàn thể tín đồ đều lo ngại.

Qua ngày sau tức ngày 12 tháng 4 năm Canh Thìn vào lúc 7 giờ, nhà cầm quyền Pháp đến Hòa Hảo chở Ngài đi Châu Đốc, vội vã đến đỗi không kịp cho Ngài thay đồ hay mang hành trang theo. Lúc bấy giờ Ngài mặc áo không túi nên cái giấy thuế thân, Ngài đành lấy giấy gói lại rồi cầm trong tay.

Khi đến Châu Đốc, vài giờ sau, vâng theo lịnh của cấp trên, nhà cầm quyền địa phương cho chở Ngài rời khỏi tỉnh, thay vì đưa xuống tỉnh Long Xuyên, chúng lại đưa xuống tỉnh Sa Đéc, cách tỉnh Châu Đốc một tỉnh, ý chừng họ muốn đoạn hẳn liên lạc với quê nhà tưởng nơi xa lạ khó truyền giáo và thu hút tín đồ hơn.

Đứng trước sự dời Ngài đi đột ngột như thế anh em tín đồ đều ngơ ngác, đến rơi lệ, chỉ nhìn theo chớ không làm sao hơn được, trước sự rào đón, ngăn chặn hăm he của chánh quyền.

b) Đến Sa Đéc. Đến Sa Đéc, Ngài được đưa đến sở mật thám, lúc bấy giờ do ông cò Bazin điều khiển. Gặp lúc ông nầy đi vắng, bà vợ người Việt có tâm mộ đạo, đối xử rất tử tế. Đến khi cò Pháp về, bèn hỏi Ngài có phải Ngài là tác giả mấy quyển Sấm Giảng không? Ngài nhận chính tay Ngài viết. Viên cò không tin với sức học của Ngài có thể sáng tác nổi, nên chỉ muốn thử Ngài. Nếu thật ông viết thì ông thử viết cho tôi coi.

Ngài không ngần ngại đem giấy mực ra viết bài “Sa Đéc” trước mặt viên cò Bazin, rồi đọc cho ông cò nghe.

Trong bài nầy Ngài tỏ bày nỗi lòng bi cảm đối với anh em tín đồ trong những dòng thống thiết như sau:

Muốn lập đạo có câu thành bại,

Sự truân chuyên của khách thiền môn.

Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,

Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh.

Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,

Chạm lợi quyền giàu có cạnh tranh.

Bước chông gai đường đủ sỏi sành,

Đành tách gót lìa quê hương dã.

Ta cũng chẳng lấy chi buồn bã,

Bởi sự thường của bực siêu nhơn.

Dầu gian lao dạ sắt chẳng sờn,

Miễn sanh chúng thông đường giải thoát.

Cơn dông tố mịt mù bụi cát,

Chẳng nao lòng của đấng từ bi:

Vì Thiên Đình chưa mở hội thi,

Nên Lão phải phiêu lưu độ chúng.

Kẻ ác đức cho rằng nói túng,

Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương.

Xe rồ xăng vụt chạy bải bươn,

Đến khuất dạng tình thương náo nức.

Khắp bá tánh chớ nên bực tức,

Bởi nạn tai vừa mới vấn vương.

Chốn Liên Đài bát ngát mùi hương,

Nhờ chỗ ấy mới thi công đức.

Đọc xong, viên cò Pháp phải nhận Ngài là một thiên tài xuất chúng và cho về ngụ nhà ông Phán Đặng.

Tưởng đến Sa Đéc, Ngài sẽ dừng chơn ở yên để tiếp tục cuộc hóa độ, đáp lại lòng mong cầu của mọi người, chớ có dè đâu nhà cầm quyền ở đây thấy ảnh hưởng của Ngài quá lớn, thu hút người khắp nơi tấp nập kéo đến, nên quyết định cấm Ngài truyền đạo. Thế là Ngài lên đường đi tỉnh khác, tùy Ngài chọn lựa.

Hay tin, anh em tín đồ rất lo buồn, nhưng theo Ngài thì đó là một dịp cho Ngài phổ thông rộng rãi mối đạo.

Ta còn thương, thương trò lịu địu,

Chớ cũng mừng được dịp phổ thông.

Mà cũng là cơ thử thách của tạo hóa đề xem người hành đạo có vững chí làm theo lời Ngài chỉ dạy hay không?

Việc khó khăn lắm lúc khôi hài,

Ấy cũng bởi thày lay ông Tạo.

Ông nhồi quả cho người hành đạo,

Lúc nguy nàn thối chí cùng chăng ?

Nếu bền lòng vị quả cao thăng,

Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật Thánh.

c) Đến Cần Thơ. Được tin nhà cầm quyền Sa Đéc ra lịnh trục xuất Ngài, ngày 17 tháng 4 Canh Thìn anh em tín đồ đem xe đến đưa Ngài xuống Cần Thơ, rồi cô Hai Gương thỉnh Ngài về ở nhà Hương Bộ Võ Mậu Thạnh là cậu của cô ở làng Nhơn Nghĩa, rạch Sua Đủa, cũng gọi là kinh Xà No.

Đến đây Ngài được ở yên nên khởi lại việc cho thuốc, cho thi bài, tiếp tục cuộc hoằng hóa như hồi còn ở Hòa Hảo. Nhân việc phát phù trị bịnh, Ngài còn làm một bài thơ về giấy vàng có hàm ý tiên tri sự biến đổi thời cuộc.

Giấy vàng nay đã giá cao tăng,

Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn.

Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc,

Chủ nhà quét tước lượm lăng xăng.

Trong thời gian lưu cư tại Nhơn Nghĩa, Ngài sáng tác và thi họa cũng nhiều. Số tín đồ thâu nhận cũng khá đông, như Ngài đã viết:

Nhân dân bá tánh cũng con lành,

Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh.

May mắn vận thời đưa đến chốn,

Tiền khiên dẹp gát kiếm con lành.

d) Vào bịnh viện Chợ Quán.– Nhận thấy ảnh hưởng ở đây cũng vang dội và thu hút tín đồ một cách phi thường, nhà cầm quyền không muốn cho Ngài hoạt động nữa. Như đã biết, Ngài được tự do chọn lấy chỗ lưu cư do đó Ngài đưa đơn xin đi Bạc Liêu.

Thế là ngày 29 tháng 6 năm Canh Thìn, Ngài từ giã Nhơn Nghĩa, nhưng khi ra đến Cần Thơ, nhà cầm quyền giữ Ngài lại và đưa vào bịnh viện Chợ Quán lấy cớ khám nghiệm coi Ngài có mắc bịnh thần kinh không?

Khi vào đây, ban sơ chưa ai biết Ngài. Ngay như viên lương y cai quản bịnh viện là ông Trần Văn Tâm cũng ngộ nhận nên mới nói bỡn khi gặp Ngài: Ở ngoài xé hết bao nhiêu giấy thuế thân của người ta rồi? Nhưng khi thấy cử chỉ của Ngài đoan trang và số tín đồ đến thăm quá đông mới nghi Ngài là ông Đạo.

Ông bèn đem những điều đọc trong một quyển sách Pháp về đạo Phật mà ông còn thắc mắc đến chất vấn thì được Ngài giải đáp một cách tinh thông, khiến ông phải ngạc nhiên đến khâm phục. Càng kính phục hơn nữa là khi Ngài cho thấy điều huyền diệu, như một hôm ông vào phòng Ngài thì thấy một cụ già đầu râu bạc phiếu nằm trên giường. Ông tưởng đi lộn phòng, bèn trở ra để tìm phòng, nhưng khi định tỉnh xem lại số phòng quả quyết chính là phòng của Ngài, nên quày trở vào thì lạ thay, thay vì ông lão khi nãy lại là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Chừng đó ông mới hoàn toàn tín phục, xin thọ giáo qui y. Nhờ vậy Ngài tiếp tục công việc hoằng hóa dễ dàng. Mỗi ngày người đến xin thuốc, cũng như hàng thức giả đến hỏi đạo và qui ngưỡng càng lúc càng đông.

Trong lúc ở bịnh viện, có một việc đáng nêu ra là trường hợp của anh gác cửa. Anh nầy lúc đầu tỏ ra khó khăn đối với anh em tín đồ đến thăm. Anh có một người mẹ đau mắt, chữa nhiều thầy mà không khỏi, khi nghe Ngài chữa bịnh kỳ diệu thì đưa mẹ đến. Ngài chỉ cho một chai nước lã về nhỏ, thế mà khỏi bịnh. Anh đem lòng khâm phục, gọi Ngài là Phật sống. Từ đó trở đi, anh đối xử rất cảm tình với anh em tín đồ không làm khó khăn như trước.

Trong thời gian ở Chợ Quán, Ngài viết nhiều bài vở, nhưng đáng kể là quyển “Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền” và quyển “Khuyến Thiện” chỉ rõ tận tường pháp môn Tịnh độ.

Hơn một năm cầm giữ Ngài để thí nghiệm, có thể do sự báo cáo của Bác Sĩ Tâm, nhà chức trách thấy Ngài không có gì tỏ ra mắc bịnh thần kinh, nên xét theo lời xin trước kia khi Ngài ở Xà No, bèn chấp thuận cho Ngài lưu cư về Bạc Liêu.

Và có thể nhận thấy tại Chợ Quán, nơi phồn hoa đô hội có nhiều phần tử thức giả qui ngưỡng nên sợ ảnh hưởng của Ngài lan rộng cả vùng Saigon Chợ Lớn, Gia Định, vì vậy mà định dời Ngài đi chỗ khác. Xét lại Bạc Liêu là một tỉnh ở mút miền Nam nước Việt lại là tỉnh, phần đông dân cư thuộc thành phần lai Miên lai Tàu, chuyên việc buôn bán, nếu đưa Ngài đến đó khó mà gây ảnh hưởng sâu rộng được.

Mặc dầu chấp nhận dời Ngài về Bạc Liêu nhưng nhà cầm quyền còn cố giữ lại trong một tuần lễ để giao cho sở mật thám dò xét. Họ đưa Ngài vào bót Ca-ti-na (Poste Catinat) ngày 11 tháng 5 Tân Tỵ (1941).

Đến ngày 19 nghĩa là sau 8 ngày giam giữ, Ngài mới lên đường đi Bạc Liêu.

đ) Đến Bạc Liêu. Ngài định đến ngụ tại nhà ông Hội Đồng Điều như Ngài đã dự tính khi ở Nhơn Nghĩa, nhưng nhà cầm quyền không chấp thuận bảo Ngài chọn chỗ khác, cố ý làm khó dễ nhứt là làm ngược lại ý định của Ngài.

Trong số anh em tín đồ ở đây, có bà Cò tàu Hảo đóng vai trọng yếu. Bà đến thương lượng với ông bà Võ Văn Giỏi, cựu thơ ký soái phủ Nam Kỳ thì được ông bà sẵn sàng nghinh tiếp. Ngài đến trình với Công an và được chấp thuận với điều kiện là không được: phát phù trị bịnh, thuyết pháp độ nhơn và mỗi tuần, vào ngày thứ hai phải đến trình diện Công an một lần.

Nhơn đó, Ngài có làm ba bài thơ tức cảnh như sau:

Việc chi mà phải đi trình báo,

Mỗi tháng bốn kỳ nhọc cẳng Ông.

Đợi máy huyền cơ xoay đến mức,

Tính xong cuộc thế lại non Bồng.

                       ***

Thứ hai hừng sáng mưa tầm tã,

Lính đứng ngoài đường giục giã Ông.

Kiếp khách trần gian vay lắm nợ,

Để đền trọn nghĩa với non sông.

                        ***

Người cười người nhạo bảo Ông điên,

Ông chẳng giận ai cũng chẳng phiền.

Chỉ tiếc trần gian đùa quá vội,

Chưa tường Điên tục hay Điên Tiên.

Vì cấm đoán đến viếng thăm, anh em tín đồ không vào cửa được, đành đứng lóng nhóng bên ngoài rồi về, tạo thành tiếng đồn đến nhà cầm quyền. Hơn nữa theo sự dò xét của công an cũng thấy đúng sự thật nên từ đó sự canh phòng cũng lơi đi. Nhờ vậy Ngài tiếp xúc được nhiều nhân sĩ và hào phú đến vấn an qui y, trong số ấy được biết: ông Cả Hốt (tức Dương Vĩnh Phước), ông bà Chung Bá Khánh, ông bà Võ Văn Giỏi… trở thành tín đồ thuần thành.(1)

_______________________________________________________________________

(1). Cũng trong thời gian nầy (năm 1942), tác giả ra mắt Đức Thầy và được Ngài tiếp kiến từ 7 giờ sáng đến 2 giờ trưa, khi thấy dọn cơm mới bái tạ lui ra.

Trong thời gian ở Bạc Liêu, Ngài sáng tác rất nhiều bài vở, nhứt là lối tản văn, giải bày về giáo lý nhà Phật, như Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Diệu Đế…

Cũng nên nói qua tình hình trong lúc nầy. Quân đội Nhựt đã vào Đông Dương và lấn dần quyền hành của chánh phủ thuộc địa Pháp. Người Nhựt cho chiêu mộ người Việt vào quân đội. Có một số người Việt hưởng ứng, gia nhập hàng ngũ và được đưa về Đông Kinh huấn luyện, khi thành tài trở lại hoạt động nơi nước nhà với ý định hợp tác với quân Nhựt gở ách nô lệ, lấy lại chủ quyền quốc gia.

Trong hàng ngũ những người ái quốc ra hợp tác với quân Nhựt, có tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Hẳn họ có bổn phận phải cứu Đức Thầy ra khỏi sự kềm kẹp của người Pháp, nên vận động với nhà binh Nhựt ở Sài Gòn và được sự chấp thuận.

Vả lại, người Nhựt nhận thấy Phật Giáo Hòa Hảo có một khối tín đồ to tát ở miền Nam, có thể lợi dụng lòng yêu nước của họ trong công cuộc hạ Pháp, nếu thi ơn giải cứu được vị Giáo Chủ của họ. Như thế sẽ mua chuộc được cảm tình của khối quần chúng đông đảo nầy.

Mưu định giải cứu Đức Thầy có thể nhà cầm quyền Pháp dò biết, nên chúng định lưu cư Ngài qua Ai Lao. Nhưng chúng chẳng dè quân Nhựt lại ra tay trước.

Sở Hiến Binh Nhựt bèn phái ông Kimura cùng đi với một vài tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo xuống Bạc Liêu rước Ngài về Sài Gòn trong đêm mồng 2 tháng 9 năm Nhâm Ngọ (11-10-1942).

Vì đi đêm lại không rành đường nên tài xế lái xe đi đường về Cà Mau, đến Tắc Vân xe hư máy. Ông Kimura phải mượn xe của Bang trưởng Triều Châu chạy trở lại Bạc Liêu rồi thẳng đường về Sài Gòn. Vì vậy mà Pháp hay tin kịp.

e) Về Sài Gòn. Nhưng xe vừa đến ngã ba Trung Lương (Mỹ Tho) thì gặp xe công an chận lại. Vì thế xảy ra tai nạn đụng xe làm cho ông Lâm Thơ Cưu theo hầu Ngài bị thương ở sóng mũi, còn Ngài chỉ bị thương xoàng. Công an Pháp cho điệu tất cả về Sài Gòn. Hay tin nầy nhà binh Nhựt can thiệp và phản kháng kịch liệt. Bọn Pháp giành bắt Đức Thầy còn nhà binh Nhựt thì quyết giựt lại viện cớ Đức Thầy có liên lạc với Trùng Khánh. Trước sự can thiệp quyết liệt của nhà binh Nhựt, bọn Pháp đành nhượng bộ. Thế là Đức Thầy được giải cứu. Nhà binh Nhựt đưa Ngài về phòng Thương Mãi (Hội trường Diên Hồng) lúc bấy giờ là cơ sở của Hiến Binh Nhựt. Ngài lưu lại đây trong vòng hai tháng rồi dọn về số 148 đường Lefèvre, hiện nay là đường Nguyễn Công Trứ, phía sau Thượng Nghị Viện. Sau đó ít lâu dọn qua căn số 150 kế đó cho đến ngày Nhựt đảo chánh Pháp.

Từ khi quân Nhựt giải cứu Đức Thầy và đem Ngài về ở tại phòng Thương Mãi, trong vòng bảo vệ của Hiến Binh Nhựt, thì quân Pháp khởi sự khủng bố tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo vì chúng cảm thấy số phận của chúng lâm nguy nếu để quân đội Nhựt lôi cuốn được sự hợp tác của khối tín đồ đông đảo nầy.

Nhiều nơi tín đồ bị bắt bớ, những người có uy tín ở Lục tỉnh phải tầm đường ẩn lánh lên Sài Gòn nhờ sự che chở của Đức Thầy. Vì vậy mà Ngài phải dành cả căn phố cho anh em tá túc. Về thực phẩm thì anh em ở Lục tỉnh thường xuyên tiếp tế.

Có hôm, sau khi dùng cơm trưa, anh em nằm nghỉ, Đức Thầy bước qua thấy anh em nằm sấp lớp không khác gì tằm trong nông thì nói rằng: Có khác gì tằm đâu, khi ăn dâu no rồi thì nằm nghỉ. Nhưng đây là thứ tằm không kéo kén.

Đây là những anh em hữu phước được Đức Thầy chở che nên thoát khỏi sự khủng bố của quân Pháp.

Chỉ thảm thương cho một số anh em khác, vì không kịp thoát thân nên bị quân Pháp bắt và đày đi. Người lên Bà Rá, kẻ ra Côn Đảo. Có một số lớn đã bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc hay gởi xương ngoài Côn Đảo. Trong bảng “Những Thánh tử Đạo” nên ghi nhớ những tên Ông Cả Đô, Ông Cả Từ, ông Dương Thiện Tứ tự Sừ.

Trong lúc tá túc tại nhà ở đường Lefèvre, có một số anh em tín đồ, vì chờ mãi thời cuộc mà không thấy biến chuyển nên đâm ra chán nản, hoặc than trách hoặc bỏ đi.

Cũng có người tỏ ý không bằng lòng khi Đức Thầy để cho người Nhựt bảo vệ. Như thế sợ e mang tiếng ỷ lại vào ngoại bang thì Ngài có làm hai câu đối sau đây để tỏ ý chí bất khuất của Ngài:

Trương Tiên Tá Hớn phi thần Hớn,

Quan Thánh cư Tào bất đê Tào.

Mặc dầu chưa tung bay cất cánh, thỏa chí chim bằng, Ngài cũng bắt đầu tiếp xúc các nhà trí thức, nhứt là những nhóm ái quốc, thừa cơ hội uy thế của Pháp bị quân Phù Tang làm giảm hạ, đứng ra tập hợp hàng ngũ, tổ chức thành đoàn thể chánh trị, đương nhiên thân Nhựt. Trong số đó được biết nhóm ông Ngô Đình Đẩu, Trần Văn Ân… trong Ủy Ban Trung Ương Việt Nam Phục Quốc Hội, nhóm Việt Nam Thanh Niên Ái Quốc Đoàn của ông Đinh Khắc Thiệt.

Đối với đoàn Thanh Niên Ái Quốc, Ngài có phái ông Hồ Nhựt Tân đến tham gia các phiên họp để trợ trưởng tinh thần và tài chánh Ngài cũng có làm thơ tặng đoàn để khích lệ chí anh hùng, đề cao lòng yêu nước, trong những câu như sau:

Thanh niên nghĩa vụ phi thường,

Phận là phải biết yêu thương giống nòi.

Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại,

Của cọp rồng trên dãy đất ta.

Một khi cọp đã lìa nhà,

Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng?

Vậy anh em phải chung lưng lại,

Dùng sức mình đánh bại kẻ thù;

Tỏ ra khí phách trượng phu,

Vung long tuyền kiếm tận tru gian thần.

Xưa nước đã bao lần khuynh đảo,

Được cứu nguy nhờ máu anh hùng;

Hy sinh báo quốc tận trung,

Đem bầu nhiệt huyết so cùng sắt gang,

Việt Nam là giống Hồng Bàng,

Muôn đời xa lánh tai nàn diệt vong.

Ngài không ngớt tiếp xúc và chuẩn bị hàng ngũ, vì Ngài tiên đoán cơ hội sẽ đến cho dân Việt Nam tranh đấu, giành lại chủ quyền đã mất trong tay Pháp ngót 80 năm nay. Ngày mà mọi người mong đợi ấy đã điểm. Đó là ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhựt đảo chánh Pháp, ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ chấm dứt giai đoạn ràng buộc bước sang giai đoạn công khai hoạt động đấu tranh.

                                    Chương VII: Vận-động độc-lập 

Ngay khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9-3-1045, chánh quyền Nhựt lên thay thế chánh quyền Pháp, các đảng phái quốc gia được tự do hoạt động. Đức Huỳnh Giáo Chủ, để ứng phó với tình thế mới, bèn đưa ra một tổ chức tranh đấu lấy tên là Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội.

ĐỘC LẬP VẬN ĐỘNG.– Đứng trước việc thay đổi đột ngột tình hình nước nhà, có hai việc khẩn cấp cần phải làm: một là ngăn chận mọi sự trả thù trong dân chúng; hai là phải tổ chức hàng ngũ đấu tranh.

1. Ngăn chận các cuộc trả thù.– Trong thời kỳ Pháp thuộc, bọn thực dân thi hành một chánh sách hết sức hà khắc đối với nhân dân, nhứt là những phần tử yêu nước. Phụ họa theo bọn tham tàn cướp nước, còn có một đám tay sai, đành cam tâm làm tôi tớ cho ngoại địch vì một chút lợi danh, đem thân làm những việc bỉ ổi, sâu dân mọt nước, giết hại đồng bào. Đó là những hạng cường hào ác bá trong hương thôn và đám chó săn chìm mồi ngoài thành thị.

Ỷ lại thế lực thực dân che chở, chúng đã gây nên bao nhiêu tội lỗi trong nhân dân, kết thành thù oán, nhỏ nhặt thì là thù oán cá nhân, lớn hơn thì là thù oán giữa tộc họ làng nước.

Một khi cơ cấu đàn áp bị phá vở, đương nhiên sức đối kháng sẽ chỗi dậy. Để thỏa mãn thù oán cá nhân, nhiều cuộc giết hại, thanh toán đã xảy ra.

Để ngăn chận mọi hành động trả thù riêng, như đốt phá nhà cửa, hoặc trộm cướp, sát nhân, làm rối trật tự, có hại cho sự kiến thiết “quốc gia”, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tha thiết kêu gọi lòng “từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh khoan hồng đại độ” đối với hạng người lầm đường lạc lối, gây nên lắm tội tình, và đồng thời khuyên tất cả đồng bào muốn tỏ ra xứng đáng là “Một người dân một nước tự do thì hãy quên hết những mối thù hềm ganh ghét, đừng bày ra cái họa nồi da xáo thịt khiến cho ngoại nhân khinh bỉ một dân tộc như dân tộc Việt Nam ta đã có nhiều tấm lòng nhân hậu và những trang lịch sử vẻ vang”.

Lời kêu gọi ấy đã cứu được bao nhiêu giọt máu đổ ra, chẳng những giữa đồng bào với đồng bào mà còn giữa đồng bào với ngoại chủng, chẳng phụ lời kêu gọi tha thiết đầy lòng đạo đức từ bi của Ngài: “Trước kia chúng nó hà khắc ta, chúng đã đành; ngày nay ta hà khắc lại, sao đành. Vì lòng chúng nó đầy sự hung tàn, còn lòng ta lại đầy nhân ái”.

2. Đoàn kết và tổ chức.– Hành động thứ hai của Ngài là đồng thời với sự ngăn chận mọi cuộc trả thù còn phải thực hiện cho được sự đoàn kết giữa các giới đồng bào để tranh đấu cho sự độc lập nước nhà.

Để thực hiện cuộc đoàn kết ấy, Ngài cho ra đời một tổ chức mệnh danh là Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội, kêu gọi các từng lớp nhân dân thuộc thành phần: trí thức Việt Nam, các bạn thanh niên, các nhà thương mãi, nông gia, thợ thuyền, các cụ đồ nho, các nhà sư hãy cùng nhau đoàn kết thành một lực lượng vận động cho cuộc độc lập quốc gia.

Trong bảng hiệu triệu, Ngài có viết:

“Gần ngót trăm năm nay đồng bào trải biết bao cay đắng, lớp kẻ thù giày đạp, lớp quan lại tham ô, vì thế nên người dân Việt Nam gánh vác biết bao nhiêu sưu thuế nặng nề. Kẻ thù đã lợi dụng chánh sách ngu dân để nhồi sọ quần chúng, gây mầm chia rẽ Bắc, Nam, Trung, phá rối sự đoàn kết, hầu mong cho cuộc đô hộ được vĩnh viễn trên giải non sông đất nước mà Tổ Tiên ta phải biết bao máu đào mới gầy dựng được.

“Vả lại từ trước cho đến nay các bực anh hùng, các nhà chiến sĩ khắp ba kỳ đã bao phen vùng vẫy chống lại quân thù mong gầy dựng lại nền Độc lập cho quê hương đất Việt”.

“Nhưng than ôi ! chỉ vì thiếu khí giới tối tân, chỉ vì sơ đường luyện tập mà giọt máu anh hùng đành hòa với bao nhiêu giọt lệ, khóc phút sa cơ, để lại cho người đồng thời và cho đoàn hậu thế muôn vàn tiếc thương ân hận”.

Rồi Ngài kêu gọi:

“Hỡi đồng bào Việt Nam!”

“Chúng ta đã bước và đang bước đến một khúc nghiêm trọng trên lịch sử. Giờ đây ta đã có thêm nhiều đặc quyền lo lắng đến cái giang san gấm vóc của Tổ Tiên ta di truyền lại.

“Vận động cuộc Độc Lập!

“Vận động cuộc Độc lập!

“Phải! Toàn quốc phải liên hiệp vận động cho cuộc Độc lập. Đấy là cái chủ trương duy nhứt của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội”.

Sau ngày đảo chánh 9-3-1945, mọi giới đồng bào, nhứt là các nhà trí thức đều tỏ vẻ lạc quan, tin chắc theo lời hứa hẹn của quân đội Nhựt, nước Việt Nam sẽ tuyên bố hoàn toàn độc lập.

Phương chi, sau ngày đảo chánh Pháp, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam là một nước Độc lập, hủy bỏ tất cả hòa ước đã ký với Pháp, nhứt là có chánh phủ Trần Trọng Kim là một chánh phủ của một quốc gia độc lập thì còn gì phải vận động nữa, như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã chủ trương.

Trong một cuộc lễ mừng ngày độc lập, tổ chức tại vườn Ông Thượng tức vườn Tao Đàn, nhiều chánh khách lấy làm lạ sao Đức Thầy còn đưa ra lời Hiệu triệu kêu gọi đồng bào các giới tham gia Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội để cùng nhau “vận động cuộc độc lập” cho quốc gia thì Ngài có cho biết rằng: Việt Nam chúng ta chưa độc lập đâu. Cần phải tích cực vận động mới mong thực hiện được.

Lời nói của Ngài quả thật không sai. Cuộc chiến tranh dai dẳng kéo dài một phần tư thế kỷ, gieo tang tóc cho đất nước, đau khổ cho đồng bào, đủ xác nhận lời nói của Đức Huỳnh Giáo Chủ là lời tiên tri, biết trước thời cuộc.

ĐI KINH LÝ.– Sau cuộc đảo chánh ngày 9-3-1945, tình hình trở nên bất ổn ở các tỉnh do sự thay đổi đột ngột chánh quyền từ tay người Pháp qua tay người Việt. Nhiều nơi dân chúng chống lại viên quan người Việt mới nhậm chức, vì lẽ quan ấy đã gây lắm tội tình trong thời kỳ Pháp thuộc. Có nơi, bộ máy an ninh sụp đổ vì các viên chức Pháp bị bắt cầm tù, nên xảy ra lắm trò cướp bóc, giết người vì thù oán cá nhân.

 

Nhà binh Nhựt bèn yêu cầu Đức Thầy về các tỉnh miền Tây để trấn an dân chúng cùng xếp đặt việc trị lý cho có qui mô, bởi chúng biết ảnh hưởng của Ngài ở Hậu Giang và chỉ có Ngài mới đủ uy tín dàn xếp.

Ngài nhận thấy cũng là cơ hội cho Ngài thăm anh em tín đồ nhứt là Thánh Địa Hòa Hảo, Đức Ông Đức Bà đã xa cách tính ra gần sáu năm, và cũng là dịp cho Ngài soát lại cơ cấu của nền Đạo hầu chấn chỉnh lại cho phù hạp lại với sự đổi mới của đất nước.

Ngài khởi hành hồi 2 giờ rưỡi chiều ngày mồng 9 tháng 2 năm Ất Dậu, nhằm ngày 22-3-1945. Sau đây là lộ trình của cuộc kinh lý:

Ngày 9-2 Ất Dậu rời Sàigòn, ghé Mỹ Tho, Cái Lậy, Vĩnh Long và đến Cần Thơ. Ngài ở đây ba hôm mới đi Long Xuyên.

Ngày 13-2 Ất Dậu (nhằm ngày 26-3-1945) đến Long Xuyên và nghỉ ở đây một đêm.

Sáng ngày 14-2 Ất Dậu (nhằm 27-3-1945) đi Châu Đốc và ở đây một đêm.

Sáng ngày 15-2 Ất Dậu (28-3-1945) về Hòa Hảo thăm thân sinh và ở đây một ngày.

Ngày 16-2 Ất Dậu (29-3-1945) đi Long Xuyên và ở đấy 2 ngày.

Sáng ngày 19-2 Ất Dậu (1-4-1945) đi về Sài Gòn có ghé Sa Đéc.

Sau cuộc kinh lý Hậu Giang của Đức Thầy người Nhựt thấy uy thế của Ngài rất lớn ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Ngài đi đến đâu đều được khối tín đồ hùng hậu nghinh tiếp nhiệt liệt, nên có ý lo sợ lực lượng quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo có thể làm trở ngại chương trình Liên – Á của quân Phiệt Nhựt; vì vậy họ có ý muốn Đức Thầy đứng trên vị trí tôn giáo hoạt động hơn trên địa hạt chánh trị. Có lẽ vì thế mà chương trình của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội không thực hiện.

                             Chương VIII: Tổ-chức hàng-ngũ 

Đức Thầy vẫn biết tham vọng của quân phiệt Nhựt muốn thực hiện cái ác mộng làm chủ Đông Á, như Ngài đã thấy thâm tâm của họ, khi chiếm Đông Dương hay Tân Gia Ba, thay vì tuyên bố cho các phần đất thuộc địa nầy được độc lập, giao trả quyền cai trị lại cho bổn xứ, họ lại thi hành chánh sách “dịch chủ tái nô”, nghĩa là họ thay thế địa vị của bọn thực dân cũ để xây dựng chế độ thực dân mới của họ.

Đức Thầy vẫn biết tham vọng ấy nên chi đã thổ lộ tâm tư trong hai câu đối:

Trương Tiên tá Hớn phi thần Hớn,

Quan Thánh cư Tào bất đê Tào.

Ngài sở dĩ đi với Nhựt là để khỏi bị Pháp mưu hại mà thôi. Ngài sống với Nhựt cũng như Quan Công xưa kia sống với Tào Tháo trong lúc thất thủ để chờ cơ hội thoát ly.

Phương chi Ngài biết trước thời cơ, thế nào quân Nhựt vận số cũng không chịu nổi cuộc phản công của Đồng Minh hết năm Dậu (1945) nên chi trong một bữa ăn đãi quan Nhựt, nhằm ngày 30 tức ngày chay lạt, mà Ngài cho làm gà. Có người tín đồ nhắc Ngài thì Ngài nói: người Nhựt ăn không hết nửa con gà.

Như vậy Ngài đã biết trước Nhựt không tồn tại hết nửa năm Dậu (1945). Ngài đã thấu rõ máy huyền cơ nên chi Ngài âm thầm lo liệu để kịp kỳ ứng phó với thời thế.

BAN TRỊ SỰ PHẬT-GIÁO-HÒA-HẢO.– Từ ngày Đức Thầy ra đời cho đến khi bị đưa đi lưu cư, không có khoảng thời gian nào rỗi rảnh để cho Ngài sắp xếp nền Đạo thành một tổ chức có qui mô, hệ thống. Mãi cho đến khi được đưa về Sài Gòn, nương náu trong vòng bảo vệ của Hiến Binh Nhựt, nghĩa là từ ngày dời về căn nhà ở đường Lefèvre, Ngài mới được rãnh trí để lo sắp xếp nội bộ: Tổ chức các Ban Trị Sự.

Mặc dầu gọi là Ban trị Sự và nền Đạo nên danh là Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng về tổ chức chưa dựa vào điều lệ hay nội qui nào. Ngài chọn lựa trong hàng tín đồ thuần thành những người có đạo hạnh và uy tín trong vùng rồi chỉ định hoặc làm Hội Trưởng Tỉnh bộ, Quận bộ hay Thôn bộ. Người được chọn sẽ tùy tiện giới thiệu thêm người khác. Thành thử trong Ban Trị Sự không có con số nhứt định.

Đó là tình trạng các Hội trưởng trong Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo hồi lúc Đức Thầy còn bị ràng buộc nương náo trong vòng bảo vệ của Hiến Binh Nhựt.

Do sự tổ chức rời rạc ấy mà trong lúc Đức Thầy đi kinh lý miền Tây, cuộc tiếp rước không được nhứt trí và xảy ra những điều phiền toái làm cho Ngài khó xử trí khi có nhiều tín đồ giành nhau đón Ngài về nhà mình.

Đến nay được công khai hoạt động, nhứt là để chấm dứt tình trạng tổ chức rời rạc, Ngài mới nghỉ đến sự chỉnh đốn lại các Ban Trị Sự và tổ chức thành hệ thống.

Mặc dầu không có điều lệ, Đức Thầy cũng đã có ý niệm về hình thức Ban Trị Sự gồm có 1 Hội Trưởng, 1 Phó Hội Trưởng, 1 Thơ ký, 1 Thủ bổn, 1 viên tổ chức, 1 viên liên lạc, 1 viên tuyên truyền, một số kiểm soát và cố vấn.

Sau khi chỉnh đốn xong cơ cấu các cấp Tỉnh, Ngài mới nghĩ đến việc sắp xếp cơ quan Trung Ương. Cứ như được biết vào khoảng tháng 5 năm 1945. Ban Trị Sự Trung Ương được thành hình trong đó Đức Thầy giữ chức Chánh Hội Trưởng, còn ông Lương Trọng Tường chức Chánh Thơ Ký (1). Ngoài ra còn được biết quí ông Trần Văn Tâm, La Văn Thuận và một số nữa không nhớ tên, lãnh các chức vụ khác trong Ban Trị Sự Trung Ương.

______________________________________________________________

(1). Cứ như được biết Đức Thầy có cấp cho ông Tường giấy chứng minh chức Chánh Thư Ký, nhưng vài hôm sau thì thâu hồi.

VIỆT NAM PHẬT GIÁO LIÊN HIỆP HỘI.– Thật ra thì khi Ngài về ở căn nhà đường Lefèvre, Ngài đã dự thảo chương trình thống hợp các tông phái Phật Giáo thành một lực lượng lấy tên là Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội.

Trong bài Hiệu Triệu của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội, Ngài đã có lời kêu gọi thống nhứt giới tu hành theo Phật Đạo như sau:

Các bực Tăng Sư, Thiền Đức! Các Cụ có nhớ chăng? Trên lịch sử Việt Nam thời xưa, nhà Đại Đức “Khuông Việt” dầu khoác áo cà sa rời miền tục lụy, thế mà khi Quốc gia hữu sự cũng ra tay gánh vác non sông,

“Từ khi người Pháp qua chiếm đất ta, bề ngoài gọi rằng cho ta tự do tín ngưỡng; nhưng bên trong tìm đủ mọi cách âm thầm chia rẽ và phá hoại cho tín đồ nhà Phật không có sức đoàn kết chấn hưng hầu bài trừ cái lưu tệ dị đoan mê tín.

“Đã vậy lại không có cơ quan tuyên truyền thống nhứt, cũng chẳng có trường chung đào luyện Tăng Sư. Các cụ nên biết: hễ nước mất thì cơ sở của Đạo phải bị lấp vùi, nước còn nền Đạo được phát khai rực rỡ.”

Để cụ thể hóa sự đoàn kết, Ngài thành lập Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội với tôn chỉ liên hiệp các tông phái đạo Phật, các nhà Sư, các nhà trí thức có xu hướng về Phật Giáo, để:

1. Tìm cách nâng cao tinh thần đạo Phật.

2. Tìm những phương tiện cứu giúp kẻ nguy nàn vì thời cuộc hiện tại gây ra.

3. Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang tế.

4. Binh vực lẫn nhau trong sự tín ngưỡng tự do.

Để đạt mục đích trên, Hội sẽ tổ chức ba đặc ban:

   a) Ban nghiên cứu Đạo Phật gồm có những nhà Sư, những nhà thông thái để hằng ngày tra cứu kinh điển dịch sách hay viết sách nói về Đạo Phật.

   b) Ban Huấn luyện và truyền bá gồm các nhà Sư, cư sĩ trí thức hoạt động được hội phái đi các nơi giảng giải Đạo Phật cho đại chúng, hoặc giả mở trường dạy Đạo Phật.

   c) Ban chẩn tế gồm có các nhà hảo tâm thiện nam tín nữ hoạt động chuyên lo cứu giúp kẻ nghèo nàn đói khó, tật bịnh, hoặc giả thành lập các nhà dưỡng lão hay nuôi kẻ mồ côi người tàn tật.

Nếu có thể được, mua trữ thuốc men vải sồ, lúa gạo để dành cho cuộc phước thiện.

Vẫn tưởng Hội sẽ được các nhà Sư hưởng ứng, nhưng trái lại, vì tinh thần “riêng chùa riêng Phật” nên Hội đành chết non.

ĐI KHUYẾN NÔNG.– Bắt đầu từ năm 1944 trận thế chiến thứ hai trở nên ác liệt do Đồng Minh phản công thắng lợi ở mặt trận Thái Bình Dương. Việt Nam bị phong tỏa, hàng hóa không nhập cảng được trở nên khan hiếm đắt đỏ, trái lại lúa gạo vì không xuất cảng được nên mất giá rẻ mạt. Trong lúc đồng bào miền Bắc thiếu gạo ăn thì ở Sài Gòn người Pháp dùng lúa thế cho than chụm các nhà máy điện. Vì giá lúa quá rẻ, nông gia bắt đầu bỏ ruộng hoang, xoay qua làm nghề khác. Tình hình nông nghiệp lâm nguy.

Để cứu vãn tình thế, người Nhựt yêu cầu Đức Huỳnh Giáo Chủ đi khuyến nông, vì chúng biết Ngài có ảnh hưởng rất lớn vùng châu thổ sông Cửu Long là vùng đất phù sa màu mỡ, vựa lúa của miền Nam, trong lúc bình thường đã sản xuất chẳng những dư sức nuôi miền Trung miền Bắc mà còn thừa thải xuất cảng ra nước ngoài đem lại cho nước nhà một nguồn ngoại tệ rất lớn.

Thừa cơ hội nầy, Đức Thầy nhận lời đi khuyến nông trước là khuyến khích nông dân, sau là củng cố hàng ngũ. Hơn thế nữa riêng Ngài cũng cảm thấy có nhiệm vụ thiêng liêng đối với dân tộc, nên chi Ngài đứng ra cổ võ đồng bào miền Nam, ngoài việc tăng gia sản xuất còn chung sức, nào tiền nào gạo chở ra cứu giúp, và cũng là dịp cho Ngài thăm viếng khuyến miễn tín đồ bấy lâu xa cách.

Cuộc hành trình nầy được mệnh danh là cuộc Khuyến nông, kéo dài trong hai tháng, đi khắp các tỉnh miền Tây Nam Việt, diễn thuyết 107 nơi, số người đến nghe trùng trùng điệp điệp.

Bấy lâu có người mộ đạo đã tự qui y mặc dầu chưa hề gặp Ngài, cũng có người nghe danh cảm mộ mà không biết mặt, nay nghe tin Ngài về thì vô cùng hân hoan phấn khởi. Sự vui mừng của anh em tín đồ trong mong Ngài về không còn bút mực nào tả cho hết. Người ta dựng lên những cổng chào ở mỗi chặng đường và dài theo lộ đặt bàn hương án tỏ lòng kính mộ không khác quang cảnh khi rước sắc Thần trong làng. Trên đường Ngài đi qua, già trẻ nữ nam sắp hàng theo hai bên vệ đường làm thành hàng rào dài, đứng chực chờ cả ngày cả buổi, không quản nắng mưa miễn được chiêm ngưỡng dung nhan. Có điều làm cho mọi người cảm động là mỗi khi Ngài đi qua, nhiều cụ mừng đến rơi lệ dầm dề, nghẹn ngào chào mừng không nên tiếng.

Và một khi Ngài đi qua rồi thì anh em rùng rùng, hoặc đạp xe hoặc kéo bộ chạy theo tạo thành một quang cảnh tấp nập làm trở ngại cuộc lưu hành. Vì vậy mà Ngài ra lịnh, ai ở đâu thì tiếp rước ở đó, chớ không được qua vị trí khác. Mặc dầu có lịnh cấm, nhưng cũng có người khéo léo tìm cách đi trước, bằng đường thủy thay vì bằng đường bộ.

Vì số người đến đón quá đông nên cuộc tiếp rước phải tổ chức ở những nơi rộng rãi, thường là sân vận động, đình chùa hay rạp hát mới chứa hết.

Ở mỗi địa điểm tập hợp, người ta có dựng một diễn đài cao để cho mọi người ba bên bốn bề, dầu ở xa cũng trông thấy hình dáng, gương mặt hay bộ tịch của Ngài khi lên thuyết giảng.

Mặc dầu đông đảo không thể tưởng tượng, nhưng khi Ngài cất tiếng thì đâu đó đều lặng lẽ, cho nên dầu ở xa cũng nghe tỏ rõ. Ngài có một giọng nói thanh tao, trong trẻo, hấp dẫn lạ thường, vừa hùng hồn vừa truyền cảm. Ai nghe cũng xúc động, khi mủi lòng rơi lệ, lúc phấn khởi hân hoan.

Ngài nói thao thao bất tuyệt, ai ai cũng nhận Ngài có tài hùng biện, nói rất khỏe, nói không vấp, nói có mạch lạc, rất hấp dẫn. Có ngày, Ngài đăng đàn 5, 6 chỗ, nói ngót hai ba tiếng đồng hồ mà không thấy mệt, không tiếng khan. Mỗi ngày dời chỗ nhiều lần mà không nơi nào diễn giải giống nơi nào, dầu người với trình độ nào nghe cũng thích thú.

Vì Ngài ám thông tâm lý nên nói rất phù hạp mọi căn cơ, khi thì với giọng bình dị khi thì văn vẻ cao siêu. Do đó người nghe không thấy chán, mặc dầu đứng lâu 2, 3 tiếng đồng hồ, càng nghe càng thấy khoái cảm, say mê.

Với bất cứ đề tài nào, Ngài cũng nói trôi chảy, thông suốt từ cảnh đồng bào chết đói ngoài Bắc, hết sức thê thảm, qua những lời thiết tha kêu gọi nông dân nỗ lực cấy cày, đến những giáo lý cao siêu của nhà Phật, đề tài nào Ngài cũng diễn giảng thao thao bất tuyệt, nhả ngọc phun châu, càng lúc càng thu hút đông người đến nghe, đổ xô như nước lũ.

Trong thời gian “đi khuyến nông” có vài việc làm cho Ngài bực mình là anh em tín đồ tranh nhau rước Ngài về nhà riêng. Cho được công bằng, khỏi mất lòng người nầy, được lòng người khác, Ngài chỉ chấp nhận đến hội quán, bằng không thì đến ở nhà hàng.

Sau đây là lộ trình khuyến nông:

Khởi hành tại Sài Gòn ngày mồng 1 tháng 5 năm Ất Dậu, nhằm ngày 10-6-1945, đi thẳng xuống Cần Thơ rồi đến Cái Răng, Sóc Trăng, Bãi Xào.

Sau khi thuyết giảng tại Sóc Trăng và Bãi Xào, phái đoàn đến Bạc Liêu ngày mồng 6 tháng 5 năm Ất Dậu tức ngày 15-6-1945. Đến đây Ngài nghỉ ở nhà ông Võ Văn Giỏi.

Chiều ngày mồng 7 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài thuyết giảng tại đình Tân Hưng trong châu thành Bạc Liêu.

Ngày mồng 8 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài khuyến nông ở Vĩnh Châu và chiều lại thuyết giảng tại Sóc Đồn làng Hưng Hội.

Ngày sau tức ngày 9 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài đi thăm Linh Quang Tự của ông Chung Bá Khánh dựng trong đồn điền của ông ở làng Vĩnh Lợi và thuyết Pháp rồi nghỉ trưa ở đây. Chiều lại Ngài trở về nhà ông Võ Văn Giỏi ở Bạc Liêu. Trong thời gian ở Bạc Liêu, Ngài có đi Hòa Bình, Gia Rai và Cà Mau.

Ngày 12 tháng 5 năm Ất Dậu nhằm ngày 21-6-1945 phái đoàn từ giã Bạc Liêu đi Rạch Giá, trải qua Vị Thanh, Giồng Riềng, và đến Rạch Giá ngày 16 tháng 5 năm Ất Dậu, ở nhà ông Nguyễn Công Hầu.

Hôm sau, ngày 17 tháng 5 Ất Dậu, Ngài đi Cái Sắn, Tân Hội rồi trở về Rạch Giá, nghỉ hai ngày 19 và 20.

Ngày 21 tháng 5 năm Ất Dậu, Ngài đi Sóc Xoài và Ba Hòn bằng ghe máy.

Trong thời gian ở Rạch Giá, Ngài diễn giảng tại rạp Hòa Lạc và đến thăm đình thờ Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực và quan Phó Cơ Điều tại làng Vĩnh Thanh Vân trong châu thành Rạch Giá.

Từ giã Rạch Giá, phái đoàn đi Hà Tiên nơi đây có sẵn xe của ông Phán Hồ Viết Long và thầy thuốc Đỗ Văn Viễn chực chờ rước về Châu Đốc. Khi xe về gần tới Châu Đốc thì được tin Hà Tiên bị Đồng Minh dội bom. Ngài vừa ghé nhà ông Phán Long thì chợ Châu Đốc có báo động. Ngày ấy Ngài dùng cơm nhà thầy thuốc Viễn và nghỉ đêm ở đó.

Sáng hôm sau, Ngài thuyết giảng tại sân vận động. Trưa lại Ngài đi Bình Di thuyết giảng tại làng Khánh Bình.

Hôm sau Ngài thuyết giảng ở Tịnh Biên rồi bận về có ghé Xà Tón, Thới Sơn, Nhà Bàn. Khi tới núi Sam Ngài có viếng mộ Phật Thầy và tỏ ra buồn bực.

Ngày hôm sau, Ngài đến thuyết giảng tại chợ Cái Dầu làng Bình Long.

Bữa sau Ngài qua Tân Châu, thuyết giảng tại sân vận động, dùng cơm trưa nhà ông Quan Hữu Kim, rồi đi Hồng Ngự, thuyết giảng tại nhà Hương Sư Sô, Hội Trưởng Ban Trị Sự Quận Hồng Ngự. Chiều lại Ngài về tới Hòa Hảo ngày 20 tháng 5 năm Ất Dậu, nhằm ngày 5-7-1945.

Trên đường về Hòa Hảo, Ngài cho ghe máy ghé thăm ông Năm Hiệu. Ngài lên tới nhà thì ông Năm Hiệu đã tắt thở trước đó 10 phút.

Ngài dặn trong gia đình ngày mai (17-5-Ất Dậu) khi Ngài thuyết giảng ở Chợ Vàm về sẽ an táng.

Đêm về Hòa Hảo anh em tín đồ tựu lại đông đảo xếp hàng từ trong nhà Đức Ông ra đến đại lộ, lên đến Chợ Cái Tắc (Mỹ Lương), Đức Thầy phải đi bộ cho anh em thấy mặt qua ánh sáng của chiếc đèn “măng-sông” do một người xách theo.

Sáng ngày 27 tháng 5 Ất Dậu, Ngài diễn đài Chợ Vàm làng Phú An, tổ chức tại sân vận động. Buổi trưa Ngài dùng cơm tại nhà Hương Hào Phỉ.

Trên đường về, Ngài có ghé đưa linh cữu ông Năm Hiệu ra phần mộ.

Chiều ngày hôm đó, Ngài thuyết giảng tại đình Hòa Hảo.

Trong mấy ngày ở Hòa Hảo, Ngài có làm lễ đem lư hương từ Tổ Đình xuống chùa An Hòa Tự, nhằm ngày 30 tháng 5 Ất Dậu (15-7-1945)

Sáng ngày mồng 1 tháng 6 năm Ất Dậu, Ngài qua Năng Gù nơi đây có xe Ban Trị sự tỉnh Long Xuyên đón Ngài rước về tỉnh lỵ Long Xuyên, tới đây độ 11 giờ và ở trọ nơi khách sạn của tỉnh thành.

Ngày mồng 2 tháng 6 năm Ất Dậu, Ngài đi Vĩnh Trạch và Núi Sập.

Ngày 3 tháng 6 năm Ất Dậu Ngài đi thuyết giảng ở Chợ Mới.

Ngày 4 tháng 6, Ngài đi Mỹ Luông.

Ngày 5 tháng 6, Ngài đi Đốc Vàng, chiều trở về Mỹ Hội Đông. Sáng hôm sau Ngài thuyết giảng tại sân vận động của làng này rồi về Long Xuyên và thuyết giảng tại công sở làng Mỹ Phước (Châu thành Long Xuyên).

Ngày hôm sau Ngài đi Cái Sắn.

Hôm sau, Ngài đi Thốt Nốt và chiều trở về nghỉ tại Long Xuyên. Đến 11 giờ đêm, Ngài đi luôn về Cần Thơ để hôm sau thuyết giảng tại sân vận động.

Bữa sau, Ngài đi Xà No thăm Hương Bộ Thạnh rồi thuyết giảng tại Cái Tắc. Bữa sau nữa, Ngài đi khuyến nông tại Phụng Hiệp và Cái Răng. Và mấy ngày sau đó, Ngài đi thuyết giảng ở Trà Mơn, Ô Môn, Cờ Đỏ.

Sau Cần Thơ, Ngài đi Sa Đéc, Cao Lãnh, Vĩnh Long, Tam Bình, An Trường, Trà Vinh, Càn Long đến Bến Tre rồi trở về Sài Gòn.

Mặc dầu, cuộc khuyến nông kéo dài trong 2 tháng nhưng không nơi nào Ngài ở lâu. Ngài chỉ đi thoáng qua cho anh em tín đồ được trông thấy dung nhan của Ngài cho thỏa lòng bấy lâu mong ước. Tuy Ngài đã đi rồi, nhưng anh em vẫn ghi đậm hình dáng của Ngài vào tâm não, nhứt là lời vàng ngọc của Ngài đã khuyến giáo. Anh em đa số đều thuộc nằm lòng những đoạn trong bài khuyến nông và nông nả thi hành theo lời của Ngài tha thiết kêu gọi:

Giờ đây xem lại mùa màng,

Năm rồi miền Bắc tan hoang còn gì.

Chỉ có xứ Nam kỳ béo bở,

Cơ hội nầy bỏ dở sao xong.

Cả kêu điền chủ, phu nông,

Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.

Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,

No dạ dày là chước đầu tiên;

Nam kỳ đâu phải sống riêng,

Mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung.

Sau Hoặc là:

Kẻ phụ tá cũng trọng trách,

Cứu giống nòi quét sạch non sông;

Một phen vác cuốc ra đồng,

Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai;

Mưa nắng ai đâu nài thân xác,

Chí hy sanh dầu thác cũng cam;

Miễn sao cho cánh đồng Nam,

Dồi dào lúa chín gặt đem về nhà.

Chừng ấy mới hát ca vui vẻ,

Ai còn khi là kẻ dân ngu;

Không đem được chút công phu,

Không đem sức lực đền bù nước non.

Gởi một tấm lòng son nhắn nhủ,

Khuyên đồng bào hãy rũ cho đông ;

Nắm tay trở lại cánh đồng,

Cần lao nhẫn nại Lạc Long cổ truyền.

 

Sau 2 tháng đi khuyến nông về, đã có nhiều tai biến xảy ra tại Sài Gòn, khiến Ngài vô cùng bi thảm viết ra bài thơ sau đây diễn tả cảnh Đồng Minh dội bom tàn phá Sài Gòn:

Lìa Sài Gòn trong vòng hai tháng,

Khi lộn về tiệm quán tanh banh;

Bởi chúng pháo lũy phi hành,

Quăng bom mù quáng tan tành còn chi.

Động lòng của kẻ từ bi,

Tây phương tâu lại A Di Phật Đà.

Rằng bên thế giới Ta bà,

Chúng sanh tàn sát cũng là vì tham.

Di Đà mở cuộc hội đàm,

Cùng chư Bồ Tát quyết đam pháp lành.

Tịnh bình rước khắp chúng sanh,

Làm cho giác ngộ hiền lành như Ta.

Công đồng hoạch định san hà,

Nước ai nấy ở nhà nhà tự do.

Điều được biết là sau khi khuyến nông về. Ngài không lại căn nhà ở đường Lefèvre nữa mà đi thẳng lên biệt thự số 38 đường Miche (nay là đường Phùng Khắc Khoan) là nơi anh em tín đồ đã xếp đặt sẵn trong lúc Ngài đi Hậu Giang.

                           Chương IX: Chuẩn bị Đấu tranh 

Trong thời gian Đức Thầy đi khuyến nông tình hình quốc tế chuyển biến rất gấp, Sài Gòn liên tiếp bị oanh tạc; Đồng minh phản công thắng lợi khắp các mặt trận. Tin tức hàng ngày không ngớt loan báo Quân Mỹ hết chiếm đảo nầy đến chiếm đảo khác. Lực lượng của Nhật Hoàng mỗi ngày mỗi rút lui về căn cứ cuối cùng là quần đảo Phù Tang.

Sau cuộc khuyến nông. Đức Thầy trở về Sài Gòn vào khoảng cuối tháng 7 dương lịch. Cảnh tượng cho thấy quân Nhựt không còn sức kháng cự lâu dài, có thể đi đến đầu hàng như Đức Quốc Xã ở Châu Âu. Ngay trong ngày 26 tháng 7 năm 1945, các đài phát thanh Đồng Minh nhứt loạt phổ biến lời kêu gọi Nhựt đầu hàng vô điều kiện, theo quyết định của Tam cường tại Hội nghị Postdam vừa họp ngày 17-7-1945.

Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nhìn thấy trước thời cuộc nên chi đã thổ lộ trong câu “Nhựt không ăn hết nửa con gà” cũng như Ngài tổ chức Hội Vận động Độc lập thì hẳn Ngài phải tiên liệu mọi việc để kịp đối phó với biến chuyển sắp xảy đến.

Do đó khi đi khuyến nông về, Ngài liền bắt tay vào việc tổ chức các cơ cấu có tánh cách võ trang quân sự.

ĐỘI BẢO AN.– Ngài đã thấy trước Nhựt sẽ đầu hàng. Trong tình trạng nầy hương thôn sẽ trải qua một giai đoạn hỗn độn, vô trật tự hay có thể nói vô chánh phủ. Trước kia, khi Nhựt đảo chánh Pháp, đã chuẩn bị sẵn một bộ máy cai trị để thay thế, nhờ vậy mà giữ được an ninh trật tự, bởi bộ máy hành chánh được duy trì và tiếp tục hoạt động.

Nay nếu như Nhựt đầu hàng, bộ máy cai trị của Nhựt sẽ sụp đổ, trong lúc không có bộ máy cai trị hữu hiệu khác thay thế thì sao khỏi gây nên tình trạng rối loạn, vì cơ quan an ninh đã trở thành bất lực hay vô hiệu. Trong khoảng lê minh đó, chi cho khỏi xảy ra cướp bóc, giết hại do đám người thừa nước đục thả câu, gây nên để thỏa mãn dục vọng và thù oán cá nhân.

Để kịp thời ứng phó với cuộc biến chuyển sắp tới, điều hay nhứt là Đức Thầy đưa ra một tổ chức ưu tiên điều động quần chúng thành những Đội Bảo An với mục đích:

1. Giữ việc trị an trong làng để phòng ngừa trộm cướp, giải tán những cuộc ẩu đả, bắt các đám cờ bạc, giữ gìn trật tự.

2. Bảo vệ mùa màng.

3. Tìm bắt kẻ gian.

Cứ mỗi làng, tùy theo dân số nhiều ít mà tổ thành những Đội Bảo An, gồm những thanh niên thanh nữ, do một Đoàn trưởng chỉ huy. Cứ mỗi Tiểu đội có 1 Tiểu đội trưởng, mỗi Trung đội có 1 Trung đội trưởng. Tất cả đều đặt dưới quyền điều khiển của một viên Đoàn Trưởng.

Trong xã ấp, những nơi có vườn xoài, vườn tre, những nơi có bóng mát đều có lập sân tập võ, do một võ sư đứng ra huấn luyện. Ngoài các Đội Bảo An nam còn có các Đội Bảo An nữ, ngày đêm tập luyện võ thuật côn quyền và đao kiếm. Trên đường đi, ngày đêm không dứt tiếng đếm bước: một hai, một hai…, nhứt là những đêm trăng thanh, cảnh tượng tập dượt thật là nhiệt náo. Nam theo nam, nữ theo nữ, xếp thành hàng ngũ chỉnh tề, áo khăn đồng phục. Tinh thần thượng võ lên cao không lúc nào bằng.

Cũng nhờ các Đội Bảo An nầy, khi Nhựt đầu hàng mà làng xã trật tự được duy trì, an ninh được đảm bảo, nhứt là trong thời kỳ lực lượng kháng chiến rút lui, cơ quan hành chánh hoàn toàn sụp đổ.

ĐỆ TỨ SƯ ĐOÀN.– Sau việc thành lập Đội Bảo An một lực lượng bán quân sự, đoàn ngũ hóa nhân dân thành một lực lượng có nhiệm vụ bảo vệ hương thôn, Ngài còn thành lập lực lượng quân sự có nhiệm vụ to lớn hơn, là bảo vệ đất nước chống xâm lăng ngoại địch.

Sở dĩ Ngài gấp rút cho thành lập lực lượng quân sự là tình hình càng trở nên nghiêm trọng. Nhiều tin tức bất lợi dồn dập đưa đến.

Ngày 6 tháng 8 năm 1945 cả thế giới đều chấn động về quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống nước Nhựt. Có thể nói đây là lần đầu tiên trên lịch sử nhân loại, một quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống thành phố Quảng Đảo của Nhựt. Cả thành phố kỹ nghệ này trong nháy mắt bị hủy diệt bình địa với mấy trăm ngàn dân bị giết.

Ngày 7 tháng 8 năm 1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim xin từ chức toàn bộ nội các và được vua Bảo Đại lưu lại xử lý thường vụ.

Ngày 8 tháng 8 năm 1945, Nga tuyên chiến với Nhựt và xua quân vào chiếm Mãn Châu. Cũng trong ngày nầy, một quả bom nguyên tử thứ hai của Mỹ thả xuống thành phố Trường Kỳ một thành phố kỹ nghệ của Nhựt bị hủy diệt ra tro bụi với mấy trăm ngàn dân chết chẳng toàn thây.

Hai ngày sau tức ngày 10 tháng 8 năm 1945, Nhựt Hoàng triệu tập nội các phiên họp bất thường và khẩn cấp để quyết định xin đầu hàng Đồng Minh qua trung gian của Tòa Đại Sứ Thụy Điển.

Đứng trước những biến cố dồn dập xảy ra, cho thấy có thể đưa đến nhiều bất trắc cho Việt Nam, các đoàn thể tôn giáo cũng như chánh trị ở Sài Gòn khẩn cấp lo phòng bị để kịp thời ứng phó với tình hình, nhứt là về phương diện võ bị.

Trước tình cảnh của một chiếc thuyền sắp đắm, mọi người trên thuyền chỉ còn một phương pháp là mạnh ai nấy lội, tự lo lấy cách thoát thân (Sauve qui peut).

Đó là tâm trạng các đoàn thể và chánh trị ở Sài Gòn đã đồng ý nhau, mỗi đoàn thể tổ chức lấy một Sư đoàn, tự triệu tập lấy binh sĩ và sĩ quan, tự võ trang cũng như tự lo liệu lấy quân nhu hay tiếp tế.

Vấn đề khó nhứt là sĩ quan hay cấp bực chỉ huy, không thể một sớm một chiều mà tạo nên được, nhưng trong mỗi đoàn thể, thế nào cũng có người từng đi lính cho Pháp hay cho Nhựt và được thăng lên cấp bực sĩ quan, vì vậy mà sự thành lập sư đoàn phải dành quyền cho mỗi đoàn thể chiêu tập. Phương chi, trong thời kỳ Nhựt chiếm đóng Đông Dương đã có nhiều đoàn thể tổ chức quân sự để hợp tác với Nhựt chống Pháp. Nay chỉ còn tập hợp và hoàn bị lại tổ chức thành Sư đoàn thì không phải là khó.

Kể ra có 4 Sư đoàn có thể triệu tập:

– Dân quân Cách mạng Đệ nhứt Sư Đoàn của Trần văn Giàu.

– Dân quân Cách mạng Đệ Nhị Sư Đoàn của Cao Đài.

– Dân quân Cách mạng Đệ Tam Sư Đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp.

– Dân quân Cách mạng Đệ Tứ Sư Đoàn của Phật Giáo Hòa Hảo.

Đệ nhứt Sư Đoàn tập hợp những phần tử Cộng sản hay thân Cộng đặt dưới quyền chỉ huy của Trần Văn Giàu, còn Kiều công Cung lãnh chức Phó.

Đệ nhị Sư Đoàn là của Cao Đài Giáo do Vũ Tam Anh chỉ huy.

Đệ tam Sư Đoàn, chính là Dân Quốc quân của Nguyễn Hòa Hiệp biến thành. Dân Quốc quân là một lực lượng quân sự tổ chức trong thời Nhựt Bổn, do Nguyễn Hòa Hiệp tập hợp các phần tử thân Nhựt hay hợp tác với Nhựt.

Còn Đệ tứ Sư Đoàn chỉ mới dự định tổ chức chớ chưa kịp tập hợp, vì Phật Giáo Hòa Hảo, trong thời kỳ Nhựt Bổn, không có tổ chức quân đội.

Thật ra, chẳng phải đợi nước đến trôn mới nhảy. Trong lúc đi khuyến nông, Đức Thầy đã lo liệu thành lập một lực lượng quân sự rồi để kịp đối phó với biến chuyển sắp tới. Ngài đã ra lịnh cho tuyển chọn 500 binh sĩ đưa lên Sài Gòn để huấn luyện hầu tổ chức lực lượng quân sự.

Ngài ra lịnh cho Ban Trị Sự tỉnh Gia Định mượn được Trường Vẽ để làm nơi tạm trú cho binh sĩ trong thời kỳ huấn luyện. Về phần huấn luyện thì Ngài giao cho Cai Tri (1) vốn là một Cai đội trong hàng ngũ lính tập, đứng ra tập dượt. Việc tiếp tế lương thực thì có các Ban Trị Sự các tỉnh miền Tây lo liệu.

________________________________________

(1). Nay là Thượng Tọa Thích Pháp Trí.

Cai Tri phân ra nhiều nhóm để huấn luyện. Lớp nào tập tại Trường Vẽ, lớp nào tập tại Ngã tư Bình Hòa, lớp nào tập tại Đất Thánh Tây. Ngày ngày trên những khúc đường nói trên, binh sĩ Hòa Hảo xếp thành hàng ngũ dượt tới dượt lui theo tiếng đếm bước: một hai, một hai…

Thật ra thì Đệ tứ Sư Đoàn còn trong vòng tập luyện chớ chưa tập hợp bởi chưa tổ chức ban chỉ huy. Đức Thầy có cắt đặt một vài người để giao thiệp và vận động võ khí, quân nhu với Nhựt. Nhưng công cuộc đang tiến hành thì xảy ra việc Trần văn Giàu khủng bố Phật Giáo Hòa Hảo nên Đệ Tứ Sư Đoàn đành chết trong trứng nước.

Về sau, Cộng sản đoạt lấy danh nghĩa Đệ Tứ Sư Đoàn, thì tình hình quốc tế càng trở nên cấp bách, tiến đến giai đoạn chấm dứt chiến tranh.

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ chấp nhận cho Nhựt đầu hàng vô điều kiện. Mãi cho đến ngày ấy Nhựt mới chịu giao trả Nam Bộ cho chánh phủ Việt Nam. Bảo Đại hạ chiếu cử ông Nguyễn văn Sâm đang có mặt tại Huế, làm Khâm Sai Nam Bộ và ra lịnh cho ông cấp tốc về Sài Gòn nhận chức, thì liền hôm sau, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhựt Hoàng kêu gọi toàn dân Nhựt phải hạ súng.

Ngày 17 tháng 8 năm 1945. Bảo Đại kêu gọi các “nhà ái quốc hữu danh đã nỗ lực chiến đấu cho quyền lợi dân chúng và nền độc lập nước nhà” mau mau ra giúp nước hầu “củng cố nền độc lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc”.

MẶT TRẬN QUỐC GIA THỐNG NHỨT.– Đồng thời với tổ hợp quân sự, các đảng phái, tôn giáo còn tổ hợp nhau thành một lượng chánh trị, lấy tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt với mục đích:

– Chống đế quốc Pháp,

– Chống họa thực dân,

– Bảo vệ trị an,

– Bài trừ phản động.

Mặt trận thống hợp tất cả các đảng phái, tôn giáo trong nước như:

– Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng của quí ông Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Bảo Toàn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Ân…

– Thanh Niên Tiền Phong của Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch.

– Nhóm trí thức.

– Liên đoàn Công chức,

– Tịnh độ cư sĩ của ông Lâm Văn Hậu.

– Cao Đài Giáo

– Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội (Phật Giáo Hòa Hảo)

– Nhóm Đệ Tứ Quốc Tế của quí ông Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch.. Nhóm này về sau mới gia nhập.

Mặt trận chánh thức thành lập vào ngày 14-8-1945 và thường hội họp ban đêm hoặc ở nhà ông Huỳnh Văn Phương ở Chợ Lớn, Trụ sở Tổng Công Đoàn ở đường Lagrandière (nay là đường Gia Long), hoặc Trường Vẽ Gia Định nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ tạm mượn nơi làm chỗ tập hợp chiến sĩ để thành lập Đệ Tứ Sư Đoàn, nhứt là Trụ sở Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng tại đường Léon Combes (nay là đường Sương Nguyệt Ánh).

Ngày 21-8-1945, Mặt Trận có tổ chức một cuộc biểu tình tại Sài Gòn.

MẶT TRẬN VIỆT MINH.– Tình hình trở nên khẩn cấp từ giờ từ phút. Người ta bắt đầu nghe đến danh từ Việt Minh.

Ngày 23-8-1945 có tin Việt Minh đã cướp chánh quyền ở Hà Nội và thành lập chánh phủ Trung Ương Lâm thời.

Qua ngày 24-8-1945 tại Huế cử hành lễ thối vị của Bảo Đại trao quyền lại cho đại diện chánh quyền Hà Nội gồm có quí ông: Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.

Cũng trong ngày ấy, ông Nguyễn Văn Sâm, Khâm sai Nam Bộ cho dời thủ lãnh V.M. ở Sài Gòn đến nhường lại quyền hành.

Và ngày 25-8-1945 Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ do ông Trần Văn Giàu làm chủ tịch, long trọng làm lễ ra mắt trong một cuộc biểu tình khắp các đường phố. Đâu đâu người ta cũng nói đến Việt Minh và bàn tán về V.M. cướp chánh quyền. Vậy Việt Minh là gì? Ý nghĩa nó ra sao?

Danh từ Việt Minh là do Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là: Việt Minh là một mặt trận, cứ theo tôn chỉ trong bản Điều lệ:

“Liên hợp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước đặng cùng nhau đánh đuổi mối dã man xâm lược, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”.

Về điều kiện gia nhập thì “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh” kết nạp từng đoàn thể. Không cứ đảng phái nào của người Việt Nam hay các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam hay các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp tôn giáo và xu hướng chánh trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của V.M. và được Tổng bộ V.M. thông qua thì được gia nhập V.M.

Cứ xem qua tôn chỉ thì V.M. là một mặt trận gồm đủ các thành phần V.M. là một mặt trận gồm đủ các thành phần trong xã hội, thế tất chánh phủ do V.M. tổ chức phải là một chánh phủ liên hiệp và điều hành theo nguyên tắc dân chủ.

Nhưng sự thật thì không thế. Về hình thức thì có vẻ liên hiệp. Song về điều hành thì hoàn toàn thuộc về Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế độc tài lãnh đạo.

Đây xem thành phần của Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ, gồm có 9 Ủy viên mà hết 4 Ủy viên là Cộng sản như :

– Trần văn Giàu, Chủ tịch kiêm Ủy trưởng Quân sự.

– Nguyễn văn Tạo, Ủy trưởng Nội vụ kiêm Tổng Thư ký,

– Dương Bạch Mai, Thanh Tra chánh trị miền Đông kiêm Tổng Giám đốc Công an.

– Nguyễn Thành Tây, Thanh Tra chánh trị miền Tây. Còn lại 5 Ủy viên:

– Ủy trưởng ngoại giao: Phạm Ngọc Thạch, chỉ huy Thanh niên Tiền Phong đã tuyên bố chiều ngày 22-8-1945 ly khai Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt và gia nhập, theo Mặt Trận Việt Minh.

– Ủy trưởng Tuyên Truyền: Huỳnh Văn Tiểng thuộc Đảng Tân Dân Chủ, thân Cộng.

– Ủy trưởng Tài chánh: Từ Bá Đước thuộc Dân Chủ Đảng.

– Ủy trưởng Canh Nông: Ngô Tấn Nhơn thuộc Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng ly khai.

– Ủy trưởng Lao Động: Hoàng Đôn Văn thuộc Tổng Công Đoàn thiên tả.

Tất cả quyền hành đều tập trung vào tay Trần văn Giàu, nghĩa là Độc tài Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, chớ không phải là một Chánh phủ liên hiệp đúng theo tôn chỉ của Mặt Trận Việt Minh. Vì vậy khi thấy danh sách niêm yết, Đức Huỳnh Giáo Chủ hạ lời phê bình: “Đó là một hành động độc tài, trái với chánh thể dân chủ Cộng Hòa”.

Sau ngày Lâm Ủy hành chánh Nam Bộ thành lập, tình hình trở nên nghiêm trọng đòi hỏi một sự đoàn kết toàn dân mới mong cứu vãn. Thế mà Lâm Ủy tỏ ra bất lực, hơn nữa dở ngón độc tài đối với các đảng phái trong nước, càng làm cho thế nước lâm nguy, sự đoàn kết rời rã.

Nhứt là sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, toàn quốc tổ chức cuộc biểu tình khổng lồ mừng ngày nước nhà độc lập, cuộc xô xát xảy ra giữa khối quần chúng biểu tình với đám thực dân Pháp đang nuôi mộng trở lại đô hộ Đông Dương mà Lâm Ủy lại tỏ ra thái độ khiếp nhược càng làm cho các đảng phái phẫn uất cực độ.

Trong lúc đó, những tin bất lợi cho nền độc lập quốc gia dồn dập đưa đến. Nào là chi đội thứ 11 của Pháp (llè RIC) trước kia bị Nhựt tước khí giới, nay được Đồng Minh võ trang trở lại và quân đội Pháp đã xuống chiến hạm Richelieu và Triomphal sắp đổ bộ lên Vũng Tàu.

Trước kia các đảng phái quốc gia lầm tưởng V.M. là bạn tranh đấu bên cạnh Đồng Minh sẽ được Đồng Minh ủng hộ, bắt Pháp phải trả chủ quyền Việt Nam lại cho Việt Minh; nhưng đến chừng đọc truyền đơn của Trần văn Giàu cho rải và dán khắp nơi mới ngã ngửa. Trong truyền đơn ấy, Trần văn Giàu tuyên bố:

– Đối với Nga là bạn,

– Đối với Tàu như răng với môi,

– Đối với Mỹ chủ trương thương mãi nên không có mộng xâm lăng.

– Đối với Anh nội các Attlee (thủ lãnh Đảng Lao Động) mới lên nắm chánh quyền khuynh tả.

– Vì vậy bề ăn nói của chúng ta rất dễ dàng.

Nghe Trần văn Giàu tuyên bố như thế, các đoàn thể đều ngao ngán, mới vở mộng, té ra Lâm Ủy Hành Chánh do Trần văn Giàu thành lập không phải là chánh phủ V.M. bạn của Đồng Minh.

Các đảng phái trong Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt cảm thấy có phận sự bắt Lâm Ủy Hành Chánh phải cải tổ thành một chánh phủ V.M. nghĩa là một chánh phủ Liên Hiệp gồm đủ các phần tử quốc gia yêu nước hầu có đủ lực lượng đối phó với thời cuộc.

Sau phiên họp tại nhà ông Huỳnh Văn Phương ở Chợ Lớn, Ông Dương văn Giáo được hội nghị phái đến gặp Trần văn Giàu để đưa nguyện vọng cải tổ Lâm Ủy Hành Chánh. Giàu chỉ hứa suông chớ không đáp ứng theo sự đòi hỏi của Mặt Trận.

Ngày 4 tháng 9 năm 1945, Mặt Trận lại họp tại Trường Vẽ Gia Định do Đức Huỳnh Giáo Chủ chủ tọa, còn ông Đặng văn Ký làm Thơ ký, có hai ông Cao Hồng Lãnh và Hoàng Quốc Việt đại diện Tổng bộ Việt Minh ngoài Bắc vừa phái vào tham dự. Ông Hoàng Quốc Việt chấp nhận đề nghị cải tổ Lâm Ủy và yêu cầu Mặt Trận chọn người. Phiên họp đã khuya nên hẹn tái họp ngày 7 tháng 9 năm 1945 tại trụ sở Tổng Công Đoàn đường Lagrandière (nay là đường Gia Long).

Trong phiên họp đêm 7 tháng 9 năm 1945, ông Hoàng Quốc Việt có trình bày sứ mạng của các đại biểu được cử vào Nam là để cùng các đồng chí Nam Bộ thỏa thuận tu chỉnh lại Kỳ Bộ Việt Minh. Ý kiến nầy khơi màu cho một cuộc tranh luận sôi nổi chung quanh vấn đề “V.M.giả” với “V.M. thiệt”.

Nên biết, ngay khi V.M. nắm chính quyền ở ngoài Bắc, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã phái ông Nguyễn Xuân Thiếp ra Bắc tiếp xúc với Tổng Bộ Việt Minh và lãnh chỉ thị về Nam.

Ngài đã nắm chắc tài liệu về tổ chức V.M. nên mới hỏi hai đại biểu Tổng Bộ V.M. rằng:”Đại biểu chánh thức của Việt Minh Nam bộ là ai?”.

Ông Hoàng Quốc Việt bèn nói rõ: “Chính ông Huỳnh Phú Sổ”.

Ngoài nhãn hiệu “V.M.giả”, Trần Văn Giàu còn mang thêm hồ sơ “đi đêm với Pháp” nên không được Đông Dương Cộng Sản Đảng tín nhiệm. Hồ sơ nầy do ông Huỳnh Văn Phương tiết lộ.

Bị lật tẩy, Trần Văn Giàu vô cùng phẫn uất; thốt ra giọng hằn hộc đối với Đức Huỳnh Giáo Chủ, nhưng đại biểu các đảng phái khéo giàn xếp nên rốt cuộc Lâm Ủy Hành Chánh được cải tổ, đổi lại thành Ủy Ban Nhân Dân Nam Bộ do Phạm Văn Bạch làm chủ tịch còn Trần văn Giàu làm Phó kiêm Ủy Viên quân sự.

Hội nghị kéo dài trong bầu không khí nặng nề, đến 21 giờ thì Lý Huê Vinh, cánh tay mặt của Giàu bước vào đưa cho Giàu một điện tín cho hay Hòa Hảo nổi lên đảo chánh và đã chiếm cứ Cần Thơ (2).

____________________________________

(2). Đây là 1 bức điện tín giả tạo, vì thật ra ngày hôm sau tức 8-9-1945 mới có cuộc biểu tình ở Cần Thơ.

Ông Giàu hỏi gay gắt Đức Huỳnh Giáo Chủ: Ông chưởng giáo nghĩ sao?

Đức Huỳnh Giáo Chủ đáp: Tôi tin chắc cuộc đảo chánh ấy không có, hay là một cuộc ngộ nhận. Nếu có, sự hội họp các tín đồ Hòa Hảo ở Cần thơ thì đó là một sự huy động về tôn giáo mà thôi. Là người lãnh đạo Hòa Hảo, tôi nhận chịu trách nhiệm đối với chánh phủ. Tôi sẽ gởi đại diện về Cần Thơ nội trong đêm nay để biết rõ tình hình rồi sẽ phúc trình tường tận.

Ông Cao Hồng Lãnh cũng yêu cầu Ngài can thiệp gấp. Phe ông Giàu muốn quản thúc Đức Thầy nhưng các đại biểu can thiệp nên không có việc gì đáng tiếc xảy ra. Đức Thầy được thong thả ra xe về.

CUỘC BIỂU TÌNH Ở CẦN THƠ.– Sự thật thì không có cuộc đảo chánh ở Cần Thơ như bọn Trần Văn Giàu vu khống mà là một cuộc biểu tình của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tổ chức tại Cần Thơ ngày 8-9-1945 đề phản đối chế độ độc tài. Trên lịch sử chống độc tài, có thể nói: tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là chiến sĩ tiên phong trên đất nước Việt Nam.

Đây là một cuộc biểu tình lớn nhứt xảy ra ở miền Tây với những khẩu hiệu phản ảnh trung thực nguyện vọng của nhân dân khát khao dân chủ, đòi quyền được tự vệ chống xâm lăng đang lấp ló trước ngưỡng cửa Việt Nam:

– Võ trang quần chúng.

– Tẩy uế những phần tử thúi nát trong Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ.

– Ủng hộ chánh phủ Việt Minh.

Cho được hợp pháp, Ban tổ chức có xin phép với Ủy Ban Hành Chánh tỉnh Cần Thơ và được chấp thuận nhưng đến giờ chót bọn độc tài đổi thái độ (1).

_________

(1). Đây là âm mưu có tính toán để gài bẫy tín đồ P.G.H.H.

Chúng ra lịnh giải tán và trong lúc những người biểu tình lần lượt ra về, chúng cho nổ súng vào đám quần chúng không võ trang.

Một số tín đồ bị giết, còn lại bao nhiêu chúng bắt giam, trong số đó được biết quí ông: Huỳnh Thạnh Mậu, bào đệ của Đức Thầy, ông Nguyễn Xuân Thiếp tức thi sĩ Việt Châu, người đã được Đức Thầy phái ra Bắc liên lạc với Tổng Bộ Việt Minh, ông Trần Ngọc Hoành, trưởng nam của ông Trần văn Soái tức Năm Lửa, ông Lâm Thành Nguyên, ông Chung Bá Khánh, Ông Đỗ Hữu Thiều, nhiều nhân viên trọng yếu trong Ban Trị Sự các tỉnh.

Ngày mồng 2 tháng 9 năm Ất Dậu (7-10-1945) chúng ra lịnh hành quyết ba ông: Mậu, Thiếp và Hoành tại sân vận động Cần Thơ. Còn các ông Chung Bá Khánh, Đỗ Hữu Thiều, Võ văn Thới, Nguyễn Hữu Giáp, Lâm Thành Nguyên… thì chúng cho dời đi Vàm Láng Thé (Trà Vinh) và hành quyết ngày 24-9 Ất Dậu. Chỉ trừ ông Lâm Thành Nguyên nhờ giả điên nên được chúng tha khỏi chết.

TAI NẠN.– Sau đêm 7-9-1945, mặc dầu chúng để cho Đức Thầy được tự do ra về, vì sự can thiệp của đại diện các đảng phái, nhứt là có sự hiện diện của quí ông Cao Hồng Lãnh và Hoàng Quốc Việt đại biểu Tổng Bộ Việt Minh được phái vào, nên bọn Trần Văn Giàu chưa dám làm hỗn, nhưng trong thâm tâm vẫn ôm mối hận thù về việc bị lộ tông tích đi đêm với Pháp. Vì vậy Trần Văn Giàu tìm cách hại Đức Thầy cũng như bao nhiêu phần tử quốc gia khác bằng thủ đoạn hết sức đê tiện là vu khống và vu khống.

Đây là ngón gian manh nhứt của bọn độc tài. Sáng ngày 8-9-1945, một thông cáo được đưa ra trên mặt báo chí:

“Chánh phủ lâm thời Nam bộ đang dự bị lập Ủy ban điều tra mỗi tỉnh, mục đích là để xem xét và tố cáo bọn phản quốc; bọn nầy sẽ bị Tòa Án Nhân Dân trừng trị, tài sản của họ sẽ bị tịch thâu, ruộng đất của họ sẽ bị lấy lại chia cho dân nghèo”.

Với bản thông cáo nầy, mặc tình bọn độc tài Trần văn Giàu tác oai tác quái. Hàng vạn đồng bào bị giết cũng vì bản án Việt gian khủng khiếp, làm đẫm máu một đoạn sử Việt Nam. Cái thủ đoạn vu khống đê hèn nầy, trước hết chúng đem áp dụng với đối với Đức Thầy và tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.

Đêm mồng 4 tháng 8 năm Ất Dậu (9-9-1945) Trần văn Giàu ra lịnh cho thuộc hạ bao vây văn phòng Đức Thầy tại số 8 góc đường Sohier-Miche (nay là góc đường Tự Đức – Phùng Khắc Khoan) nơi Đức Thầy dùng làm trụ sở cho Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội.

Trước khi bao vây, Trần Văn Giàu dùng quỉ kế bằng điện thoại kêu ngay Ngài nói chuyện để biết chắc chắn Ngài có tại văn phòng, thế mà khi chúng đến bao vây và lục soát thì không tìm ra Ngài. Chúng bắt một số tín đồ đưa lên xe chở đi. Trong số anh em bị bắt kể lại, lúc ấy anh em cố tìm xem coi Đức Thầy có bị bắt hay không, đến chừng không thấy, anh em mới vững dạ để cho chúng đem về giam ở khám công an rồi vài ngày sau đưa vào nhà lao.

Khi bọn chúng đi rồi, trong văn phòng còn lại một số anh em tín đồ ngơ ngác thì Ngài từ trên lầu bước xuống. Anh em bu lại hỏi Ngài làm sao chúng lục soát mà không gặp thì Ngài trả lời là Ngài đứng tại góc thang lầu, chúng có rọi đèn chóa nhưng không thấy. Nhờ vậy mà Ngài được yên ổn. Liền đó anh em đưa Ngài ra ngõ sau vượt qua một bức tường thì có xe chực sẵn rước Ngài đi Gia Định.

Ngày sau Ban Trị Sự Tỉnh Gia Định được lịnh đưa Ngài lánh nạn lên Biên Hòa, tạm ẩn nơi nhà ông Phán Ký; ở đây không đầy mười hôm, V.M. tình nghi dọ dẫm, một tín đồ bèn đưa Ngài đi Long Thành vào ở trong vườn trà huế, sở hữu của ông Phán Ký, cách lộ trên một cây số, ở khoảng cây số 51 đường Sài Gòn đi Long Thành.

Tưởng đâu đến đây sẽ được ở yên, nào ngờ gặp phải hàm oan. Số là khi Ngài đến thì trong xóm xảy ra một vụ cướp bóc. Họ nghi cho mấy anh hộ vệ của Ngài là gian tế nên kéo nhau đến vây bắt. Một số anh em bị bắt, may mà Ngài thoát khỏi. Hay tin chẳng lành, Ban Trị Sự Tỉnh Gia Định đến can thiệp mới giải oan mấy anh em hộ vệ ấy.

Thấy không thể ở lâu nơi đây được, nên liền sau đó, anh em hộ vệ đưa Ngài xuống Bà Rịa, ẩn lánh ở Cỏ May.

Khi mới đến, Ngài ở trong một chiếc ghe chở muối hư, sau bị theo dõi nên phải đi sâu vào rừng chà là, nương náu nơi nhà một người khách trú, tuy không phải tín đồ nhưng tiếp đãi Ngài rất hậu.

Trong một bài tự thán, Ngài đã bộc lộ nỗi lòng đau khổ của Ngài trong mấy vần thơ:

 

Nước non tan vỡ bởi vì đâu!

Riêng một Ta mang nặng khối sầu.

Lòng những hiến thân mưu độc lập,

Nào hay tai họa áp bên lầu.

Bên lầu tiếng súng nổ vang tai,

Trời đất phụ chi kẻ trí tài.

Mưu quốc hóa ra người phản quốc,

Ngàn thu khối hận dễ nào phai.

Từ ấy lao mình vượt khổ nguy,

Băng rừng lội suối giả man di.

Ngày mong ải Bắc oan nầy giải,

Đem sức ra nâng lá quốc kỳ.

                                       Chương X: Dấn-thân 

Sau khi Đức Thầy lên đường lánh nạn, tình hình trong nước trở nên trầm trọng. Đứng trước nạn xâm lăng của quân Pháp được Anh và bạn Đồng Minh ủng hộ, đang chực chờ tái chiếm Đông Dương, bọn Trần Văn Giàu chẳng những không tìm phương đối phó, mà lại lo đàn áp các đảng phái quốc gia, những phần tử yêu nước bằng lối vu khống ghép cho những tội phản quốc, làm Việt gian để đánh mờ dư luận, che mắt thế gian về tung tích của mình “làm Việt gian, đi đêm với Pháp” mà ông Huỳnh văn Phương có đủ tài liệu trong tay khi ông làm Tổng Giám Đốc công an trong thời chánh phủ Trần Trọng Kim và Nguyễn văn Sâm làm Khâm sai Nam Bộ.

Do chánh sách vu khống ấy mà máu đồng bào đổ quá nhiều, gây nên nạn cốt nhục tương tàn, phá tan sự đoàn kết quốc gia. Hằng ngày đều có những tin bắt bớ khủng khiếp và hành quyết đồng bào vô tội vì danh từ Việt Gian. Một thảm họa khốc liệt đã gieo khắp non sông nước Việt.

Nào là tin Tạ Thu Thâu bị bắt ở Quảng Ngãi, nào lãnh tụ quốc gia bị bắt và bị thủ tiêu.

Trong lúc đó thì quân Pháp nhờ quân Anh yểm trợ trở lại chiếm Sài Gòn ngày 23-9-1945 rồi lần lượt các tỉnh miền Nam. Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ trước hơn ai hết, cuốn gói bỏ Sài Gòn rút về Chợ Đệm, nơi đây cho hành quyết một số lãnh tụ có tiếng như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Hồ Vĩnh Ký, Bùi Quang Chiêu…

Trước sự tấn công mãnh liệt của quân Pháp, Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ rút về Rạch Giá rồi sau cùng về Cà Mau, hợp với Kiều công Cung và Đào văn Trường thành lập Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ, nhưng không được khuyếch trương trong nhân dân vì phong trào chống độc tài một ngày một bành trướng. Nguyễn Hòa Hiệp kéo Đệ Tam Sư Đoàn về án ngữ Cao Lãnh và Đồng Tháp phát động phong trào chống độc tài đỏ.

Ở Hậu Giang, anh em tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo vì bị đàn áp nghiệt ngã, đứng lên chống lại. Một cuộc xô xát đẫm máu xảy ra giữa Việt Minh và Hòa Hảo của nhóm võ sĩ mà Đức Thầy kết nạp vào hàng ngũ Đội Bảo An.

Trên bước đường lánh nạn, Ngài vô cùng đau khổ nhìn thấy non sông một ngày một tràn ngập “lũ Tây di”, cũng vì bọn cường quyền ngu si thi hành chánh sách độc tài đảng trị, giết hại đồng bào, gây cảnh nồi da xáo thịt, có lợi cho bọn xâm lăng cướp nước.

Ngài đã thống thiết thốt ra những lời bi cảm trong một bài thơ tự thán như sau:

Gió hiu hắt bên rừng quạnh quẽ,

Nhìn non sông đượm vẻ tang thương.

Mối tình chủng loại vấn vương,

Thấy quân xâm lược hùng cường căm gan.

Vừa toan rút gươm vàng ngăn giặc,

Bỗng họa đâu gieo rắc bất kỳ.

Cường quyền một lũ ngu si,

Oan nầy hận ấy sử ghi muôn đời.

Truyền khắp nước muôn lời vu cáo,

Dùng trăm ngàn thói bạo hiếp dân;

Làm cho trong nước rẻ phân,

Làm cho giặc Pháp một lần sướng rang.

Vậy cũng gọi an bang định quốc,

Rồi rút lui bỏ mất thành trì.

Giống nòi nỡ giết nhau chi,

Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông.

 

Trong khoảng cuối năm Ất Dậu, quân Pháp có mặt khắp miền Nam, bọn Trần văn Giàu đã đào tẩu về miền Bắc. Anh em tín đồ đã liên lạc được với Đức Thầy và lo liệu đưa Ngài trở về Chợ Lớn vào thượng tuần tháng chạp năm Ất Dậu. Tính ra từ ngày Ngài ngộ nạn tại đường Sohier lánh thân lên Biên Hòa, Long Thành, Bà Rịa, Cỏ May, Rừng Chà Là cho đến ngày hồi cư trên bốn tháng.

Anh em đưa Ngài vào trú ngụ ở một tiệm khách làm bia đá ở bến Lê Quang Liêm trong Chợ Lớn; nơi đây chỉ mướn được một chỗ để giường đủ cho Ngài và một tín đồ theo hầu Ngài ẩn thân.

Mặc dầu trải lắm hồi gian truân nguy khốn, lòng yêu nước nồng nàn của Ngài không vì thế mà núng nao trước sự thành bại. Ngài cương quyết tiếp tục cuộc tranh đấu, nguyện đền bồi ơn đất nước:

Nếu mất thôi đành xong món nợ,

Nay còn há dễ ngó lơ sao?

Dọc ngang chí cả dù lao khổ,

Thất bại đâu nào dạ núng nao.

Thất bại đâu nào dạ núng nao,

Non sông bao phủ khí anh hào.

Phen nầy cũng quyết đền ơn nước,

Máu giặc nguyện đem nhuộm chiến bào.

 

Từ hôm trở lại Chợ Lớn, Ngài đã hoàn toàn hóa trang: tóc hớt ngắn (1), phục sức như người Tàu, mang kiếng trắng và đi xe đạp. Nếu không để ý hay quen biết thì không thể nào nhận ra Ngài, vì từ cách đi đứng đến nói năng Ngài đã biến thành một người Tàu. Anh em tín đồ đã lo cho Ngài có một cái giấy Tàu. Hơn nữa Ngài nói tiếng Tàu như người Tàu thì còn ai biết Ngài là người Việt.

____________________________________________________

1). Từ ngày vào bịnh viện Chợ Quán, Ngài đã hớt tóc ngắn rồi.

Lần lượt sự liên lạc với anh em tín đồ ở Hậu Giang được nối lại nhưng rất hạn chế, chỉ những người được phép mới đến gặp Ngài, khi thì ở vườn hoa khi thì ở tiệm nước Băng gia hay ở tiệm cơm chay Phật Hữu Duyên ở Chợ Lớn.

Khi nắm vững tình hình trong nước, Ngài mới khởi sự tiếp xúc lại với các chánh khách, lãnh tụ các đảng phái quốc gia và sau nhiều lần trao đổi ý kiến và hội họp, cùng đi đến quyết định xây dựng lại một lực lượng tranh đấu mới để kịp thời đối phó với tình thế mới.

Ngài nhứt quyết dấn thân vào cuộc đấu tranh dầu phải gian lao, miễn được bảo tồn non nước Việt. Chí khí cứu nước, chống xâm lăng đã bộc lộ tràn trề trong bài thơ “Rứt áo cà sa” như sau:

Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau,

Quyết rứt cà sa mặc chiến bào,

Đuổi bọn xâm lăng gìn đất nước,

Ngọn cờ độc lập phất phơ cao.

Ngọn cờ độc lập phất phơ cao,

Nòi giống Lạc Hồng hiệp sức nhau.

Tay súng tay gươm xông trận địa,

Dầu cho giặc mạnh há lòng nao.

Dầu cho giặc mạnh há lòng na,

Nam Việt ngàn xưa đúc khí hào.

Lúc giặc xâm lăng mưu thống trị,

Anh hùng đâu sá cảnh gian lao.

Anh hùng đâu sá cảnh gian lao.

Chiến địa giao phong rưới máu đào;

Miễn đặng bảo toàn non nước cũ,

Giữ an tánh mạng cả đồng bào.

 

MẶT TRẬN QUỐC GIA LIÊN HIỆP VIỆT NAM. Vào khoảng đầu năm 1946, Ngài đã tiếp xúc lại với các lãnh tụ quốc gia và đã cùng nhau thảo luận sự tổng hợp các lực lượng quân sự bị rời rạc trước sự càn quét của quân đội Pháp và sự đàn áp, khủng bố của Việt Minh Cộng sản, thành một trận tuyến, cấp bách cứu vãn tình thế nước nhà, khi bọn Trần văn Giàu tẩu đào về Bắc, quần chúng xơ xát trước sự tấn công của quân xâm lăng.

Ngày 2-4-1946, Huỳnh văn Trí tức Mười Trí chỉ huy Chi đội 4 Vệ Quốc Đoàn, triệu tập tại Bà Quẹo một hội nghị bất thường và đã đi đến thành lập Ủy Ban Liên Hiệp Kháng Chiến, thay thế Ủy Ban Hành Chánh và Kháng Chiến Nam Bộ.

Sau khi sự liên hiệp quân sự thành lập, các thành phần quốc gia thấy cần thực hiện sự liên hiệp chánh trị. Do đó ông Vũ Tam Anh, Trưởng Đệ Nhị Sư Đoàn hiệp với tướng Mười Trí triệu tập tại Bà Quẹo nơi bản dinh của Mười Trí, một Đại hội nghị quân chính gồm đông đủ đại diện các đoàn thể chính trị, tôn giáo và các lực lượng võ trang.

Đại diện tôn giáo gồm có:

– Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo.

– Lê văn Tỵ đại diện Cao Đài Tây Ninh.

– Giáo sư Huỳnh Thơ Hương đại diện Cao Đài kháng chiến Hậu Giang.

– Lâm Văn Hậu đại diện Tịnh Độ cư sĩ.

– Linh mục Nguyễn Bá Sang đại diện Thiên Chúa Giáo.

Đại diện các đoàn thể chánh trị gồm có:

– Phạm Thiều đại diện Phòng chánh trị khu 7

– Trần văn Lâm đại diện V.N. Quốc Dân Đảng

– Phạm Ngọc Chiếu đại diện Đảng Thống Nhứt

– Mai Thọ Trân thay mặt Hà Huy Giáp, đại diện Tổng Công Đoàn và Kỳ Bộ V.M.

– Nguyễn văn Sâm và Nguyễn Bảo Toàn, Lãnh tụ và Tổng thư ký V.N. Quốc Gia Độc Lập Đảng

– Phạm Hữu Đức, Nguyễn văn Nhân đại diện Huỳnh Long Đảng.

Đại diện các lực lượng quân sự gồm có:

– Lê Trung Nghĩa đại diện Lực lượng Kháng chiến

– Phan Định Công thay mặt Nguyễn Bình khu trưởng Khu 7

– Huỳnh văn Trí chỉ huy trưởng Vệ Quốc Đoàn Bà Quẹo kiêm đại diện Liên chi Bình Xuyên.

– Lai Hữu Tài đại diện Vệ Quốc Đoàn địa phương Sài Gòn Chợ Lớn.

– Phạm Hùng Đức chỉ huy trưởng Chi đội 5 Vệ Quốc Đoàn.

– Huỳnh Tấn Chùa chỉ huy trưởng Chi đội 12 Vệ Quốc Đoàn.

– Vũ Tam Anh chỉ huy trưởng Đệ nhị Sư đoàn Dân quân Cách mạng.

– Châu Tỷ chỉ huy trưởng Du kích quân địa phương Sài Gòn Chợ Lớn

– Từ Văn Ri và Từ Huỳnh chi đội trưởng và Đội trưởng Chi đội 12

– Lâm văn Đức chi đội Trưởng Chi đội 25

– Nguyễn văn Đội tự Sáu Đội, Chi đội 7 đổi lại Trung đoàn 307

– Nguyễn văn Mười, Chi đội trưởng chi đội 8, Lực Lượng Cao Đài Kháng Chiến Tây Ninh.

Hội nghị họp ngày 20 tháng 4 năm 1946 vào 13 giờ. Sau ba ngày đêm thảo luận sôi nổi, mọi người đều chấp nhận và tuyên bố thành lập: Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp Việt Nam để huy động toàn lực các đoàn thể tôn giáo, chánh trị, quân sự…chống xâm lăng.

Một Ban Chấp hành được thành lập với thành phần như sau:

Chủ Tịch: Hoàng Anh (Bí danh của Đức Thầy)

Phó Chủ Tịch: Vũ Tam Anh

Thơ ký: Mai Thọ Trân

Tuyên Truyền: Lê Trung Nghĩa

Ủy viên Quân sự: Huỳnh Văn Trí

Cố vấn: Phạm Thiều, Phạm Hữu Đức, Trần văn Lâm

Ngoài ra còn thành lập Ủy Ban Quân sự Tối cao. Võ phòng đặt tại ấp Tám làng Vĩnh Lạc (miệt Bà Quẹo, 18 thôn vườn trầu) và có một tờ báo bí mật: tờ Tự Do làm cơ quan tranh đấu.

Mặt trận có phái người đi hoạt động miền Trung và Bắc để thành lập ở mỗi nơi một Mặt Trận có thống nhứt lực lượng toàn quốc chống xâm lăng.

Riêng về khu Sài Gòn, Đức Thầy, ông Lê Trung Nghĩa và giáo sư Phạm Thiều lãnh công tác vận động dân chúng kháng chiến ủng hộ Mặt Trận. Công cuộc bị bại lộ, một số người bi bắt trong đó có cha Luật, cha Sang. Rất may là Đức Thầy, ông Lê Trung Nghĩa và một nữ liên lạc viên thoát khỏi.

Chúng có tìm đến lục soát chỗ Đức Thầy ở, nhưng không tìm thấy tài liệu cất dưới gối, mặc dầu chúng đã lật qua lật lại nhiều lần.

Thấy bại lộ, Đức Thầy cho dời phòng đi nơi khác và căn dặn phải mướn một căn nhà có ngõ hậu. Anh em tín đồ cũng rán mướn gần đó một chỗ ở như ý muốn.

Có một hôm Đức Thầy về nghỉ; lối nửa đêm Ngài thức giấc bước ra cửa sau đi tiểu thì liền lúc đó bọn Công an Pháp đến kêu cửa phía trước và tràn vào lục soát, rọi đèn khắp phía sau mà không thấy Đức Thầy. Khi bọn chúng đi rồi, Ngài bước vào nhà, anh em theo ủng hộ hỏi Ngài sao biết có cuộc khám xét mà lánh thân và ẩn cách nào mà bọn chúng rọi đèn không thấy thì Ngài đáp: Ngài đi tiểu chớ có biết bọn chúng đến xét đâu mà tránh, Ngài đứng tiểu phía sau chớ có đi đâu, tại chúng rọi không thấy.

Cũng trong thời gian Ngài ở trọ căn nhà nầy, tuy gọi là mướn chỗ ở, nhưng Ngài thường đi luôn, lâu lâu mới về nghỉ năm ba hôm để tiếp xúc với anh em tín đồ dưới Hậu Giang lên, rồi thì vắng mặt. Cô chủ nhà có một cô em gái thấy Đức Thầy thì đem lòng thầm yêu. Để thức tỉnh lòng phàm của con người trần tục, Ngài có làm ba bài thơ “Tình yêu” như sau:

Ta có tình yêu rất đượm nồng,

Yêu đời yêu lẫn cả non sông;

Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ,

Không thể yêu riêng khách má hồng.

Nếu khách má hồng muốn được yêu,

Thì trong tâm chí hãy xoay chiều.

Hướng về phụng sự cho nhân loại,

Sẽ gặp tình Ta trong khối yêu.

Ta đã đa mang một khối tình,

Dường như thệ hải với sơn minh.

Tình yêu mà chẳng yêu ai cả,

Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh.

 

Ai cũng nhận Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp quả là một Mặt trận thống hợp các lực lượng quốc gia, tạo thành một thế vững mạnh cho chánh nghĩa dân tộc được quần chúng ủng hộ, nhiệt liệt tham gia. Quân Pháp đâm ra lo ngại mà Cộng sản cũng canh cánh phập phòng không khéo Mặt Trận Liên Hiệp sẽ làm lu mờ Mặt Trận Việt Minh, nên chi Cộng sản tìm cách ngăn chận và mưu toan phá cho tan vở.

Về phía quân Pháp thì chúng đổi chiến lược, thay vì đem toàn lực tấn công các lực lượng cộng sản, chúng đâm mũi dùi vào hàng ngũ quốc gia. Ở thành chúng cho công an cảnh sát lục soát, chận bắt các nhân viên của Mặt Trận và phá vở các ổ liên lạc. Hơn 150 nhân viên của Mặt Trận bị bắt, trong đó có quí ông Nguyễn Trung Chánh, Nguyễn Thanh Tân bị đày đi Côn Đảo. Ở bưng, chúng đem toàn lực thủy lục không quân tấn công các căn cứ quốc gia, đánh dồn về biên giới Cao Miên (Quéo Ba, Thổ Địa, Bình Hòa).

Thừa dịp Mặt Trận Quốc Gia đang đối phó với xâm lăng, Cộng sản tung ra Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Hiệp), dùng một danh từ tương tợ (Liên Hiệp) để gây sự hiểu lầm trong các giới đồng bào, với dụng ý đem Hội Liên Hiệp đánh tráo Mặt Trận Liên Hiệp. Nguyễn Bình và Phạm Thiều tuyên bố rút khỏi Mặt Trận và đề nghị đổi Mặt Trận Liên Hiệp thành Hội Liên Hiệp, nhưng đề nghị nầy không được các đoàn thể quốc gia chấp nhận.

Thế là, Cộng sản, trong lúc tình thế nước nhà đang nguy ngập trước nạn xâm lăng, nhẫn tâm dùng thủ đoạn mượn danh nghĩa chánh phủ giải tán Mặt Trận thẳng tay khủng bố các đoàn thể quốc gia. Cuộc khủng bố giữa Quốc Cộng bùng nổ ở miền Nam cũng như ở miền Bắc.

Do thỏa hiệp 6-3-1946, ký kết với Pháp, chánh quyền Cộng sản liên quân với Pháp đàn áp các lực lượng quốc gia ngoài Bắc. Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội bị tấn công đến tan rã hàng ngũ phải chạy sang Trung Hoa.

Còn ở miền Nam thì các đoàn thể quốc gia bị khủng bố tới tấp. Đứng trước sự phản bội của Cộng sản, Đức Thầy liền triệu tập Đại hội để quyết định thái độ. Đứng trước nguy cơ của đất nước, các đoàn thể không tự cho phép dùng võ lực đối phó lại, sợ làm suy giảm tiềm lực kháng chiến của quốc gia, nên chấp nhận tạm giải tán Mặt Trận vào thượng tuần tháng 7 năm 1946, nhưng cương quyết không nhận tham gia Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam.

Đứng trước sự phản bội của Cộng sản, nhứt là sự cốt nhục tương tàn do chánh sách khủng bố của chế độ độc tài gây nên, Đức Thầy vô cùng thống khổ, viết ra những dòng thơ bộc lộ tâm can của một chiến sĩ đặt quyền lợi quốc gia trên mọi quyền lợi bè phái hay thù riêng, gióng lên “Tiếng chuông cảnh tỉnh”:

Đồng bào ai nỡ dứt tình,

Mà đem chém giết để mình an vui.

Dù lúc trước nếm mùi cay đắng,

Kẻ độc tài đem tặng cho Ta;

Sau nầy Tòa án quốc gia,

Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình.

Lúc bây giờ muôn binh xâm lược,

Đang đạp vày non nước Việt Nam,

Thù riêng muôn vạn cho cam,

Cũng nên gát bỏ để làm nghĩa công.

 

Rồi Ngài kêu gọi mở lòng khoan dung tha thứ và vì nghĩa đồng chủng đồng bào, hãy hiệp lực đoàn kết nhau chống phân ly (bọn Nam Kỳ tự trị) và chống xâm lược (Pháp).

Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống,

Tha thứ nhau để sống cùng nhau.

Quí nhau từng giọt máu đào,

Để đem máu ấy tưới vào địch quân.

Đấng anh hùng vang lừng bốn bể,

Các sắc dân đều nể đều vì,

Đồng bào nỡ giết nhau chi,

Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông.

Hỡi những kẻ có lòng yêu nước,

Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê.

Anh em lớn nhỏ quày về,

Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly.

Đả đảo bọn Nam kỳ nô lệ,

Kiếp cúi lòn thế hệ qua rồi.

Lời vàng kêu gọi khắp nơi,

Anh em chiến sĩ nhớ lời Ta khuyên.

 

VIỆT NAM DÂN CHỦ XÃ HỘI ĐẢNG.– Mặc dầu Mặt Trận chánh trị không còn hoạt động, nhưng về mặt quân sự, Đức Thầy vẫn còn hợp lực với các nhà chỉ huy quân sự như Huỳnh văn Trí, Lê văn Viễn và các trưởng chi đội thuộc thành phần quốc gia đấu tranh chống xâm lăng.

Đứng trước tình hình đất nước càng ngày càng nguy ngập, Ngài nhận thấy không thể tranh đấu thuần mặt quân sự mà cần phải tranh đấu về mặt chánh trị mới mong chống xâm lăng Pháp và ngăn chận được nạn độc tài giành lãnh đạo kháng chiến là điều thất lợi cho công cuộc kháng chiến chống xâm lăng về phương diện đối ngoại cũng như về phương diện đối nội.

VỀ ĐỐI NGOẠI.– Nếu để Cộng sản hay cán bộ Cộng sản Đệ Tam Quốc tế lãnh đạo kháng chiến chắc chắn sẽ không được sự ủng hộ của Đồng minh không cộng sản. Do đó cuộc kháng chiến phải đau khổ, gây nhiều tang tóc cho quốc gia, thảm hại cho đồng bào. Trái lại, nếu người quốc gia lãnh đạo kháng chiến, chắc chắn sẽ được các nước Đồng minh dân chủ ủng hộ, nhờ đó mà cuộc kháng chiến không dai dẳng. Như trường hợp của Nam Dương, ban đầu cuộc kháng chiến do Sokarno một lãnh tụ thân Trục Phát xít lãnh đạo, thấy bất lợi nên nhường quyền lãnh đạo kháng chiến lại cho Bác sĩ Djarir thân Đồng minh, nhờ vậy mà các nước dân chủ ủng hộ, bắt Hòa Lan phải rút lui, trả quyền tự chủ cho Nam Dương.

VỀ ĐỐI NỘI.– Cộng sản khi lên nắm chánh quyền đã thi hành chánh sách độc tài đảng trị, giết hại đồng bào, gây tang tóc cho quê hương, vì vậy mà không thực hiện sự đoàn kết toàn dân. Hơn nữa thiếu chánh nghĩa dân tộc, Việt Minh không thể thủ lấy vai trò lãnh đạo chánh trị. Vì vậy mà cuộc kháng chiến kéo dài gây điêu linh cho đất nước, đau khổ cho đồng bào.

Bởi nhìn thấy những trở ngại như đã nói trên, Đức Thầy, muốn cho cuộc kháng chiến hữu hiệu mau đạt thắng lợi, vừa được cảm tình các nước dân chủ bên ngoài vừa được sự ủng hộ nhiệt liệt của toàn dân bên trong, cần phải có một lực lượng đoàn kết quốc gia, nêu cao được ngọn cờ chánh nghĩa dân tộc.

Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp đã phá tan, không vì thế mà không tiếp tục tranh đấu. Đức Thầy bèn nghĩ đến sự tái tạo một lực lượng chánh trị khác khả dĩ kịp thời ứng phó với thời cuộc và đủ sức chống xâm lăng cứu nước.

Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp tuy qui tụ được nhiều đoàn thể tôn giáo, chánh trị, nhiều lực lượng võ trang nhưng với tổ chức mặt trận, sự lãnh đạo bao giờ cũng lỏng lẻo rất dễ bị phá hoại, tan rã.

Cho được thống nhứt hành động, lãnh đạo duy nhứt cần phải tổ chức thành một chánh đảng, gồm những thành phần thuần nhứt (homogène) cùng chấp nhận một đường lối, lập trường tranh đấu chung và cùng chịu khép mình vào những kỷ luật sắt.

Khi hội hợp và gần gũi nhau tranh đấu trong Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, Đức Thầy đã tìm thấy những bạn tri kỷ, những người có thể trở thành đồng chí, cùng đứng chung trong một tổ chức chặt chẽ, có lập trường, kỷ cương hẳn hoi: tổ chức một chánh đảng quốc gia, gồm nhiều thành phần cùng chung một chí hướng.

Ngài nhận thấy Phật Giáo Hòa Hảo là một tổ chức qui tụ các thành phần nông dân, chỉ có lòng thiết tha yêu nước và dám hành động cách mạng nhưng lại kém văn hóa, vì là thành phần bạc đãi trong xã hội, thường bị bóc lột sức lao động, sống một đời cần cù, mãi lo ăn lo mặc không rồi thì còn đâu được rỗi rảnh để trau giồi về mặt văn hóa, trí thức.

Trái lại đảng viên của Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng của quí ông: Nguyễn văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn, Lâm văn Tết, Lê văn Thu, Trần văn Ân… là một tổ chức khá quan trọng qui tụ hầu hết các thành phần trí thức thành thị, có những cán bộ xuất thân trong hàng khoa bảng, có những đảng viên từng được trui luyện trong các cuộc tranh đấu quần chúng thợ thuyền, nhưng nếu đem sánh với khối nông dân của Phật Giáo Hòa Hảo thì họ trở nên thiểu số.

Vì vậy nếu đứng riêng rẽ tranh đấu, mỗi đoàn thể không sao tạo thành một lực lượng hùng hậu khả dĩ thay đổi được thế cờ, chuyển được vận nước; bởi một đàng có lực lượng quần chúng nhưng thiếu cán bộ điều khiển, còn một đàng có thừa cán bộ chỉ huy nhưng lại không có khối quần chúng ủng hộ.

Nếu hai lực lượng nầy được hợp nhứt và nếu có thể qui tụ thêm vài thành phần nữa, thành một chánh đảng thì chắc chắn đủ sức tranh đấu chuyển được thế nước, đem lại thắng lợi cho quốc gia, và đủ sức lãnh đạo nước nhà theo một chương trình cấp tiến, phù hạp với nguyện vọng của toàn dân và tiến kịp trào lưu thế giới.

Nhận thức được sự cần thiết xây dựng một lực lượng chánh trị duy nhứt, các nhà lãnh đạo của hai đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, thống hợp nhau thành Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, gọi tắt là Dân Xã Đảng.

Đó là hai thành phần cốt cán của Đảng Dân Xã, nhưng ngoài hai thành phần nầy, Đảng còn kết nạp các thành phần khác, tuy không quan trọng về lực lượng quần chúng, nhưng có một số cán bộ tân tiến trong những tổ chức: Cần Lao, kháng chiến, thanh niên…

Ban lãnh đạo tổ chức theo hình thức chủ tịch đoàn gồm tối đa 15 nhân viên gọi là Ủy viên Trung Ương, có thể mỗi ủy viên đảm trách một nhiệm vụ. Trung Ương Đảng bộ được tổ chức và gồm có:

– Nguyễn Bảo Toàn, Tổng Bí Thơ

– Nguyễn văn Sâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Ngoại Giao

– Trần văn Ân, Ủy viên Trung Ương đặc trách Tuyên Truyền

– Lê văn Thu, Ủy viên Trung Ương đặc trách Huấn Luyện

– Lâm văn Tết, Ủy viên Trung Ương đặc trách Tài Chánh

– Đỗ Phong Thuần, Ủy viên Trung Ương đặc trách Tài Chánh

– Trần văn Tâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Thủ Quỹ

– La văn Thuận, Ủy viên Trung Ương đặc trách Liên Lạc.

Còn Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ngài chỉ giữ chức Ủy Viên Trung Ương không có đặc trách một nhiệm vụ nào cả.

Cứ xem thành phần của Ban Chấp Hành Trung Ương ai cũng thấy hầu hết những chức vụ quan trọng đều giao phó cho anh em bên Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng. Đức Thầy giao trọn bộ máy đều hành Đảng cho anh em thuộc thành phần trí thức và có thành tích đấu tranh, có uy tín trong nhân dân, từng tham gia các phong trào chống Pháp và từng vào tù ra khám như quí ông: Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn văn Sâm, Trần văn Ân…

Có người hỏi Đức Thầy sao lại trao cả bộ máy điều khiển Đảng cho anh em Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, không sợ người ta lợi dụng để làm nấc thang danh lợi hay sao thì Ngài có trả lời đại khái như sau:

Phàm hợp tác thì nên thành thật. Đã tín nhiệm thì phải dùng và đặt để đúng chỗ, xứng với tài năng của người. Việc cứu nước là việc chung, mình nên ủng hộ cho người ta làm, chớ đừng ganh tỵ, tranh giành mà hư việc lớn. Mình nên thực tâm đem khối quần chúng hùng hậu của mình ủng hộ cho các chiến sĩ cách mạng tranh đấu cho đất nước. Ngày nào mình thấy họ có ý lợi dụng hay không thực tâm tranh đấu cho quyền lợi quốc gia thì mình rút sự ủng hộ lại. Quần chúng là của mình, mất mát đâu mà sợ.

Trung Ương Đảng Bộ cho mở khóa huấn luyện chánh trị đầu tiên tại Sài Gòn và đồng thời cho xuất bản tờ Quần Chúng làm cơ quan tranh đấu. Toà soạn đặt tại đường Chaigneau, nay là Tôn Thất Đạm, có cả máy in riêng. Uy thế của Đảng một ngày một lớn mạnh thu hút một số đông trí thức thành tham gia vào cuộc đấu tranh chống xâm lăng bằng hai đường lối: cách mạng ở bưng và đường lối chánh trị ở thành.

Vì sợ ảnh hưởng của Đảng Dân Xã, Cộng sản tìm cách phá hoại bằng lối tung lựu đạn vào tòa soạn báo Quần Chúng; còn thực dân Pháp thì tìm cách ám hại Ủy viên Trung Ương.

THAM CHÁNH.– Mặc dầu đã thành lập Đảng Dân Xã, hoạt động chánh trị ngoại thành với tờ báo Quần Chúng làm cơ quan ngôn luận, nhưng Ngài ít ở Sài Gòn, mà thường có mặt ở chiến khu. Ngài để chơn khắp miền Đông nào là: Bà Quẹo, Hòa Bình, Quéo Ba, Vườn Thơm, Thổ Địa, Chòi Mòi, Bù Lu, Mộc Hóa, Lạc An, An Phú Đông…sát cánh với anh em chiến sĩ, các cấp thuộc thành phần quốc gia như: Huỳnh văn Trí, Lê văn Viễn.

Nhận thấy ảnh hưởng của Đảng Dân Xã được các thành phần trí thức thành thị tham gia khá đông và tiếng nói chánh nghĩa của báo Quần Chúng được đồng bào trong nước hân hoan tiếp nhận và dư luận quốc tế đặc biệt chú ý, Cộng sản mấy lần phá hoại hàng ngũ quốc gia không thấy hiệu quả, nên phen nầy thay đổi chánh sách khủng bố ra chánh sách hòa dịu đối với Đức Huỳnh Giáo Chủ mong được hợp tác trở lại để tăng cường lực lượng kháng chiến hầu có đủ sức chống xâm lăng, nhứt là lực lượng võ trang của Phật Giáo Hòa Hảo đã từng biểu diễn trong nhiều cuộc đột kích thắng lợi quân Pháp ở nhiều nơi.

Để nối lại liên lạc hầu đi đến sự hợp tác, Trường Phong Phạm Thiều tìm đến gặp Đức Thầy.

Trong cuộc đàm thoại, Phạm Thiều có ý trách anh em tín đồ ở Hậu Giang gây nên cuộc xô xát giữa V.M. và Hòa Hảo thì Đức Thầy có đáp: Đứng về mặt tôn giáo, lấy đức hiếu sinh của nhà Phật làm tiêu chuẩn song tôi đã ra làm chánh trị thì những sự xô xát thương tâm do bên V.M. gây ra, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo chỉ đứng về phương diện tự vệ mà thôi.

Sau đó một thời gian, trong lúc Ngài ở Tổng bản dinh Bộ đội An Điền, Phạm Thiều có gởi đến cho Ngài 5 bài thơ khích tướng, có ý mời Ngài tham chánh cứu dân cứu nước, dẹp bỏ mối hiềm xưa:

Mưa gió thâu canh mãi dập dồn,

Âm u tràn ngập cả càn khôn.

Hỡi ai thức ngủ trong đêm ấy,

Có thấu tai chăng tiếng quốc hồn.

Sao còn khắc khoải mối hiềm xưa,

Trang sử chùi đi những vết nhơ.

Gìn giữ tim son không chút bợn,

Mặc toà dư luận thấu hay chưa.

Sao còn lãnh đạm với đồng bang,

Toan trút cho ai gánh trị an.

Thảm kịch “tương tàn” chưa hết diễn,

Long Xuyên, Châu Đốc lụy muôn hàng.

Sao còn ngần ngại chẳng ra tay,

Trước cảnh xâm lăng cảnh đọa đày.

Ngọn lửa binh đao lan khắp đất,

Phật Trời soi thấu cũng châu mày.

Chẳng có cà sa chẳng chiến bào,

Về đây tham chánh mới là cao,

Non sông chờ đợi người minh triết,

Chớ để danh thơm chỉ Võ Hầu.

 

Ngày 1 tháng 10 năm 1946, Đức Thầy gởi bài thơ họa lại nguyên vận như sau:

Những nỗi đau thương mãi dập dồn,

Càng nhiều luân lạc lại càng khôn.

Lặng nhìn thế sự nào ai ngủ,

Chờ dịp vung tay dậy quốc hồn.

Từ bi đâu vướng mối hiềm xưa,

Nhưng vẫn lọc lừa bạn sạch nhơ.

Nếu quả tri âm tri ngộ có,

Thì là hiệp lực hiểu hay chưa?

Nhìn xem Trung quốc khách lân bang,

Cứ cố xỏ ngầm sao trị an?

Nếu thiệt hai bên đồng hiệp trí,

Kẻ gây thảm kịch phải qui hàng.

Lắm kẻ chực chờ đặng phỏng tay,

Mà sao chánh sách bắt dân đày.

Vẫn còn áp dụng vì phe đảng,

Chẳng muốn xông ra sợ cháy mày.

Thà ở trong quân mặc chiến bào,

Ngày qua sẽ biết thấp hay cao.

Nào ai dám sánh mình minh triết,

Mà dám lăm le mộng Võ Hầu.

 

Trước tình thế nước nhà càng ngày càng trở nên nguy ngập, do nạn Thực dân xâm lược, đồng bào bị giết, nhà cửa vườn tược bị tàn phá tan hoang, Đức Thầy trong tuần tháng 10 năm 1946 chấp nhận tham chánh, nhưng với một chức vụ hết sức khiêm tốn, có thể nói một chức vụ tượng trưng cho tình đoàn kết chống xâm lăng: Ủy viên Đặc biệt trong Ủy Ban Hành Chánh Nam bộ.

Ngài đã giải bày lý do của sự tham chánh ấy trong một bản tuyên bố đăng trên báo Quần Chúng ngày 14-11-1946, như sau:

“Hôm nay, nhận rõ cuộc tranh đấu cho tổ quốc còn dài và cần nhiều nỗ lực, hưởng ứng với tiếng gọi đại đoàn kết của chánh phủ Trung Ương, tôi quyết định tham gia hành chánh với những mục đích nầy:

1. Để tỏ cho quốc dân và chánh phủ thấy rằng chúng tôi chủ trương thống nhứt lãnh thổ và độc lập quốc gia.

2. Để biểu dương tinh thần đoàn kết của dân tộc hầu mau đem thắng lợi cuối cùng.

3. Để tỏ cho các đảng phái thấy rằng chúng tôi không khi nào có những tham vọng cao sang vương bá hay vì hềm riêng mà hờ hững với phận sự cứu quốc.

 

Biểu lộ tấm lòng thành thật ấy, tôi chỉ nhận một nhiệm vụ cần thiết, hạp với hoàn cảnh và năng lực mình, cố gắng giàn xếp về hành chánh và quân sự để củng cố tăng cường lực lượng của quốc gia.”

Để giàn xếp các cuộc xô xát giữa Việt Minh và Hòa Hảo – Dân Xã, Ngài chấp nhận thành lập một Ủy Ban Hòa Giải gồm có ba thành viên:

Đại diện Cộng Sản: Hoàng Du Khương

Đại diện Thiên Chúa Giáo: Linh mục Lê bá Luật

Đại diện Phật Giáo Hòa Hảo: Mai văn Dậu

Linh mục Lê bá Luật đúng lý đóng vai trò là trung gian, nhưng theo dư luận, ông thuộc thành phần Thiên Chúa giáo thân Cộng. Thành thử ông Mai văn Dậu phải luôn luôn ở thế chống đối. Vả lại ông là người cương trực và khôn ngoan nên đại diện kia không thể lừa hay lấn áp. Nhờ vậy mà một số cán bộ Dân Xã được cứu thoát.

 

Vì có sự chênh lệch cho nên công cuộc xô xát giữa V.M. và Hòa Hảo lại bùng cháy mãnh liệt hơn trước. Việt Minh lợi dụng tư thế chánh quyền dở thủ đoạn đàn áp và thủ tiêu tín đồ Hòa Hảo và đảng viên Dân Xã, khiến Đức Thầy phải di hành về miền Tây để giàn xếp.

CHI ĐỘI 30.– Trong thời kỳ toàn dân kháng chiến lúc bọn Trần văn Giàu rút về Rạch Giá rồi cuối cùng chạy về Cà Mau, quân Pháp trở lại chiếm cứ miền Nam ngày ngày đi ruồng bố hết làng nầy sang làng khác, đốt phá nhà cửa, giết hại lương dân, nhân dân của mỗi địa phương tự động tổ chức lấy lực lượng võ trang chống Pháp. Ban sơ dùng tầm vông vạt nhọn chống lại thần công đại bác của giặc, nhưng nhờ chiến thuật du kích nhân dân đoạt thủ được súng đạn của giặc mà dần dần tổ thành những đội nghĩa quân, do nhân dân cung cấp lương thực và nhiều khi đóng góp tiền bạc mua sắm khí giới. Những đội nghĩa quân lần lần trưởng thành những tiểu đội, trung đội võ trang có phận sự bảo vệ hương thôn chống lại cuộc ruồng bố của Pháp, bắt đầu từ đó.

 

Phương chi, trong thời kỳ Nhựt bổn, có nhiều đoàn thể hợp tác với Nhựt được Nhựt võ trang nên thành lập riêng những lực chiến đấu.

Đức Huỳnh Giáo Chủ không chịu nhờ Nhựt về quân sự, nên không có tổ chức lực lượng được Nhựt võ trang như các đoàn thể khác. Mặc dầu không hợp tác hay nhờ Nhựt võ trang, nhưng tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo để tự vệ và đóng góp vào công cuộc kháng chiến chống xâm lăng cũng tự động tạo lập các lực lượng võ trang.

Khi Đức Huỳnh Giáo Chủ chấp nhận tham chánh, Ngài đã có một lực lượng quân sự võ trang rồi. Đó là nghĩa quân Cách mạng Vệ Quốc Liên Đội Nguyễn Trung Trực.

 

Để thống nhứt lực lượng kháng chiến, sắp xếp có thứ tự và cùng đặt dưới sự chỉ huy duy nhứt, Đức Thầy đem những đội võ trang ấy tổ chức thành một chi đội trong hàng ngũ Vệ Quốc Đoàn Việt Nam. Đó là Chi đội 30 mà Ngài giao quyền chỉ huy cho ông Nguyễn giác Ngộ lúc bấy giờ từ Côn Đảo mới trở về, vì đã bị Pháp bắt và kêu án, đày đi Côn Đảo về tội tham gia và hoạt động cho Phật Giáo Hòa Hảo. Ngoài thành tích là một tín đồ trung thành dám hy sinh địa vị cho Đạo và chịu khổ cực đi đày trong ba năm, ông Nguyễn giác Ngộ vốn là một quân nhân của Pháp làm đến chức quản trong hàng ngũ lính tập; chính do cái khả năng quân sự đó Ngài giao quyền chỉ huy Chi đội 30 cho ông.

Tuy các lực lượng võ trang của Phật Giáo Hòa Hảo đã hòa mình vào đại gia đình Vệ Quốc Đoàn Việt Nam, nhưng vì sự tản mác quân đội nên sự chỉ huy rất khó và lực lượng không được tập trung để chiến thắng quân giặc lúc bấy giờ đã tràn ngập miền Nam và đặt vững cơ sở quân sự khắp nơi.

Để thống nhứt hành động, gây lấy tin tưởng trong lòng dân, cũng như tinh thần tranh đấu của chiến sĩ, Đức Thầy hợp với các nhà lãnh đạo “Liên quân” (được thành lập sau khi Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp bị Nguyễn Bình ra lịnh giải tán, gồm các chi đội quốc gia đặt dưới quyền chỉ huy thống nhứt của hai tướng Huỳnh văn Trí và Lê văn Viễn) thảo luận để thành lập một Liên khu quốc gia ở miền Tây hầu phân tán lực lượng của Pháp đặng có cứu vãn miền Đông đang bị giặc lấn áp.

_______________________________________________________________

(1). Đề nghị nầy được chánh quyền Trung ương chấp nhận do Điện văn ngày 28-1-1947.

Để chuẩn bị kế hoạch đã định (thành lập một chiến khu quốc gia ở miền Tây), về mặt quân sự, Đức Thầy ra lịnh cho ông Nguyễn giác Ngộ mở trường huấn luyện quân sự, tại núi Dài đào tạo cấp tốc 10.500 quân, đủ khả năng chiến đấu. Một Ban Giám Đốc thành lập, do kinh lý Nguyễn văn Nghiêm chỉ huy. Còn phần huấn luyện thì giao cho ông Lê Hoài Nam cùng 4 sĩ quan Nhựt cấp tá phụ trách.

Đồng thời, Ngài cũng cho đào tạo nhân viên cứu thương, sắm dụng cụ y khoa và thuốc men. Công việc mua sắm và chuyên chở thì giao cho Sáu Rớt tức Trần văn Tươi, hiện nay là Đại Tá trong Quân đội Cộng hòa.

Ngài cũng ra lịnh cho tín đồ miền Tây lo quân nhu và thực phẩm để tiếp tế cho số quân đang tập dượt và số quân sau nầy khi hoàn thành Liên khu Quốc gia.

Có người thắc mắc hỏi Ngài: Tập luyện 10.500 quân rồi lấy súng ống đâu võ trang thì Ngài có đáp: Sợ là sợ mình không có người cầm súng, chớ đừng sợ không có súng.

Đó là về mặt quân sự. Nhưng quan trọng là mặt chánh trị và ngoại giao. Nếu mạnh về mặt quân sự mà yếu về mặt chánh trị và ngoại giao thì cuộc tranh đấu sẽ cô thế, thiếu chánh nghĩa, chẳng những không được người trong nước sẵn sàng hy sinh tham gia mà cũng không được các nước dân chủ bên ngoài ủng hộ.

MẶT TRẬN TOÀN QUỐC.– Vì vậy mà đồng thời với sự chuẩn bị thành lập Quân khu Quốc gia, Ngài còn lo liệu thành lập một mặt trận chánh trị có ảnh hưởng quốc tế. Ngài bèn ra lịnh cho ông Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn lên đường sang Trung Hoa, với sứ mạng ngoài đại diện cho Đảng Dân Xã, còn đại diện Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài Giáo, hai tôn giáo có một lực lượng hùng hậu ở miền Nam để hiệp với các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong ở Trung Hoa, thành lập mặt trận chánh trị, qui tụ các lực lượng chánh trị thành một khối duy nhất tranh đấu cho chánh nghĩa quốc gia, đòi lại chủ quyền dân tộc.

Những nhà cách mạng lưu vong nầy vốn là những lãnh tụ các đảng chánh trị miền Bắc, sau khi bị Cộng sản liên quân với Pháp đánh bạt ra khỏi Bắc Việt chạy sang Trung Hoa nhờ sự che chở của chánh phủ Trùng Khánh cầu viện Trung Quốc giúp đỡ xây dựng lại lực lượng quân sự chờ cơ hội kéo về nước.

Sau khi tiếp xúc và thảo luận, ngày 27-2-1947, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc gọi tắt là Mặt Trận Toàn Quốc được thành lập tại Nam Ninh (Trung Hoa).

Mặt trận gồm các đoàn thể sau đây tham gia:

– Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội

– Việt Nam Quốc Dân Đảng

– Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng và P.G.H.H.

– Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn

– Cao Đài Giáo

– Đoàn thể Dân Chúng

– Liên Đoàn Công chức

Một Ban Chấp Hành Trung Ương thành lập, phân phối trách nhiệm như sau:

– Chủ tịch: Cụ Nguyễn Hải Thần thuộc Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội,

– Ủy viên Ngoại giao: ông Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng.

– Tổng thơ ký: ông Nguyễn Hoàn Bích thuộc Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, đại diện cho Cao Đài giáo và Phật Giáo Hòa Hảo

Ngoài ra còn có quí ông: Trần Côn tức Trần văn Tuyên, Lưu Đức Trung tham gia hoạt động.

Về đại diện trong nước thì giao cho ông Nguyễn văn Sâm, dùng tờ Quần Chúng làm cơ quan ngôn luận cho Mặt Trận.

Mặt Trận có liên lạc với công dân Vĩnh Thụy lúc bấy giờ ở Hương Cảng với mục đích xây dựng giải pháp quốc gia để tranh đấu đòi Pháp trả lại chủ quyền cho nhân dân Việt Nam.

Về sau, Bảo Đại chấp nhận theo kế hoạch của Pháp trở về nước làm Quốc Trưởng, chủ trương đem Việt Nam đứng trong Liên Hiệp Pháp.

Như thế, sứ mạng của Mặt Trận không thành, nghĩa là không tạo được thế chánh trị bên ngoài làm hậu thuẫn cho thế kháng chiến quốc gia bên trong. Dầu không đạt thành ý nguyện, Mặt Trận cũng đã làm được một việc có ích lợi cho dân tộc là Khai sanh giải pháp quốc gia cho vấn đề Việt Nam.

DI CHUYỂN VỀ MIỀN TÂY. Mặc dầu có Ủy ban Hòa Giải đứng ra giàn xếp, nhưng vì thành phần trong Ủy ban quá chênh lệch, trong lúc bên Hòa Hảo Dân Xã chỉ có một đại diện thì bên V.M Cộng sản có đến 2 đại diện (1 của Cộng sản và 1 của Thiên chúa giáo thân cộng) thành thử không có cuộc giàn xếp nào được ổn thỏa. Cán bộ V.M. thường lợi dụng và nhân danh chánh quyền đàn áp và thủ tiêu tín đồ Hòa Hảo và đảng viên Dân Xã, càng làm cho cuộc xô xát giữa V.M. và Hòa Hảo tăng gia.

Với mục đích giàn xếp và chấm dứt cuộc lưu huyết ở Hậu Giang, Đức Thầy cần phải về miền Tây và hẹn với Ung văn Khiêm, đại diện Cộng sản sẽ gặp nhau tại Long Xuyên.

Thế là Đức Thầy chuẩn bị di chuyển về miền Tây. Nhưng trước khi rời miền Đông, theo lời mời của Lê Trung Nghĩa, một phái đoàn gồm có Đức Thầy, Huỳnh văn Trí và Lai Hữu Tài đại diện cho Lê văn Viễn Phó khu trưởng, đến Tòa Thánh Tây Ninh hội kiến với Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc vào hạ tuần tháng 3 năm 1947. Hai nhà lãnh đạo tôn giáo thỏa thuận nhau nhiều vấn đề cứu nước và hẹn sẽ gặp lại.

Trước khi về miền Tây, Ngài cũng đã gởi về trước một nhóm văn nhân, chuẩn bị xuất bản một tờ báo trong khu làm cơ quan cho Liên Khu Quốc gia. Nhưng rất rủi, nhà văn Khổng Dương bị tàu binh Pháp bắn chết tại vàm kinh Phong Mỹ. Chỉ có nhà văn Nguyễn Duy Hinh và một số ký giả may thoát nạn.

Trước nhóm văn nhân nầy, cuối năm Bính Tuất, Ngài cũng phái ông Lê văn Thu về miền Tây mở lớp huấn luyện chánh trị cho cán bộ Đảng Dân Xã tại rạch Cái Gút, xã Nhơn Mỹ, trên cù lao Ông Chưởng, quận Chợ Mới,

Đức Thầy cho Bộ đội Phòng vệ và anh em tín đồ chuẩn bị lên đường. Lúc 9 giờ tối ngày 23-3-1947 nhằm ngày 1 tháng 2 nhuần Đinh Hợi, Đức Thầy cho di chuyển ra khỏi Vàm Vè. Đến 6 giờ sáng hôm sau thì đoàn binh đến thôn Thủy Đông và chiều hôm đó di chuyển đến thôn Thuận Nghĩa Hòa vào lúc 8 giờ tối.

Ngày 5-4-1947 (14 tháng 2 nhuần) vào 2 giờ chiều Đức Thầy đến từ giã anh em trong Chi đội 4 và 25 của Bình Xuyên đóng tại Sông Xoài và Vịnh Sao. Đến 5 giờ chiều, Đức Thầy lên đường về miền Tây. Vào lúc 1 giờ khuya, đoàn binh đến trạm gát của Chi đội 18 của V.M. do Chi đội Xuyến chỉ huy. Chúng có bắt giữ ba chiếc ghe trong đoàn, về sau chúng trả tự do cho chiếc của Bà xã Được trước. Đến 6 giờ sáng thì di chuyển đến kinh Gẫy.

Ngày 6-4-1947 vào lúc 8 giờ, đoàn binh đến chợ Tháp Mười, và 1 giờ trưa thì đến chợ Cái Bèo, 2 giờ chiều đến Ba Sao, 5 giờ chiều đến vàm kinh Phong Mỹ.

Vào khoảng 3 giờ rưỡi sáng thì Đức Thầy đến ngọn Ba Răng và lên văn phòng đặt tại nhà ông Bí thơ Ban chấp hành Thôn Phú Thành, nơi đây đã có Chi đội 30 Vệ Quốc Đoàn Việt Nam do ông Nguyễn giác Ngộ chỉ huy, chực sẵn tiếp rước và bố phòng.

Về đến đây có 2 việc khủng bố của V.M. giết hại tín đồ Hòa Hảo và đảng viên Dân Xã làm cho Ngài xúc động.

Ngày 13-4-1947 một chiến sĩ Dân Xã trong Bộ đội Lưu động số 1 đi hớt tóc tại chợ Ba Răng bị cán bộ V.M. ấp vào bắt đem đi chặt đầu.

Cũng trong ngày đó, anh Nguyễn Ngọc Phước Bí Thơ Tỉnh đảng bộ Rạch Giá bị Trung đội 12 thuộc Đại đội 66/22 bắt và đem hành quyết trong đêm 13 rạng 14-4-1947.

Ông Mai văn Dậu có về báo cáo với Đức Thầy và thú nhận bất lực trong việc can thiệp.

THỌ NẠN.– Hôm sau, Đức Thầy có nhận được 2 bức thơ, một của Trần văn Nguyên, Đặc phái viên kiêm Thanh Tra chánh trị miền Tây Nam bộ và một của Bửu Vinh, mời Ngài đến dự Hội nghị họp tại làng Tân Phú để định liệu kế hoạch hòa giải giữa V.M và Hòa Hảo Dân Xã.

Vào lúc 7 giờ sáng ngày 15-4-1947 (24 tháng 2 nhuần) Đức Thầy xuống ghe đi với 3 người chèo, 4 tự vệ quân, ông Đại đội trưởng ĐĐ/2 và người thơ ký văn phòng là ông Huỳnh Hữu Thiện.

Lối 8 giờ sáng ghe tới chợ Ba Răng, có Trần văn Nguyên xuống bến đón Ngài lên chợ, Ngài diễn giảng trước đông người kêu gọi sự đoàn kết chống xâm lăng và gát bỏ hận thù giữa V.M. và Dân Xã. Trưa lại Ngài dùng cơm với Trần văn Nguyên trong một căn phố gần đó. Sau bữa cơm, độ 12 giờ, Trần văn Nguyên và một thơ ký xuống đi chung ghe với Ngài đến Đốc Vàng hạ thuộc thôn Tân Phú. Đến đây, một bản hiệu triệu được công bố, cho biết các cấp chỉ huy hai bên đang bắt tay nhau lo việc hòa giải và kêu gọi hai bên đừng xô xát nhau.

Sau khi dùng cơm chiều, Đức Thầy lại nghỉ ở nhà một tín đồ gần đó.

Hôm sau, ngày 16-4-1947 (25 tháng 2 nhuần), lối 7 giờ sáng Đức Thầy trở lại hội đàm với Trần văn Nguyên, rồi phái ông Ngô Trung Hưng cùng một nhân viên của Trần văn Nguyên đi các thôn hòa giải.

Sau khi dùng cơm trưa, Đức Thầy xuống ghe nghỉ thì Bửu Vinh đến đưa thơ yêu cầu được gặp Ngài.

Trong cuộc hội kiến, Bửu Vinh báo cáo rằng Dân Xã giết V.M. ở Lấp Vò và buộc Đức Thầy phải đi, nhưng Ngài tỏ ra cương quyết biện bác và đòi Bửu Vinh cùng đi.

Bửu Vinh khước từ và đòi phải cho bộ đội có võ trang theo phòng vệ mới đi. Ngài trả lời một cách cứng cỏi: Tại sao tôi có một ít người không có bộ đội ủng hộ lại dám vào sào huyệt các ông. Như thế quí ông không thành thật.

Bửu Vinh không trả lời được nên buộc lòng nhận đi và yêu cầu Đức Thầy đến văn phòng của y để cùng đi. Liền lúc đó, Trần văn Nguyên đến trao cho Ngài một mãnh giấy nói rằng có điện tín từ Ủy ban Hành Chánh Nam Bộ mời Đức Thầy trở về miền Đông lập tức dự phiên họp bất thường.

Đức Thầy trả lời không thể trở về dự phiên họp được vì còn lo việc hòa giải. Chiều hôm ấy Trần văn Nguyên từ giã Ngài vào lúc nhá nhem tối.

Y lời hẹn, Đức Thầy xuống ghe đến văn phòng Bửu Vinh, có một liên lạc viên dẫn đường. Trời tối đen như mực, bỗng có tiếng kêu: ghe ai đó? Sao giờ nầy đã thiết quân luật mà còn dám đi!

Người liên lạc trả lời: Đi lại văn phòng ông Bửu Vinh.

Liền đó có lịnh: Ghe ghé lại. Rồi thì đèn chóa rọi xuống, khi biết là ghe của Đức Thầy, chúng nói ông Bửu Vinh mời Đức Thầy lên văn phòng.

Đức Thầy cùng 4 tên tự vệ quân lên một ngôi nhà ngói. Ngài vào ngồi bàn giữa nói chuyện với Bửu Vinh, còn 4 tự vệ quân thì cầm súng đứng hai bên cửa gần đó.

Mười phút sau, lối 7 giờ rưỡi, có 8 người đi từ bên ngoài đi vào, chia ra làm 4 cặp tràn tới đâm 4 tên tự vệ quân.

Ba người bị đâm chết, chỉ còn anh thứ tư là Phan văn Tỷ lanh trí nên tránh kịp, liền thoát ra ngoài, bắn một loạt tiểu liên. Trong lúc anh Tỷ né thì một trong 2 tên V.M. bị đồng bọn của mình đâm chết.

Thấy chuyện chẳng lành, Đức Thầy lẹ làng thổi tắt đèn; văn phòng trở nên tối đen, không ai nhận thấy Đức Thầy đâu cả.

Viên thơ ký của Ngài và 3 tên chèo ghe lẹ làng tẩu thoát, vội vã về báo tin.

Tiếng tù và, thùng thiết nổi dậy báo động. Binh sĩ toan vác súng kéo đi giải vây thì vào khoảng 11 giờ đêm bỗng có một tín đồ phi ngựa mang về Phú Thành một bức thơ như sau:

Ông Trần văn Soái và ông Nguyễn Giác Ngộ.

Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra tôi với ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra; trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay là mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động.

Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ về sau.

Phải triệt để tuân lịnh.

Ngày 16-4-1947 9 giờ đêm.

            (Ký tên)

Ông Mai văn Dậu đem đối chiếu chữ ký thì xác nhận là chính của Đức Thầy. Thế là mọi người phải tuân lịnh, chỉ nhìn nhau mà thở dài với niềm hy vọng ngày mai Ngài sẽ trở về.

Nhưng từ ngày 16-4-1947 cho đến nay vẫn bặt luôn tin tức.

                       Chương XI: Lý do thọ nạn 

Sự ra đi của Đức Thầy đã đặt ra nhiều thắc mắc nghi vấn.

Thắc mắc là vì Ngài có sứ mạng cứu trần mà công việc cứu độ chưa hoàn tất, Hội Long Hoa chưa khai, đời Thượng Nguơn chưa lập, bảng Phong Thần chưa dựng, như thế chẳng hóa ra những điều hứa hẹn của Ngài lại sai, công việc lập đời lại bỏ dở hay sao?

Nghi vấn là Ngài đã ám thông tâm lý và nhiều lần đã hiển thị cho người đời thấy nhiều trường hợp mầu nhiệm để tăng trưởng đức tin, chẳng lý nào Ngài không biết Cộng sản chủ mưu ám hại Ngài hay sao để phải thọ nạn. Như vậy là Ngài không có tha tâm thông?

Như chúng ta đã thấy, khi đọc Sấm Giảng, Ngài đã tiên đoán được thời cuộc, biết được tâm lý người khi đến thử thách, đoán biết những bài thơ thách họa hay hỏi thiên cơ, mặc dầu còn nằm trong túi, Ngài cũng biết được và đáp đúng theo chỗ nghi vấn của người thì đâu có lẽ Ngài lại không biết Cộng sản mưu hại Ngài?

 

ĐÃ BIẾT TRƯỚC. Chúng tôi dám quả quyết là Ngài đã biết tại nạn xảy ra và Ngài sẽ vắng mặt một thời gian. Trong Sấm Giảng, Ngài đã có nói trước về sự vắng mặt của Ngài và trong thời gian đó không ai theo hay biết tung tích. Những người gần Ngài thường nghe Ngài nói mà ngay trong Sấm Giảng Ngài cũng từng bộc lộ trong câu:

Rán nghe lời dạy của Thầy,

Để chừng đến việc kiếm Thầy không ra.

Hay câu:

Tu kíp kíp nếu không quá trễ,

Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.

Nếu không biết có lúc Ngài phải vắng mặt thì Ngài dặn dò làm chi như Ngài đã thổ lộ trong bốn câu thơ trên đây.

Ngài đã biết âm mưu của Cộng sản định ám hại Ngài. Bằng chứng là hôm Ngài bước chơn xuống ghe ngày 15-4-1947, Ngài tỏ ra áo não mà than Trời ba tiếng.

Và khi ghe đến làng Tân Phú, trời đã nhá nhem tối. Ngài kêu hỏi một phòng vệ trong số 4 người theo hầu rằng: Như bây giờ thả anh tại đây, anh có biết đường về Phú Thành không? Người phòng vệ ấy trả lời biết. Thì quả nhiên, chính anh phòng vệ ấy tên là Phan văn Tỷ cũng gọi là Mười Tỷ còn sống như đã trở về báo tin trong lúc 3 tên phòng vệ kia bị VM sát hại ngay khi mật lịnh truyền ra.

 

Hơn nữa, Ngài cũng đã cho ông Ngô Thành Bá tự Biện đài biết trước rằng Ngài sẽ vắng mặt một thời gian, như ông Ngô Thành Bá đã thuật trong quyển “Dõi Gót Theo Thầy” như sau:

“Đức Thầy dắt tôi xuống suối. Ngồi dưới bóng tòng mát mẻ, Thầy trò ăn bánh uống nước. Đức Thầy nói với tôi: Ngày sau Thầy phải xa cách bổn đạo một thời gian, trong thời gian ấy, tín đồ phải chịu đau khổ và không một ai biết Thầy ở nơi nào”. (Đức Thầy còn nói nhiều nữa, nhưng tôi không dám thuật lại hết sợ trái ý Ngài vì Ngài có cấm, xin anh chị miễn lỗi cho) (1)

_______________________________________________________________

(1) Ngô Thành Bá tức Biện đài: Dõi Gót Theo Thầy. Bản 1972, Tr. 29.

LÝ DO VẮNG MẶT.– Như thế là Ngài biết trước âm mưu của Cộng sản, nhưng tại đâu Ngài lại chịu thọ nạn? Theo chúng tôi, Ngài biết thế nào Ngài vắng mặt một thời gian, như vậy Ngài hẳn phải chọn lấy cơ hội nào thuận tiện và có lợi ích cho cơ đạo pháp của Ngài để mà lấy cớ vắng mặt.

Vậy thì sự vắng mặt của Ngài hẳn có lý do và những lý chánh yếu có thể xin trình bày ra đây.

a). Đợi Thời Cơ.– Sở dĩ Ngài phải vắng mắt vì Ngài đã hiểu thời cơ chưa đến cho Ngài thừa hành sứ mạng thiêng liêng. Muốn đợi thời cơ thì không chi hơn là Ngài vắng mặt trong một thời gian, như Ngài có lần thổ lộ:

Thôi cũng an lòng cam số phận,

Đợi chờ thời vận sẽ tuông mây.

Ngài đã nhiều lần nhắc nhở phải đợi thời cơ:

Chớ nóng nảy sân si hư việc,

Phải đợi thời vua Kiệt hồi qui.

Hoặc giả:

Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,

Hay là:

Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên,

Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh.

Vì thời cơ chưa đến nên Ngài khuyên nên ẩn nhẫn:

Đứng nam nhi ẩn nhẫn chờ thời.

Hay là:

Ngóng trông chờ vận thời đưa đến.

b). Gìn Giữ Khí Tiết.– Khi mà thời cơ chưa đến, thiên lịnh chưa ban thì dầu có mặt cũng không làm gì được. Không làm gì được thì hóa ra bất tài bất lực, còn nếu phải làm gì thì lắm khi khó tròn danh phận. Vì giai đoạn chưa thuận tiện cho sự hiện diện nên ngài buộc lòng thừa cơ hội để vắng mặt hầu giữ tròn khí tiết của bực siêu nhân.

c). Cơ Thử Thách.– Phương chi sự vắng mặt của Ngài còn dụng ý thử thách, để xem tín đồ sau một thời gian được giáo hóa, trong lúc Ngài vắng mặt có còn phụng hành theo lời chỉ giáo, có còn nghiêm thủ giữ luật hay không, như Ngài đã từng cảnh giới:

Nấu lọc rành mới biết vàng thau,

Ai thật tánh ai người giả đạo.

Phải có thử thách mới biết “ai xiêu, ai ngã, ai bền”.

d). Luyện Tánh Tự Lực.– Vả lại sự vắng mặt ấy lại còn là cơ hội tập cho tín đồ có tánh tự lực, bỏ tánh ỷ lại. Như Đức Lục Tổ có nói: Khi mê thì Thầy độ, lúc ngộ thì trò tự độ. Ví như việc tập cỡi xe đạp; lúc đầu phải có người vịn thì chạy không ngã, đến chừng chạy được thì người vịn phải buông tay ra để cho người tự đạp lấy. Bằng như cứ theo vịn mãi thì người cỡi xe đạp vẫn còn giữ mãi tánh ỷ lại, không sao can đảm tự mình chạy lấy. Trong kinh Phật cũng có một thí dụ tương tợ. Người tu học cũng như đứa trẻ tập đi. Khi chưa biết đi thì mẹ gác cây vịn ra để cho con vịn mà lần bước, đến chừng đi vững thì lấy cây vịn ra để cho con tự đi một mình. Nếu cứ để cây vịn mãi thì đứa con sẽ nhút nhát không dám buông. Như vậy biết chừng nào mới tự đi được.

đ). Tăng Lòng Mong Cầu.– Hơn nữa Ngài có vắng mặt như thế mới khiến cho tín đồ càng đem lòng thiết tha ngưỡng vọng. Ngài càng vắng mặt lâu chừng nào thì càng làm cho tín đồ chơn thành càng tăng lòng trông ngóng. Thời cuộc càng kéo dài, chúng sanh càng đau khổ thì tín đồ càng trông mong Ngài mau trở lại cứu độ.

e) Tiết Kiệm Xương Máu.– Đứng về phương diện hoạt động cách mạng chánh trị, Đức Thầy luôn luôn phát lộ qua văn thư, lập trường dân tộc của ngài, như đã tuyên bố trên báo Quần Chúng ngày 14-11-1946:

“Tôi, một đệ tử trung thành của đạo Phật, một chiến sĩ trì chí của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, sẵn sàng cùng đoàn thể mình cương quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương quyết tranh đấu để bảo vệ quyền lợi chung cho nòi giống”.

Đứng trên lập trường dân tộc, hẳn phải tranh đấu chống xâm lăng, nhưng trong lúc độc tài Cộng sản cố diệt các phần tử ái quốc chơn chánh để độc chiếm quyền kháng chiến thì Ngài cũng không thể đi với độc tài Cộng sản giết hại các phần tử ái quốc. Ngài cũng không thể đứng với xâm lăng chống lại độc tài Cộng sản khi bọn nầy mượn danh nghĩa dân tộc chống xâm lăng.

 

Hơn nữa Ngài muốn để cho tín đồ được tự do chọn lấy phương thức tranh đấu thế nào vừa bảo tồn được đoàn thể, ít tổn hại về sinh mạng và tài sản mà vẫn giữ tròn được chánh nghĩa quốc gia. Ngài muốn tiết kiệm xương máu của tín đồ, cho nên Ngài cần phải vắng mặt. Vả lại, địa vị của Ngài là đứng trên thế tục (au dessus de la mêlée) và sứ mạng của Ngài là cứu thế (messie).

Nói tóm lại, Ngài vắng mặt là vì Ngài đã biết trước:

[1] Thời kỳ chiến tranh còn kéo dài.

[2] Tình trạng nước nhà chưa ngã ngũ.

[3] Máy huyền cơ chưa đến mức.

Nếu Ngài có mặt, chẳng những chưa có thể cải tạo được định luật của thiên cơ mà còn làm cho tín đố sanh lòng ngờ vực khinh thường đâm ra lờn lã mất cả đức tin.

Trái lại Ngài vắng mặt sẽ gìn được đức tin của tín đồ và làm tăng trưởng lòng mong cầu. Tình thế càng làm cho họ đau khổ thì càng làm cho lòng mong cầu càng tăng trưởng. Như vậy sự trở về của Ngài mới quan trọng.

                          Chương XII: Còn hay mất 

Theo sự tuyên truyền của Cộng sản thì sau ngày Đức Thầy ngộ nạn xảy ra tại Đốc Vàng Hạ, ngày 25-4-1947 một tòa án đặc biệt do Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ thành lập đã tuyên án tử hình Đức Thầy và theo sự truyền rao của chúng, Đức Thầy đã bị hành quyết.

Mặc dầu Cộng sản xác nhận nhiều lần Đức Thầy không còn, nhưng cho đến nay, vẫn còn điều nghi vấn chẳng những đối với tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo không tin mà đối với dư luận cũng còn phân vân, đưa ra nhiều tài liệu minh xác Đức Thầy không mất.

Vậy Đức Thầy còn hay mất? Cộng sản thì nói mất, còn đa số dư luận thì cho rằng còn. Đứng trên quan điểm xác nhận Đức Thầy còn, chúng tôi xin trưng ra một số tài liệu được sắp xếp thành mấy đề mục như sau:

1. DƯ LUẬN.- Sau khi tin Đức Thầy bị Cộng sản ám hại tung ra, có nhiều nguồn dư luận đương nhiên không phải của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo truyền ra rằng Đức Thầy vẫn còn. Dư luận đó được trình bày hoặc trên báo chí, hoặc trên sách vở hay tài liệu chuyền tay có chữ ký của tác giả chịu hoàn toàn trách nhiệm về tài liệu mà họ đã trưng dẫn đúng với sự thật, do mắt thấy tai nghe hay người trong cuộc thuật lại. Sau đây chúng tôi xin trình bày các tài liệu đã thâu thập:

a)- Theo quyển “Để hiểu Phật Giáo Hòa Hảo” kể lại: “Sau đó một thời gian, chúng tôi có được một cái tin như vầy: Có một chiếc ghe thương buôn vào mua bán trong vùng Đồng Tháp Mười, có ghé một đêm gần trụ sở VM. Sáng ra những người dưới ghe thấy trên bờ có quân lính rộn rịp xôn xao, chạy lục xét khắp nơi cả dưới thuyền trên lộ, chừng như có một việc gì quan trọng đã xảy ra. Mấy người dưới ghe tọc mạch thấy vậy hỏi thăm mới hay rằng trong lúc điệu Đức Huỳnh Giáo Chủ về Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, đến đây nghỉ một đêm. Họ đem nhốt Ngài trên một từng lầu, xung quanh có rào giậu chắc chắn và được canh phòng nghiêm mật. Thế mà sáng ra, Ngài đã biến đi đâu mất, chẳng còn biết kiếm đâu ra”.

Thuật lại câu chuyện này, tác giả quyển “Để hiểu Phật Giáo Hòa Hảo” có hạ lời bình luận:

“Điều nầy đối với tín đồ Hòa Hảo thì không còn phải là một việc lạ, vì trong lúc dạo lục châu, Ngài đã từng nhiều lần thay hình đổi dạng một cách thần diệu. Chẳng hạn trường hợp Ngài thoát nạn tại đường Sohier khi bộ hạ của Trần văn Giàu đến bao vây. Trong tín đồ của Ngài có một số người đã được Ngài cho thấy sự mầu nhiệm để tăng trưởng đức tin” (1).

b)- Báo Phục Hưng ra ngày 16-4-1949 có thuật lại đêm Đức Thầy ngộ nạn ở Đốc Vàng và cảnh đem Đức Thầy ra hành quyết như sau:

“Đến pháp tràng, ba người nầy (đao phủ) tuốt kiếm sửa soạn ra tay thì Huỳnh Giáo Chủ nghiêm nét mặt khoát tay nói:”Mấy anh em hãy để tôi nói đôi lời”.

“Nói đi.

“Ông Huỳnh nói thao thao bất tuyệt một lúc lâu với giọng điệu chẩm rải và rõ rệt, lời lẽ dễ hiểu, giản dị,

“Không thể nhắc lại được những lời nói ấy của ông. Nhưng chỉ biết rằng trong khi ông nói, ba tên đao phủ nhìn nhau, rồi lâu lâu thở dài, dần dần cúi đầu xuống. Những nét hung ác trên mặt chúng lần biến đi, thanh kiếm rời khỏi bàn tay hoen máu của chúng. Chúng trở nên hiền lành như ba con chiên nhỏ.

“Những lời của đạo đức, những câu chơn lý của sự thật, đã cảm hóa được ba con người. Chỉ nội trong mười phút đồng hồ mà ba tên đao phủ biến thành ba tín đồ của người mà chúng sắp xử.

“Nói vừa đoạn, giáo chủ họ Huỳnh hỏi chúng:

“- Bây giờ ta nói đã xong, các anh cứ phận sự thi hành đi…

“Câu nói ấy rơi bất thần vào óc ba tên đao phủ giữa lúc lòng đã mềm vì những lời bác ái, lòng đã trắng vì những sự thật làm cho chúng trở nên kinh ngạc đến ngây ngô.

“Chúng không còn can đảm cầm đến thanh kiếm nữa. Chúng nhìn nhau và nhìn vị giáo chủ ngại ngùng. Một tên ấp úng nói:

“- Thưa ông Tư! Chúng tôi hiều rồi. Xin ông Tư đi đi. Đi ngay bây giờ!

“- Thế còn nghĩa vụ và trách nhiệm của các anh?

“- Không sao. Ông Tư cứ đi. Chúng tôi sẽ tính được. Chúng tôi hiểu ông nhiều rồi và tay chúng tôi không còn gân sức đâu để giết ông. Ông hãy đi cho thoát và độ trì cho ba chúng tôi.

“- Các anh nói thiệt à!

“- Thửa lòng chúng tôi lúc nầy có biết nói dối là gì đâu?

“Thế là vị Giáo Chủ họ Huỳnh lại khoan thai lên đường đi hút lẫn trong bóng tối.

“Và cũng đêm ấy, tại chỗ ấy có một người bị chặt làm ba, liệng xuống hố vùi đất lên” (2).

c)- Theo quyển “Sự thật về vụ Đức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn tại Đốc Vàng Hạ năm Đinh Hợi 1947” của Hoài Sơn Huỳnh Thành Vị cũng có đoạn nhận Đức Thầy không bị hành quyết và quả quyết “Đức Thầy còn sống“. Trong quyển ấy, ông Hoài Sơn có viết:

“Cách đây chín năm, vào tháng 10-1955, thời gian nhân dân VNCH đi bỏ phiếu lật đổ chế độ quân chủ lỗi thời thiết lập chế độ Cộng Hòa hữu hiệu.”

“Hồi bấy giờ, kẻ viết bài nầy được sống chung với một số chánh trị phạm trong một nhà lao Gia Định”.

Ông được nghe trong số tù nhân đó, anh Huỳnh văn Đạt người Sóc Trăng (Ba Xuyên) kể lại câu chuyện Đức Thầy thoát khỏi ngục của VM.

Theo lời anh Đạt, anh là Trưởng cơ quan Biệt động đội khu 9 đóng văn phòng tại khu rừng giáp biên giới Miên-Việt gọi là Sóc Preng. Theo thường lệ những tội nhơn khu 9 hoặc khu 8 đều gởi lên đây để khai thác trước khi thủ tiêu.

Vào khoảng trung tuần tháng 5 năm 1947, có 6 tội nhơn gởi đến. Được tin, anh Lê Hà Tiểu đoàn trưởng Biệt động đội liền gọi anh Đạt gởi một Trung đội đến trạm liên lạc C.48 nhận 6 tội nhơn, trong đó được biết có Đức Huỳnh Giáo Chủ. Các tội nhơn gởi đến đều bị bịt mắt và được đưa giam trong vựa lúa ông Trần Sen vì nhà nầy chỉ có 2 vợ chồng, còn con cái đều thoát ly theo bộ đội.

Một điều lạ là đêm trước khi đưa Đức Thầy đến, ông Trần Sen nằm mộng thấy có 3 người để tóc dài đến cho biết ngày mai Đức Thầy đến và xin ông chỗ nghỉ ngơi. Cũng trong đêm đó, ông Lục Thạch Khum cũng được báo mộng như vậy.

Nhờ vậy mà ông Trần Sen hết sức săn sóc Đức Thầy từ chỗ ngủ đến việc ăn uống, khi Tám Gồng được lịnh đưa Đức Thầy đến và có bổn phận canh giữ Ngài. Chiều hôm đó Trần Sen làm gà và đem một lít rượu đế đãi Tám Gồng. Đêm đó Tám Gồng ngủ say cho đến 6 giờ sáng mới tỉnh rượu thức dậy, xem lại thì không thấy Trần Sen nhưng y đinh ninh là tội nhơn còn nằm trong vựa lúa.

Đến phiên Sáu Chương đến thay thế Tám Gồng. Khi giao việc, Sáu Chương mới phát giác là Trần Sen đã đưa Đức Thầy đi trốn.

Từ đó Đức Thầy biệt tăm luôn, mặc dầu Cộng sản hết sức đi tầm kiếm. Mấy người liên hệ trong việc nầy bị tra tấn mà cũng không ra tung tích. (3)

Phê Bình.- Đọc qua các tài liệu đã dẫn để minh chứng Đức Thầy còn sống, chúng tôi xin làm công việc của nhà viết sử, kiểm điểm và phân tách sự kiện để thẩm định giá trị đích thực của nó, nhiên hậu mới xác nhận thiệt hư.

a)- Về câu chuyện kể lại trong quyển “Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo” chỉ là câu chuyện nghe thuật lại, nghe qua cũng có lý nhưng thiếu yếu tố nhân chứng nên không thể quả quyết giá trị đích thực của nó.

b)- Tài liệu của báo Phục Hưng, trong đó có nhân chứng, nhưng nhân chứng lại không có tên cho nên câu chuyện kể lại thiếu nhãn quan của người tận mắt thấy tận tai nghe mà lại là nhãn quan của một người nhà báo hay có thể nói một nhà viết tiểu thuyết. Như thế đứng về quan điểm của một nhà thẩm định sử liệu mà xét thì cũng kém giá trị về thực chất của nó, không khác gì câu chuyện được kể lại như trường hợp của mục a).

c)- Đến như tài liệu của ông Hoài Sơn thì nhân chứng có thể kiểm soát, câu chuyện nghe qua cũng có thể tin được, nhưng nếu ta đọc toàn quyển “Sự thật về vụ Đức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn tại Đốc Vàng Hạ năm Đinh Hợi 1947“, chúng ta không khỏi mất tất cả tin tưởng vào giá trị sử liệu của nó. Những câu chuyện kể trong đó, từ việc hoạt động chánh trị của Đức Thầy ở miền Đông đến những sự việc xảy ra ở miền Tây đều hoàn toàn sai sự thật. Quyển sách không có giá trị sử liệu và như thế không thể tin câu chuyện ba tên đao phủ lãnh sứ mạng hành quyết Đức Thầy đã thả Ngài và tráo vào đó một cái xác khác để báo cáo là đã hoàn thành nhiệm vụ hành quyết.

Còn nếu chúng ta đem câu chuyện của báo Phục Hưng đối chiếu với câu chuyện nầy thì chúng ta càng hoang mang tự hỏi đâu là sự thật? Nếu tin theo báo Phục Hưng thì Đức Thầy nào bị VM đưa đến Soc Preng?

Ngoài ra chúng tôi cũng nhận được một bức thơ ký tên Hoàng Cái và Hoàng Anh cũng tự nhận lãnh lịnh của Bửu Vinh, ám hại Đức Thầy nhưng rồi lại thả Ngài, bức thơ hoàn toàn sai sự thật từ đầu đến cuối, không thể bằng vào đó mà tin sự việc thật có xảy ra.

Kiểm điểm những tài liệu vừa trình bày, chúng tôi thấy chưa đủ bằng chứng xác nhận những trường hợp đã kể là thật có. Thức giả còn hoài nghi giá trị xác thực của nó. Như vậy chúng ta chưa thể nhận những tài liệu đã kể là chứng tích khả tín.

2. Nội Chứng.

Sau khi kiểm điểm các tài liệu ngoại tại hay ngoại chứng, chúng ta nên cứu xét những tài liệu nội tại hay nội chứng, những chứng tích tìm thấy ngay trong Sấm Giảng, trong những lời chính Đức Thầy đã thổ lộ về việc vắng mặt của Ngài. Xét về phương diện nội chứng, có mấy dữ kiện sau đây biện minh rằng Ngài không hề mất.

a).- Ngài đã cho biết trước rằng Ngài sẽ vắng mặt một thời gian như đã đề cập trong mục “đã biết trước”, nơi chương XI. Ngài đã hứa hẹn Ngài sẽ trở lại. Như vậy thì không thể đặt vấn đề mất hay bị thủ tiêu được, mà đối với Ngài chỉ có vấn đề vắng mặt.

b).- Như chúng ta đã biết Ngài lâm phàm là vì thọ mạng lịnh cùng sắc chỉ của Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Thích Ca, Đức Quan Âm, Đức Ngọc Đế, Đức Minh Chúa. Và chúng ta cũng đã biết Ngài có sứ mạng: Trừ con nghiệt thú, thâu con long ác nghiệt, lập Hội Long Hoa, dựng bảng Phong Thần, cầm cân thưởng phạt, lập đời Thượng nguơn, đóng vai tá quốc…

Nếu nay Ngài mất đi thì chẳng hóa ra cái chương trình hoạch định của thiên cơ bất thành hay sao.

Ông Thanh Sĩ quả quyết Đức Thầy sẽ hoàn thành sứ mạng chớ không bỏ dở, như ông đã viết:

Khuyên đừng có lắm phân vân,

Không Thầy cái hội Phong Thần ai phong.

(Lời khuyên Tu Hiền)

Ông cả quyết Đức Thầy sẽ hoàn thành sứ mạng của Đức Phật và Đức Ngọc Đế giao phó: “Thì hãy tin tưởng rằng máy thiên cơ chẳng lầm. Đức Thầy sẽ trở lại về hình thức cũ đặng dìu dắt chư đồng đạo nam nữ trung thành chơn chánh đưa đến Hội Long Hoa để hoàn thành sứ mạng của Phật và Đức Ngọc Đế giao phó. Sau đó Đức Thầy mới trở lại ngôi xưa vị cũ hưởng quả Bồ đề an lạc nơi cõi bất sanh.”(4)

c).- Ngài đã mượn câu chuyện Tiết Nhơn Quí ẩn thân nơi dinh của bà Cửu Thiên để thổ lộ giai đoạn lánh mặt của Ngài. Như chúng ta biết, sở dĩ bà Cửu Thiên giấu Tiết Nhơn Quí nơi dinh là vì bà biết sau nầy người phải đương đầu nhiều tai nạn nên cố giữ lại đặng truyền phép mầu. Trường hợp vắng mặt của Đức Thầy không khác trường hợp của Tiết Nhơn Quí:

Nhớ qua hồi lúc đời Đường,

Hiền thần Nhơn Quí người đương ẩn mình.

Cửu Thiên còn giấu nơi dinh,

Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày.

d) Trường hợp của Ngài vắng mặt cũng trùng hợp trường hợp của Khương Thượng trong truyện Phong Thần. Như được biết khi Khương Thượng hạ san có đến giúp nhà Thương. Vua Trụ bắt ông làm đốc công xây cất Lộc Đài. Chẳng những không nhận, ông còn can ngăn. Vì thế vua Trụ bắt tội khinh quân và xử ôm Bào Lạc. Khương Thượng nhảy xuống lầu, vua cho quân đuổi theo, khi đến cầu Cửu Long ông nhảy xuống nước, độn thủy về ẩn nơi Bàng Khê mà câu cá chờ thời. Trường hợp của Đức Thầy cũng tương tợ nên chi Ngài nhắc đến trường hợp của Khương Thượng để ám chỉ giai đoạn vắng mặt hay ẩn cư của Ngài trong câu:

Khương Tử Nha sông Vị ngồi phiền,

Câu không ngạnh chờ non phụng gáy.

3. DẪN CHỨNG LỊCH SỬ.– Bằng vào những luận cứ nội tại, người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo có thể tin được Đức Thầy vẫn còn chớ không có mất hay bị hại như tin của Cộng sản đã loan, nhưng đối với người đời, những người đã quen đặt đức tin vào những bằng chứng cụ thể hay hiểu sự vật theo quan điểm khoa học ngày nay thì những dữ kiện viện dẫn không thể làm cho họ chấp nhận một cách dễ dãi. Phải có những bằng chứng thiết thực, những luận cứ khoa học mới phá tan được lòng nghi hoặc của họ.

Để làm sáng tỏ trường hợp vắng mặt của Đức Thầy, chúng tôi phải nhờ vào những dẫn chứng lịch sử mà từ trước đến nay người đời vẫn chấp nhận, mặc dầu nhơn loại đã tự hào bước vào giai đoạn nguyên tử, khám phá không gian, đặt chơn lên nguyệt cầu.

A)- Trường hợp Thiên Chúa Giáo. Đứng về phương diện tôn giáo hoàn cầu, Thiên Chúa Giáo là một tôn giáo chiếm địa vị nhứt nhì trên thế giới, với một tổng số tín đồ ước lượng chừng 500 triệu người, trải khắp các nước trên năm châu.

Về lịch sử của đấng Giáo Chủ, trong sách Tân Ước (Nouveau Testament) có cho biết, trên bước đường truyền giáo Chúa Giê Su bị bọn Du Dà bắt và kết tội tử hình. Chúng đem Chúa đóng đinh trên Thập Tự Giá cho đến chết vì những vết thương đâm vào bụng và đánh đập đẫm máu. Sau đó chúng đem xác Chúa xuống rồi khiêng chôn trong hang đá. Ba hôm sau, Chúa sống lại (Phục Sinh), các vết thương đều lành lặn. Chúa đi vân du hóa độ 10 ngày khắp nơi rồi bay lên Trời (Thăng Thiên).

Câu chuyện Chúa chết đi sống lại một cách phi thường rồi lại thăng thiên cả xác thịt, đối với cặp mắt khoa học ngày nay là một việc ngoài sức tưởng tượng. Thế mà các nhà khoa học hữu danh trên thế giới hầu hết là tín đồ Thiên Chúa Giáo không hề bài bác, hằng tuần vẫn ngoan ngoãn đến nhà thờ lễ bái, xưng tội và cầu nguyện.

Năm trăm triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo chấp nhận Chúa chết đi sống lại mà không ai cho đó là mê tín dị đoan thì sao tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo lại không được tin Đức Thầy của họ không bị hại và có ngày trở về với thể xác bằng xương bằng thịt khi thời cơ đến.

 

B)- Trường hợp Phật Giáo. Trong Phật Giáo cũng có trường hợp chết đi sống lại tương tợ.

Sách Đạt Ma Bửu Truyền có kể lại truyện Đạt Ma Tổ Sư, vị tổ thứ 28 bên Ấn Độ, cũng là Sơ Tổ phái Thiền Tông bên Trung Hoa. Khi Ngài sang Đông độ vào thời Lương Võ Đế. Nhận thấy vua thiếu cơ duyên nên vào núi Tung Sơn ngồi xây mặt vào vách chín năm (cửu niên diện bích) nơi chùa Thiếu Lâm. Ngài có thâu nhận một ni cô tên Dương Yên Chi làm đệ tử. Ni cô là một người nham hiểm, sợ Ngài truyền phép cho kẻ khác hơn mình, nên mưu toan đầu độc Ngài. Ngài đã biết trước nên hóa thân uống lấy thuốc độc mà chết. Ni cô yên trí là Ngài đã chết nên sắp đặt việc mai táng.

Một hôm có một Lão Tăng từ Ấn Độ về đến hỏi ni cô về Đạt Ma Tổ Sư thì Yên Chi cho biết Thầy đã chết. Lão Tăng cãi lại là khi đi đến Hùng Nhĩ sơn thấy Tổ Sư vai mang cây lau có quảy một chiếc giày. Ngài dùng cây lau mà vượt qua Đại hà trở về Ân Độ.

Hai đàng cãi nhau, rốt cuộc đi đến giải pháp quật mồ thì thấy chỉ còn có một chiếc giày.

Còn theo sách Phật Tổ Truyền Uyển Kế đăng Lục thì chuyện Tổ Sư được kể lại như sau:

Khi Ngài nói kệ phó pháp xong, liền hiện thần thông biến tướng, rồi lại trở về tòa ngồi mà thị tịch. Ngài thị tịch rồi nhà vua dùng áo Kim Quan chứa đựng ngọc thể của Ngài rồi an táng ở núi Hùng Nhĩ. Sau ba năm, ông Chu Vân phụng chỉ vua nhà Ngụy đi sứ, khi trở về thì gặp Tổ mang một chiếc giày ở núi Thông Lãnh. Ông hỏi Tổ về đâu?

Tổ đáp: Tôi đi về cõi Tây Thiên.

Ông Chu Vân trở về triều đem sự kiện ấy ra tâu. Nhà vua sai người đào mả Ngài lên xem thì chỉ thấy còn lưu lại một chiếc giày mà thôi. Vua ban chiếu cúng dường Ngài ở chùa Thiếu Lâm.

Về trường hợp Đạt Ma Tổ Sư tịch, mỗi sách mỗi nói khác, nhưng tựu trung đều cùng nhận Tổ Sư chết đem an táng và khi quật mồ thấy chỉ còn có một chiếc giày.

Sự tích này không khác sự tích Chúa Giê Su chết đi sống lại; nếu lấy cặp mắt khoa học ngày nay mà nhìn thì khó mà tin được. Nhưng 550 triệu tín đồ Phật Giáo đều tin và thờ Ngài trong chùa với bức vẽ một người có bộ râu bao hàm, trên vai có vác một cây lau có máng một chiếc giày. Các Phật Tử đều tin thật Tổ Sư Đạt Ma không chết thì sao tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo lại không được tin Đức Thầy của mình còn sống.

Nếu hai việc chết đi sống lại hay có thể nói các bậc siêu phàm không hề chết của hai tôn giáo lớn nhứt trên hoàn cầu mà có thể tin được thì việc Đức Huỳnh Giáo Chủ không chết cũng có thể tin được.

KẾT LUẬN.– Đối với các bực siêu phàm thì không nên đặt vấn đề sống hay chết. Các hiện tượng chuyển kiếp hay hóa hiện là việc thông thường trong Phật Giáo, cho nên vấn đề bất tử hay hiện tượng mà người phàm gọi là chết đi sống lại, chỉ có Phật Giáo mới giải thích được mà thôi.

 

Cứ theo kinh điển thì con người có ba thân (tam thân): Báo thân, Pháp thân và Ứng thân hay Hóa thân. Báo thân là cái thân quả báo mà mọi người sanh ra đời đều mang lấy để đền trả bao nhiêu nghiệp nhân đã gây tạo ở tiền kiếp. Ngày nào trả sạch các nghiệp, trừ diệt vô minh thì cái Báo thân ấy đổi lại thành Pháp thân. Người tu hành đắc quả A La Hán trở lên là có Pháp thân.

“Pháp thân là chơn thân của vạn pháp, thể lượng rất rộng lớn như hư không, chẳng có sắc tướng gì chỉ được, lúc nào cũng thường nhiên thanh tịnh. Hết thảy muôn loài, đều có Pháp thân nhưng vì mê muội mà thành ra cách biệt.

“Trong kinh Phật có câu: “Phật chân Pháp thân do như hư không, ứng vật hiện hình như thủy trung nguyệt”. Nghĩa là chơ Pháp thân của Phật ví như hư không, tùy vật mà hiện hình như trăng trong nước”. (5).

Cho được như có pháp thân, Đức Huỳnh Giáo Chủ có khuyên:

Tính xong món nợ lần khân,

Thoát vòng cương tỏa Pháp thân nhẹ nhàng.

Đại phàm đã có Pháp thân thì có Ứng thân hay Hóa thân. Ứng thân là thân ứng hiện ra, hễ có cảm thì có ứng. Như người tu hành dầu ở phương Tây, phương Nam hay phương Bắc, ở cõi Nam thiện bộ châu hay Bắc cu lô châu, hễ niệm Phật tha thiết thì sẽ được Phật vì cảm niệm của chúng sanh mà ứng hiện ra, hoặc hóa hiện ra.

Như trong quyển “Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm” tức quyền Sấm Giảng thứ Nhứt của Đức Huỳnh Giáo Chủ, ta thấy Ngài trong lúc dạo lục châu, hóa hiện ra khi thì giả dạng người già kẻ trẻ, người buôn bán, kẻ chèo đò… không biết bao nhiêu lần. Cũng như khi nằm ở nhà thương Chợ Quán, có lần Ngài hóa hiện ra một cụ già cho bác sĩ Trần văn Tâm thấy để tăng trưởng đức tin.

Đã hóa hiện như thế thì hẳn Ngài đã có Pháp thân. Như vậy thử hỏi trong lúc bắt Ngài hay đem ra hành quyết, Ngài không thể hóa hiện ra một con người khác như ý Ngài muốn, như trường hợp Đạt Ma Tổ Sư hóa thân uống thuốc độc của cô Yên Chi, chẳng được hay sao! Lựa là phải vẽ chuyện ba tên đao thủ thả Ngài hay ông Trần Sen dắt Ngài đi trốn cho phải lụy đến kẻ khác hay phải chịu ơn cứu tử của người đời, cho lắm chuyện; chỉ làm thỏa mãn óc phàm, chớ không thể làm cho người đạt đạo chấp nhận.

Cho nên đối với bực siêu phàm như Đức Chúa Giê Su, Tổ Sư Đạt Ma hay Đức Huỳnh Giáo Chủ thì không có thể đặt ra vấn đề chết hay sống.

Chúng tôi chỉ đặt ra vấn đề vắng mặt, vắng mặt vì thời cơ chưa tới, vắng mặt để giữ tròn khí tiết của bực siêu nhân, vắng mặt để tiết kiệm máu xương của tín đồ, vắng mặt để rồi ngày kia trở lại hoàn thành sứ mạng của Đức Phật và Đức Ngọc đế giao phó. Khi cơ trời đã đến Ngài sẽ trở về nguyên trạng trước sự ngạc nhiên của mọi người.

 

Có như thế người đời mới tin vào sứ mạng cứu độ của Ngài trong những ngày cõi thế gian hoại diệt chấm dứt Hạ nguơn đau khổ để kiến lập đời Thượng nguơn an lạc.

Nhưng hỡi ơi! Đến chừng đó thì đã muộn màng. Chỉ còn chắc lưỡi mà than: không dè! Vì thế ông Thanh Sĩ mới khuyên:

Đó đây gẫm thật hữu duyên,

Cho nên được gặp phổ truyền kệ ca.

Rán tu sau được hưởng nhờ,

Không thời đừng nói: Không ngờ, bớ ai! (6)

CHÚ THÍCH:

(1) Thanh Sĩ và Vương Kim: Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo. Tr.47.

(2) Dẫn theo quyển “Thất Sơn Mầu Nhiệm” của Dật Sĩ và Nguyễn văn Hầu. tr.282-290.

(3) Hoài Sơn Huỳnh Thành Vị: Sự thật về vụ Đức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn tại Đốc Vàng Hạ năm Đinh Hợi 1947. Vinh Sơn xuất bản, tr.64-80.

(4) Thuyết pháp ứng khẩu. Quyển II, tr.86.

(5) Để Hiểu Phật Giáo Hòa Hảo. Tr.209.

(6) Thuyết pháp ứng khẩu. Quyển I, trang 116.

Chương XIII: Học Phật [trở lại đầu trang]

Từ ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939) ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ ra mở đạo cứu đời, cho đến ngày 25 tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi (1947) ngày Ngài vắng mặt, tính ra trên 7 năm, trùng hợp với thời gian Đức Phật Thầy Tân An ra hoằng hóa. Đức Phật Thầy ra đời vào mùa thu năm Kỷ Dậu (1849) và tịch nhằm ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856) tính ra cũng 7 năm.

Một sự trùng hợp nữa là Đức Phật Trùm, một chuyển kiếp của Đức Phật Thầy ra đời cũng trong thời gian 7 năm. Ngài ra mở đạo cứu đời năm Mậu Thìn (1860) và tịch năm Ất Hợi (1875) tính ra cũng đúng 7 năm.

Trong thời gian 7 năm, một thời gian quá ngắn ngủi, Đức Phật Thầy Tây An đã khai sáng giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, một tông phái Phật đạo dân tộc, với pháp môn Học Phật Tu Nhân, một pháp môn khế hợp với căn cơ chúng sanh của thời Hạ nguơn mạt pháp.

Đến như Đức Huỳnh Giáo Chủ, trong vòng hơn 7 năm, ngoài việc khai sáng mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo, cũng một tông phái Phật đạo dân tộc thuộc giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài còn thực thi pháp môn Tu Nhân Học Phật.

Cho nên có thể nói, khai thị pháp môn Học Phật Tu Nhân là Đức Phật Thầy Tây An, còn thực hiện hay áp dụng pháp môn đó vào đời là Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Đức Phật Thầy chỉ khai thị chớ chưa áp dụng thiết thực được pháp môn Học Phật Tu Nhân vào đời sống là vì hoàn cảnh lúc bấy giờ chưa thuận tiện hay thiếu cơ duyên, bởi lúc Đức Phật Thầy ra đời, nước Việt Nam chưa mất vào tay Pháp.

Đến giai đoạn của Đức Huỳnh Giáo Chủ, nước Việt Nam đã hoàn toàn bị Pháp đô hộ, phong trào Cần Vương kháng Pháp nổi lên khắp nơi, cho nên ngoài công việc xướng minh Phật đạo (Học Phật) đã lu mờ vì thất chơn truyền, pha màu phương thuật và sắc tướng âm thinh, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn tự thân đứng ra xướng xuất công việc vãn hồi đạo Nhân (Tu Nhân) để làm tròn bổn phận của một công dân đối với đất nước bị ngoại bang xâm chiếm, làm gương mẫu cho môn nhơn noi theo, tạo lập công đức hầu trở nên người hiền, hội đủ điều kiện dự Hội Long Hoa, vượt qua cơn Hạ nguơn hoại diệt mà sống còn trong đời Thượng nguơn an lạc.

Đối với pháp môn Học Phật Tu Nhân, Đức Huỳnh Giáo Chủ, vừa làm công việc thừa kế, vừa làm công việc thực thi và phát triển. Cho nên mặc dầu thời gian ra mở đạo rất ngắn ngủi (hơn 7 năm) Ngài đã cống hiến cho thế nhân đến ba sự nghiệp vĩ đại về Đời và về Đạo.

 

Về Đạo, Ngài đã xây dựng nên một sự nghiệp tôn giáo. Đó là tông phái Phật Giáo Hòa Hảo, một sự truyền thừa của giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương với pháp môn Học Phật Tu Nhân, một giáo pháp đối cơ, cứu độ chúng sanh trong thời Hạ nguơn hoại diệt.

Về Đời, Ngài đã tạo lập hai sự nghiệp: chánh trị và quân sự, rồi tự thân đứng ra dìu dắt môn nhơn cùng tham gia tranh đấu hầu gây tạo công đức trong công cuộc cứu dân giúp nước. Đây là sự nghiệp cách mạng mà Ngài đã dày công tạo lập để làm phương tiện thực thi sự nghiệp Đạo đức, một sự nghiệp cứu thế.

MỤC ĐÍCH CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO.

 – Sứ mạng của Đức Huỳnh Giáo Chủ hay mục đích của Phật Giáo Hòa Hảo là hoàn thành sự nghiệp: cứu độ chúng sanh cho được sống còn trong đời Thượng nguơn an lạc.

Đức Huỳnh Giáo Chủ lâm phàm là vì sứ mạng cứu thế, như Ngài đã viết:

“Thiên Tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế giới trong cái buổi Hạ nguơn nầy, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh gây nên nghiệp quả, luật Trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi, cùng chư vị chơn Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên đình ân xá bớt tội căn để kịp đến Long Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc Chơn Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái bình…”.

Nhưng muốn được sống còn trong đời Thượng nguơn an lạc, “làm dân Phật quốc, hưởng sự thái bình” thì trước hết phải đi qua ngưỡng cửa Hội Long Hoa để được chọn lựa.

Điều kiện được dự Hội Long Hoa và được chọn lựa đưa qua đời Thượng nguơn phải là người Hiền, như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã cho biết:

Lập rồi cái Hội Long Hoa,

Đặng coi hiền Đức được là bao nhiêu.

Hay là:

Trở chơn cho kịp Long Hoa,

Long Hoa có mặt ấy là Hiền Nhơn.

Như thế, sứ mạng của Đức Huỳnh Giáo Chủ hay mục đích của Phật Giáo Hòa Hảo chung kết cũng chỉ qui vào công việc chọn người Hiền hay đào tạo người Hiền, như Ngài đã cho biết trong Sấm Giảng:

Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện,

Tìm con lành dắt lại Phật đường.

 Hay là:

Kiếm con hiền đức dắt về,

Về nơi cõi Phật Tây phương an nhàn.

Hoặc giả:

Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,

Ra tay tế độ dắt lần về ngôi.

Để đạt mục đích cho người Hiền, hay đào luyện người Hiền, giáo pháp của Phật Giáo Hòa Hảo đặt nặng vào chương trình đào tạo nên người hiền đức, cũng như Nho Giáo có mục đích đào luyện nên hạng người quân tử.

Vậy giáo pháp ấy thế nào? Chương trình đào luyện nên người hiền đức ra sao?

Đức Huỳnh Giáo Chủ không ngại mà chỉ rõ trong quyển “Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền” tức quyển Qui tắc hành đạo:

“Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong đạo chúng ta thuộc hạng tại gia cư sĩ, Học Phật Tu Nhân vậy”

Trong lời tuyên bố nầy có hai điểm nên để ý:

1/ Tại gia cư sĩ.

2/ Học Phật Tu Nhân.

Xem đó đủ thấy, hạng người mà Đức Huỳnh Giáo Chủ nhắm hay tìm kiếm để đào luyện là hạng cư sĩ tại gia, nghĩa là Ngài nhắm vào đám quần chúng đông đảo trong xã hội, đúng với thệ nguyện của Ngài là độ tận chúng sanh, đương nhiên là hạng thiểu căn thiểu phước, hạng “chưa đủ những điều kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay Ni cô đặng”, khác hơn các tông phái khác nhắm vào hạng xuất gia “hoàn toàn ly khai với gia đình, quê hương, bè bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am cốc… không còn thiết đến việc đời”.

Và phương pháp để cứu độ hạng thiểu căn thiểu phước, hạng chiếm đa số trong thời kỳ Hạ nguơn nầy là pháp môn

Học Phật Tu Nhân, một pháp môn có 3 đặc tánh ưu thắng:

Đối cơ nghĩa là phù hạp với căn cơ thiểu bạc của chúng sanh trong thời mạt kiếp

Đối cảnh nghĩa là thích ứng với hoàn cảnh ác liệt của buổi Hạ nguơn.

Phải pháp nghĩa là giản lược và cấp thời mới kịp cơ biến chuyển của Thiên định, chấm dứt cõi Hạ nguơn ô trược để lập đời Thượng ngươn khinh thanh an lạc.

Vì theo Đức Huỳnh Giáo Chủ thời cơ đã cấp bách căn khí chúng sanh lại bạc nhược, nếu đem giáo pháp có tánh cách lâu dài hay cao viễn ra giáo hóa thì không thể nào kịp, không sao tránh khỏi nạn hoại diệt của cõi đời Hạ ngươn.

Chi bằng đào tạo nên hạng người hiền đức đủ điều kiện dự Hội Long Hoa, khi được làm dân Phật quốc, hưởng cảnh lạc nhàn của cõi Thượng ngươn, sẽ tiếp tục tu hành để đạt quả vị giải thoát, thành Tiên thành Phật.

Ví cũng như có người toan đóng một chiếc thuyền to để vượt qua bể cả, nhưng phải mất ít nhứt 2 tháng mới xong, trong lúc chỉ còn 15 hôm nữa thì được biết có trận bão lụt sắp xảy ra. Nếu tiếp tục đóng chiếc thuyền đó thì không khỏi bị trận bão lụt ấy cuốn mất cả thuyền lẫn mạng sống. Chi bằng theo lời dạy của vị tiên giác, nên gấp đóng một chiếc xuồng nhỏ chỉ trong 5 hôm là xong, rồi cấp tốc dùng xuồng ấy (Học Phật Tu Nhân) ra một cái đảo yên tịnh kia (cõi Thượng ngươn) chắc chắn sẽ thoát khỏi trận bão lụt (cơ hoại diệt của Hạ ngươn). Sau đó sẽ đóng chiếc thuyền lớn mà sang biển cả (biển sanh tử luân hồi) chẳng là được an toàn tánh mạng và đi đến mục đích (đáo bỉ ngạn) hay sao?

Giáo pháp của Phật Giáo Hòa Hảo cũng như thế.

Cho nên, để độ tận chúng sanh khỏi cơn hoại diệt Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa ra pháp môn Học Phật Tu Nhân để đào luyện nên hạng người Hiền Đức mà thôi.

Ngay trong bài nguyện qui y Tam bảo hay nguyện trước bàn Cửu Huyền Thất Tổ, chúng ta cũng thấy Đức Thầy dạy tín đồ của Ngài, nguyện “tu hiền” để trở nên người hiền đức.

Đây là bài nguyện trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ:

Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền,

Cầu trên Thất Tổ chứng lòng thiềng.

Nay con tỉnh ngộ qui y Phật,

Chí dốc Tu Hiền tạo phước duyên.

Và đây bài nguyên qui y trước ngôi Tam Bảo:

“… nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, qui y theo mấy Ngài Tu Hiền theo Phật đạo”.

Cả hai bài nguyện đều nói rõ cứu cánh của hành đạo là Tu Hiền, tu để trở thành người Hiền.

Nguyện là lời hẹn ước quyết thực hành để đạt đến cứu cánh. Nếu kiếp nầy chưa hoàn thành lời nguyện thì trong các kiếp tới vẫn tiếp tục cho đến ngày thực hiện. Nguyện ví không khác lời thề. Khi lập thệ thì suốt đời phải giữ cho đến khi thực hiện mới giải thệ.

Như Đức Phật A Di đà khi còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo đã lập 48 lời nguyện, trải qua vô lượng kiếp tu hành cho đến ngày thực hiện cõi Cực Lạc đúng theo 48 lời nguyện mới chịu an trụ nơi cõi Tịnh độ.

Phàm đã lập nguyện, tức là mình thề quyết tâm tu hành để thực hiện những lời thệ nguyện ấy.

Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mỗi đêm lễ bái đều lập lại lời nguyện Tu Hiền, tu cho được trở thành người Hiền, chớ không thể làm trái với lời nguyện. Làm trái tức là phản bội lời đã lập thệ.

Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khuyên và cảnh giác:

Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi,

Phải làm tròn các việc vẹn toàn.

Dân chớ nên làm bướng làm càn,

Trong lúc ấy nguyện cho lấy có.

Nguyện mà không hành y theo lời nguyện tức là bội ước đối với Thầy Tổ, với Cửu Huyền thì mong gì tu hành cho đắc đạo.

Đã biết mục đích của Phật Giáo Hòa Hảo là Tu Hiền; vậy Đức Huỳnh Giáo Chủ thi thiết pháp môn nào để đào tạo nên người Hiền?

Như chúng ta đã thấy, phương pháp mà Ngài đem ra giáo hóa là pháp môn Học Phật Tu Nhân.

HỌC PHẬT TU NHÂN.– Nhưng thế nào là Học Phật Tu Nhân?

Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tóm lược giáo pháp ấy trong hai câu thơ sau đây:

Tu thân thiện tính phải chuyên cần,

Lục Tự Di đà, giữ Tứ Ân.

Hay là:

Đặng khuyên những kẻ ngỗ ngang,

Biết câu Lục Tự, gìn đàng Tứ Ân.

Như thế pháp môn Học Phật Tu Nhân, gồm có hai môn Lục Tự và Tứ Ân.

HỌC PHẬT

Lục Tự là niệm sáu chữ: Nam Mô A Di đà Phật. Lục Tự biểu thị cho pháp môn Tịnh độ là pháp môn chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà để cầu được vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc, đúng với 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, vì Ngài đã thệ nguyện: Nếu ai niệm đến danh hiệu của Ngài là được Ngài dùng thần lực tiếp độ kẻ ấy vãng sanh về cõi Cực Lạc, hưởng sự nhàn an, chứng quả vô sanh, bất thối.

Đây là một pháp môn phù hạp với căn cơ thiển bạc của chúng sanh thời mạt pháp vì không thể tự lực hành trì các pháp môn tối thắng tối cao để vượt ra khỏi Tam giới, thoát nạn luân trầm trong tam đồ lục đạo.

Vì không thể tự mình tu hành để tự mình cứu độ nên chi Đức Phật Thích Ca khai thị pháp môn Tịnh độ tu cầu tha lực cứu độ chúng sanh vãng sanh về cõi Cực Lạc, được tịnh hóa về cả hai phương diện chánh báo (chúng sanh) và y báo (cảnh giới). Nhờ ở hoàn cảnh thanh tân tinh khiết, lại làm bạn với các bậc thượng thiện nên sự học mau đạt thành quả vị không như ở cõi Ta bà, bao quanh toàn những ác duyên chướng ngại, dầu muốn ngồi yên mà tu cũng khó mà tu cho được.

Pháp môn Tịnh độ chẳng những dễ tu dễ đắc mà lại phù hạp với mọi căn cơ; mọi trình độ cơ cảm nào cũng đều tu được cả, như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã viết:

Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,

Dầu Tiên, phàm, ma, quỉ, súc sanh;

Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,

Được cứu cánh về nơi an dưỡng.

Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,

Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.

Vì là pháp môn dễ tu, cõi Tịnh độ lại giải thoát con người mọi sự buồn rầu lo sợ, không còn phải bận tâm lo ăn lo mặc, được rảnh rang tu học mau đắc quả, nên chi Đức Huỳnh Giáo Chủ không dứt khuyến tấn người đời tu theo pháp môn Tịnh độ:

Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã,

Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn.

Chốn Ta bà tim lụn dầu mòn,

Thân tứ đại của người cũng thế.

Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,

Đến tội rồi mới hối muộn màng.

Chi cho bằng ta sớm lo toan,

Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật.

Đến lâm chung quả lành đâu mất,

Cõi Tây phương chư Phật đợi chờ.

Ngài còn quả quyết rằng Ngài đã rành đường ngõ, chứng tỏ Ngài đã sống qua cảnh giới ấy:

Tìm Cực Lạc, đây rành đường ngõ,

Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu.

Nếu Ngài không từ cõi ấy giáng sanh thì Ngài đã không thổ lộ:

Tây phương Cực Lạc, Khùng ngồi tòa sen.

Hay là:

Tây phương yêu chúng chẳng ngồi lâu,

Sắc của A Di Đà Phật Tổ.

Ngày đã thọ sắc lịnh của Đức A Di Đà xuống trần, thế nên pháp môn Tịnh độ là pháp môn mà Ngài lãnh sứ mạng phổ truyền để cứu độ chúng sanh trong thời hoại diệt:

Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,

Đức Di Đà truyền mở đạo lành.

Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,

Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.

Pháp môn Tịnh độ mặc dầu dễ tu dễ hành nhưng cho được vãng sanh về cõi Cực Lạc, chẳng phải ai ai cũng có thể làm được.

Sở dĩ ít người làm được là vì ít có người thành tựu niệm Phật nhứt tâm tức niệm Phật tam muội mà Đức Huỳnh Giáo Chủ gọi nôm là niệm rành như Ngài đã viết:

Xưa nay sáu chữ lạnh tanh,

Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi.

Nhưng cho được vãng sanh, người niệm Phật phải hoàn mãn về hai phương diện: nội nhân và ngoại duyên.

Về nội nhân là phải thành tựu niệm Phật nhứt tâm hay tam muội (chánh định) hay nói theo thuật ngữ của Đức Huỳnh Giáo Chủ là niệm Phật cho sành.

Nhưng ngoài nội nhân, còn phải được ngoại duyên trợ trưởng thì hột giống (nội nhân) vãnh sanh mới phát triển. Về ngoại duyên, theo Đức Huỳnh Giáo Chủ, phải có 2 yếu tố khá quan trọng, rất khó thành đạt. Đó là 2 điều kiện mà người niệm Phật phải có là: được “trọn lành” và “trọn sáng” như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nêu ra trong điều thứ tám trong Tám điều Răn Cấm:

“Nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh”.

Cho được trọn lành, hành giả phải hoàn tất giai đoạn “chư ác mạc tác” và “chúng thiện phụng hành” (điều ác đừng làm; điều lành gồm làm) của Đức Phật đã dạy, tức là hoàn thành đạo làm người, như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nói:

Tu đền nợ thế cho rồi,

Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.

Và cho được trọn sáng, hành giả phải hoàn tất giai đoạn “tự tịnh kỳ ý” trong bài Tứ cú kệ “chư ác mạc tác” của Đức Phật, nghĩa là đã đạt được sự tỏ ngộ tự tâm, tức là huệ tâm khai phát, như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nhận:

Nếu ai mà biết chữ tu trì,

Tâm bình tịnh được thì phát huệ.

Nhưng làm thế nào cho tâm được bình tịnh?

Thành thử điều kiện để được vãng sanh về cõi Cực Lạc, ngồi trên tòa sen tuy nói thì dễ mà thực hành thật là khó. Thử hỏi mấy ai dám nhận mình đã trọn lành (toàn thiện) và trọn sáng (toàn minh)?

Vì vậy mà trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn gấp rút của buổi Hạ nguơn sắp đến ngày chấm dứt, Đức Huỳnh Giáo Chủ, chủ trương niệm Phật chẳng qua là để dự Hội Long Hoa, như Ngài đã nói rõ trong bài thơ đọc khi ngồi niệm Phật, như sau:

Mắt nhìn trần đỏ niệm Di đà,

Nguyện vái thân này khỏi đọa sa.

Muôn đạo hồng quang oai Đức Phật,

Soi đường minh thiện đến Long Hoa.

Khi đã dự Hội Long Hoa là được sống còn trong đời Thượng ngươn. Và theo Đức Huỳnh Giáo Chủ, mà được sống còn là nhờ tu pháp môn Tịnh độ hay niệm Phật rành như Ngài đã khuyên nhủ:

Niệm Di đà rán niệm cho rành,

Thì mới được sống coi Tiên Thánh.

Được coi Tiên Thánh tức là được sống đời Thượng ngươn là cuộc đời phàm Thánh đồng cư, nghĩa là người phàm sẽ sống lẫn lộn với Tiên Thánh trong cõi Thượng nguơn an lạc.

Pháp môn Tịnh độ là pháp môn tu cầu tha lực, nghĩa là nhờ vào nguyện lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn về nơi Tây phương Cực Lạc.

Nhưng ngoài môn tu cầu tha lực, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn chỉ phép tu Tự lực để trợ trưởng và bồi đắp cho phép tu Tha lực thêm sâu dày vững chắc.

Căn cứ theo những điều chỉ dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong Sấm Giảng thì các pháp tu Tự lực có thể phân ra làm ba loại môn:

I. Loại môn thứ nhứt:– Ác Pháp là các pháp làm trở ngại sự phát triển các thiện pháp, thường làm ô nhiễm thân tâm, gây nên lắm điều tội lỗi khiến con người mãi vướng mắc trong vòng luân hồi đau khổ.

Thuộc về các ác pháp có thể kể:

Tam nghiệp hay Thập ác là những nghiệp do Thân Khẩu Ý tạo nên, như: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm thuộc về Thân; Lưỡng thiệt, Ỷ ngôn, Ác khẩu, Vọng ngữ thuộc về ác của Khẩu; Tham lam, Sân nộ, Mê si thuộc về ác của Ý.

Thất tình là bảy thứ tình cảm như: Mừng, giận, buồn, yêu, ghét, muốn, sợ.

Lục dục là Danh vị, Tài lợi, Sắc đẹp, Tư vị, Hư vọng, Tật đố.

Cộng lại là 13 con ma thường làm não loạn thân tâm con người, khiến cho thân loạn động, tâm nhiễm ô.

Lục căn, Lục trần là sáu cội rễ (căn) trong thân người như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, làm chỗ cho sáu cảnh (trần) như: Sắc (màu sắc), Thinh (tiếng nói), Hương (mùi), Vị (vị), Xúc (chạm), Pháp (vạn vật) xâm nhập vào nội tâm gây thành Lục thức (sáu cái biết) làm cho điên đảo thân tâm. Do sáu căn mà sáu trần (bụi nhơ) bên ngoài thâm nhập (nhiễm) vào tâm thức làm cho ô nhiễm, đảo điên, ngày đêm tiết rỉ ra ngoài (lậu) các thứ phiền não bất tịnh, phá hoại công đức của con người cứ mãi lăn lộn trong tam đồ lục đạo.

Ngũ uẩn. Theo Đức Huỳnh Giáo Chủ là 5 thứ hoặc làm cho con người trở nên đần độn, trụ mãi chỗ tối tăm, không tiến đến chỗ siêu thoát. Năm thứ hoặc ấy là: Tham, Sân, Si, Nhân, Ngã.

Về Ngũ uẩn, Đức Thầy có giải:

Lời Ta dạy hãy nên suy nghiệm,

Phải phá tan Ngũ uẩn trong mình.

Chữ Tham trong ý muốn mặc tình,

Rán định tánh trừ cho nó tuyệt.

Chữ gây gỗ là Sân hãy diệt,

Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng.

Thêm chữ Si thiệt quá lòng dòng,

Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt.

Chữ Nhân Ngã cũng là quá gắt,

Dẹp năm tên được mới mừng cười.

Vô pháp tướng mới là thiệt tướng,

Tứ đổ tường là bốn bức tường làm cho con người sa ngã, bị nhốt chặt vào chỗ mê lầm tăm tối, không cho vượt ra ngoài ánh sáng của đạo mầu để tiến lên con đường siêu thoát, khỏi chốn luân hồi sanh tử.

Về Tứ đổ tường, Đức Huỳnh Giáo Chủ có giải:

Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,

Với bốn ma mới đặng an nhàn.

Tửu nhiễm vào thân thể bất an,

Sắc mến nó ngày kia lao khổ.

Ta nghiệm xét từ đời Bàn Cổ,

Có ai dùng mà đặng thành Tiên.

Mà đời nay theo nó liên miên,

Chữ Tài của khổ riêng một kiếp.

Bị tội cướp nào ai có tiếp,

Mà đời nay nó cứ mãi làm.

Chữ Khí hùng khuyên chớ có ham,

Mà lao lý tấm thân trần thế.

 

Trên đây là những ác pháp cần phải trừ diệt, nều ta muốn tu chỉnh thân tâm cho được chánh chơn thuần mỹ hầu có trang nghiêm các hạnh lành cho con đường tiến tu giải thoát.

II) Loại môn thứ hai.– Chơn pháp là các pháp làm hiển lý chân thật, phá tan mọi vọng kiến, soi đường cho chân lý hiển thị, giúp người nhận rõ nguyên lý của sự vật.

Thuộc về Chơn pháp hay Hiển pháp, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã luận giải:

Tứ diệu đề là bốn chân lý biện giải về sự khổ (Khổ đề), nguồn gốc của sự khổ (Tập đề), phương pháp diệt trừ sự khổ (Diệt đề) để đi đến con đường giải thoát (Đạo đề).

Đó là diễn trình Tứ diệu đề theo Đức Phật. đến Đức Huỳnh Giáo Chủ để cho phù hợp với căn cơ chúng sanh thời mạt pháp, Ngài đã sắp xếp cái diễn trình Tứ diệu đề lại như sau:

Tập đề là khi mới bước vào tu tập,

Diệt đề là phải diệt trừ các ác pháp.

Khổ đề là nhẫn chịu khổ trong lúc tu học,

Đạo đề là đạt đến chỗ thành đạo.

 

Thập nhị nhân duyên là 12 nhân duyên chằng chịt nhau tạo ra những chuỗi dây chuyền nhân quả của con đường luân hồi mà con người phải vướng mắc không thoát ra được.

Về Thập nhị nhân duyên, Đức Huỳnh Giáo Chủ có giải như vầy:

“Đó là 12 duyên sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia không có dứt; cái vô minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô thỉ. Có mê dốt ta mới hành động, rồi hành động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết), ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh sắc, còn ta là loài hữu tình có cái biết ấy nên có xác thịt và linh hồn, danh sắc. Xác thịt và linh hồn có thì phải có 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, nhiễm với 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục nhập. Có lục nhập mới có tiếp xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc động, rồi từ chỗ tiếp xúc mới thọ hưởng của tiền trần nên gọi là thọ cảm. Có thọ cảm, thọ hưởng của tiền trần rồi mới có cái ưa thích, quyến luyến thâm tình nên gọi là ái,

“Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó thì ta phải gắng công gìn giữ chặt chịa nên gọi là bảo thủ; mà gìn giữ chặt chịa thì mới có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc ấy mới đầu thai trở lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn vật hễ sinh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa) làm nên nào tứ thời, cảm mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất phải chết nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp nhơn của già chết ấy là tại cái vô minh mà ra tất cả”.

Ngũ trược là 5 thứ nhơ bẩn của cõi Ta bà làm ô nhiễm thân tâm con người mãi đắm say trong cõi trần ai tục lụy. Năm sự dơ bẩn ấy là:

– Kiếp trược là kiếp sống con người vì đắm say ô nhiễm mà lần lần giảm thọ. Do kiếp trược mà con người sanh ra 4 thứ trược tiếp theo sau:

– Kiến trược là kiến thức ô trược, điên đảo.

– Phiền não trược là mối mê lầm nhơ bẩn.

– Chúng sanh trược là các loại hữu tình đều ô trược.

– Mạng trược là mạng sống ô trược.

Nếu con người hiểu được nguồn gốc của sự khổ, nguyên nhân của luân hồi và nhận thấy cõi trần cũng như đời sống con người ô trược thì hết say đắm mà tìm phương tu hành để giải khổ, thoát kiếp luân hồi, siêu xuất cõi đời ô trược.

Muốn được như thế, thay vì hành ác pháp, nên nhận rõ nguyên lý chơn thật của sự vật rồi hành các thiện pháp để trang nghiêm đời sống cho được thanh tịnh mà siêu xuất khỏi bể hồng trần đầy đau khổ.

III. Loại môn thứ ba.– Thiện pháp là các pháp lành mà con người cần tu tập để gây lấy thiện duyên, sửa trị thân tâm cho được thanh cao tốt đẹp hầu đắc quả Thánh Phật, dứt cuộc luân trầm, hoàn toàn giải thoát.

Thuộc về thiện pháp, trong Sấm Giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ có chỉ dạy mấy pháp sau đây:

Bát Chánh là tám con đường chánh, nếu con người hành theo sẽ tu chỉnh được thân, khẩu, ý được chánh chơn thiện mỹ. Để tu chỉnh bản thân thì hành môn:

– Chánh kiến là thấy đúng theo sự thật.

– Chánh nghiệp là làm nghề nghiệp chơn chánh.

– Chánh mạng là giữ thân mạng chơn chánh trong sạch.

Để tu chỉnh miệng lưỡi thì hành môn:

– Chánh ngữ là giữ gìn lời nói chơn chánh.

Để tu chỉnh bản tâm thì hành môn:

– Chánh tư duy là giữ tư tưởng luôn luôn nghĩa điều chơn chánh.

– Chánh tinh tấn là giữ Đức tin vững vàng và cương quyết tiến tới.

– Chánh niệm là giữ tâm không xen tạp những tà niệm.

– Chánh định là giữ lòng vắng lặng.

Muốn cho sự tu hành được bền vững, không chán nản vì cảnh gian lao hay thử thách, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn chỉ dạy thêm mục Bát nhẫn.

Bát nhẫn là 8 điều nhịn nhục mà người tu hành cần rèn luyện để xử thế tiếp vật, điều phục thân tâm hầu có đủ sức chịu đựng; lướt qua mọi gian nguy, đem lại hòa ái trong gia đình, trong xã hội mong sớm đạt thành đạo quả.

Tám điều nhẫn ấy là:

– Nhẫn năng xử thế là đức nhẫn để đối xử với đời và nhẫn đợi thời cơ. Hành được sẽ trở thành người hiền.

– Nhẫn hương lân là đức nhẫn giữ hòa khí đối với chòm xóm.

– Nhẫn phụ mẫu là đức nhẫn hiếu kính đối với cha mẹ.

– Nhẫn tâm là đức nhẫn giữ lòng an định.

– Nhẫn tánh là đức nhẫn giữ tánh điềm đạm.

– Nhẫn đức là đức nhẫn giữ đức độ hiền hòa.

– Nhẫn thành là đức nhẫn của thành tâm, tín tâm.

Trên đây là các pháp tu tự lực, sở dĩ Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ dạy là để trợ trưởng cho pháp tu tha lực của pháp môn Tịnh độ.

Ví như kẻ rớt xuống nước mong được người trên thuyền cứu vớt, trong lúc người trên thuyền thòng tay xuống vớt (tha lực) mà người dưới nước không cố sức vọt lên (tự lực) thì người trên thuyền dầu muốn cứu cũng không làm sao được.

Vì vậy mà đồng thời với phép tu cầu tha lực, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn chỉ dạy thêm pháp tu tự lực. Cũng như chiếc thuyền vừa chèo (tự lực) lại còn được sức gió (tha lực) đẩy thêm thì thuyền sẽ mau tới bến.

Cứu cánh của pháp môn Tịnh độ là vãng sanh về cõi Cực Lạc, nhưng vào thời pháp nhược ma cường của buổi Hạ nguơn mạt pháp nầy, gặp đầy ác duyên trở ngại thì khó mà hành cho được phép niệm Phật nhứt tâm hay tam muội. Niệm Phật mà không nhứt tâm thì khó mà được tha lực tiếp độ. Vả lại, theo Đức Huỳnh Giáo Chủ, cho được vãng sanh, người tu còn phải được trọn lành trọn sáng.

Thảng như không được vãng sanh thì người tu nhờ có niệm Phật và tâm lành lánh dữ cũng trở thành người hiền có đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống đời Thượng Đức.

Hiệu năng của Học Phật là tạo nên Đức, thế nên còn cần phải Tu Nhân để tạo nên Công, hầu có đủ Công Đức như cổ xe có 2 bánh, mới mong lần chạy nhanh được.

Vì vậy mà ngoài việc Học Phật, hành giả hay tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo còn phải Tu Nhân mới trở nên người Hiền đúng với pháp môn Học Phật Tu Nhân mà Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khai thị.

                            Chương XIII: Tu Nhân 

Tu Nhân tức là tu Tứ Ân để làm tròn Hiếu nghĩa là nền tảng của đạo Nhân tức là đạo làm người vậy. Không ai bỏ điều kiện hiếu nghĩa mà tu thành Tiên thành Phật bao giờ, vì Hiếu nghĩa là nền móng của đạo Nhân, cũng như muốn cất nhà phải xây nền đắp móng. Không xây nền, đắp móng thì làm sao dựng lên nhà cửa. Dầu có dựng sớm muộn gì cũng phải sụp đổ.

Tế Điên Hòa Thượng có nói: Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhân đạo. Nhân đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ. Muốn tu thành Tiên thành Phật, trước phải tu đạo làm người, đạo làm người mà không tu thì đạo tu Tiên Phật còn xa vời vậy.

Nhưng muốn tu nhơn đạo, điều trước tiên là phải làm tròn điều Hiếu Nghĩa, như thánh nhơn đã nói: Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên. Muôn vạn quyền kinh Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu.

Và theo Đức Phât Thầy Tây An, “muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn”.

Về bốn điều ân, Đức Huỳnh Giáo Chủ có giải như vầy:

“Ân Tổ Tiên Cha Mẹ: Ta sanh ra cõi đời được có hình hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ tiên nữa.

Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lảng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lỗi, trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong huynh đệ, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.

Còn đền ơn Tổ Tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ điếm nhục tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.

“Ân đất nước: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ Tiên, cha mẹ, sống ta cũng nhờ đất nước, quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy có bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Rán nâng đỡ xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo, và làm cho được trở nên cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

 

Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ suất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.

Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy.

“Ân Tam Bảo: Tam Bảo là gì? Tức Phật, Pháp, Tăng. Con người nhờ tổ tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương diện vật chất.

Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật Pháp Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm điều chỉ dạy do các chư Tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền đạo được phát triển thêm ra, xây một tòa lâu đài đạo hạnh vô thượng vô song, rồi truyền mãi mãi với hậu thế.

Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sơ cơ và nhứt là tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rắc khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

“Ân đồng bào và Nhân loại: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung quanh và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.

Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn họ cùng chia với ta.

Họ và ta cũng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại một: ấy Quốc gia đó. Họ là ai? Tức những người ta thường gọi bằng đồng bào vậy.

Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch sử vẽ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên quan mật thiết, không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng bào, hay có đồng bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào, ta còn có thế giới người đang cậm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Ta có thể tự túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau, nguy hiểm, giữ vững cuộc sống còn nầy chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân tộc ta phải nhờ đến nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình.

Vả lại cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm huyền quảng huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân loại chúng sanh.

Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng bào mình, gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tin tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn”.

Nói tóm lại, nếu ta đền đáp xong Tứ Ân tức là ta đã làm tròn điều Hiếu Nghĩa là nền tảng của đạo Nhân.

Vì vậy tu Tứ Ân có nghĩa là Tu Nhân hay đạo làm người.

Kết quả của Tu Nhân là tạo nên phước, như câu nguyện “chí dốc tu hiền tạo phước duyên”. Nó là nấc thang để bước lên địa vị Tiên Phật. Không hoàn tất việc Tu Nhân hay đạo Nhân thì không thể vượt lên hàng Phật Thánh.

“Cho nên điều kiện trước tiên của sự tu để thành Tiên thành Phật là phải hoàn mãn đạo làm người, cũng như muốn cất nhà phải xây nền đắp móng.” Vì vậy ông Thanh Sĩ có viết:

Muốn cho làm Phật làm Trời,

Trước nên làm trọn đạo người hiếu trung.

(Đám mưa dông)

“Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng cho biết, phải trả xong nợ thế tức nợ Tứ Ân hay đạo Nhân thì ngày kia mới đến được cõi Thượng nguơn (chỉ đến Thượng nguơn chớ chưa siêu thoát):

Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn,

Cảnh non Bồng kỳ hẹn ngày mai.

Hay là:

Trả cho rồi nợ tiền khiên,

Đến ngày hiệp mặt Kiểng Tiên vui vầy.

Do đó, Ngài luôn luôn khuyên người đời rán tu Nhơn đạo:

Hồng trần biển khổ thấy rồi,

Rán tu nhơn đạo cho tròn mới hay.

 

“Tu nhân đạo tức thị là tu Tứ Ân mà phàm ai làm người cũng có bổn phận lo đền đáp. Có đền đáp mới hoàn thành đạo Hiếu đối với Tổ Tiên cha mẹ và Tam Bảo, mới vẹn toàn nghĩa vụ đối với đất nước và đồng bào nhơn loại.

“Trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ đặt nặng về tu Tứ Ân hay có thể nói Tứ Ân là yếu lý của Phật Giáo Hòa Hảo. Nó thuộc về phần Tu Phước trong Tu Nhân, cũng như pháp môn Tịnh độ thuộc về Tu Huệ trong Học Phật.

“Có Học Phật mà không Tu Nhân tức là có Tu Huệ mà không Tu Phước. Như thế chỉ có Đức mà thiếu Công.

“Pháp tu hoàn bị nhứt là pháp tu kiêm Tu Phước lẫn Tu Huệ, hay vừa Tu Nhân vừa Học Phật thì mới trọn nghĩa Lập Công Bồi Đức.

“Phương chi theo Đức Huỳnh Giáo Chủ, Tu Nhân hay Tu Tứ Ân là phần căn bản của pháp môn Tu Nhân Học Phật là một pháp môn cốt đào luyện nên hạng người Hiền, hầu có hội đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống đời Thượng nguơn Thánh Đức.

“Mục đích của Phật Giáo Hòa Hảo là đào luyện người Hiền, thế nên muốn trở nên Hiền trước phải hoàn thành đạo Nhân hay tu Tứ Ân, thiếu nó thì việc Học Phật trở thành vô hiệu trong chương trình đào luyện người Hiền.

Thế nên, nếu không tu Tứ Ân thì đừng mong đạt thành quả vị trong việc Học Phật. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã quả quyết như vậy. Ngài khẳng định nếu không tu Tứ Ân thì khó mà còn được xác thân. Thân xác mà không còn thì lấy đâu để tu cho thành công đắc quả, như câu:

Nào là luân lý Tứ Ân,

Phải lo đền đáp xác thân mới còn.

“Chẳng những mất xác thân mà theo Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn phải đọa linh hồn nữa. Vì vậy nên Ngài không dứt khuyên tu Tứ Ân, nếu không, chừng bị đọa đừng có than trách:

Câu quân lý Tứ Ân chạm dạ,

Nếu chẳng gìn phải đọa đừng than.

“Đó là hậu quả của sự thiếu tu Tứ Ân, đã mất xác thân mà còn đọa cả linh hồn. Cứ theo lời khuyên dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ nếu ai mà hoàn thành được phép tu Tứ Ân, chẳng những được sống còn trong ngày hoại diệt mà còn dứt được tội căn:

Đến ngày biển cạn non mòn,

Tứ Ân đã trả chẳng còn tội căn.

 

“Ngoài ra, nếu không siêu thoát thì cũng chứng quả Thần, như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã viết:

Một câu quan lý Tứ Ân,

Ta đừng phai lạt Phong Thần bảng ghi.

“Nhưng điều vinh hạnh hay có thể nói: kết quả pháp tu Tứ Ân là được trở nên người hiền, đúng như mục tiêu của pháp môn Học Phật Tu Nhân đã dự liệu:

Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,

Hành thiện tri kinh thị Sĩ Hiền.

“Hiếu nghĩa thuộc về tu Tứ Ân hay Tu Nhân, còn hành thiện (làm lành) và tri kinh (học kinh điển) thuộc về Học Phật. Như thế muốn trở nên Hiền nhơn, phải kiêm Tu Nhân và Học Phật, nhưng trọng yếu là phần Tu Nhân, vì có Tu Nhân hay Tứ Ân mới lập được thân danh và công trạng với đời, như nhận xét sau đây của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

Lập thân cứu thế nên công quả,

Muôn kiếp danh Hiền sách vẫn biên.

“Phải lập thân danh và công cứu thế thì mới có công: đó là điều kiện phải có để làm nên người Hiền:

Chữ thứ nhứt nhẫn năng xử thế,

Là người Hiền khó kiếm trong đời.

Lập thân danh từng trải nơi nơi,

Chờ thời đại mới là khôn khéo.

“Thì cũng nhận phải lập thân danh mới có công trong xã hội. Nhưng lập thân danh bằng cách nào? Nếu không phải bằng con đường tu Tứ Ân hay Tu Nhân đạo.

“Cho nên có thể kết luận, chỉ có con đường tu Tứ Ân mới lập được thân danh mà trở nên người Hiền, như pháp môn Học Phật Tu Nhân đã trù liệu.

“Và chỉ có người Hiền mới đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống đời Thượng nguơn. Như vậy là mục đích đào luyện người Hiền của pháp môn Học Phật Tu Nhân đã đạt, nghĩa là gồm Tu Phước và Tu Huệ hay Tu Nhân và Học Phật.

Nợ thế âu toan đền nợ thế (Tu Nhân)

Đường tu sớm liệu vẹn đường tu. (Học Phật)

“Đó là yếu lý của pháp môn Học Phật Tu Nhân, một pháp môn đáp ứng với căn cơ của chúng sanh và hoàn cảnh cấp bách của thời kỳ Hạ nguơn sắp chấm dứt, Hội Long Hoa sắp khai, và đời Thượng nguơn sắp lập”. (1)

Đó là sự nghiệp tôn giáo mà Đức Huỳnh Giáo Chủ đã kiến lập với pháp môn Học Phật Tu Nhân để cứu độ chúng sanh trong thời kỳ hoại diệt của buổi Hạ nguơn.

Ngoài sự nghiệp về mặt đạo Ngài còn tạo dựng nên sự nghiệp về mặt đời với hai thành quả về Quân sự và Chánh trị để phương tiện hướng dẫn tín đồ cùng tham gia vào công cuộc cứu đời hầu có lập Công, cũng như hành đạo để lập Đức.

_________________________________________

(1) Vương Kim: Tại sao ta phải tu. Tr. 225-230.

Chương XV: Quân-sự: Bộ-đội Nguyễn-Trung-Trực [trở lại đầu trang]

Sứ mạng giáng trần của Đức Huỳnh Giáo Chủ, như đã biết là để cứu độ chúng sanh trong thời kỳ hoại diệt hầu tuyển chọn người hiền đức đưa sang cõi đời Thượng nguơn.

Và cho được trở thành người hiền, Ngài đã hiển thị pháp môn Học Phật Tu Nhân là một pháp môn, nếu ai hành y sẽ trở thành bậc Hiền Đức, điều kiện duy nhứt được dự Hội Long Hoa và sống còn đời Thượng nguơn an lạc.

Đó là phần thuộc về lý thuyết hay giáo lý, nhưng quan trọng là phần hành sử hay thực hành, vì rằng năng thuyết mà bất năng hành thì không khác người nói ăn cơm mà miệng không ăn thì bụng đói vẫn hoàn bụng đói. Có thuyết mà không hành thì lý thuyết ấy trở thành vô dụng.

Cho nên điều trọng yếu là ở phần thực hành, phần đem áp dụng những lý thuyết ấy vào đời sống xã hội. Muốn đào luyện môn nhơn đệ tử nên người hiền như chương trình đã ấn định, Đức Huỳnh Giáo Chủ chẳng những vừa chỉ dạy mà còn vừa đúng ra hướng dẫn môn nhơn cùng thực hành. Ngài không quản dấn thân làm gương mẫu cho môn nhơn noi theo. Như vậy chẳng những tạo cho môn nhơn tinh thần dạn dĩ mà còn gây cho họ niềm tin tưởng ở kết quả chắc chắn của việc làm.

Do công lao vừa chỉ dạy vừa đích thân thực hành mà Ngài đã tạo nên, về mặt Đời, hai sự nghiệp vĩ đại đối với quốc gia dân tộc. Đó là Bộ đội Nguyễn Trung Trực về mặt quân sự và Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng về mặt chánh trị. Về phương diện giáng thế cứu trần, hạnh của Đức Huỳnh Giáo Chủ sánh không khác hạnh của Đức Phật Thích Ca mà Ngài tự nhận là một đệ tử trung thành, một lòng nối chí.

Khi giáng trần, Đức Phật Thích Ca đã đắc quả Nhứt sanh bổ xứ với danh hiệu là Hộ Minh Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất lâm phàm. Thế mà khi vào đời, Ngài vẫn làm như người thường, cũng học hỏi, lấy vợ sanh con, cũng tu hành, ngồi tham thiền như bao người tầm thường khác trong đời, cũng gặp bao nhiêu chướng ngại khó khăn, bị phá phách mà không ngã lòng cho đền ngày thành đạo, chứng quả chánh đẳng chánh giác, không có gì là phi phàm, ngoài vòng thế tục. Có sống như người đời, làm như người đời, người đời mới nhận thấy sự tu hành không khó, ai cũng làm được miễn là có chí bền, nên mới nông nả tu hành, làm theo các điều Phật đã hành để được một ngày kia, thành Phật như Phật.

Chớ nếu Đức Phật Thích Ca xuống trần bằng cách phi thường, không cần mẹ sanh ra, lớn lên, học hỏi như người đời, chứng tỏ là một bực đã đắc quả Nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát, chỉ còn tu một kiếp nầy là hoàn mãn công hạnh thành Phật thì chắc chắn người đời đâm ra chán ngán, ít ai dám làm theo Phật, tu theo Phật, vì thấy họ với Phật cách nhau rất xa không thể trong một kiếp mà tu thành Phật như Phật.

Hạnh của Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng thế. Như chúng ta đã biết, Ngài “là một trong các vị cứu đời… ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân“, từ cõi Tây phương Cực Lạc, vưng lịnh chư Phật giáng thế độ đời, chứng tỏ Ngài đã đắc quả trong hàng Bồ Tát hay Phật.

Thế mà khi sanh ra đời, Ngài vẫn sống như bao nhiêu người tầm thường khác, cũng đi học, đau cũng uống thuốc, cũng ẩn núp khi bị oanh kích ngoài mặt trận và tự thấy mình có bổn phận hiếu kính đối với gia đình và nghĩa vụ đối với quốc gia dân tộc.

Đứng trước nạn vong quốc, Ngài không quên mình là một công dân của một nước bị trị, tự thấy có bổn phận tranh đấu đuổi xâm lăng, giành độc lập cho đất nước, tự do hạnh phúc cho đồng bào. Ngài đã biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn của Ngài qua mấy vần thơ thống thiết như sau:

Hậu thế muôn thu xét thử nào?

Lòng nầy yêu nước biết là bao!

Để làm tròn bổn phận công dân đối với quê hương, hay trả ơn đất nước, Ngài quyết chống xâm lăng, dầu phải hy sinh tánh mạng:

Ách nô lệ dân ta đà chán biết,

Nên quyết lòng nổi dậy chống xâm lăng.

Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng:

Thà cam chết, không làm dân bị trị.

Ngài không nệ rứt áo cà sa khoác lấy chiến bào, nguyền đánh đuổi xâm lăng, nêu cao cờ độc lập:

Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau!

Quyết rứt cà sa khoác chiến bào.

Đuổi bọn xâm lăng, gìn đất nước,

Ngọn cờ độc lập phất phơ cao.

Một lòng quyết chiến dầu phải dùng tầm vông vạc nhọn, cũng liều thân cứu nước:

Dân binh Nam Việt mấy ai bì,

Không súng tầm vông cũng vác đi.

Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh,

Liều thân cứu nước lúc lâm nguy.

Dầu phải hy sinh xương máu đổi lấy tự do, miễn đáp đền ơn đất nước, không thẹn với tổ phụ và hổ mặt với cháu con mai hậu:

Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn,

Lòng mong đại nghĩa, để thân khinh.

Máu đào xương trắng phơi đầy nội,

Quyết đổi tự do mới thỏa tình.

                       ***

Thỏa tình được sống dưới trời đông,

Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng.

Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt,

Từ đây non nước thoát nguy vong.

Ngài tha thiết kêu gọi các thanh niên tráng sĩ, rường cột của nước nhà, hãy cùng nhau đứng lên giết giặc giành lại tự do, hãy noi theo chí hướng của các bực anh hùng tiền bối:

Bắc Nam một giải san hà,

Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi.

Trải qua cũng lắm hồi vận bĩ,

Rồi anh em tráng sĩ đứng lên.

Liều mình đụt pháo xông tên,

Tiếng roi lại bình Ngô, sát Đát.

Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm,

Trông phường giá áo túi cơm.

Trông phường úy tử mà nhờm đi thôi,

Nay vận nước đến hồi thịnh thái.

Chí anh hùng ta hãy noi gương.

Một mai nước được phú cường,

Tấm thân tráng sĩ cột rường nhà Nam.

Chẳng những tự dấn thân vào cuộc tranh đấu chống xâm lăng giành độc lập, Ngài còn kêu gọi môn nhơn đệ tử cùng dõi gót theo Ngài, quét sạch quân thù bồi đắp non sông đất nước:

Khí thiêng liêng sông núi nhiệm mầu,

Un đúc giống anh hùng vang bốn bể.

Gương sáng ấy soi chung hậu thế,

Anh em ơi! Theo dõi gót cùng ta.

Ra tay quét sạch san hà,

Ra tay bồi đắp nước ta hùng cường.

Ngài hòa mình với các chiến sĩ trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, như có lần Ngài đã tuyên bố trên báo Quần Chúng ngày 11-11-1946:

“Tôi, một đệ tử trung thành của đạo Phật, một chiến sĩ trì chí của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam sẵn sàng cùng đoàn thể mình cương quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương quyết tranh đấu để bảo vệ quyền lợi chung cho nòi giống”.

Ngài đã biểu hiện ý chí chiến sĩ bằng hạnh sống chung với tướng binh, ngày ngày có mặt trong cơ ngũ, cùng ăn chung, cùng ngủ chung với chiến sĩ, không phân biệt cấp bực tớ Thầy. Ngài cũng băng đồng lội nước, xông pha vào lằn tên mũi đạn, không có một cử chỉ nào tỏ ra cách biệt với anh em quân nhân.

Mấy chị đầu bếp có ý muốn phụng sự Ngài một cách riêng biệt thì Ngài chẳng ngại lời khiển trách. Bằng mọi cách từ chối khéo léo, đợi khi dọn cơm xong thành một cỗ dài, nay thì Ngài ngồi chỗ nầy, mai thì Ngài ngồi chỗ khác, không ngồi chỗ nhứt định, ngồi xen kẽ với chiến sĩ, thành thử dầu có muốn dọn riêng cho Ngài cũng không thể dọn được.

Có lần, lúc Ngài ở miền Đông, quân Pháp kéo đến bắn phá, Ngài cũng như mọi người, xông pha chiến đấu. Chẳng may, Mười Trí bị đạn, Ngài chẳng ngại đưa lưng cõng qua một khúc rạch, tránh khỏi lằn đạn. Đến chừng tan cuộc, nhiều người bị thương hoặc nhiều hoặc ít, chỉ có riêng Ngài không hề hấn gì. Còn Mười Trí thấy vậy mới nói: Chú Tư có phép gì nên mới không bị thương.

Ngài thản nhiên trả lời: Tại tụi Pháp bắn dở không trúng. Mặc dầu nói vậy chớ cái nón của Ngài đội bị đạn lủng bấy. Điều nầy đối với đạo Phật không phải là một hiện tượng quái dị, vì theo kinh điển, hễ người thật Thần Tiên thì khi mó đến loại kim nó sẽ mềm nhũng như bùn.

Nói tóm lại, mặc dầu ở địa vị Giáo Chủ, siêu xuất trần gian:

Nghĩ mình trong sạch đã rồi,

Đào Tiên tạm thực về ngồi cõi xa.

Có thể không phải bận tâm lập thêm công quả trong đời nữa, nhưng vì mục đích cứu độ chúng sanh, Đức Huỳnh Giáo Chủ, đã phương tiện “hòa quang hỗn tục”, muốn dìu dắt chiến sĩ phải làm thân chiến sĩ, muốn cứu đời phải mang thân ái quốc ưu đời, đúng với mục “đồng sự” của môn 4 phép Nhiếp hóa.

Ông Thanh Sĩ đã tỏ vai trò “hòa quang hỗn tục” của Đức Thầy trong mấy câu thơ sau đây:

Ai người thấu đáo đục trong,

Thương Thầy xa cách bởi lòng yêu dân.

Muốn cứu thế mang thân ái quốc,

Độ nàn trong vạn vật muôn loài.

Thay hình đổi dạng ai hay,

Đúng người chiến sĩ xứng tài giáo dân.

Vì phương tiện thời nhân hóa độ,

Phải tùy đời giác ngộ chúng sanh.

Cũng người liệt liệt oanh oanh,

Cũng là giáo chủ tu hành cao siêu.

Phương chi, trong khi phương tiện gánh vác việc nước để làm gương mẫu cho môn nhơn đệ tử noi theo, Ngài đã lập thêm công đức: đền nợ nước, rửa thù Tổ Tiên hầu có viên mãn hạnh lành, như ông Thanh Sĩ đã cho biết trong những dòng ai cảm đối với ân đức của Ngài như sau:

Xuống dương thế cốt ban ân,

Ân kia chưa mãn mà thân xa mù.

Trước đem đạo khuyến người tu,

Sau đền nợ nước, rửa thù Tổ Tiên.

Ân ấy mãn mới lành duyên,

Ngày sau nhà Phật cửa Tiên được về.

Không có hạnh nào dư hay không cần thiết đối với những bực đã đắc quả Phật hay Bồ Tát. Càng làm công đức cứu thế độ đời thì núi hạnh càng cao. Mặc dầu đã thành núi nhưng nếu chồng chất thêm đá thì núi càng thêm cao vọi. Vì thế mà không ai tự nhận tu hành đã viên mãn không cần phải tu Tứ Ấn, gánh vác việc đời, hay “hòa quang hỗn tục”.

Thế nên ngày nào đời còn đau khổ, chư Phật Thánh Tiên vẫn còn phải lâm phàm cứu dân độ thế, còn phải “hòa quang đồng trần” để phương tiện dìu dắt chúng sanh, nương theo sự hóa độ của Phật Tiên mà lập công bồi đức hầu trang nghiêm hạnh lành, trước là làm nền tảng cho Tu Nhân, sau là hoàn mãn công đức thành Tiên Phật.

Noi theo gương hạnh của Đức Phật, Đức Thầy chẳng nệ tham gia vào công cuộc đấu tranh giành độc lập cho quê hương đất nước và đồng thời tạo ra phương tiện để dìu dắt môn nhơn cùng tham gia tranh đấu, trước để đền đáp ân đất nước trong Bốn Đại Trọng Ân, sau để lập công bồi đức hầu có đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống còn đời Thượng ngươn Thánh Đức.

 

Trong các hạnh thi thiết cứu đời, Ngài nhận thấy chỉ có hạnh vô úy là cao nhứt, nếu thực hành được, sẽ tạo nện công đức to tác để kịp thời hội đủ điều kiện trở nên người hiền, thay vì thực hành hạnh tài thí hay pháp thí phải tích lũy công đức lâu ngày, sợ không đủ thời giờ ky cỏm hạnh lành đủ để thành hiền đức trong lúc cơ hoại diệt còn chẳng bao lâu.

Để thực hiện hạnh vô úy, Ngài đã phương tiện tạo ra, về mặt quân sự: Bộ đội Nguyễn Trung Trực và về mặt chánh trị: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.

Thật là một cơ hội hiếm có cho người tu hiền ở thời kỳ này, lập lấy thân danh trong giai đoạn dân Việt Nam đứng lên hy sinh xương máu tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập tự do cho đất nước, như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nhận:

Cuộc biến động nay mai nguy ngập,

Mội hội nầy rán lập thân sanh.

Ông Thanh Sĩ cũng nhận:

Nếu buổi nầy không lập được thân,

Chẳng còn dịp nào hưng danh phận.

Ông cha chúng ta đã khổ công tranh đấu, nhưng vì vận nước còn đen nên đành “vô kế khả thi”, tuy mưu không thành nhưng đã đáp đền ân sông núi.

Chúng ta may mắn hơn tiền nhơn, gặp hồi nước nhà vận đạt lai được có chư Phật Thánh lâm trần dìu dắt, trao cho ta phương tiện để thực hành hạnh vô úy.

Có nhận thức được chí nguyện cứu độ của Đức Huỳnh Giáo Chủ đối với chúng sanh, nhứt là hàng môn nhơn đệ tử trực tiếp đặt mình dưới sự lãnh đạo của Ngài mới hiểu ý nghĩa việc Ngài thành lập Bộ đội Nguyễn Trung Trực.

Không dùng danh từ nào khác, lại dùng danh nghĩa Nguyễn Trung Trực đặt tên cho Bộ đội do Ngài đích thân sáng lập, đủ thấy lòng yêu nước và ý chí chống xâm lăng của Ngài thật là nồng nàn cương quyết.

Nguyễn Trung Trực là một vị anh hùng dân tộc lưu danh trong lịch sử kháng chiến chống Pháp với chiến thuật du kích ở miền Nam. Xuất thân là một nông dân áo vải, sôi lòng vì quốc phá gia vong, trước cảnh điêu linh của non sông đất nước, cảnh huống thống khổ của đồng bào, ông tự thấy có bổn phận đứng ra đánh đuổi bọn tham tàn cướp nước, cứu lấy non sông khỏi ách xích xiềng nô lệ.

Đối với súng đồng tàu sắt tối tân của giặc, ông qui tụ nghĩa binh, phất cờ kháng Pháp và đã lập được hai kỳ công vĩ đại trong lịch sử chống xâm lăng. Ông đã dụng mưu đốt tàu Espérance của địch tại vàm Nhựt Tảo, điều mà từ trước đến nay chưa có vị anh hùng nào làm được. Kỳ công thứ hai là ông đã hạ được thành lũy Kiên Giang của Pháp cũng là điều mà người khác không tạo được thành tích oanh liệt như ông.

Do đó, cụ Huỳnh Mẫn Đạt đã ca tụng chiến công của ông trong hai câu đối liễn bất hủ:

Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,

Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần.

Mặc dầu ông hùng dũng chiến đấu chống xâm lăng, nhưng chí người không xoay được vận nước, võ khí thô sơ không địch nổi chiến cụ tối tân của đại bác tàu đồng, tuy nhiên ông đã nêu được cho đời gương trung dũng chống bạo tàn và liều thân đền nợ nước.

Tuy không thành công, nhưng đã thành nhơn. Chính với tấm gương trung dũng nghĩa khí ấy mà Đức Huỳnh Giáo Chủ đặt tên cho Bộ đội của Ngài lập ra là Bộ đội Nguyễn Trung Trực, với hoài bão cho môn nhơn đệ tử noi theo chí hướng của ông Nguyễn Trung Trực để thi thiết hạnh vô úy, hầu có lập thân danh, trở nên người hiền đức.

Sở dĩ dùng tên Nguyễn Trung Trực đặt tên cho Bộ đội, ngoài ý nghĩa nêu gương trung dũng khí tiết của vị anh hùng dân tộc, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn muốn nhắc nhở môn nhơn nhớ lấy vai trò cứu nước và dựng nước của Quan Thượng Đẳng Đại Thần trong giai đoạn hiện tại và vị lai.

Chức tước Thượng Đẳng Đại Thần là của Phật phong chớ không phải của vua chúa Việt Nam ban tứ, vì như được biết: (1) sau ngày bỏ xác, do hạnh Hiếu đối với mẹ và Nghĩa vụ đối với đất nước, ông Nguyễn Trung Trực được Phật ban chức Thượng Đẳng Đại Thần.

_________________________________________________

(1) Lời Đức Thầy nói với ông Huỳnh Hữu Phỉ

Để ghi nhớ sứ mạng cứu quốc và lập quốc của ông trong giai đoạn hiện tại và vị lai, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tôn tri danh hiệu ông vào bài nguyện mà tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo phải khấn vái trong các thời lễ bái như sau:

“Nam Mô Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, Trăm Quan Cựu Thần…”

Quan Thượng Đẳng Đại Thần là danh hiệu và chức vị của ông Nguyễn Trung Trực. Cứ theo Đức Huỳnh Giáo Chủ thì giai đoạn nầy là giai đoạn của Quan Thượng Đẳng Đại Thần hành sử quyền chỉ huy trong công cuộc cứu dân cứu nước, cho nên, ngộ như gặp phải hoạn nạn tai ương, nếu nguyện đến danh hiệu của Ngài thì sẽ được Ngài hộ độ.

Điều nầy đã được nhiều tín đồ nhìn nhận là đã ứng nghiệm trong nhiều trường hợp.

Danh hiệu Nguyễn Trung Trực mà Đức Thầy đặt cho Bộ đội do Ngài thành lập thật không hổ danh là Bộ đội của Quan Đại Thần Thượng Đẳng.

Nhờ oai linh của Quan Thượng Đẳng tỳ hộ mà Bộ đội Nguyễn Trung Trực lập nhiều chiến công hiển hách trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và binh sĩ dưới bóng cờ của Quan Thượng cũng đã làm rạng rỡ danh nghĩa chiến sĩ cách mạng, vì họ đã anh dũng chống Pháp, hy sinh xương máu bảo vệ quê hương, cùng sanh mạng tài sản của đồng bào, đúng với hạnh vô úy thí.

 

Với tôn chỉ dĩ đạo cứu quốc của giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, Đức Huỳnh Giáo Chủ khi mở đạo, khai triển pháp môn Học Phật Tu Nhân, phát huy điều Tứ Ân Hiếu Nghĩa, hun đúc lòng yêu nước của hàng môn nhơn đệ tử. Nhờ vậy mà khi phong trào quật khởi của toàn dân đứng lên chống Pháp, toàn thể tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều tham gia kháng chiến, hăng say chiến đấu chống xâm lăng cứu nước.

Cuối năm 1945, khi thực dân tái chiếm Sài Gòn và các tỉnh miền Nam, Đức Huỳnh Giáo Chủ thống hợp các lực lượng tự động võ trang đã có, tổ chức thành một lực lượng Dân quân Cách mạng kháng Pháp lấy tên là Nghĩa Quân Cách Mạng Vệ Quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực. Liên đội ra đời gồm có 4 chi đội:

– Chi đội 1 do Trần văn Soái chỉ huy, hoạt động vùng Cần Thơ.

– Chi đội 2 do Lê Minh Điều (tức xã Nhiễu) chỉ huy, hoạt động vùng Long Xuyên.

– Chi đội 3 do Lê Phát Khuynh chỉ huy, hoạt động vùng Châu đốc.

– Chi đội 4 do Phan Hà chỉ huy, hoạt động vùng Rạch Giá.

Để kịp thời đối phó với tình hình nghiêm trọng của đất nước trước nạn Pháp xâm lăng, Đức Huỳnh Giáo Chủ sắp xếp lại hàng ngũ cho được chỉ huy thống nhứt. Ngày 18-12-1946 Ngài cho triệu tập tại chiến khu Bình Hòa (Tân An) các cấp chỉ huy Nghĩa Quân Cách Mạng Vệ Quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực, trong một đại hội Quân sự để cải tổ 4 Chi đội thành một Chi đội mạnh mẽ hơn mang danh là Chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang, với Ban chỉ huy như sau:

– Chi đội trưởng: Nguyễn Giác Ngộ.

– Chi đội phó kiêm Trưởng ban cơ khí: Lâm Thành Nguyên.

– Tham mưu trưởng kiêm Ủy viên chánh trị: Trần Đức Thu (tức Luật sư Lê văn Thu).

– Tham mưu phó: Trương Kế Tự (tức giáo sư Trần Kiệt).

Chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang gồm có 3 Đại đội và 1 Phân đội biệt lập.

– Đại đội 1 do Trần Tín Nghĩa làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Cần Thơ, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Bạc Liêu.

– Đại đội 2 do Ngô Trung Hưng (tức Lâm thế Xương) làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Long Xuyên, Sa Đéc và Đồng Tháp Mười.

– Đại đội 3 do Lê Hoài Nam làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Châu Đốc, khu vực Thất Sơn và ranh giới Cao Miên.

– Phân đội 4 biệt lập do Phan Hà làm Phân đội trưởng, phụ trách vùng Rạch Giá và Hà Tiên.

Lúc bấy giờ Lê Quang Vinh được Đức Thầy để cử làm Phân đội trưởng phân đội 2 thuộc Đại đội

2/ NTT Hậu Giang. Sau khi Chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang được cải tổ, Chi đội 1 của Trần văn Soái trong Liên đội, được cải thành Chi đội Lưu động số 2, còn Chi đội Nguyễn Trung Trực được gọi là Chi đội số 1.

Khi Đức Huỳnh Giáo Chủ chấp nhận tham chánh với chức Ủy viên đặc biệt trong Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, để biểu dương tinh thần đoàn kết quốc gia chống xâm lăng, Ngài đem Chi đội Nguyễn Trung Trực chánh thức hóa thành Chi đội 30 Vệ Quốc đoàn Việt Nam. Ban chỉ huy Chi đội 30 được Đức Huỳnh Giáo Chủ giữ nguyên chức vụ và vùng hoạt động của các đại đội lệ thuộc cũng không thay đổi. Sau khi chánh thức hóa, Chi đội dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Giác Ngộ từ Côn đảo mới về và được Đức Huỳnh Giáo Chủ để cử chấp chưởng binh quyền, tích cực tranh đấu và lập nhiều chiến công trong công cuộc hạ đồn Pháp và đoạt vũ khí của giặc.

Để làm hậu thuẫn cho Chi đội, về mặt vũ khí, một công binh xưởng được thiết lập tại Hiệp Xương, đúc khí giới và đạn dược, và về mặt tăng bổ hàng ngũ chiến binh, nhiều lớp huấn luyện về các cấp sĩ quan và hạ sĩ quan được khai giảng. Khóa huấn luyện đầu tiên đã mở vào cuối năm 1946 tại núi Dài vùng Thất Sơn, đào tạo cấp tốc 10.500 quân, do một Ban huấn luyện với sự hợp tác của 4 sĩ quan Nhựt Bổn cấp tá.

Công cuộc đang tiến triển đẹp đẽ và kế hoạch thành lập Liên khu Quốc gia đang bước sang giai đoạn thực hiện thì một tai biến xảy ra làm tan vỡ chương trình kế hoạch đã định. Đó là biến cố: Đức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn tại Đốc Vàng Hạ. Một tai nạn lớn lao chẳng những đối với khối Phật Giáo Hòa Hảo mà còn là một sự thiệt thòi to tát với hàng ngũ quốc gia.

Trước sự phản bội của Cộng sản, Chi đội 30 rút ra khỏi hàng ngũ Vệ Quốc đoàn Việt Nam và theo quyết định của Hội Nghị tối cao Quân Chính hợp tại Hòa Hảo liền sau khi Đức Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn, Chi đội 30 trao khí giới cho đoàn thể để võ trang Bộ đội Dân Xã và Bộ đội Phật Giáo Hòa Hảo hầu bảo vệ đoàn thể.

Cuối năm 1947, để đáp ứng với nhu cầu chiến đấu trong tình thế mới, một phiên họp khoáng đại Quân Chính triệu tập tại Hiệp Xương. Chi đội 30 được cải tổ thành Bộ đội Nguyễn Trung Trực với thành phần Ban chỉ huy tối cao như sau:

– Chỉ huy trưởng: Nguyễn Giác Ngộ.

– Chỉ huy phó: Lê Phát Khuynh.

– Chủ nhiệm chánh trị bộ kiêm Tham mưu trưởng: Trần Kiều.

Bộ đội Nguyễn Trung Trực gồm có 7 Chi đội võ trang:

– Chi đội phòng vệ do Nguyễn Minh Thành làm Chi đội trưởng.

– Chi đội 1 Hắc Long do Nguyễn Thành Tâm làm Chi đội trưởng.

– Chi đội 2 do Ngô Trung Hưng (tức Lâm Thế Xương) làm Chi đội trưởng.

– Chi đội 3 do Nguyễn Thiện Tri làm Chi đội trưởng.

– Chi đội 4 do Hoàng Minh Kính làm Chi đội trưởng.

– Chi đội 5 do Nguyễn văn Sáng làm Chi đội trưởng.

– Chi đội 6 do Bùi Thanh Liêm làm Chi đội trưởng.

– Chi đội 7 do Bùi Trung Cang làm Chi đội trưởng.

Bộ đội Nguyễn Trung Trực có trên 2 ngàn binh sĩ tại ngũ. Ngoài ra còn tổ chức Bảo An Quân (lực lượng bán quân sự) khắp các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa đéc, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre… để giữ gìn an ninh trật tự trong thôn ấp và đồng thời làm kho cung cấp binh sĩ cho Bộ đội cũng như tiếp tế lương thực.

Để đào tạo chiến sĩ, nhiều khóa huấn luyện liên tục được mở ra. Không kể khóa huấn luyện tại núi Dài cuối năm 1946, sau đây là các khóa huấn luyện sau ngày cải tổ:

– Các khóa huấn luyện mở vào cuối năm 1947 tại Hiệp Xương, đào tạo cấp Đại đội trưởng.

– Các khóa huấn luyện cán bộ chánh trị viên mở tại chiến khu Ba Dầu (Long Xuyên) năm 1948.

– Các khóa huấn luyện mở vào đầu năm 1949 tại Mỹ Hội Đông đào tạo cấp Tiểu đội trưởng và Trung đội trưởng.

– Các khóa huấn luyện mở vào cuối năm 1949 tại Kiến An đào tạo cấp Trung đội trưởng và Đại đội trưởng.

Song song với chương trình huấn luyện binh sĩ, Bộ đội còn phái cán bộ lưu động đến các tỉnh, quận, huấn luyện quân sự căn bản cho các cán bộ và đội viên Bảo An Quân. Có tất cả 20.000 sĩ binh và 300.000 đội viên Bảo an Quân được huấn luyện.

Năm 1949 Thực dân Pháp tìm đủ cách khủng bố, bức ép Bộ đội phải ra hợp tác với quân đội Viễn Chinh Pháp, nhưng vì trung thành với lập trường quốc gia kháng chiến nên Bộ đội Nguyễn Trung Trực bị tấn công tới tấp bằng hải lục không quân, dồn ép phải rút về kinh Cựu Hội (Cái Tàu Thượng) địa giới giữa vùng Quốc gia và Cộng sản.

Mặc dầu bị đặt vào thế kẹp giữa hai gọng kềm Thực dân và Cộng sản, Bộ đội Nguyễn Trung Trực vẫn cương quyết giữ vững lập trường kháng chiến thà chịu cảnh cùng khốn thiếu đạn dược, thiếu vũ khí nhưng được nhân dân tiếp tế dồi dào, chớ không chịu chấp nhận điều kiện ra hợp tác với Thực dân.

Cuối cùng, chỉ còn một xuất lộ là Bộ đội Nguyễn Trung Trực ra hợp tác với Quốc Trưởng Bảo Đại để tạo thành phần đầu tiên của Quân đội Quốc Gia Việt Nam.

Và khi Quân đội Cộng Hòa thành hình, Bộ đội Nguyễn Trung Trực tổ chức thành hai Trung đoàn 57 và 63. Đến năm 1955, Bộ đội Nguyễn Trung Trực hoàn tất việc hòa mình trọn vẹn trong đại gia đình Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sĩ quan hay binh sĩ nào muốn tiếp tục binh nghiệp thì giữ cấp bực và phục vụ trong quân đội, còn anh em nào không muốn thì được tự do xin giải ngũ trở về vị trí tu hành của một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo hay vị trí hoạt động chánh trị như một đảng viên trong Đảng Dân Xã. Thế là vai trò Bộ đội Nguyễn Trung Trực do Đức Thầy sáng lập, đến đây chấm dứt một giai đoạn.

 

Có thể nói chấm dứt giai đoạn, chớ sứ mạng của Bộ đội Nguyễn Trung Trực hay vai trò của Quan Thượng Đẳng chưa kết liễu.

Cứ theo hai câu liễn do ông Thanh Sĩ viết, hiện treo tại đền thờ Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực xã Long Kiến thì sứ mạng của Quan Thượng vẫn còn và sẽ đóng trong tương lai một vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc cứu đất nước khỏi nạn ngoại xâm và xây dựng một quốc gia Việt Nam thống nhứt làm rạng danh cho giống dân Hồng Lạc.

Hai câu liễn ấy như vầy:

Dĩ vãng ưu dân, Tiền Hậu giang thi quốc sự,

Đương lai hộ tộc, Nam Bắc địa khởi hùng binh.

Tạm dịch:

Trong quá khứ đã lo dân, sông Tiền sông Hậu thi hành việc nước,

Về tương lai sẽ ủng hộ dân tộc, đất Nam đất Bắc khởi cử binh hùng.

                                       * * *

Nói tóm lại, sở dĩ Đức Huỳnh Giáo Chủ thành lập Bộ đội Nguyễn Trung Trực là để chống xâm lăng, giành độc lập cho quê hương đất nước.

Đây là phương tiện cho môn nhơn đệ tử của Ngài noi theo gương hy sinh của Nguyễn Trung Trực, tham gia vào quân đội, phơi gan trải mật tranh đấu kháng chiến chống xâm lăng, hầu có thực hành hạnh vô úy để tạo lập thân danh có trở nên người hiền hội đủ điều kiện dự Hội Long Hoa và sống còn đời Thượng Nguơn an lạc.

Theo Đức Huỳnh Giáo Chủ, lập quân đội hay tham gia vào hàng ngũ quân đội là để làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước, một ân trọng trong Tứ đại Trọng Ấn.

Với Ngài, điều Nghĩa là quan trọng, phàm một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, muốn thực hành đúng pháp môn Học Phật Tu Nhân, phải lo đền đáp trước nhứt. Đó là nghĩa vụ của con dân đối với đất nước.

Còn theo ông Thanh Sĩ, Tu mà không làm việc Nghĩa, đạo mà thiếu Nghĩa hay bỏ Nghĩa là tu sai đường, hành không đúng lối:

Đời càng lắm việc bất công,

Thì là việc nghĩa càng trông cậy nhiều.

Người càng giác ngộ bấy nhiêu,

Thì làm việc nghĩa thêm nhiều hơn xưa.

Kẻ cho mình bực đại Thừa,

Xem thường việc nghĩa là chưa đúng đường.

Nghĩa không kém tám Đại vương,

Nếu cho việc nghĩa tầm thường là sai.

Đạo cùng với Nghĩa không hai,

Chia hai Đạo Nghĩa là sai đường lành.

Đạo mà có Nghĩa mới thành,

Chương XVI: Chánh-trị: Việt-Nam Dân-Chủ Xã-Hội Đảng 

Quan hệ giữa quân sự và chánh trị.– Clausewitz một nhà binh Pháp-Đức, trong quyển “Chiến tranh luận” có định nghĩa chiến tranh như sau: Chiến tranh chẳng những là một hành động chánh trị (action politique) mà thực sự là một thủ đoạn của chánh sách, chánh sách kế tục quan hệ ngoại giao.

Cứ theo định nghĩa nầy, quân sự chỉ là một thủ đoạn để thực hiện chánh sách. Sở dĩ gây chiến hay dùng thủ đoạn quân sự là vì đôi bên không thể giải quyết bằng đường lối ôn hòa, ngoại giao chánh trị.

Quân sự hay chiến tranh, theo đó, chỉ là một thủ đoạn nhứt thời đem áp dụng trong một giai đoạn để thực hiện mục tiêu chánh trị hay quốc sách. Như thế, quân sự là tranh đấu giai đoạn còn chánh trị là tranh đấu trường kỳ, thường xuyên hay có thể nói chiến tranh hay quân sự là một thủ đoạn bạo lực để đạt đến mục đích chánh trị hay chánh sách.

Dùng quân sự hay chiến tranh để giải quyết một vấn đề gì là một việc làm bất đắc dĩ, bởi giải quyết nhau bằng phương pháp chánh trị ngoại giao không xong mới đưa đến sự giải quyết bằng bạo lực, bằng súng đạn.

Khi dùng đến bạo lực thì chi cho khỏi gây ra chết chóc sanh mạng, tàn phá sự nghiệp tài sản. Vì vậy mà loài người luôn luôn tìm cách giàn xếp bằng đường lối chánh trị hơn quân sự. Chỉ có những dân tộc bạo tàn, háo sát hung hãn, tham lam, nuôi óc cướp bóc mới ỷ thị vào sức mạnh để gây chiến tranh xâm lược hầu thỏa mãn dục vọng tham tàn, óc thích giết hại đồng loại với bản tính cầm thú.

Như trường hợp nước Việt Nam chúng ta, dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiếu hòa nhưng luôn luôn bất khuất trước mọi áp bức bạo lực, sở dĩ phải dùng đến quân sự là để bảo vệ đất nước, chúng ta không còn phương pháp nào hơn dùng bạo lực để chống lại bạo lực. Nhưng một khi cường khấu rút lui thì dân chúng ta trở lại đời sống hòa bình và luôn luôn dùng lối ngọai giao khéo léo của một nước nhỏ để bảo vệ quê hương đối với nước lớn mạnh.

Đức Huỳnh Giáo Chủ sở dĩ lập Bộ đội cũng không ngoài mục đích chống xâm lăng cứu nước. Đây là một thủ đoạn bất đắc dĩ phải dùng đến, vì không còn một thủ đọan nào hữu hiệu hơn khi mà đường lối chánh trị, ngoại giao trở thành vô hiệu hay bất lực đứng trước bạo lực.

Đó là một thủ đoạn áp dụng trong một giai đoạn cho nên ngoài sự thành lập Bộ đội chống xâm lăng, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn thành lập chánh đảng để tranh đấu thực hiện mục tiêu chánh trị, xây dựng nước Việt Nam “Công bình và nhơn đạo, một nước Việt Nam tương xứng với các nước dân chủ tiền tiến trên hoàn cầu”. Chánh trị, là mục tiêu, còn quân sự là phương tiện để đạt mục tiêu. Cho nên có thể ví chánh trị như địa bàn hay hải đăng, còn quân sự hay bộ đội như hướng, thiếu hải đăng rọi sáng ban đêm thì thuyền tàu chắc chắn phải lạc hướng và có thể rướng lên cồn hay va vào hòn, vào đảo mà vỡ mà chìm.

Một bộ đội mà thiếu chánh trị lãnh đạo thì bộ đội đó sẽ trở thành một đám lê dương chuyên nghề đánh mướn, bán máu lấy tiền hay một bộ đội lục lâm chuyên phản dân hại nước.

Mục đích cầm súng là để thực thi chánh sách hay kế hoạch chánh trị. Trong giai đoạn kháng chiến, cầm súng là để chống xâm lăng bảo vệ quê hương cùng sanh mạng tài sản của đồng bào.

Vì vậy mà một bộ đội cách mạng vẫn phải có kỷ cương. Không kỷ luật thì quân đội sẽ là một đám người ô hợp, chẳng những không thắng được địch, thực hiện mục đích chánh trị mà còn gây tai họa cho dân cho nước. Cho nên, đồng thời với sự thành lập bộ đội Đức Huỳnh Giáo Chủ còn hợp với các nhà cách mạng yêu nước thành lập đảng chánh trị để lãnh đạo đường lối tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập.

Lý do lập Đảng Dân Xã.– Quân sự và chánh trị ví cũng như tay chân và bộ óc trong thân thể con người. Quân sự mà không chánh trị không khác thân thể có tay chân mà không có bộ óc. Không óc, con người sẽ hành động cuồng loạn.

Phương chi trong giai đoạn tranh đấu cứu nước và dựng nước, chánh trị thủ lấy một vai trò tối quan trọng cũng như bộ óc trong thân thể con người, không có không được. Ví như cuộc kháng chiến thành công nghĩa là đã dùng quân sự đánh đuổi xâm lăng, chẳng phải đến đó là chấm dứt; đây chỉ mới hoàn thành giai đoạn cứu nước, nhưng còn giai đoạn xây dựng đất nước hay tái thiết quốc gia.

Khi đặt ra vấn đề xây dựng đất nước là đặt ra vấn đề quốc sách để làm tiêu hướng cho phát triển quốc gia theo nhịp tiến thế giới hay nhơn loại. Và khi nói đến quốc sách là nói đến xu hướng chánh trị.

Một nước là một quốc gia gồm nhiều gia đình, nhiều từng lớp xã hội, đương nhiên có nhiều ý kiến không giống nhau, có khi trái nghịch nhau. Để giữ cho xã hội không rối loạn, những người cùng một xu hướng cùng một quyền lợi thường tập hợp nhau thành những đoàn thể đảng phái. Mỗi tập thể có những chương trình kiến thiết theo quan niệm xu hướng quyền lợi của mình. Đương nhiên giữa các chương trình có sự cạnh tranh nhau, thành thử có sự tiến bộ và luôn luôn tranh nhau cải thiện đời sống một ngày một tốt đẹp hơn.

Chánh đảng hay đảng chánh trị là một tổ chức biểu hiện một xu hướng chánh trị, phản ảnh xu hướng và quyền lợi của những người cùng tập hợp nhau thành đoàn thể. Cho được phù hợp với nguyện vọng tiến bộ của toàn dân hay đa số nhân dân, các chương trình kiến tạo phải tùy từng giai đoạn tiến hóa mà thay đổi. Nhờ vậy mà xã hội luôn luôn trên đà tiến triển không ngừng.

Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải có lúc chấm dứt. Chỉ có đấu tranh chánh trị thì không bao giờ dứt. Khi hoàn thành một kế sách chấm dứt một giai đoạn đấu tranh thì kế tiếp một kế sách mới đặt ra đòi hỏi một sự tranh đấu mới. Như vậy hành động chánh trị luôn luôn có tánh cách trường kỳ, cho nên lúc nào chánh trị cũng đóng lấy vai trò lãnh đạo soi sáng cho quân sự có tánh cách đoản kỳ hay giai đoạn.

Đó là lý do khiến Đức Huỳnh Giáo Chủ thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng.

Miền Nam cần có một Đảng chánh trị. – Vì nhu cầu cần có một đảng chánh trị để lãnh đạo tranh đấu chống xâm lăng và kiến thiết quốc gia khi phục hồi nền độc lập, Đức Huỳnh Giáo Chủ hiệp với các nhà ái quốc thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng gọi tắt là Dân Xã đảng.

Đảng Dân Xã là một chánh đảng gồm nhiều thanh phần nhưng trụ cột là thành phần đông đảo nhứt là khối Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Nam Quốc Gia Độc Lập đảng, một đàng có khối quần chúng nông dân đông đảo còn một đàng có một giàn cán bộ được huấn luyện.

 

Xét ra trong hiện tình đất nước, các tôn giáo cũng như đảng phái ở miền Nam chưa có thể đóng lấy vai trò lãnh đạo đấu tranh chánh trị chống xâm lăng. Các tôn giáo thì không thể trực tiếp đứng ra tranh đấu vì vấp phải luật nghi ràng buộc, không cho phép bước ra ngoài phạm vi của kẻ tu hành, còn về đảng chánh trị thì ở miền Nam chỉ có Mặt Trận Việt Minh đã mang tiếng là bị Cộng sản lung lạc, mất cả sự ủng hộ trong nước và ngoài nước, đến như Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, một đảng chánh trị duy nhứt ở miền Nam thì lại quá yếu vì thiếu hậu thuẫn quần chúng. Vì sự nhu cầu của tình thế, miền Nam cần có một lực lượng lãnh đạo kháng chiến và kiến thiết quốc gia khi nền độc lập được khôi phục.

Sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng thống hợp hai khối: Phật Giáo Hòa Hảo (Tôn giáo) và Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng (chánh trị) cùng một số đoàn thể: thanh niên, cần lao, kháng chiến thành một lực lượng chánh trị đủ khả năng đóng lấy vai trò lãnh đạo quốc gia trên lập trường dân tộc.

Đảng Dân Xã chẳng những cần thiết trong giai đoạn tranh đấu chống xâm lăng giành độc lập mà còn cần thiết trong giai đoạn kiến tạo quốc gia giữa hai chủ nghĩa cực đoan: Tư bản và Cộng sản đang tranh giành ảnh hưởng trên bàn cờ quốc tế. Nếu đứng trên phương diện phúc lợi của nhân dân mà xét thì mỗi chủ nghĩa đều có ưu điểm và nhược điểm.

Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, con người được giải phóng về đời sống tinh thần, được hưởng mọi quyền tự do dân chủ. Nhưng cũng vì tự do quá trớn mà hạng giàu, hạng tư bản được tự do bóc lột hạng nghèo khó, công nhơn lao động. Khiến cho hạng thiếu phương thức sanh sản phải nghèo khổ, thất nghiệp chịu đói chịu khát.

Đến như chế độ cộng sản, mặc dầu về đời sống không có cảnh thất nghiệp nhưng cũng bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt tài sản. Ngoài ra còn bị đàn áp về mặt tinh thần. Trong chế độ Cộng sản không có danh từ tự do, dù là tự do suy nghĩ, nghĩ khác hay nói khác hơn những mạng lịnh của chánh quyền là bị tù đày, bị thủ tiêu.

Nếu đem so sánh hai chế độ, người ta có thể nói, trong chế độ tư bản, con người được hoàn toàn tự do về mặt tinh thần, nhưng bị bóc lột về đời sống vật chất; còn trong chế độ Cộng sản thì con người được phần nào đảm bảo về đời sống xã hội nhưng hoàn toàn bị bóp nghẹt về phương diện tinh thần. Thành thử con người, sống trong chế độ nào, tư bản hay Cộng sản, vẫn thấy thống khổ, khổ về đời sống vật chất, khổ về đời sống tinh thần.

Sau đệ nhị thế chiến, loài người sống giữa hai sự tranh chấp của hai chế độ cực hóa, luôn luôn chực biến con người thành những bộ máy sản xuất và trong tương lai có thể đưa loài người đến vực thẳm diệt vong, nếu những tâm hồn cuồng loạn vì tham vọng đen tối không chịu thức tỉnh, trở lại bản tánh nhân thiện mà dẹp bỏ các thứ võ khí sát nhân.

Đứng giữa hai chế độ cực hóa, loài người chỉ còn một xuất lộ, vừa giải phóng con người về phương diện đời sống vật chất và tinh thần, đồng thời đem lại một đời sống quân bình hạnh phúc. Đó là chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội, một chủ nghĩa “trung hóa” nghĩa là đứng giữa hai cực đoan, hóa giải thành một chủ nghĩa quân bình, giải phóng con người cả hai phương diện. Với chủ nghĩa dân chủ trong Dân Chủ Xã Hội, con người sẽ được hoàn toàn tự do về mặt vật chất cũng như tâm linh.

Với chủ nghĩa xã hội trong Dân Chủ Xã Hội, đời sống con người sẽ được đảm bảo: không còn sự chinh lệch quá xa giữa hạng giàu và hạng nghèo. Ai ai cũng được đảm bảo về nhà ở, công ăn việc làm. Mỗi gia đình đều có một mái nhà, nhà nông có ruộng, người thợ có nghề và các công cụ cần thiết cho nghề nghiệp.

Xã hội Dân Xã có thể gọi là quân bình nhứt trong đó mọi người đều sống một đời hoàn toàn an lạc.

Đảng Dân Xã chẳng những cần thiết trong giai đoạn kháng chiến chống xâm lăng mà còn cần thiết trong giai đoạn xây dựng quốc gia khi Việt Nam độc lập. Hiện nay có nhiều nước đang tiến trên con đường dân chủ xã hội. Trong tương lai, sự giải thể hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản sẽ đưa nhơn loại đến một chủ nghĩa quân bình an lạc, phù hợp với con người hoàn toàn giải phóng. Đó là chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội.

Cho nên sự thành lập Đảng Dân Xã chẳng những đáp ứng được nhu cầu cứu nước mà còn phù hợp với trào lưu tiến hóa nhơn loại trên bước đường tương lai tiến đến một xã hội quân bình an lạc chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội.

Đức Huỳnh Giáo Chủ, là một bực tiên giác, tiên liệu được thời cuộc và bước tiến của nhơn loại, nên chủ trương thành lập một chánh đảng lấy tên là Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Ngài đã giải thích lý do tại đâu chấp nhận thành lập đảng Dân Xã và dùng đảng nầy làm lợi khí tranh đấu thay vì dùng tôn giáo. Ngài có nêu ra ba lý do sau đây để đáp lại câu hỏi của một tín đồ (1):

“1. Việt Minh tranh đấu chánh trị. Nếu Thầy đem đạo ra tranh đấu thì không thể được, vì đạo chỉ lo tu hành chơn chất, nên Thầy phải tổ chức Đảng chánh trị mới đủ điều kiện để tranh đương kịp.

“2. Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặc dù nhìn nhận Thầy là nhà ái quốc chơn chánh, nhưng không thể hiệp chung với Thầy lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không thể tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không lẽ bỏ đạo mà qui y theo Phật Giáo Hòa Hảo, vì vậy Thầy phải tổ chức đảng chánh trị để anh em ấy có điều kiện tham gia vì rằng tham gia, họ chỉ giữ kỷ luật của đảng mà thôi, còn tôn giáo thì của ai nấy giữ.

“3. Tất cả anh em tín đồ nếu thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, thương nước thương dân hãy tham gia mà tranh đấu. Đây là phương tiện để anh em tín đồ hành sử Tứ Ân”. (2)

 

__________________________________________________________

CHÚ THÍCH

(1) ông Huỳnh Hữu Phỉ.

(2) Hành sử đạo nhân. Tr. 140.

 

Đảng Dân Xã không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên. – Để đánh tan dư luận thấy khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia đông đảo vào Đảng Dân Xã, nên cho rằng đảng Dân Xã là Phật Giáo Hòa Hảo trá hình, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã cực lực đính chánh điều ngộ nhận ấy trong bài minh xác trên báo Quần Chúng ngày 15-11-1946 như sau:

“1. Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội là một đảng chánh trị, có tuyên ngôn, chương trình, điều lệ rõ ràng do mấy nhóm chánh trị, đoàn thể kháng chiến hay anh em trong các tôn giáo mà hoạt động chánh trị hợp lại thành lập. Thế thì không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên.

“2. Sở dĩ tôi nhân danh mà kêu gọi anh em Hậu Giang là vì về dĩ vãng mặc dù tôi ở trong địa hạt Phật giáo, nhưng có quyền riêng là gia nhập Việt Nam Dân Xã, nó hợp với quan niệm tranh đấu chánh trị của tôi. Cái quyền nhập đảng ấy, anh em Công giáo, Cao đài, Tịnh độ cư sĩ vẫn có cũng như tôi. Hiện nay tôi là đảng viên của đảng Dân Chủ Xã Hội và có rất nhiều anh em ở Hậu giang cũng đã vào đảng Dân Xã. Khi đã vào đảng đều tuân kỷ luật của đảng trong sự hoạt động chánh trị. Như vậy cũng rõ rệt rằng Phật Giáo Hòa Hảo và đảng Dân Xã là hai tổ chức khác nhau, Tôn giáo là Tôn giáo mà Chánh trị là Chánh trị”. (3)

 

___________________________

(3).Hành sử đạo nhân. Tr. 144.

Một điều nữa chứng tỏ đảng Dân Xã không phải Phật Giáo Hòa Hảo đổi tên là việc thành lập Ban Chấp Hành Trung Ương mà những chức vụ quan trọng đều giao phó cho anh em Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, nhứt là trường hợp anh Nguyễn Bảo Toàn được Đức Huỳnh Giáo Chủ cử giữ chức vụ Tổng Bí Thơ trong Trung Ương đảng Bộ. Anh thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo, thế mà anh được đề cử là vì hai lý do sau đây:

a)- Trước nhứt anh chủ trương tờ nhựt báo Dân Mới, nổi tiếng chống Pháp nên bị Tòa đại hình kêu án 5 năm khổ sai đày đi Côn Đảo. Đến năm 1944 mãn tù, anh bị quản thúc tại Mặc Bắc (Trà Vinh) quê quán anh cho đến ngày Nhựt đảo chánh. Anh hiệp với Nguyễn văn Sâm, Hồ văn Ngà, Phan Khắc Sửu… thành lập Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, trong đó anh giữ chức vụ Tổng Bí Thơ, nhờ thành tích đi Côn đảo. Chính với thành tích nầy Đức Thầy đề cử anh giữ chức Tổng Bí Thơ Trung Ương Đảng Bộ Đảng Dân Xã, cũng như ông Nguyễn Giác Ngộ được Đức Thầy đề cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Chi đội Nguyễn Trung Trực cũng do ba năm Côn đảo của ông. Như thế Đức thầy chọn người lãnh đạo là tùy ở thành tích chớ không dựa vào tình cảm hay tôn giáo. Việc đề cử anh Nguyễn Bảo Toàn vào chức vụ Tổng Bí Thơ đủ nói lên tinh thần trọng dụng nhân tài, đặt quyền lợi quốc gia trên tình nghĩa bè phái.

b)- Đề cử anh Nguyễn Bảo Toàn thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo mà không đề cử tín đồ Phật Giáo như ông Nguyễn văn Sâm, Trần văn Ân hay tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo như bác sĩ Trần văn Tâm là để minh xác đảng Dân Xã không phải là Phật Giáo Hòa Hảo trá hình hay đổi tên, mặc dầu đa số đảng viên là khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.

Diễn tiến của Đảng Dân Xã. – Với ý định thành Liên khu Quốc gia, để làm thế mạnh bên ngoài, Đức Thầy phái ông Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn sang Trung Hoa hiệp với các nhà cách mạng lưu vong thành lập Mặt Trận Toàn Quốc và để làm thế ủng hộ bên trong, Ngài phái ông Lê văn Thu về miền Tây mở lớp huấn luyện cán bộ chánh trị và xúc tiến việc đặt cơ sở khắp nơi.

 

Cuối năm 1946, tình hình trở nên khó khăn, do sự phản ứng của nhân dân chống lại sự khủng bố ráo riết của Pháp. Đường sá bị phá, sự lưu thông bị gián đoạn nhiều nơi. Vì vậy sự liên lạc giữa Trung Ương với các Bộ đội tác chiến cũng như cơ quan chánh trị ở miền Tây bị cắt đứt. Một phúc trình hoặc đề nghị từ miền Tây chuyển lên Trung Ương mất nhiều thời giờ, rất trở ngại cho công việc hoạt động quân sự và chánh trị.

Cho nên cuối 1946, một hội nghị quân chính được triệu tập tại Hiệp Xương. Về phía quân sự thì có Ban chỉ huy Bộ đội Nguyễn Trung Trực, còn về phía chánh trị thì đại diện các Ban Chấp Hành Tỉnh Bộ. Đức ông được mời tham dự với tư cách cố vấn.

Để tiện việc hoạt động kịp thời ứng phó với tình thế, hội nghị đồng chấp nhận một kiến nghị yêu cầu Trung Ương sớm thành lập một Ban chỉ huy Quân chính miền Tây để trực tiếp lãnh đạo sanh hoạt quân sự và chánh trị.

Vào đầu năm 1947, Trung Ương có phái về 3 vị: Lê văn Kinh (tức Lương Trọng Tường), Ngô văn Hai (tức Nguyễn xuân Tăng) và ông Sơn (tức Lâm ngọc Thạch) về miền Tây đứng ra triệu tập một phiên họp tại Cái Gút, xã Nhơn Mỹ để thành lập Ban Chấp Hành Liên Tỉnh miền Tây.

Theo đề nghị thì xin lập Ban chỉ huy Quân chính, Ban chỉ huy viết tắt BCH có thể hiểu là Ban Chấp Hành?

Ban Chấp Hành Liên Tỉnh. – Phiên họp gồm có 3 vị của Trung Ương phái về, ông Lê văn Thu lúc bấy giờ là Giám đốc khóa huấn luyện chánh trị tại Nhơn Mỹ, ông Mai văn Dậu, nhơn viên trong Ban Hòa Giải và đại diện các Ban chấp hành Tỉnh bộ.

Mở đầu phiên họp, ông Lê văn Kinh trình Ủy nhiệm thơ của Trung Ương, đặc phái ba ông về Hậu giang thành lập Ban chấp hành Liên Tỉnh miền Tây, với hình thức Ban Thường Vụ như sau:

– 1 Trưởng ban

– 1 Tổng Bí Thơ

– 1 Ủy viên Tài chánh

Đại diện Tỉnh bộ Châu đốc liền đưa ra nhận xét hình thức tổ chức ấy không thấy ấn định trong điều lệ của đảng và nếu tổ chức theo hình đó thì phá vỡ tổ chức cũ từ tỉnh xuống đến xã ấp. Như thế là làm xáo trộn cả bộ máy đảng trong Tỉnh Châu đốc.

Ông Kinh khẳng định rằng: ông được Ủy viên đặc biệt (Đức Thầy), đồng thời cũng là sáng lập viên và Ủy viên Trung ương, đã ủy nhiệm thì ông có toàn quyền tổ chức. Trước Ủy nhiệm thơ của Đức Thầy, các cử tọa đều im lặng.

Nhưng đại diện Tỉnh bộ Châu đốc có đưa ra nhận xét là hình thức tổ chức ấy không được ổn bởi lẽ, nếu có chức Tổng Bí Thơ thì không có chức Trưởng Ban, vì đó là hình thức tổ chức của một Chánh đảng. Còn nếu có chức Trưởng Ban thì không thể có chức Tổng Bí Thơ, bởi đây là hình thức tổ chức của hiệp hội. Nếu tổ chức theo hiệp hội thì gọi là Tổng thơ ký.

Ông Ngô văn Hai yêu cầu định nghĩa và phân biệt thế nào là Tổng Bí Thơ và thế nào là Tổng Thơ Ký.

Đại diện Tỉnh bộ Châu đốc liền phân tách: Tổng Bí Thơ là chức vụ chưởng quản các Bí Thơ, một chức vụ tối quan trọng trong đảng, vì người sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm với cấp trên và giữ bí mật các văn kiện mật. Còn Tổng Thơ Ký chỉ có phận sự làm công việc văn phòng của một Ban Thường Vụ mà thôi.

Vả lại với hình thức của tổ chức hiệp hội, từ chức vụ Trưởng Ban cho đến Tổng Thơ Ký trong Ban Thường vụ đều liên đới chịu trách nhiệm và mọi huấn lịnh, chỉ thị đều đem ra thảo luận chung, khác hơn hình thức tổ chức đảng, chức vụ Tổng Bí Thơ hay Bí Thơ chịu hoàn toàn trách nhiệm và giữ mật mọi việc quan trọng.

Sau khi nghe trình bày, ông Lê văn Kinh cũng như ông Ngô văn Hai đồng chấp nhận đổi danh từ Tổng Bí Thơ lại Tổng Thơ Ký. Dầu vậy, đại diện Tỉnh bộ Châu đốc cũng kháng nghị rằng hình thức tổ chức hiệp hội trái nghịch với điều lệ và làm xáo trộn bộ máy tổ chức cũ.

Ông Lê văn Thu yêu cầu ghi lời kháng nghị của Tỉnh Châu đốc vào biên bản để trình lên Trung Ương quyết định tối hậu.

Vào đầu tháng 2 năm 1947, Đức Thầy di chuyển về miền Tây, đặt văn phòng tại Hành dinh của Chi đội 30 ở xã Phú Thành, có lẽ đọc biên bản nên có cho vời nhân viên Ban chấp hành Tỉnh bộ Châu đốc đến.

Sau khi nghe trình bày, Ngài có nói: Tuy tôi là Ủy viên Trung Ương cũng là sáng lập viên đảng Dân Xã, vẫn không có quyển sửa đổi điều lệ. Quyền ấy phải dành cho đại hội toàn quốc, một năm được triệu tập một lần, mới có quyền sửa đổi mà thôi. Như vậy ông Kinh đã làm sai nguyên tắc. Nói đoạn, Ngài xoay qua ra lịnh cho văn phòng viết thơ mời gấp Ban chấp hành Liên Tỉnh (4).

____________________________________________

(4) Nghe đâu, sau đó Liên tỉnh có đến và theo lời của nhiều nhân viên văn phòng thuật lại, Đức Thầy thâu hồi giấy ủy nhiệm của ông Kinh và ra lịnh cho Sáu Rớt (tức đại tá Trần văn Tươi) đưa ông Kinh về Sài Gòn. Chừng như Sáu Rớt vì bận việc lo chuyên chở thuốc men nên có hẹn với Đức Thầy để hoãn lại một ngày khác.

Mấy hôm sau đó, Đức Thầy ngộ nạn. Thế rồi Ban chấp hành Liên tỉnh cứ tiếp tục hoạt động theo hình thức tổ chức mới và ra lịnh cho các cấp bộ lệ thuộc cùng cải tổ theo.

Về hình thức, thế là Đảng Dân Xã đã thay đổi mà về tinh thần, đảng cũng trải qua một cuộc biến cải hay lột xác, từ địa vị lãnh đạo chánh trị đã biến thành một tổ chức lệ thuộc quân sự, đóng lấy vai trò tiếp tế, cung phụng vừa tiền bạc vừa quân nhu thực phẩm cho quân đội mà thôi.

Các nhà ái quốc trí thức theo Đức Thầy về miền Tây để phục vụ đảng, hoặc đào tạo cán bộ hoặc chuẩn bị ra báo, nhận thấy đảng Dân Xã đã biến thể nên không còn lý do để phục vụ, lần lượt rút lui về Sài Gòn. Trong số đó được biết: Luật sư Lê văn Thu, nhà văn Nguyễn Duy Linh, các giáo sư Huế Điền, Võ văn Lượm…

Về phương diện chánh trị đã thế mà về phương diện quân sự, vì sự bức bách của tình thế cũng có chỗ đổi thay. Để đáp ứng với tình thế mới Bộ đội Phật Giáo Hòa Hảo ra đời. Thừa cơ hội Đức Thầy vắng mặt, Thực dân cũng như Cộng sản tăng gia tấn công và khủng bố.

Cờ Ba Sao. – Vào khoảng tháng 7 năm 1947, trong một trận đánh tại vùng Láng Linh, vì thiếu quân kỳ nên Bộ đội Dân Xã bị thiệt hại nặng. Có một số sĩ quan như Cò Trình, Cờ No… tử trận.

Ông Lâm Thành Nguyên đến báo cáo với Ban Chấp Hành Liên Tỉnh lúc bấy giờ đóng tại xã Hưng Nhơn, nguyên nhân của sự tổn thất và yêu cầu Liên tỉnh tạo cho lá quân kỳ. Sau khi thảo luận, lá cờ vàng với một ngôi sao đỏ được đưa ra, có ý đối chọi lại cờ VM, nền đỏ một ngôi sao vàng.

Lá cờ nầy không được chấp nhận, vì lẽ nó không khác lá cờ của Thanh Niên Tiền Phong. Do đó, lá cờ được thêm hai ngôi sao nữa nghĩa là thành lá cờ nền vàng ba ngôi sao đỏ.

Ban Chấp Hành Liên Tỉnh có yêu cầu các cấp cho ý kiến và giải thích ý nghĩa để chọn lựa. Có nhiều ý kiến được đưa ra. Người thì giải rằng: nền vàng là màu tượng trưng cho quốc gia Việt Nam, còn ba sao là tượng trưng cho ba kỳ: Nam, Trung, Bắc hoặc

– Tam dân chủ nghĩa: Dân tộc, Dân quyền, Dân sanh.

– Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.

– Tam tài: Thiên, Địa, Nhơn.

Cuối năm 1947, một cái tang đưa đến cho Đảng Dân Xã: ông Nguyễn văn Sâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Ngoại giao và đồng thời cũng là đại diện cho Mặt Trận Toàn Quốc tại miền Nam bị ám sát tại Chợ Lớn (10-10-1947).

Tiếp theo đó, bác sĩ Trần văn Tâm, Ủy viên Trung Ương đặc trách Tài chánh, cũng bị ám sát.

Thế là sự liện lạc giữa Trung Ương đảng bộ với Ban Chấp Hành Liên Tỉnh đã lỏng lẻo từ sau ngày Đức Thầy ngộ nạn, nay thì đứt hẳn. Từ biến hình, Đảng Dân Xã đến đây mất luôn lãnh đạo và dần dần lột xác biến thành một đảng Hòa Hảo.

Trong lúc mất lãnh đạo, lại thêm dồn dập bị Pháp tấn công khủng bố, bắt bớ cán bộ, cũng như làm tê liệt các cơ quan tỉnh, quận, xã, cố dồn ép Đảng Dân Xã hoặc tan rã, hoặc liên minh với Pháp chống Cộng.

Vì giữ vững lập trường kháng chiến nên đảng bị khủng bố đến tê liệt.

Đầu năm 1948, một phiên họp được triệu tập tại chùa Cây Xanh ở Cái Tắc, Ban chấp hành Liên Tỉnh tuyên bố đình chỉ công tác. Thế là các cán bộ phải hoặc rút vào vị trí bí mật, hoặc chui vào các lực lượng võ trang để tiếp tục tranh đấu quân sự.

 

Đảng Dân Xã Ba Sao. – Năm 1954, nhân đem quân ra hợp tác với quân đội quốc gia, Đại tá Lê Quang Vinh tức Ba Cụt, cho hợp thức hóa Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng với đảng kỳ nền vàng ba ngôi sao đỏ dụm lại (5), do Nghị định số 91-BNV/CT ngày 14-5-1954. Kịp khi Hiệp định Geneve ra đời (20-7-1954), Đại tá Lê Quang Vinh kéo toàn quân và Đảng Dân Xã vào bưng biền chống lại sự qua phân lãnh thổ Việt Nam do âm mưu của Thực dân và Cộng sản, cho đến ngày chế độ độc tài gia đình trị của Ngô đình Diệm bị lật đổ.

Sau khi đảng rút vào bưng, Ngô đình Diệm ban hành Nghị định số 41-NV ngày 27-1-1955 thâu hồi Nghị định số 91-BNV/CT ngày 14-5-1954 cấm Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng với lá cờ nền vàng ba sao đỏ hoạt động.

________________________________________

(5) Khi mới ra đời ba sao xếp theo hình vòng cung chớ không dụm lại.

                                          * * *

Nhắc lại Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn Tổng Bí Thơ của đảng được Đức Huỳnh Giáo Chủ để cử đại diện đảng và Phật Giáo Hòa Hảo sang Trung Hoa hiệp với các nhà cách mạng lưu vong thành lập Mặt Trận Toàn Quốc với mục đích xây dựng một thế quốc gia. Nhưng vì công dân Vĩnh Thụy lại nghe theo ý kiến của Pháp, chịu trở về nước với danh nghĩa Quốc Trưởng Bảo Đại nên nhiệm vụ của Mặt Trận bất thành trong công cuộc xây dựng thế quốc gia bên ngoài làm hậu thuẫn cho Liên khu Quốc gia kháng chiến bên trong. Liền sau đó Đức Huỳnh Giáo Chủ ngộ nạn, rồi vài tháng sau ông Nguyễn văn Sâm bị ám sát.

Đầu năm 1948, Nguyễn Bảo Toàn trở về nước, gặp phải hoàn cảnh vô cùng bất lợi. Một mặt cơ sở Trung Ương không còn, một mặt tánh mạng bị đe dọa nên buộc lòng phải xuất ngoại sang Ấu Châu, sống với nghề mở lớp hàm thụ dạy chánh trị.

Đảng Dân Xã Chữ Vạn.- Khi Hiệp định Giơ-neo ký kết, một khúc quanh lịch sử đưa đến cho đất nước Việt Nam. Để kịp ứng phó với tình thế, trong giai đoạn hoạt động quân sự nhường chỗ cho hoạt động chánh trị, anh Nguyễn Bảo Toàn trở về nước đầu năm 1955. Với sự tán trợ của tướng Nguyễn Giác ngộ, một phiên họp được triệu tập tại số 204 đường Yên Đỗ, Sài Gòn. Hiện diện trong phiên họp có quý vị cựu Ủy viên Trung Ương như: Nguyễn Bảo Toàn, Lê văn Thu, Lâm văn Tết, La văn Thuận với các vị cựu Bí thơ Ban chấp hành Tỉnh bộ Châu Đốc, Long Xuyên, Sa đéc…Ngoài ra có quí ông Mai văn Dậu, tướng Nguyễn Giác Ngộ và nhân viên Ban chỉ huy Bộ đội Nguyễn Trung Trực… Sau khi xét qua tình hình quốc tế và quốc nội, hội nghị đồng đi đến quyết định tái phát Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Xét về phương diện pháp lý cũng như nguyên tắc tổ chức, Trung Ương Đảng Bộ hội đủ điều kiện để tái lập, vì rằng gồm quá bán Ủy viên Trung Ương cũ có mặt, cộng thêm một số cựu Bí Thơ Ban Chấp hành Tỉnh bộ và một số cán bộ cao cấp có uy tín trong đoàn thể như ông Mai văn Dậu, nguyên Đổng lý văn phòng của Ngài Ủy viên Đặc biệt và tướng Nguyễn giác Ngộ Chỉ huy trưởng Bộ đội Nguyễn Trung Trực.

 

Thề theo quyết định của phiên họp, một Ban trị sự lâm thời được ủy nhiệm đứng đơn xin hợp thức hóa đúng theo luật lệ hiện hành. Nhưng chánh quyền Ngô Đình Diệm từ chối, viện lẽ Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng cũng như lá cờ nền vàng ba ngôi sao đỏ đã bị Nghị định số 41-NV ngày 27-1-1955 cấm hoạt động và yêu cầu Ban trị sự đổi lại danh xưng và lá đảng kỳ khác.

Bất đắc dĩ, Ban trị sự phải sửa lại Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam, thay vì theo cú pháp Hán (V.N.D.C.X.H.Đ.) sửa lại theo cú pháp Việt (Đ.D.C.X.H.V.N.) tuy về cú pháp có thay đổi Hán ra Việt, nhưng nội dung (Dân chũ Xã hội) vẫn không thay đổi.

Và để phân biệt lá cờ nền vàng ba ngôi sao đỏ của Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng bị cấm hoạt động. Đảng Dân chủa Xã hội Việt Nam đưa ra mẫu cờ mới với nền đỏ chữ Vạn vàng, với ý nghĩa: Màu đỏ là màu tranh đấu, đại đồng; chữ Vạn tượng trưng cho Từ bi, nhà Phật. Lá đảng kỳ nầy còn biểu tượng cho khối PGHH vì màu đỏ là màu của Trần điều, màu mà tín đồ thờ nơi ngôi Tam bảo và chữ Vạn là biểu trưng cho Phật giáo. Như vậy, lá cờ nền đỏ chữ Vạn có thể tượng trưng cho Phật giáo (chữ Vạn) Hoà Hảo (màu đỏ = trần điều).

Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam với lá đảng kỳ màu đỏ chữ Vạn vàng được hợp thức hóa cho Nghị định số 5-BNV/ CT ngày 9-2-1955.

Khi Hội đồng Nhân dân Cách Mạng được thành lập, ông Nguyễn Bảo Toàn được bầu làm Chủ tịch Hội đồng, tranh đấu chấm dứt chế độ Quân chủ để thiết lập chế độ Cộng Hòa, đúng với chương trình của Đảng Dân Xã ấn định.

Nhưng khi Ngô Đình Diện được bầu làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa thì phản bội quốc dân, thực thi chế độ độc tài gia đình trị, thẳng tay đàn áp các đảng phái quốc gia.

Trong đêm 20-1-1956, Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn mở cuộc họp báo tại Trụ sở 204 đưởng Yên Đổ, đả kích và lên án chế độ độc tài của họ Ngô; sáng hôm sau (21-1-1956) anh lên đường sang Cao Miên rồi qua Mỹ, do đường Thái Lan ngang qua Nhựt Bổn.

Trong lúc anh Toàn xuất ngoại, Đảng tiếp tục hoạt động, rút vào vị trí bí mật, mở nhiều khóa huấn luyện cán bộ. Năm 1958, đảng họp với các đảng Quốc gia thành lập “Khối Dân chủ Đối lập” chống chế độ độc tài Nhu-Diệm.

Năm 1959 anh Toàn trở về nước, xúc tiến công việc đoàn kết các Đảng phái. Đến năm 1960, “Liên Minh Dân chủ” ra đời gồm có đại diện các đảng:

– Việt Nam Quốc dân đảng do Vũ hồng Khanh, Xuân Tùng đại diện.

– Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam do Nguyễn bảo Toàn, Phan bá Cầm đại diện.

– Đảng Duy Tân do Lê Vinh đại diện,

– Khối Dân chủ do Hoàng Cơ Thụy đại diện,

– Đảng Đại Việt do Nguyễn Đình Luyện đại diện,

– V.N. Phục quốc Đồng Minh do Lê văn Sáu đại diện.

 

Liên Minh làm đầu não cho cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 do Hoàng Cơ Thụy và Nguyễn Bảo Toàn liên kết với các Sĩ quan Dù. Cuộc quật khởi bất thành, một số cán bộ Dân Xã bị bắt, giam cầm, tù đày.

Trong cuộc tranh đấu chống chế độ Độc tài gia đình trị của họ Ngô, Đảng đã đóng góp rất nhiều xương máu. Ngoài những cán bộ bị tù đày, lưu vong và giam hãm ở các trại tập trung, còn có tướng Lê quang Vinh tức Ba Cụt lên đoạn lầu đài, Nguyễn Bảo Toàn và Phạm Xuân Gia tự Màng bị thủ tiêu trong ngục thất.

SAU CÁCH MẠNG 63.– Sau khi chế độ độc tài gia đình trị của họ Ngô bị lật đổ, các cán bộ Dân Xã bị tù đày lưu vong lần lượt trở về, xây dựng lại cơ sở Đảng đã bị phá vỡ. Các trụ sở được dựng lại, các Ban Chấp Hành được chỉnh đốn và cải tổ.

Vào khoảng nửa năm 1964, Trương Kim Cù từ Cao Miên về, bèn đứng đơn xin hợp thức hóa đảng Dân Xã và được Bộ Nôi Vụ cấp Nghị định số 1099-BNV/KS ngày 11-9-1964.

Thế là đảng Dân xã có đến 3 hệ phái:

– Hệ phái 3 sao của Trình Quốc Khánh.

– Hệ phái chữ Vạn của Phan Bá Cầm.

– Hệ phái 3 sao của Trương Kim Cù

Từ năm 1964, cuộc xáo trộn chính trị diễn ra trong nước. Tinh trạng rối reng, hỗn loạn càng ngày trầm trọng. Đất nước lâm vào tình trạng nhiễu nhương nguy khốn, đời sống dân chúng vô cùng đen tối điêu linh.

Ý thức vai trò chính trị của mình trước công cuộc cứu nguy đất nước, các hệ phái Dân Xã quyết thống nhứt nội bộ, nhưng lúc bây giờ điều kiện khách quan chưa thuận tiện. Chánh quyền chẳng thực tâm thực thi Dân chủ, cố ngăn cản sự thống nhứt, sợ các đảng phái Quốc gia lớn mạnh.

Mãi cho đến ngày 8-5-1966, trong Đại hội toàn quốc Phật Giáo Hòa Hảo họp tại Thánh địa Hòa Hảo, toàn thể Hội nghị đồng thanh biểu lộ ý chí thống nhứt. Kết quả là Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng thống nhứt ra đời với sự họp nhứt 5 hệ phái: Ba hệ phái chánh trị và hai hệ phái cựu quân nhân.

1.- Đảng Dân Xã 3 sao do Trình Quốc Khánh lãnh đạo,

2.- Đảng Dân Xã chữ Vạn do Phan Bá Cầm lãnh đạo,

3.- Đảng Dân Xã 3 sao do Trương Kim Cù lãnh đạo.

4.- Tập đoàn Cựu chiến sĩ HH/DX do Lâm Thành Nguyên lãnh đạo;

5.- Hội Cựu Quân Nhân PGHH do Trần Duy Đôn lãnh đạo,

Đảng Thống nhứt điều hành bởi một Chủ tịch Đoàn gồm có 5 nhân viên, đại diện cho 5 hệ phái luân phiên nhau làm Chủ tịch với một Ban Chấp hành gồm các nhân viên Đại diện cho 5 hệ phái.

Sau hơn một năm hoạt động, đến kỳ bầu cử Tổng Thống năm 1967, Trình Quốc Khánh tách khỏi khối Thống Nhứt, ra ứng cử chức Phó Tổng Thống trong Liên danh của Nguyễn văn Thiệu.

Một thời gian sau, cuối năm 1969, Lâm Thành Nguyên vì có trách nhiệm đối với anh em cựu chiến binh và cô nhi quả phụ mà ông có phận sự bảo vệ quyền lợi, hơn nữa theo luật 009/69 ngày 19-6-1969 không cho phép một người có chơn trong hai đảng, nên ông xin rút ra khỏi khối Thống nhứt để đứng đơn xin hợp thức hóa Tập đoàn cựu chiến sĩ HH/DX thành một tổ chức chánh trị.

Ngày 21-3-1973, Trần Duy Đôn đệ đơn lên Bộ Nội vụ xin rút tên ra khỏi Đảng Dân Xã Thống Nhứt, sau khi chánh quyền ban hành Sắc luật 060/TT/SLU ngày 27-12-1972 đặt các chánh đảng trong tình trạng bị giải tán nếu không hội đủ các điều kiện luật định.

Như thế, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng Thống Nhứt chỉ còn có hai thành phần của Phan Bá Cầm và Trương Kim Cừu.

Chấm dứt chế độ Chủ tịch Đoàn, Đảng tổ chức lại đúng theo hình thức tổ chức nguyên thỉ, với lập trường cố hữu Đạo đức và Dân tộc, luôn luôn chủ trương:

– Lấy sự giải phóng Dân tộc, tranh thủ Tự do Dân chủ làm mục tiêu hành động,

– Lấy sự đoàn kết các lực lượng, quốc gia làm phương thức tranh đấu.

– Lấy giai tầng Nông dân, nhứt là miền Châu thổ sông Cửu long làm địa bàn hoạt động.

Đảng quan niệm sự tranh đấu như chiếc thuyền đi trên sông, nếu được nước xuôi gió thuận thì đi mau, bằng gặp gió ngang nước ngược thì ra tay chèo chống chớ không buông tay để cho thuyền bị đẩy lui lại. Ngộ giả, không thể tiến được thì cắm sào chờ nước xuôi gió thuận.

Chớ Đảng không bao giờ có vấn đề đình chỉ khi gặp khó khăn hay giải tán khi gặp chứng ngại, vì phương thức hoạt đồng của Đảng vừa có tánh cách chánh trị và cách mạng, có nhiều hình thái đấu tranh tùy từng giai đoạn, hoàn cảnh mà khi thì tranh đấu chánh trị, khi thì tranh đấu cách mạnh, lúc thì hoạt động công khai lúc lại hoạt động bí mật, miễn sao đạt đến mục đích, hoàn thành sứ mạng của tiền nhân giao phó, dầu hôm nay không thành thì ngày mai phải thành, lớp nầy ngã thì có lớp sau tiếp nối cho đến ngày đạt thành sở nguyện.

Dầu có đạt mục tiêu cũng chưa phải là chấm dứt. Xã hội loài người luôn luôn trên đà tiến hóa và luôn luôn cải thiện để thích ứng hoàn cảnh thì sứ mạng của Đảng khi hoàn tất một đoạn đường, lại hoạch định hành trình cho một đoạn đường mới, phù hạp với nhu cầu mới và phương thức hoạt động mới.

Thành thử đảng chánh trị không đặt ra vấn đề chấm dứt hay giải tán. Khi loài người còn và cần cải thiện đời sống để tự tốn thì đảng chánh trị vẫn còn cần thiết để tranh đấu cho phúc lợi của toàn dân.

 

Phương chi Đảng Dân xã đã do Đức Huỳnh Giáo Chủ hiệp với các nhà ái quốc thành lập. đã đóng góp rất nhiều xương máu tranh đấu cho quyền lợi Quốc gia, Dân tôc thì những người đi sau, hưởng công quả của những người đi trước, không có quyền đình chỉ hay chấm dứt sứ mạng của nó. Làm ngược lại là phản bội tiền nhân, phản bội công lao của những Liệt sĩ tranh đấu cho quyền lợi của Quốc gia dân tộc. Chúng ta chỉ có bổn phận phục vụ và hy sinh vì nó, để cho đất nước được trường tồn, giống nòi được truyền thụ.

                       Chương XVII: Những cống-hiến

Ra đời trong một thời gian rất ngắn (không đầy 8 năm) Phật Giáo Hòa Hảo phát triển có thể nói là kỷ lục: Nền Đạo đã bành trướng khắp miền Tây Nam Việt và thâu nhập một số tín đồ lúc bấy giờ gần 2 triệu gây thành một phong trào Đạo đức chưa từng thấy.

Kết quả đó đủ nói lên tánh chất đối cơ của pháp môn Học Phật Tu Nhân và sự thắng diệu của Pháp môn nầy trong việc biến cải đời sống tâm linh và vật chất của ngót 2 triệu tâm hồn đang sống trong cảnh vô vọng của chế độ Thực dân thống trị.

A- PHƯƠNG DIỆN ĐỜI HAY ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT.

Ngoài Ngũ giới, Thập giới là những giới căn bản của hạng cư sĩ tại gia, Đức Huỳnh Giáo Chủ còn lập ra 8 điều răn cấm để hoán cải đời sống tinh thần và vật chất của tín đồ.

CHẤN CHỈNH PHONG HÓA- Thử đi vào gia đình tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta sẽ thấy, thay vì một đời sống bê tha dật lạc là một đời sống bình dị thanh thản.

Về phương diện thờ phượng, ta không còn thấy cảnh tượng những bàn thờ Cửu thiên Huyền nữ, Đông Trù Tư Mạng, Tài Thần, Thổ thần…la liệt như trước mà chỉ thấy một cảnh đơn giản, chỉ vỏn vẹn có ngôi Tam Bảo với tấm trần điều, tượng trưng cho tinh thần thoát tục và dân tộc:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Về cách cúng Phật, chỉ thấy 3 chung nước nước lã, tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết và nhang dùng để bán mùi uế trược. Ngoài ra chẳng còn cúng món chi khác nữa.

Phía trước ngôi Tam Bảo là bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ và ở phía trước nhà là bàn Thông Thiên.

Mỗi ngày, sớm chiều hai thời lễ bái, có khác chi hai buổi tụng niệm công phu của nhà Thiền, và sau thời lễ bái là ngồi niệm Phật, chiếm khá nhiều thời giờ khiến người tín đồ không quá rảnh rang để nghĩ việc bâng quơ hay phí phạm thi giờ quí báu vào những việc vô ích.

Mỗi tháng, căn bản là 4 ngày chay lạt là những ngày 14, rằm, 29 và 30; ngoài ra tùy sức mà thọ hoặc Lục trai, Thập trai hay trường trai, tránh cho người tín đồ điều sát sanh hại mạng.

Về giới hạn của Cư sĩ tại gia “đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo…) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhân” (thú vật sinh ra để nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết thú vật trong khi tế lễ.” Do đó mà ngoài những bữa ăn thường ngày, không còn thấy nhậu nhẹt chè chén ban đêm.

Đời sống hằng ngày trở nên giản dị và thanh đạm. Kế đến việc quan hôn tang tế cũng được giản dị hóa đi rất nhiều.

Về tang lễ Đức Huỳnh Giáo Chủ có viết:

“Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ, chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:

“Bây giờ chúng ta đã qui y đầu Phật thì thành tâm cầu nguyện và đem sức khấn vái của anh chị em trong đạo cầu nguyện cho vong linh người chết được sinh nơi cõi thọ”.

Ngoài ra không được đốt giấy tiền vàng bạc, xá phướn lầu kho vì đó là tốn tiền vô ích. Khi chết là nên đem chôn cất kín đáo đừng để hôi thúi có hại cho người sống. Chỉ nên vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện rồi im lặng đi chôn, không được khóc kể làm cho thần thức của người chết khó siêu hóa.

Về việc cúng kiếng ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy trong những ngày kỷ niệm theo như tục lệ. Về việc đãi đằng hương đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản tiện, ít lãng phí cứ làm.

Về hôn lễ cũng thế.”Bổn phận cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách xứng đáng bằng sự quan sát tường tận về đức tánh đôi trai gái. Không nên ép uổng con mình quá đáng vì như thế làm cho khốn khổ nó về sau, nhưng cũng không để chúng quá tự do mà sự thiếu kinh nghiệm làm cho chúng phải hư hỏng.

“Nên bỏ tục lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ vật. Thông gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng bày ra tiệc lễ linh đình tốn kém nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khổ.

Về lễ Tết cũng không phiền phức. Trong ba ngày Tết 29, 30 và mùng Một là những ngày chay lạt nên không có việc mua sắm rượu thịt. Ngoài ra ngày mùng Ba ra mắt cũng không được giết gà như tục cổ. Cũng không trồng Nêu, đào phù cùng mọi hình thức mê tín khác.

Thật là thanh thản cả tinh thần lẫn vật chất. Một điều cấm kỵ là không nhận qui y những người còn hút Á phiện, uống rượu say sưa và cờ bạc. Nhờ vậy mà đời sống được bình dị, trí óc rảnh rang để nghiên cứu giảng kinh và luận đàm Đạo lý.

Người tín đồ thuần thành bao giờ cũng sống “an bần lạc Đạo”, “tri túc nhẫn hòa”, xem như con một cha, dìu dắt và giúp đỡ nhau trong mọi công việc. Tham gia mọi việc quan hôn tang tế của người đồng đạo, tận tình giúp đỡ xem như công việc của chính mình. Nhờ vậy mà không có cảnh nhà ai nấy lo, việc ai nấy liệu; không có cảnh tranh giành gấu ó, lừa gạt lẫn nhau như trước.

Ngoài việc chấn chỉnh phong hóa, tập quán, Phật Giáo Hòa Hảo còn đào luyện cho tín đồ những đức tín cao quí trong việc xử thế tiếp vật.

ĐÀO TẠO ĐỨC TÍNH CAO QUÍ.- Với 8 điều răn cấm và những điều răn dạy trong Sám Giảng, Đức Huỳnh Giáo Chủ cố đào luyện cho Tín đồ những đức tính cao quí để xử thế tiếp vật, nghĩa là đào luyện nhân cách để hoàn thành hạnh Tu nhân tức Đạo làm người.

A.- Giữ tròn Luân lý:– Với điều răn:”Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm và phải giữ cho tròn luân lý, tam cang ngũ thường“. Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn hoàn bị cho môn nhơn: Đạo làm người.

B.- Cần kiệm, Tinh tấn, khoan dung:- Với điều răn:”Ta đừng nên lười biếng, phải cần kiệm sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất, chẳng nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.” Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn đào luyện cho tín đồ những đức tính: Cần kiệm, tinh tấn và khoan dung.

C.- Thanh đạm, chơn chánh, bố thí, cương trực.– Với điều răn:”Ta chẳng nên ăn xài, chưng dọn cho thái quá và lợi dụng tiền tài mà đành quên nhân nghĩa đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang phụ người nghèo khó.” Phật Giáo Hòa Hảo muốn rèn luyện cho tín đồ những đức tính: Thanh đạm, chơn chánh, bố thí và cương trực.

Thanh đạm đối trị tánh ăn xài, chưng dọn.

Chơn chánh đối trị tánh lợi dụng tiền tài.

Bố thí đối trị tánh ích kỷ.

Cương trực đối trị tánh xu phụng và phụ bạc.

D.- Hiếu sinh.- Với điều răn:”Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tôi sẽ hưởng tội còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần. Nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.” Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên tín đồ bớt sát sanh. Nếu vì sự sống mà sát vật thì cũng nên chừa những con vật đã giúp ích cho đời sống và nhứt là sát sanh để cúng kiếng thì không nên.

Để đối trị sát sanh, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên ta nên mở tánh hiếu sinh.

Đ.– Chánh kiến.- Với điều răn:”Ta chẳng nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm vương không bao giờ ăn hối lộ của ta mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách tàn tật.” Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn phá Tà kiến, cái óc tin nhảm nhí của tín đồ để đem về con đường Chánh kiến là cái thấy đúng đắn của chân trí, đạt chân lý.

E.- Suy xét.- Với điều răn: ”Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay Đạo đức, ta phải sau xét cho mimh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.” Phật Giáo Hòa Hảo khai mở con đường chánh tín cho tín đồ để phá tan ác kiến hay ngũ lợi sử.

G.- Tương trợ, tương ái.- Với điều răn: ”Ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức.” Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên bảo tình tương trợ tương ái.

Ngoài ra, Sám Giảng còn khuyến tấn và đào luyện các đức tánh như:

Nhẫn nhục là tánh nhẫn chịu mọi điều gian nguy mà không ngã lòng thối chí để lướt qua mọi chướng nại khó khăn.

Kiên trinh là đức tánh giữ chắc một lòng trong sạch, gìn vẹn tín ngưỡng như trong Sám Giảng có câu:

Tín nữ thiện nam gìn mối Đạo,

Dầu cho lăn lóc cũng kiên trinh.

Hổ thẹn là đức tánh biết mắc cở cho sự không tốt đẹp của mình làm hay người khác làm. Đó là đức tốt của hạng người liêm sỉ.

Cương quyết là đức tánh hễ nhận ra là phải thì đem ra thi thiết và thực hành không chần chờ. Hoặc thấy điều gì sai quấy thì mạnh dạn sửa chữa không bỏ dỡ cơ hội.

Tự trị là đức tánh của người không để kẻ khác trị mình, Đức Huỳnh Giáo Chủ có khuyên:

Nghe rồi phải thân mình tự trị,

Chẳng độ xong Phật khó dắt về.

Trên đây là những đức tánh cao quí mà Phật Giáo Hòa Hảo đã rèn luyện cho môn nhơn đệ tử trở thành con người có tư cách đủ đức độ xử thế tiếp vật.

ĐÀO TẠO HẠNG NGƯỜI HIỀN ĐỨC.– Khi có được những đức tánh cao quí nói trên là đạt bực hiền đức. Cho nên có thể nói, mục đích hay sứ mạng của Phật Giáo Hòa Hảo là đào tạo nên hạng người Hiền cũng như Nho giáo chú trọng người Quân tử và rèn đúc nên hạng người Quân tử.

Sách Minh Tâm có nói: ”Bất du Thánh đạo, an đắc vị Hiền”. (Không vào đường Thánh, sao gọi người Hiền). Như thế, người Hiền phải là người hiểu đạo Thánh và hành theo lời Thánh dạy.

Còn theo học Phật thì Hiền nhơn là người tin lý Nhơn quả và làm việc Thiện, người Hiền chẳng những làm việc lành mà còn rõ lý Nhơn quả.

Vì đâu cần hiểu lý Nhơn quả, hành Thánh đạo mới gọi là Hiền? Là vì nếu không rõ Đạo lý, xa lánh những điều răn cấm thì dễ phạm những lỗi lầm có hại cho Tâm đức mà tự mình không hay biết.

Nếu là người ở theo Đạo lý, hành theo lời Phật Thánh thì chẳng những hiền ở bên ngoài mà còn hiền ở bên trong nữa và hằng sống một đời thanh cao, không đam mê tục lụy như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã viết:

Cư trần bất nhiễm là người Thánh,

Lẫn tục đừng mê chứng bậc Hiền.

Xem đó đủ thấy, ngoài việc làm lành còn phải có đức, như sách Huyền Nghĩa đã nhận: ”Hiền là hiền năng cũng gọi hiền thiện. Có thiện cho nên có đức, có năng cho nên có trí. Người gồm có trí đức mới gọi là người Hiền. Mà người Hiền chỉ là người mới lân cận với Thánh, nghĩa là còn cách Thánh một bực”.

Như vậy, muốn đến bực Thánh, trước phải qua Hiền. Nếu chẳng tu Hiền, làm sao vào cửa Thánh.

Phương chi ở thời kỳ Mạt pháp nầy, chúng sanh phước mỏng nghiệp dầy, căn cơ thiển bạc, vì vậy Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên:

Tu là tâm trí nhu mì,

Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong.

Tu cầu cứu vớt Tổ tông,

Với cho bá tánh máu hồng bớt rơi.

Tu cầu cha mẹ thảnh thơi,

Quốc Vương thủy thổ chiều mơi phản hồi.

Tu đền nợ thế cho rồi,

Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.

Nói tóm lại, Đức Huỳnh Giáo Chủ lúc nào cũng khuyên:

Khá tu nhân đạo cho tròn mới hay.

Đó chẳng qua là muốn đào luyện nên người hiền đức. Cả pháp môn Tu Nhân Học Phật của Phật Giáo Hòa Hảo đều qui kết vào điểm đó.

Đó là phần cống hiến của Phật Giáo Hòa Hảo cho xã hội về phương diện Đời. Ngoài ra về phương diện Đạo, tức là đời sống tinh thần, Phật Giáo Hòa Hảo còn đóng góp cho chúng sanh chẳng ít.

B.-PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC HAY ĐỜI SỐNG TINH THẦN.

Tinh Thần Sùng Mộ Đạo Đức.- Với phương pháp dùng huyền diệu của Tiên gia để chữa trị cho hạng người thiểu căn trí cảm mến đức ân mà quay về con đường tu niệm và dùng Sấm Giảng để dìu dắt kẻ có lòng mộ Đạo qui căn, gây gốc Thiện duyên cùng Thầy tổ, Phật Giáo Hòa Hảo đã khởi sắc một phong trào sùng mộ Đạo đức đẵ tàn tạ từ lâu. Mà sở dĩ được như thế, trước hết là Đức Huỳnh Giáo Chủ biết dùng huyền pháp “dĩ huyễn độ chân” đem Đạo pháp vào đời sống nhơn dân nhứt là hạng nông dân là thành phần chiếm đa số trong xã hội nông nghiệp Việt Nam.

Họ được cứu khỏi bịnh, nhứt là những bịnh nan y, trừ được những tật ghiền rượu, ghiền á phiện một cách dễ dàng, hơn nữa hoán cải đời sống âm u vô vọng được quang minh thanh bạch, luân thường đạo lý được khôi phục, giúp cho đời sống gia đình được an vui…Bao nhiêu điều lợi ích đem đến cho đời sống của họ. Cho nên họ vui lòng qui ngưỡng. Từ người nầy truyền lan người khác, từ gia đình nầy thấm nhuần sang gia đình khác, Phật Giáo Hòa Hảo càng ngày càng lan rộng ra, tạo thành một cảnh huống sùng mộ Đạo đức chưa từng thấy.

Hạng nâu sòng thịnh diễn khắp hang cùng ngõ hẻm, những cảnh chùa chiền đền miếu càng xây dựng thêm nhiều, những phòng đọc giảng đua nhau mọc lên chưa kể mỗi gia đình đã có riêng một ngôi Tam Bảo. Từ lâu cảnh chùa chiền vắng vẻ, nay những ngày Rằm ngươn, sóc vọng thiện tín đổ xô nhau đến đông đảo để lễ Phật nghe đọc giảng, xem Kinh sách hoặc đàm luận Đạo lý. Nơi nơi cứ mỗi tối, bàn Thông Thiên đều nghi ngút đèn nhang. Tiếng ngâm thơ ngày xưa nhường chỗ cho những lời đọc Giảng. Những ngày chay lạt, chợ búa vắng rất nhiều cá thịt; nhiều nơi dựng quán bán đồ chay.

Mùi thiền đã tỏa khắp thôn quê làng mạc.

 

Tinh Thần Vị Tha Từ Thiện.- Với cuộc Khuyến nông kêu gọi nhà nông lo cày cấy để có lúa gạo cứu giúp đồng bào, với sự cổ võ tín đồ quyên tiền bạc, gạo thóc chở giúp nạn đói ngoài Bắc. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã rèn luyện cho tín đồ tinh thần vị tha, lo việc từ thiện.

Thay vì sống ích kỷ, bo bo giữ của, trong thời kỳ chiến tranh lan tràn, tàn phá quê hương, gây đau thương cho dân chúng, người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thấy mình có bổn phận giúp đỡ, tìm cách hàn vá vết thương làm vơi bớt nỗi đau khổ của đồng bào bằng những tổ chức chẩn tế từ thiện.

Nhiều cơ quan từ thiện được dựng lên như:

– Bịnh viện miễn phí

– Phòng phát thuốc lưu động

– Viện nuôi trẻ mồ côi…

Nhiều tổ chức chẩn tế được thành lập lo việc:

– Cứu đói

– Cất nhà cho dân nghèo…

Về việc cứu đói. “Nắm gạo cứu đói” được thi hành là một phương pháp “chia cơm xẻ áo” của mỗi gia đình, nhịn bớt mỗi bữa một nắm gạo, cứ mỗi tuần hay mỗi tháng có Ban chẩn tế đến góp, tích thiểu thành đa, chuyên chở đến những gia đình nghèo đói, những vùng bị thiên tai như nạn bão lụt miền Trung, cấp phát cho những người thiếu cơm hụt gạo.

Còn việc cất nhà cho dân nghèo là một sáng kiến độc đáo của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Mỗi Ấp có tổ chức Ban Chẩn tế, cứ xin mỗi Ấp một cây tre, một thúng gạo cũng đủ thấy một số lượng không thể tưởng tượng: Cả ngàn cả muôn cây tre, cả ngàn cả muôn thúng gạo…muốn cứu gì mà không được, muốn cất bao nhiêu nhà mà không đủ vật liệu. Rồi tùy theo số nhà định cất mà anh em tình nguyện hiệp nhau lại, dùng tàu thuyền chở tre, lá, gạo thóc đến địa điểm.

Người ta thấy một đoàn tàu ghe cả mấy mươi chiếc kéo đi. Khi đến nơi họ phân công nhau mấy người cất một căn nhà chỉ trong nửa ngày là cả một dẫy nhà mấy mươi căn, có nơi có đến 100 căn, cất xong.

Một cái chợ bị cháy, chỉ vài hôm sau là được dựng lại đầy đủ, dựng lại khỏi tốn tiến, khỏi chạy mướn nhân công, lại còn được cấp phát, nào mùng chiếu, vải bô…

Công cuộc cứu đói hay cất nhà cho dân nghèo mà được phát triển như thế là do tinh thần vị tha, từ thiện mà Đức Huỳnh Giáo Chủ đã rèn luyện họ, qua hành vi thực tiễn của Ngài hay qua những lời khuyến dạy trong Sấm Giảng:

Muốn cho rắn đặng hóa cù,

Xả thân làm phước Diêm phù vượt qua.

Giữ bo đến lúc phong ba,

Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân.

Hay là:

Của dư cho mượn mới là,

Hảo tâm bố thí Ngọc toà được lên.

Tinh Thần Yêu Quê Hương Dân Tộc.- Với ân đất nước, một trong bốn đại trọng ân mà phàm làm công dân, ai ai cũng phải mang nặng và có bổn phận lo đền đáp, Phật Giáo Hòa Hảo đã un đúc trong tâm khảm của tín đồ tình yêu quê hương dân tộc. Khi đã yêu quê hương dân tộc, họ có bổn phận phải bảo vể khi bị kẻ xâm lăng giày đạp.

Chính nhờ un đúc và đề cao tinh thần ái quốc mà Giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương cũng như Phật Giáo Hòa Hảo gần đây đã chịu bao nhiêu điều nguy khốn dưới thời Thực dân thống trị.

Pháp môn Tu Nhân đã đào luyện nên hai hạng người bất khuất: Một là hạng kháng Pháp, hai là hạng người nếu tự xét không đủ khả năng tranh đấu thì tìm nơi ẩn dật biểu lộ tinh thần bất hợp tác.

Nếu kể về giai đoạn quá khứ, Giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương đã đào luyện những anh hùng kháng Pháp như: Nguyễn Trung Trực khởi nghĩa đốt tàu Pháp tại Nhựt Tảo và phá lũy đoạt thành Kiên Giang; Trần văn Thành thường gọi Đức Cố Quản đã anh dũng lập chiến khu chống Pháp tại đồng Bảy Thưa ở vùng Long Xuyên-Châu Đốc và Trần văn Nhu con của Đức Cố Quản đã mãnh liệt chống Pháp đến hơi thở cuối cùng.

Về hạng bất hợp tác thì có Ông Đạo Đèn bị thực dân Pháp bắt đày đi đảo Réunion, ông Cử Đa, một võ Cử không chịu hợp tác với Pháp lên tu luyện trên núi Tà Lơn đắc quả Tiên.

Đến Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ngài cũng chủ trương bất hợp tác. Ngài kêu gọi những tín đồ đã làm việc cho Thực dân trước ngày qui y:

Cả kêu kìa hỡi là ai!

Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau.

Lui chơn ra khỏi cho mau,

Tìm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ngài, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, những người có chơn trong bộ máy cai trị của Pháp, nhứt loạt từ chức gây thành một phong trào bất hợp tác sâu rộng.

Do đó, Thực dân Pháp nhận thấy Phật Giáo Hòa Hảo không phải là một nền Đạo tu tiêu cực, chuyên lo tu hành không tham gia việc nước mà là một nền Đạo đề cao và un đúc tinh thần Dân tộc bất khuất, ái quốc ưu dân, nên ra lịnh đàn áp truy nã. Nhiều tín đồ thuần thành của Phật Giáo Hòa Hảo bị bắt, hoặc đưa đi an trí, hoặc tù đày và một số lớn đã bỏ mình nơi Côn đảo vì chánh sách hà khắc của Thực dân. Riêng bản thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ thì chúng lưu cư đi nơi nầy nơi nọ…

Cơ hội đã đến cho Việt Nam vùng lên cởi ách nô lệ. Ngài phát động phong trào và trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chống Pháp. Noi gương các vị Thiền sư như Khuông Việt, Tuệ Trung, Thượng Sĩ, Ngài đành:

Rứt áo cà sa khoác chiến bào.

Và:

Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa,

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha.

Để rồi một khi:

Đền xong nợ nước thù nhà,,

Thiền môn trở gót Phật đà nam mô.

Không khác Tuệ Trung, Thượng Sĩ đời Trần, một khi dẹp xong giặc Mông Cổ, rứt chiến bào mặc lại áo cà sa trở về am tự.

TINH THẦN VÔ ÚY.- Ngoài tinh thần ái quốc, yêu dân tộc, Pháp môn Học Phật Tu Nhân còn rèn luyện cho hành giả hạnh Vô Úy là hạnh cao nhứt trong ba hạnh Bố thí: Tài thí, Pháp thí và Vô Úy thí, hạnh hy sinh cả tánh mạng để đem lại sự an vui, không sợ hãi (vô úy) cho chúng sanh.

Để gây lấy công đức hầu có đủ đầy công hạnh tiến lên bực tu Giải thoát, Đức Phật trong vô lượng kiếp từng thí thân để làm lợi lạc cho cả muôn loài vạn vật.

Hạnh Vô úy là hạnh khó thi thiết nhứt. Ai sanh ra đời lại không tiếc thân quí mạng. Đến như tiền của là vật phù du mà người đời còn mến tiếc không đành đem ra bố thí thì hà huống là xả thân hiến mạng để cứu đời.

Gặp lúc ngoại tặc xâm lấn quê hương đất nước, nạn binh lửa lan tràn, nhà tan cửa nát, thân người không yên, cha con chồng vợ lạc nhau mà có người đem thân ra chống ngăn, bảo vệ dân lành, cho nhà nhà ở yên, thân thân no ấm, không sợ sệt thì còn công đức nào bằng.

Chính với ý nguyện muốn cho tín đồ có cơ hội lập công bồi đức mà Đức Huỳnh Giáo Chủ tham gia chánh trị và thành lập Nghĩa binh.

Dầu hoạt động chánh trị hay lập quân đội, đó chẳng qua là những phương tiện để đạt đến mục đích là xả thân giúp đời, tạo lấy công quả bồi đắp cho bước đường tiến tu cầu đạo siêu sanh giải thoát.

Đã hiểu được mục đích của bước đường tiến tu thì không còn e ngại khi dùng đến phương tiện.

Vả lại thời cơ đã đến cho mình trả nợ Tứ Ân và cũng là vận hội lập công bồi đức thì còn tiếc gì mà chẳng xả thân cứu đời.

Với ý nguyện vị tha lợi chúng, người hành giả Học Phật Tu Nhân, dầu gặp hoàn cảnh khó khăn, gian lao nguy hiểm nào vẫn xem thường tánh mạng, say sưa với nghĩa vụ giúp đời, không mong được trả ơn, vì đó là một bổn phận:

Giúp đời đừng đợi trả ơn,

Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng.

TỔNG LUẬN

Đến đây chúng ta thử kiểm điểm lại coi Phật Giáo Hòa Hảo đã cống hiến những gì cho đời và vị sáng lập là Đức Huỳnh Giáo Chủ trong cả cuộc đời hiến thân vì Đạo đã thi thiết những gì?

Kiểm điểm lại, chúng ta thấy Ngài đã tạo nên ba sự nghiệp:

Về mặt Đạo là Tôn phái Phật Giáo Hòa Hảo, về mặt quân sự là Bộ đội Nguyễn Trung Trực và về mặt chánh trị là Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng.

Về mặt Tôn giáo. Ngài khai sáng một tôn phái hoàn toàn Dân tộc là nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo với mục đích vãn hồi Đạo Nhân và xương minh Đạo Phật, tiếp nối Giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương mà viễn nhân hay tiền nhân là phái Trúc Lâm Yên Tử của đời Trần. Chủ trương của Trúc Lâm Yên Tử là vừa xuất thế và nhập thế, gồm cả phái xuất gia và Cư sĩ tại gia, còn Phật Giáo Hòa Hảo hay Bửu Sơn Kỳ Hương thì chủ trương nhập thế, chuẩn bị cho phái Cư sĩ tại gia trang nghiêm công hạnh để tiến lên tu Giải thoát, vì trong thời kỳ nầy căn cơ chúng sanh không sâu dầy như thời Trúc Lâm Yên Tử, cho nên cho được phù hạp với căn cơ chúng sanh thời Mạt hạ, pháp môn Học Phật Tu NHân chỉ chủ trương nhập thế. Chỗ giống nhau giữa Trúc Lâm Yên Tử với Phật Giáo Hòa Hảo hay Bửu Sơn Kỳ Hương là cả hai đồng chủ trương đem đạo Phật vào cuộc đời, đúng với nguyên lý: Phật xuất hiện ra đời là vì một đại sự sanh tử của chúng sanh.

Về mặt Quân sự, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Ngài lập Bộ đội Nguyễn Trung Trực, lấy tên một vị anh hùng dân tộc kháng Pháp làm gương cho binh sĩ noi theo, hầu có bảo vệ quê hương xứ sở cũng là một phương tiện cho tín đồ thi thiết hạnh Vô úy. Đến khi Ngô Đình Diệm giở ngón độc tài làm mất chánh nghĩa thì Bộ đội Nguyễn Trung Trực xin giải ngũ, bao nhiêu binh sĩ đều trở lại đời sống thường dân, chuyên tâm tu học.

Về mặt Chánh trị, để tranh đấu cho quyền lợi Quốc gia Dân tộc, cho tự do dân chủ, cho Công bằng xã hội, Ngài hiệp cùng các nhà Cách mạng, thành lập Đảng Dân Xã, với chủ trương về Chánh trị, thiệt thi một chế độ Dân chủ thật sự, về Kinh tế một nền Kinh tế xã hội hóa và về mặt hành chánh một chế độ vừa pháp trị vừa nhân trị. Một chế độ dù tốt đến đâu, pháp luật dù nghiêm minh cách nào mà nhân sự tức người đứng ra thi hành không tốt, bất chánh thì kể như chế độ và pháp luật của nước ấy không sao thi thiết được. Chỉ có con người mới đáng kể. Do đó Dân Xã Đảng chủ trương một nền chánh trị vừa pháp trị lẫn nhân trị.

Lập trường Chánh trị của Dân Xã Đảng chủ trương là một lập trường xây dựng trên nền tảng Đạo đức.

Về việc một nhà lập giáo và truyền giáo như Đức Huỳnh Giáo Chủ đứng ra thành lập quân đội và tham gia chánh trị không khỏi có những thắc mắc nêu lên.

Ông Hồn Quyên, báo Nam Kỳ ra ngày 29-11-1946 có đặt ra câu hỏi: Như vậy xin Ông cho biết lý tưởng Chánh trị của Ông có liên quan với giáo lý nhà Phật không?

Ngài có đáp:”Theo sự nhận xét của tôi về giáo lý nhà Phật do nơi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai sáng lấy chủ nghĩa Từ bi Bác ái đại đồng đối với tất cả chúng sanh làm nồng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà Cách mạng triệt để về tư tưởng, vì những câu “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình đẳng với chúng sanh”. Đã có những sự bình đẳng về thể tánh như thế mà chúng sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình độ giác ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhân gian nầy còn có chúng sanh tiền tiến áp bức những chúng sanh lạc hậu thì là một việc trái hẳn với những Giáo lý chơn chánh ấy. Giáo lý đó, Đức Thích Ca Mâu Ni không áp dụng được một cách thiết thực trong đời của Ngài là do hoàn cảnh xã hội của Ấn Độ xưa không thuận tiện. Ngày nay trình độ tiến hóa của Nhân loại đã tới một mực khả quan, đồng thời với tiến bộ về khoa học thì ta có thể thực hành Giáo lý ấy để thực hiện một xã hội công bằng và nhân đạo. Thế nên với các tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhân loại.”

Và rõ hơn, Ngài xác nhận:

“Đối với toàn thể tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca, tôi tin chắc rằng Giáo lý giải thoát chúng sanh chẳng những truyền bá ở thiền lâm mà còn phải thực hiện trên trường chánh trị.

“Đối với các đồng chí hiện đang cùng tôi theo đuổi một chương trình Dân Chủ Xã Hội, tôi tuyên bố luôn luôn sát cánh với họ để chung lo gầy dựng một nước Việt Nam công bằng và nhân đạo, một nước Việt Nam tương xứng với các nước Dân chủ tiên tiến trên hoàn cầu.”

Với đà tiến hóa nhân loại, với sự chuyển biến chánh trị Quốc tế, từ những chủ nghĩa cực đoan, dần dần biến tướng thành chủ nghĩa xét lại, cánh hữu cũng như cánh tả sẽ được hóa giải thành một chủ nghĩa “trung hóa” hầu tránh cho nhân loại cơ diệt vong vì khí giới nguyên tử và khinh khí, xã hội mà Đức Huỳnh Giáo Chủ mong gầy dựng cho Việt Nam, sẽ thực hiện ở tương lai trên tiến trình Cộng đồng nhơn loại giác ngộ được giải thoát về cả hai phương diện Tinh thần (Dân chủ) và đời sống Vật chất (Xã hội).

Là bực quán liễu huyền cơ, “toán biết âm dương” Đức Huỳnh Giáo Chủ đã nhận thấy bước tiến của nhơn loại. Do đó Ngài chuẩn bị cho Việt Nam có đủ điều kiện để đóng lấy vai trò siêu đẳng của mình trong cái xã hội Thánh đức An lạc ngày mai.

Nhận xét về những cống hiến của Phật Giáo Hòa Hảo trong công cuộc bảo tồn cũng như xây dựng đất nước, một nhà Đạo đức (1) khi đến vùng Phật Giáo Hòa Hảo, vùng không bị tàn phá như bao nhiêu vùng khác, một vùng mà thuần phong mỹ tục còn duy trì, đạo đức còn sáng tỏ, không như đã thấy ở thành thị xa hoa, bao nhiêu người mất gốc, lai căng, những thanh niên đồi trụy chìm đắm trong các phong trào Cao bồi, Híp-py, du đảng…có thốt ra lời bình luận như sau:

“Đến khu Phật Giáo Hòa Hảo, tôi mới vững tâm mà tin rằng: Nước Việt Nam do công lao khó nhọc của Ông cha chúng ta xây đắp, không mất. Những gì tốt đẹp của văn hóa ngàn xưa mà còn duy trì, đó là yếu tố còn giữ nước Việt Nam không mất”.

Câu phê bình nầy đủ nói lên những giá trị mà Phật Giáo Hòa Hảo đã cống hiến cho đất nước Việt Nam.

Khởi ngày 22-4-1974

Xong ngày 7-7-1974

___________________________________________

(1) Cụ Phan Vô Kỵ.

HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn