Quyển Trung Tập 2/2

11 Tháng Tám 20207:25 CH(Xem: 5756)
Quyển Trung Tập 2/2
sam-giang-thi-van-giao-ly-quyen-trung-1 diendanpghh-duc-hunh-giao-chu
thumbnailÔng BÙI VĂN ƯỞNG
(1927-2007)

PHẬT GIÁO HÒA HẢO

 SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ

 CHÚ  GIẢI QUYỂN TRUNG (TẬP 2)

 CHÁNH VĂN: ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

    CHÚ GIẢI: THIỆN TÂM

     ---oOo---  

 TẬP HAI
 MÔN GIÁO LÝ CĂN BẢN
 XUẤT XỨ VÀ VĂN THỂ
          Đây là loạt bài Pháp luận nằm trong Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ, do Đức Thầy sáng tác năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết các bài nầy bằng thể văn xuôi (tản văn), lối thuyết giáo. (Lẽ ra chúng tôi phải soạn bài Thập Nhị Nhân Duyên trước, nhưng vì theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại là Đức Thầy cho biết bài Thập Nhị Nhân Duyên và Môn Hoàn Diệt nằm trong Tứ Diệu Đề; nên chúng tôi soạn bài Đức Phật Đối Với Chúng Sanh trước. Còn bài Thập nhị Nhân Duyên để sau soạn chung với bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề”)
 
1- ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG SANH.
(Bài nầy Đức Thầy viết vào ngày 24/8 năm Nhâm Ngũ (1942)
CHÁNH VĂN
          Một ông cha ở trong gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy. Tại sao? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũng đồng là con đều do huyết nhục sanh ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con, lo-lắng cho có gia-cư, nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất để cho con. Vậy thì tình thương vẫn đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi đứa. Tại sao vậy? Vì đứa nào hiếu-thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ biểu, thì ông cha âu-yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn-thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để bảo-tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những điều điếm-nhục gia-môn! Những đứa ấy, ông cha có thể nén lòng mà rước lấy sự chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm sao mà ban thưởng đặng.
          Cũng mường tượng như trên, hỡi các người! Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối với các hạng con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng-sanh, dầu kẻ ngu, người trí, yêu tất cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật-tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ chúng-sanh, nhưng mà sự gần-gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi kẻ tín-đồ. Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành thì Phật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nào quí trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn những kẻ tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng.
          Bạcliêu, ngày 24-8 Nhâm-Ngũ (1942)
 
DÀN BÀI:
          A- KHAI ĐỀ: Lý do tin Phật.
          B- DIỄN ĐỀ : So sánh tình thương.
          I- TÌNH THƯƠNG CỦA CHA MẸ.
          1- Tình thương của cha mẹ đối với các con.
          2- Bổn phận người cha.
          3- Đối với những đứa con ngỗ nghịch.
          4- Đối với các con tốt lành.
          II- TÌNH TỪ BI CỦA PHẬT VÀ THẦY.
          1- Phật đối với chúng sanh và môn đồ.
          2- Bổn phận của Phật và Thầy.
          3- Với tín đồ biết vâng lời.
          4- Với tín đồ không vâng lời.
          C- KẾT ĐỀ.
LƯỢC GIẢI
          Xưa nay sở dĩ người ta tin Phật, qui y Phật là vì nhận nơi Ngài có đức độ cao cả, trí tuệ siêu mầu vượt hẳn hàng phàm phu và Tiên Thánh. Có nhận thức một cách chính xác như vậy, người ta mới vui lòng hăng hái, vâng làm theo lời dạy bảo và giới hạnh của Ngài. Cũng nhằm mục đích đó, Đức Thầy dạy môn đồ bài “Đức Phật Đối Với Chúng Sanh”. Căn cứ theo chánh văn gồm có các phần như sau:
          I- TÌNH THƯƠNG CỦA CHA MẸ.
          1- Tình thương của cha mẹ đối với các con:
          Vì muốn cho tín đồ dễ hiểu, trước nhứt, Đức Thầy đưa ra một bằng chứng cụ thể trước mắt mọi người, là tình thương của người cha đối với đàn con trong gia đình. Tuy trong số các đứa con ấy có chênh lệch lớn nhỏ, thông minh hay ngu dốt, tật nguyền hay nguyên vẹn, nhưng cha mẹ vẫn thương đồng đều.
          Bởi xét rằng do duyên nghiệp quá khứ và hiện tại của mỗi người con không giống nhau như kẻ sanh trước thì lớn, sanh sau thì nhỏ. Người con nào biết siêng năng học hành, tìm tòi những cái hay cái đẹp thì thông minh, còn kẻ nào lười biếng ham chơi sẽ bị ngu dốt. Người nào thời quá khứ hoặc hiện tại biết lo trau giồi tâm đức, ăn ở hiền lành thì được thân hình tốt đẹp, các căn đầy đủ. Còn kẻ nào tư tưởng hành động hung ác thì mang thân tật bệnh, xấu xa. Tuy thân tâm của các đứa con có khác biệt, song cùng đồng do huyềt nhục của cha mẹ sanh ra và cũng uống chung một dòng sữa cho nên tình thương của cha mẹ đối với các con không khác biệt.
          2Bổn phận người cha:
          Do lòng thương yêu tha thiết ấy, nên người cha có trách nhiệm nuôi cho con lớn, dạy dỗ cho con khôn ngoan, lo cho con có nghề nghiệp căn bản sanh sống và đạo đức đối xử. Thậm chí cha mẹ còn phải lo tạo sự nghiệp, tiền của, ruộng vườn giành để cho con trước khi nhắm mắt,
          Tóm lại, tình thương và sự lo lắng của cha mẹ đối với các con là đồng đều, nhưng sự âu yếm và ban thưởng vẫn có khác, vì phải tùy theo tánh chất tốt lành hay ngỗ nghịch của mỗi đứa con.
          3- Đối với đứa con ngỗ nghịch:
          Đối với các đứa con bất hiếu, không vâng lời dạy bảo của cha mẹ, hung ác bạo tàn, lười biếng hoang chơi, phá hoại sự nghiệp; làm những điều xấu xa mất cả danh giá của gia đình, thân tộc. Bấy giờ ông cha chỉ biết than thở và nén lòng mà nhận sự chê bai, thống trách của kẻ khác, chớ không thể nào âu yếm và ban thưởng đặng.
          4- Đối với đứa con tốt lành:
          Những người biết hiếu thuận từ hòa, siêng năng tiết kiệm, cẩn ngôn cẩn hạnh, lo giữ gìn sự nghiệp, giá phẩm của cha mẹ để lại, thì người con ấy sẽ được ông cha hằng ngày âu yếm và ban thưởng.

          II- TÌNH TỪ BI CỦA PHẬT VÀ THẦY
          1)- Phật đối với chúng sanh và môn đồ:
          Lòng từ bi của Phật và Thầy lúc nào cũng thương xót khắp cả, từ nhơn sanh đến muôn loài vạn vật hữu tình; và môn đồ của các Ngài rất bình đẳng. Cũng như người cha đối với các hạng con vừa nói trên. Bất luận kẻ trí người ngu, tinh tấn hay giải đãi; hoặc phát tâm tu cao thấp, trước sau, song mỗi chúng sanh đồng có Phật tánh như nhau, nên Phật và Thầy đều thương yêu tất cả. Kinh xưa thường nói:“Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử”(Phật thương chúng sanh như mẹ thương con).
          Ngày nay Đức Thầy dạy:
                    “Phật thương bổn đạo như con,
                 Muốn cho bổn đạo lòng son ghi lời”.
          Nhưng:
                    “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
                    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.
          2)- Bổn phận của Tổ Thầy:
          Bởi đầy lòng từ bi bác ái, nên Đức Phật, Đức Thầy lúc nào cũng có bổn phận giáo độ chúng sanh ra khỏi vòng trầm luân oan nghiệt.
                    “Phật Tổ xưa còn ở nơi trần,
                    Ngài gắng sức ra công hoằng hóa”.
          Và:
                    “Đâu đâu bá tánh cũng con lành,
                    Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.
          Tuy lòng thương và sự giáo độ của Đức Phật và Đức Thầy rất bình đẳng, vô tư, song sự gần gũi và ban phúc huệ có khác, vì phải tùy theo duyên nghiệp và tâm hạnh của mỗi tín đồ.
          3)- Đối với tín đồ biết vâng lời:
          Đối với những tín đồ biết tuân thủ lời chỉ dạy của Đức Phật, Đức Thầy; lo học hành Kinh Giảng để tìm hiểu lý mầu trong đạo pháp:
                    “Khá chí tâm học hành Kinh sám”.
          Hoặc: “Sớm tỉnh Kệ Kinh tìm hiểu lý”.( ĐT)
          Và hằng lo vẹn gìn giới luật, quyết chí tu hành, thận trọng từ: ý nghĩ, lời nói, việc làm, tránh điều xấu ác và bảo vệ thân danh chung cho Đạo thì Đức Phật, Đức Thầy luôn luôn gần gũi, ủng hộ và ban phúc huệ cho các tín đồ ấy.
          Xưa có một kỹ sư, gia đình rất giàu có. Ông bà sanh được ba người con trai, khi lớn lên đều được đi học, nhưng hai cậu lớn thường hay biếng trễ, duy có cậu Út là chăm chỉ.
          Hôm nọ, kỹ sư thấy mình đã già yếu, nên kêu ba người con đến bảo:
          - Chắc chẳng còn bao lâu nữa ba sẽ từ biệt cõi đời, vậy mỗi con nên nói rõ ý muốn của mình để ba phân chia của cải cho!
          Người con lớn đứng lên nói:
          -Thưa Ba ! Ý con muốn trước khi từ trần, Ba giao cái gia tài đồ sộ nầy cho con !
          -Thưa Ba ! Phần con muốn được Ba giao hết đất vườn cho con. Người con giữa nói như thế.
          Ông Kỹ sư nhìn qua người con Út nãy giờ đứng làm thinh hỏi:
          -Còn con Út muốn gì, cứ nói ?
          Cậu Bé đứng khoanh tay thưa:
          -Thưa Ba ! Nguyện vọng của con là chỉ mong Ba cho con ăn học để trở thành một Kỹ sư như Ba. (Quả nhiên, đứa con Út của ông Kỹ sư sau thi đậu Kỹ sư và trở nên giàu có hơn trước).
          Ông Kỹ sư mỉm cười tỏ vẻ hài lòng, rồi ông nhìn ba người con phân trần: Trước kia, sau khi ba ăn học thành tài, tiền của hết sạch. Chỉ còn lại hai bàn tay trắng với mớ kiến thức và biết siêng năng tiết kiệm mà ba tạo nên sự nghiệp như thế nầy.
          Hôm nay hai con lớn muốn ba giao hết gia tài, vườn ruộng nầy cho hai con cũng được, nhưng hai con nên biết dầu có tiền của bao nhiêu đi nữa, hai con ăn xài thời gian rồi cũng hết.
          Còn thằng Út, em của hai con, nó nuôi chí và siêng năng học hành để thành một Kỹ sư thì sau nầy nó sẽ tạo ra sự nghiệp có thể giàu gấp mấy lần như hiện nay.
          Câu chuyện trên giúp cho người tu nhận rằng: Đức Phật và Đức Thầy lúc nào cũng muốn cho tín đồ thành Đạo giải thoát, song với điều kiện là phải thực hành y theo lời dạy của các Ngài. Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:
                    “Qui y thì khá làm y,
          Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
Và:“Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy”.
          Vậy nhà tu muốn kết quả tốt, mỗi người của chúng ta nên ghi nhớ và thực hành các điểm căn bản như sau:
          a)- Bốn cách phát tâm:
          1- Phát tâm kính tin Đức Phật, Đức Thầy tất phải vâng lời chỉ dạy của Phật và Thầy.        
          2- Phát tâm thương kính Phật và Thầy, tất chẳng phụ công ơn của các Ngài.
          3- Phát tâm tưởng nhớ Phật và Thầy, tất muốn gặp các Ngài.
          4- Phát tâm phụng hành theo lời giáo huấn của Phật và Thầy, tất phải độ tất cả chúng sanh tự tánh (phiền não) và chúng sanh bên ngoài.
          b)- Bốn điều tự quyết:
          1- Vâng lời Phật và Thầy phải tự quyết tâm qui.
          2- Chẳng phụ công ơn của Phật và Thầy ta phải tự quyết hành y.
          3- Muốn được gặp Phật và Thầy ta phải tự quyết tinh tấn tu hành.
          4- Độ chúng sanh ta phải tự quyết từ bi bình đẳng.
          C)- Bốn điều duy nhứt:
          1- Tự quyết tâm qui tất phải duy nhứt Niết Bàn.
          2- Tự quyết hành y tất phải duy nhứt Chánh Đạo.
          3- Tự quyết tiến tu tất phải duy nhứt giải thoát mê ly.
          4- Tự quyết từ bi bình đẳng, tất phải duy nhứt cứu khổ muôn loài.
          Đức Thầy luôn nhắc nhở: 
                     “Phật từ bi độ tử độ sanh,
                    Là độ kẻ hiền lương nhơn ái”.
          4)- Đối với tín đồ dối tu:
          Những kẻ tín đồ không thật tâm tu niệm, chẳng phụng hành theo lời giáo huấn của Tổ Thầy, phá giới thôi chay, hành động nhiều điều xằng bậy; làm mất phẩm giá chung cho Đạo, thì Đức Phật cũng như Đức Thầy “Chỉ lấy lòng từ bi mà nhận sự trách cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào gần gũi và ban phước huệ cho kẻ chẳng thành tín kia đặng”.
          Thuở Đức Thầy mới khai Đạo (1939). Hôm nọ, Ngài đang đứng trước sân nhà của Ông Nguyễn Duy Hinh, phía dưới Tổ Đình khoảng 100m, lúc đó có mặt Ông Năm Chơn, ông Lê Văn Diệp và ông Nguyễn Duy Hinh.
          Đức Thầy nhìn các ông nói:
          -Các ông bây giờ là bà con thân tộc với tôi, và cũng là tín đồ lớn nữa. Nhưng sau nầy có việc tôi phải vắng mặt trong một thời gian; chừng trở lại chưa chắc gì các ông được gặp tôi, nếu các ông chẳng tự lo tu hành.
          Ngưng lại một phút, Ngài nói tiếp:
          - Đến ngày ấy không phân biệt người dưng hay thân tộc, không phân biệt tìn đồ lớn hay nhỏ, hoặc già trẻ, sang hèn, sau trước…Nếu ai tu hành đúng theo giáo lý của tôi thì được gặp tôi. Bằng không sẽ bị lọc ra hết!
          Điều nầy trong Sám Giảng quyển Ba, Ngài đã nói:
                    “Ai mà ta dạy chẳng gìn,
            Thì sau đừng trách mất tình yêu đương”.
          Cho nên Ngài hằng khuyên:
                    “Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
                     Làm theo lời dạy ngày rày gặp ta”.
          Đại khái bài “Đức Phật đối với chúng sanh” thấy rằng lòng thương yêu giáo độ của Tổ Thầy, đối với chúng sanh và môn đồ thật bình đẳng, bao la vô bờ bến; nhưng cũng rất thực tế và công bình đáo để. Có làm có ăn, có tu có hưởng, không hề vị tư cá biệt. Là một tín đồ nhà Phật, chúng ta phải chú ý ở điểm nầy, để trọn niềm tin và lo tu thân lập hạnh, đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy, hầu đáp lại tình từ ái rộng sâu của các Ngài.
 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ:
          HUYẾT NHỤC: máu và thịt, nghĩa của chữ cốt nhục (thịt). Ý nói đàn con cùng một dòng tinh huyết, cốt tủy của cha mẹ sanh ra, và cũng cùng uống một dòng sữa của mẹ mà lớn lên, nên gọi là tình ruột thịt.
                    “Cũng đồng cốt nhục hoài thai,
               Nên ta rán sức miệt mài dạy khuyên”.
          BỔN PHẬN: (Xem CT chữ nầy bài NĐSL, Q.6).
          GIA CƯ: Nhà ở.
          ÂU YẾM: Quấn quít, quyến luyến, thương yêu không rời
          HIẾU THUẬN: (Xem CT chữ nầy mục Tang lễ, Q.6)
          TỪ HÒA: Hiền lành hòa huỡn, không nóng nảy, hung hăng, quá khích.
          GIA SẢN: Nhà cửa và tài sản của cải.
          ĐIẾM NHỤC: (Xem CT chữ nầy, bài NĐĐSL, Q.6).
          MÔN ĐỒ: Học trò (nghĩa của chữ tín đồ).
          DUYÊN NGHIỆP: Cũng gọi là nghiệp duyên. Nghiệp là việc làm hay tạo tác, là hột giống. Duyên là những cái trợ trưởng cho việc làm hay hạt giống ấy, lên cây kết trái. Ý nói những thành quả xấu tốt ở hiện tại, là do nhân duyên tạo tác lành dữ của mỗi người ở quá khứ mà ra. Đây là định luật nhân duyên nghiệp báo.
               “Phải rõ nghiệp duyên trần cấu tạo”.( ĐT)
          PHẬT TÁNH: Tánh giác ngộ, tức là hột giống Phật. Đức Phật bảo mỗi chúng sanh đều có tánh giác ngộ như nhau (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).   Đức Thầy cũng nói:
                    “Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
                       Các chúng sanh đều có như ta”.
          ĐẠO MẦU: Sự mầu nhiệm sâu kín trong giáo pháp Đạo Phật. Đức Thầy có câu:
                    “Quan sát Đạo mầu nẻo ẩn vi”.
          Và:
                    “Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,
                       Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.
          KINH LUẬT: Kinh giảng và giới luật. Hai tạng trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận.
                    “Chi cho bằng ta sớm lo toan,
                    Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật”.( ĐT)
          THÀNH TÍN: Cũng gọi là tín thành. Có nghĩa là tin tưởng và hành Đạo một cách thành thực chơn chánh, không hề lãng tâm dối trá.
               “Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,
               Chớ nào dụng hương đăng trà quả”.( ĐT)
 
CÂU HỎI
          1/- Tình cha mẹ thương con ra sao?
          2/- Bổn phận người cha phải làm gì?
          3/- Đối với các con ngỗ nghịch ra sao?
          5/- Tình thương của Phật đối với chúng sanh và môn đồ ra sao?
          6/- Bổn phận của Phật và Thầy như thế nào?
          7/- Số tín đồ biết nghe lời, các Ngài đối xử ra sao?
          8/- Số tín đồ không vâng lời, Thầy Tổ làm gì?
          9/- Tóm tắt bài “Đức Phật đối với chúng sanh” ra sao?
*
*    *
2- LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO.
CHÁNH VĂN
          Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ, thường bị những chướng nghiệp nhiều đời mà làm linh hồn chìm đắm trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên, luân-hồi chuyển kiếp, ấy cũng tại sự mê lầm của lục căn mà say đắm lục trần; ý-thức lầm-lạc ấy khiến các trò nhận lấy cái thân ô-trược nầy là thật, cái cảnh phú-quí cùng cuộc tình duyên tồn tại vui say. Nào hay thân vô-thường tạm mượn do tứ-đại hiệp thành. Cuộc phú quí tựa đám phù-vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tàn, không chi bền chắc, còn tội-chướng thì linh-hồn phải chịu luân chuyển báo đền.
        Ngày nay đã tỉnh ngộ qui y cùng Phật-pháp. Như vậy cửa trường-sanh bất diệt các trò đã gặp nẻo, nương đèn trí-huệ, ly xuất phàm-trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch-tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ qui y cho thấu đáo: Qui là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn-mẫu.
         Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ-thiện cách nào ta phải từ-thiện theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác-ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt là ở chỗ giữ giới-luật hằng ngày. Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Thầy xét trong tam nghiệp, các trò còn mang nặng lắm. Trong đường tu nương theo tam nghiệp, thì khổ lắm. Chúng-sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật. Tam nghiệp là: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp (đọc lại trong cuốn Khuyến-Thiện).
          Nhưng Thầy xét lại cái khẩu nghiệp của các trò nặng-nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí-huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan-dung mà đối-đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác-ái nhân-đạo mà cư-xử với mọi người. Cần hiểu cái lý vô-ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng-hộ.  
          Kệ rằng :
               Đạo pháp thường hau dung với hòa,
      Xét người cho tột xét thân ta.
          Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
          Ta thứ được người, người thứ ta.
 
DÀN BÀI:
          A- KHAI ĐỀ: Nguồn gốc của chúng sanh.
          B- DIỄN ĐỀ: Vì vọng niệm sanh đau khổ.
          I- Đam Mê:
                    1Các nỗi khổ của chúng sanh.
                    2- Nguyên nhân luân hồi.
                    3- Ý thức sai lầm.
                    4- Vô thường, vô ngã.
          II- Tỉnh ngộ:
                    1Nương đèn trí tiến tới Niết Bàn.
                    2- Nhận xét chữ qui y.
                    3- Xét về sự lễ bái.
                    4- Nghiêm trì giới luật.
                    5- Xét về tam nghiệp.
          III- Phương cách thoát khổ đạt Niết Bàn.
                    1Tu tâm trí, dẹp ma lòng.
                    2- Đối xử với thế nhân.
                    3- Hành đạt lý vô ngã.
          C- KẾT LUẬN.
           BÀI KỆ BỐN CÂU:
                         Đạo pháp thường hay dung với hòa,
                 Xét người cho tột xét thân ta.
                    Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
                    Ta thứ được người, người thứ ta.
 
LƯỢC GIẢI
          Xưa, Đức Phật dạy: từ vô thỉ tất cả chúng sanh đồng một bản thể như chư Phật. Song vì vọng niệm mê lầm mà phải chuyển luân trong bể trần thống khổ. Để đánh thức những linh hồn ấy sớm hồi tâm tỉnh ngộ, Phật thường thuyết bài pháp “Khổ não, vô thường và vô ngã”. Thời nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng muốn ý thức mọi người nhận rõ sự mê khổ của chúng sanh không ngằn mé như sông dài biển rộng nên Ngài trùng tuyên đề tài ấy qua bài “LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO” gồm có những phần chính như sau:
          I- ĐAM MÊ:
          1/- Các nỗi khổ của chúng sanh:
          Tại sao gọi là “sông mê bể khổ”? Vì có “Mê man danh lợi cõi hồng trần”, nên bị hồng trần làm khổ lụy, không một ai tránh khỏi. Thân đã gánh chịu các sự khổ về: sanh, già, bịnh, chết. Còn tâm thì vương các nỗi khổ: ham muốn không thành, oán ghét gặp nhau, những người thân thương lại chia ly, và buồn phiền lo nghĩ không hề dứt. Chẳng thế, còn bao cảnh khổ bên ngoài đưa đến như: chiến tranh, thiên tai, địa ách…Đã mang thân sống trong cõi trần, dù bất cứ hạng người nào cũng đều chịu chung kiếp sống khổ, một nhà thơ Việt Nam công nhận:
                   “Bể khổ mênh mông sóng lụt trời,
                    Khách trần chèo một chiếc thoàn khơi.
                    Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
                    Gẫm lại cùng trong bể thảm thôi !”   
          Tỏ rõ hơn, Đức Thầy đã xác định:
                    “Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù,
                     Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng”.
          2/-Nguyên nhân sanh khổ:
          Điểm thứ hai Đức Thầy cho biết, sở dĩ có những nỗi khổ là do “chướng nghiệp nhiều đời” của mỗi chúng sanh hoặc nhiều chúng sanh tạo nên “nghiệp chướng lăng loàn hại xác thân”.Nghĩa là từ nghiệp tội đời nầy lưu truyền qua đời khác, cứ tiếp nối nhau luôn.
          Nguyên khởi từ phiền não chướng: tham, sân, si (ý nghiệp), mới sanh ra nghiệp chướng (của thân khẩu). Đó cũng gọi là nhân chướng, rồi bị báo chướng trả lại, tức là bị trả quả. Chính nó làm trở ngại con đường giải thoát nên gọi là chướng. Cũng như kẻ gieo giống, trồng cây thì phải có ngày ăn trái. Trong khi đó vừa bị trả quả những nghiệp cũ lại tạo tác nghiệp mới, để rồi bị luân chuyển qua kiếp sau trả nữa; cứ thế mà tiếp nối mãi mãi. Sự luân chuyển nầy tùy theo nghiệp lành dữ, nặng nhẹ của mỗi chúng sanh. Có khi lên được ba cõi trời: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, có khi vào các cõi: Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục. Song cũng đồng nằm trong định luật nghiệp báo luân hồi nơi ba cõi, sáu đường. Cho nên Đức Thầy gọi là “Xuống xuống lên lên luân hồi chuyển kiếp”.
          3/- Ý thức sai lầm:
          Đã hiểu luân hồi qua xác thân khác, là bị chi phối bởi nghiệp chướng của vô minh phiền não từ trước, nên hột giống ô nhiễm mê lầm sẵn có trong tiềm thức (A Lại Da Thức). Từ đó sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thường mê nhiễm theo sáu trần: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, sự sung sướng, danh vị cao sang. Nhận lầm xác thân ô uế giả hợp cho là thật, là trong sạch thơm tho. Bao nhiêu sự: giàu sang, của tiền, sự nghiệp, hạnh phúc tình yêu, sẽ giữ còn vĩnh cửu; mãi đến khi sắp lìa đời mà lòng tham ái vẫn còn, nên linh hồn phải luân hồi trở lại, để tiếp tục con đường mê lầm khổ não nữa. Cho nên:              
                    “Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão
                   Mắc trong vòng sanh tử luân hồi”.( ĐT)
          4/- Vô thường vô ngã:
          Muốn tránh khổ và tận diệt nguyên nhân sanh khổ, hành giả trước phải quán xét lý vô thường, vô ngã.
          a)- Xác thân vô thường: Xét rằng bởi do nhân duyên hòa hợp, từ linh hồn và sự cấu tạo tinh huyết của cha mẹ, cùng bốn chất: đất, nước, gió, lửa tạo thành, nên khi các nhân duyên ấy hết thì xác thân phải tan rã và trả về cho tứ đại. Từ nhỏ đến lớn, thân ta cũng luôn biến đổi theo thời gian, huống chi là đến già chết.
                    “Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
                    Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát”.( ĐT)
          b)- Cảnh vật vô thường:
          Xác thân là vô thường thì cảnh vật cũng theo thời gian mà biến đổi và tan mất:
              “Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)
          Thế thì bao nhiêu cuộc phú quí vinh hoa, ruộng vườn, tiền của, vợ đẹp con ngoan, thân bằng bạn hữu cũng không giữ mãi được. Chỉ là:
                    “Giấc mộng Nam Kha chốn thế trần,”
          Hay là:
                 “Công danh phú quí chung huờn mộng”.( ĐT)
          c)- Vọng tâm vô thường:
          Đã từ vọng tâm mà sanh thì kiếp sống cũng do vọng tâm sai khiến. Cho nên bao sự vui buồn, ghét thương, giận tức…làm đảo lộn tâm trí con người, không lúc nào bình yên dừng nghỉ; như con vượn chuyền cây, hết cành nầy sang cành khác.
          Thế thì từ xác thân, cảnh vật đến vọng tâm đều là ảo ảnh, vô thường và vô ngã, chẳng có cái gì là còn mãi và thật của ta:
          “Thế thượng vạn ban đô thị giả,
     Nhơn gian Đạo đức quả duy chơn”.(Tỉnh Thế Ngộ Chơn)
            (Trên đời không vật chi là thật,
          Chỉ có Đạo mầu mới thật chơn).
          Kinh Kim Cang, Phật bảo:
                    “Nhứt thiết hữu vi pháp,
                    Như mộng huyễn bào ảnh.
                    Như lộ diêc như điển,
                    Đương tác như thị quán”.
          Tạm dịch:
                    Phật rằng muôn pháp trong đời,
                  Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.
                    Chiêm bao, điện chớp, tiếng vang,
                   Đến như thân xác hơi tàn còn đâu.
          Đức Thầy nay cũng xác định:
               “Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng ảo,
               Cuộc truy hoan thường giết khách tài hoa”.
          Cho nên Ngài kêu gọi:
                    “Nghe chuông linh sớm dứt bể ái hà,
                      Kẻo vật dục cuốn lôi vào bể khổ”.
          Hoặc là:
                    “Phù sanh nhược mộng đời lao khổ,
                      Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm”.
          II- TỈNH NGỘ:
          1)- Nương đuốc huệ tiến tới Niết Bàn:
          Nhờ tiếng chuông Đạo pháp của Đức Thầy, chúng ta sực tỉnh giấc mộng trần gian, nhận được kiếp sống đầy khổ đau, vô thường và vô ngã, mới thức tỉnh tu hành, qui y tam bảo. Thế là ta được bước vào ngưỡng cửa của con đường tiến tới Niết Bàn. Nơi ấy, trường tồn bất diệt, có đủ bốn đức: chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Nhưng muốn tiến tới mục đích ấy, Đức Thầy dạy môn đồ phải “Nương đèn trí huệ, ly xuất phàm trần”. Vậy đèn trí huệ ở đâu?
          Chúng ta mới tu chưa có trí huệ, nên phải nương đèn trí của Đức Thầy:
                    “Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý,
                      Lóng tiếng từ bi diệt dục lòng”.
          Đức Thầy dùng trí huệ viết ra Kệ Giảng giáo hóa môn đồ, trong đó có đủ phương cách giúp cho ngưòi tu: rèn trí huệ, đạt chơn lý và diệt lòng dục nhiễm danh lợi tình để bước tới:
              “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)
          2)- Nhận xét chữ qui y:
          Con đường từ ngưỡng cửa đến mục đích của Đạo không phải bước một cái mà tới được, hành giả phải đi từ thứ lớp:“ Đường đạo đức bước đi từ nấc”( ĐT). Cho nên sau khi thức tỉnh và vạch một hướng nhắm tới Niết Bàn, Đức Thầy dạy tín đồ cần xét lại bước đầu, cho thấu đạt ý nghĩa hai chữ qui y.(Xem thêm phần Chánh văn của Đức Thầy)
Bởi có nương về với Tam Bảo, có hành trì theo hạnh đức và lời giáo huấn của Phật, Pháp, Tăng; có cải hối ăn năn làm lành lánh dữ và có giữ tròn giới luật mới xứng đáng là một tín đồ của Đạo. Chính đó là nấc thang đầu là nền tảng của Tam Thừa Tứ Quả. (Tam thừa: Thượng, Trung, Hạ; hoặc Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn.- Tứ quả: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn. Cũng giải là: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán). Thế nên nhà tu muốn đạt đến quả vị nào trong Đạo Phật, cũng phải khởi hành từ hai chữ Qui Y.
          Để tóm kết đề mục nầy ta nên tâm niệm hai câu giảng gồm đủ sự lẫn lý, tự giác, giác tha:
                    “Qui y thì khá làm y,
             Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.( ĐT)
          3- Nghiêm trì giới luật:
          Xưa nay người tu Phật hễ phát nguyện qui y thì phải thọ giới. Cho nên sau phần nhận xét về chữ qui y, Đức Thầy đề cập đến sự trì giới:“Cần nhứt là ở chỗ giữ giới luật hằng ngày”. Bởi sự nghiêm trì giới luật sẽ ngăn chận được các điều tội ác của thân, khẩu, ý và nội ma, ngoại cảnh không còn xúi giục, khơi gợi. Giới luật như hai hàng rào không cho heo gà phá rẫy, là hai bờ lề của con lộ giúp cho các loại xe khỏi chạy rớt xuống hố; cũng là hai hàng lan can cầu, để xe và hành khách qua cầu khỏi bị rơi xuống sông. Cho nên Đức Thầy hằng dạy:
                    “Đồ lao muốn lánh sớm nghe Ta,
                      Bố thí trì chay giữ giới mà”.
          Hoặc là:
                    “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp”. 
          Diệu năng của giới luật thật vô lượng, vô biên; nên Cổ Đức hằng bảo:
       “Giới minh nhu nhựt nguyệt, diệc như anh lạc châu.
           Vi trần Bồ Tát chúng, Do thị thành chánh giác”.  
          (Giới sáng như mặt trời, mặt trăng và cũng như hột châu anh lạc. Chư Bồ Tát đông như số vi trần đều nhờ trì giới mà thành tựu ngôi Chánh giác). Và các Ngài luôn xác định:
                    “Tam giới Phật Pháp, Giới vi căn bản.
                      Bản chi bất tu, Đạo viễn hồ tai”.
          Tạm dịch: “Ngàn xưa chư Phật ba đời,
                    Đều tu giới luật làm thời bản căn.
                             Bản căn nếu chẳng trì hằng,
                    Ắt là tánh Đạo khó bằng nên công”.
          - Vì thế, quả quyết rằng nếu nhà tu không gìn giữ giới luật tất không xứng đáng là một môn đồ hay Phật tử, thì trông gì đến hàng “Tứ quả Tam thừa”.
          Tóm lại, là một tín đồ PGHH, chúng ta nên cố gắng gìn giữ nghiêm chỉnh tám điều răn cấm. Chính nó là then chốt, là căn bản đầu tiên, rồi lần lượt tiến tới “Thập bát giới”, tức sáu căn, sáu trần và sáu thức, để đắc lục thông thành quả A La Hán. “Nhân căn trần thanh tịnh nhi đắc lục thông thị hiện giả dã”. (Sáu căn đối với sáu trần mà lòng vẫn như như bất động, không phân biệt nhiễm ô, tức đắc được sáu pháp thần thông).
          4)- XÉT VỀ SỰ LỄ BÁI:
          Đây là nói đến hai thời cúng lạy: sáng và chiều của mỗi tín đồ PGHH, hễ qui y thì có lễ bái, nhưng tại sao Đức Thầy cho biết:“Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm”. Vì hồi chưa tu, lúc nào tâm ý ta cũng buông lung theo vọng trần, xấu xa, ích kỷ…Suốt ngày đêm không phút nào dừng lặng (tâm viên ý mã). Giờ đây muốn cải đổi cho lòng thanh tịnh, tốt lành, từ bi bác ái thì nhờ hai thời lễ bái, nhắc nhở ta trở lại tâm hồn đó. Rồi tập dần đến lúc đi, đứng, ngồi, nằm đều được yên lặng chánh chơn “Sớm tối đi nằm y chánh pháp”( ĐT), tức từ phàm phu trở thành Phật Thánh:
                “Thì hiền lương quên mất điều tà,
                Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.( ĐT)
          Vì thế, sự lễ bái gọi là món trợ đạo, còn tu sửa là chánh. Cũng như đất và phân nước giúp cho hạt giống được nên cây trái. Cho nên sự lễ bái cũng rất cần cho sự hành đạo, hành giả phải áp dụng cho đến khi thành quả:
                 “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
                      Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.
          Và:
                    “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
             Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.( ĐT)
          Tam nghiệp là thân, khẩu, ý sanh ra mười điều ác. Mỗi chúng sanh đã gây tạo nó từ vô lượng kiếp, rồi vay trả, trả vay lưu truyền tới giờ. Chính nó là hột giống sanh tử, là nghiệp nợ nặng nề hơn hết, nhứt là khẩu nghiệp người tu dễ vi phạm. Vậy ai muốn giải thoát sanh tử phải tịnh tam nghiệp, chừa thập ác và hành thập thiện. Đức Thầy hằng dạy:“Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật”. Và:
                    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
                    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.( ĐT)
          III- PHƯƠNG PHÁP THOÁT KHỔ ĐẠT NIẾT BÀN:
          1)- TU TRÍ HUỆ TRỪ MA LÒNG:
          Ma lòng gồm có tham, sân, si trong tâm ý của mỗi người:“Tà kiến tam độc thật Ma vương”.(Pháp Bửu Đàn Kinh)
          Ma ngũ ấm (uẩn): sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay tham, sân, si, nhân, ngã.
          Ma thất tình, lục dục (thập tam ma). Ma là một danh từ đối với Phật, hễ lòng có Phật thì không có Ma, lòng Ma thì không có Phật. “Ma Phật trong lòng lựa phải tìm đâu” (Giác Mê của Đức Phật Thầy). Đức Thầy xác định:
                    “Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,
                      Tiên hay Phật cũng là tại nó”.
          Mà nếu:
                    “Làm gian ác là quỉ là ma,
                    Làm chơn chánh là Tiên là Phật”.
          Hiểu được Ma lòng ra sao, hành giả hãy lấy trí huệ mà dẹp nó. Lúc mới vào Đạo ta phải nương theo trí huệ của Tổ Thầy để mồi qua cây đuốc huệ của ta, bằng cách là trì giới cho “Tâm bình tịnh được thì phát huệ”. Hoặc diệt si mê, phá vô minh thì trí huệ lần lần sáng tỏ, đây là pháp môn “Vô tận đăng”. Khi có “Giới định huệ” thì ma phiền não: tham, sân, si chẳng còn và soi tan luôn ngũ uẩn:“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”(Bát Nhã Tâm Kinh). Đức Thầy đã dạy:“Hươi gươm trí huệ Ma Vương hãi hùng”. Sở dĩ trí huệ như lưỡi gươm, vì nó có diệu năng chẳng những diệt được “Tam độc”: tham, sân, si, mà còn trừ được ma Thất tình Lục dục.
                    “Thập tam ma diệt bằng trí kiếm,
                    Dứt xong rồi vô sự thảnh thơi”.( ĐT)
          Thật hành được như thế, nhà tu sẽ tự tại giải thoát.
          2)- ĐỐI XỬ VỚI THẾ NHÂN:
          Về mặt ăn ở giao tiếp với mọi người, Đức Thầy dạy nên mở lòng rộng lượng tha thứ những ai tối tăm lầm lỗi. Thể hiện tinh thần nhân Đạo, bác ái vị tha, không phân biệt màu da, chủng tộc, sang hèn hay giai cấp; hoặc người hay sanh vật, mỗi mỗi đều cư xử toàn hảo, toàn hòa an vui hạnh phúc:
                    “Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo”.
          Và:
                    “Đem nguồn sống mới cho nhơn loại,
                      Để tiến, tiến lên cõi đại đồng”.( ĐT)
          3)- HÀNH ĐẠT LÝ VÔ NGÃ:
          Vô ngã là không chấp có ta, là danh từ đối tượng với chấp có ta, tức là ngã. Hễ có ngã là còn mê lầm sanh tử, mà vô ngã là giác ngộ, Niết Bàn. Có thể xác định rằng: đứng đầu tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não là ngã, còn dẫn đầu 8 vạn bốn ngàn pháp tu là Vô ngã. Vậy chấp ngã là gì?
          - Chấp ngã là lòng tham chấp từ xác thân, tiền của, vợ con, thân bằng, tộc họ; đến đất nước đồng bào, danh dự, tước quyền và giai cấp…đều là có thật của ta, phân biệt hơn thua, cao thấp, rồi lo đấu tranh chiếm hữu và bảo thủ mãi mãi. Chính đó là nguyên nhân của nghiệp báo luân hồi.
                    “Tâm trần tục còn phân nhơn ngã,
                    Thì làm sao thoát khỏi luân hồi”.( ĐT)
          Vậy hành giả muốn thoát ly sanh tử, để tiến tới Niết Bàn. Trước nhứt, phải nhận rõ qua kiếp sống của con người và sanh vật đều nằm trong vòng khổ đau, bất tịnh, vô thường và vô ngã để diệt sạch lòng tham chấp.
                    “Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
                    Nhân ngã, sân si cũng dẹp đành”.( ĐT)
          Tu tới đây, hành giả không nên tự mãn mà phải kẹt trong vòng đối đãi: có không, chấp tâm, chấp pháp; hoặc còn thấy mình có tu, có chứng đắc. Hành giả phải rán vượt lên bước nữa là tu rèn cho được tâm bình đẳng, xem ta và mọi người cũng như vạn vật đồng nhứt thể:“Tường, bích, ngõa, lịch giai hữu Phật tánh”. Và bởi:
                    “Từ không bày có, có huờn không,
                      Có có không không rốt vẫn đồng”.
                              (Ngữ Lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ)
          Để sáng tỏ thêm, Đức Thầy dạy:
                    “Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,
                      Sắc không, không sắc chớ lìa xa”.
          Nhà tu một khi xả bỏ được lòng chấp ngã, xem mọi người, mọi giới và vạn vật đều bình đẳng như nhau. Tất cả đều nằm trong một thể “đại ngã”. Không còn phân biệt: sai khác, cao thấp, trước sau:“Trước sau tuy khác thiện căn vẫn đồng”( ĐT). Tuy đã co tu, có chứng đắc, nhưng tâm không còn chấp co tu, có chứng đắc: (vô tu, vô chứng, vô sở đắc), đó tạm gọi là hành đạt lý vô ngã.
                    Là bình đẳng an nhiên.
                    Là Phật hóa tánh tình.
                    Là Niết Bàn giải thoát.
          Đức Thầy còn sách tấn tín đồ:
          “Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ”.
          Đó là Ngài trợ duyên cho chúng ta có một đức tin vững chắc, một sức mạnh vạn năng để đạt đến thành quả.
          Tổng kết bài “Lời Khuyên Bổn Đạo” là một phẩm Kinh, Đức Thầy dạy môn đồ từ bực sơ cơ tiểu thừa đến Tối Thượng thừa…Tuy thấy tu Tiệm, nhưng thực chứng là Đốn. Trong đây chia làm hai phần:
          - Thứ nhứt là phần quán xét và nhận thức kiếp sống con người là ô trược, khổ đau và vô thường, vô ngã.
          - Thứ nhì là phần thực hành, nhà tu phải vẹn gìn: qui y lễ bái, tránh Tam nghiệp chừa Thập ác, hành Thập thiện và dùng trí huệ dọn sạch Ma lòng để diệt mầm sanh tử. Chót hết là hành đạt lý vô ngã vào Niết Bàn.
 
*    *
PHỤ ĐỀ
BÀI THI TỨ CÚ (Đạo pháp…)
LƯỢC GIẢI
          - Câu thứ nhứt: Đức Thầy dạy người quyết tâm tu học Đạo pháp, nên rèn luyện cho mình có được hai đức tánh: khoan dung và hòa hảo. Bởi có rộng lượng tha thứ cho những người lầm lỗi mới đem lại sự hài hòa tốt đẹp và dễ bề cảm hóa họ trở lại con đường lành.
          - Câu thứ hai: Ngài dạy đối xử với mọi người, phải dùng tâm bình đẳng và chánh kiến mà xét đoán cho cùng tột các việc của những người đối diện và bản thân ta.
          - Câu thứ ba: Nếu người có lỡ lầm lỗi mà biết cải hối, ta nên vui lòng tha thứ cho họ.
          - Câu thứ tư: Ngài dạy, ở đời mấy ai trọn vẹn không lầm lỗi. Nay ta sẵn lòng tha thứ sự lỗi lầm của mọi người thì mai chiều những người khác cũng thông cảm, tha thứ sự lỗi của ta.
          - Chủ đích của bài thi nói trên, Đức Thầy muốn dạy tín đồ tu tập cho mình có những đức tánh: khoan dung, hòa hảo, bình đẳng chánh kiến. Và tôn trọng công bằng nhân quả, tất trên đường hành đạo sẽ được an vui mỹ mãn.
 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
          THÂN Ô TRƯỢC: Xác thân dơ bẩn không sạch. Thân xác của mỗi con người, tuy bên ngoài bao bọc lớp da trơn láng, mịn màng nhưng bên trong chứa đầy chất ô uế. Hằng ngày có chín lỗ (cửu khiếu) tiết ra chất bất tịnh, như: đôi mắt có ghèn, hai lỗ tai có cứt ráy, hai lỗ mũi có cứt mũi, miệng có đàm dãi, đường đại, đường tiểu, mỗi nơi đều tiết ra chất hôi hám khó chịu. Chẳng thế, còn các chơn lông cũng thường rịn chảy mồ hôi dơ nhớt, thật là:
                  “Thân hôi tanh muỗi ruồi đón rước,
                    Thêm nhọt u ghẻ lác phong cùi.
                    Đâu lúc nào toàn vẹn an vui,
                    Là kiếp trược ta xin kể trước”.( ĐT)
          THÂN VÔ THƯỜNG: Xác thân chẳng thường còn. Bởi nó là sắc tướng, là hữu hình nên không trường tồn đặng:
Trên dương thế hữu hình tắc hoại”.( ĐT)
          TỨ ĐẠI: Bốn chất lớn, tức là: đất, nước, gió, lửa:
                    “Chốn Ta bà tim lụn, dầu mòn,
                    Thân tứ đại của người cũng thế”.( ĐT)
          PHÙ VÂN: Đám mây nổi, chốc lát bị gió thổi bay mất. Ý chỉ cuộc đời phú quí ngắn ngủi, không bền chắc lâu dài:“Một cuộc phù vân có mấy hơi”( ĐT).
          TỘI CHƯỚNG: Nghiệp tội và báo chướng, có nghĩa như chữ nghiệp chướng.
          LINH HỒN: (Xem CT chữ nầy bài NĐSL, Q.6).
          TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ tu hành:
                    “Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
                    Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.( ĐT)
          TRƯỜNG SANH BẤT DIỆT: Sống hoài không  chết mất. Chỉ cho cảnh Niết Bàn.
          ĐÈN TRÍ HUỆ: Ánh sáng của trí huệ. Đây chỉ cho Kinh Giảng và lời lẽ của Tổ Thầy:
                    “Nay đuốc huệ từ bi đã rọi”.( ĐT)
          LY XUẤT PHÀM TRẦN: Lìa xa cảnh trần ai phàm tục, tức tu hành giải thoát luân hồi sanh tử. Đức Thầy hằng kêu gọi:
                    “Tìm đèn trí huệ lánh thân ra,
                      Lánh thân ra khỏi kẻo mang tai,
                      Tầm nẻo cao siêu đến Phật đài”.
          PHỒN HOA: Cũng gọi là phiền ba, chỉ nơi đô thị nhộn nhịp, mua bán ăn chơi, đua chen theo vật chất: danh, lợi, tình. Đức Thầy có câu:
                    “Muốn lánh phồn hoa, lánh thị thành”.
          TỊCH TỊNH: Nơi an vui thanh tịnh và trong sạch, tức cõi Niết Bàn.
          KHUÔN MẪU: Khuôn thước, mẫu rập. Chỉ cho qui luật pháp giới, chân chánh tốt lành, tất cả môn đồ Phật tử đều phải noi theo.
          CẢNH TỈNH: Báo cho biết để thức tỉnh.
          GIÁC NGỘ: Tỉnh biết, cảnh tỉnh giác ngộ là báo cho biết để tỉnh ngộ tu hành. Giác ngộ cũng đồng nghĩa với chữ trí huệ.
          MA LÒNG: Sức mạnh vô hình của nội ma trong tâm ý con người, gồm có: ma phiền não tham, sân, si, nhân ngã; ma thất tình lục dục (Xem CT chữ Chánh Niệm, T-1, Q.6).
          KHOAN DUNG: Lòng rộng lượng hay tha thứ người lầm lỗi:“Ta thường nên tập tánh khoan dung” (ĐT).
          ĐẠO PHÁP: Giáo pháp của Phật.
 
CÂU HỎI
          1/- Các nỗi khổ của chúng sanh ra sao?
          2/- Do nguyên nhân gì có luân hồi thống khổ?
          3/- Ý thức lầm lạc như thế nào?
          4/- Sao gọi là vô thường, hãy chứng minh?
          5/- Muốn tránh luật vô thường ta phải làm sao?
          6/- Hãy xét về sự qui y?
          7/- Tại sao Đức Thầy bảo trì giới là điều cần nhứt?
          8/- Xét về lễ bái như thế nào?
          9/- Xét về tam nghiệp ra sao?
          10/- Tu làm sao cho có trí huệ?
          11/- Ma lòng là gì? Kể ra một ít loại?
          12/- Muốn thắng phục Ma vương phải làm sao?
          13/- Việc cư xử với mọi người như thế nào?
          14/- Hãy định nghĩa chữ chấp ngã?
          15/- Muốn đạt lý vô ngã ta phải làm sao?
          16/- Hành đạt lý vô ngã được kết quả như thế nào?
          17/- Lý vô ngã là pháp thiền (Tự lực) tại sao Đức Thầy bảo:“Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng hộ?
          18/- Cho biết tổng kết bài “Lời khuyên bổn đạo”?
 
          1/- Hãy lược ý bài thi Tứ cú “Đạo pháp…”?
          2/- Chủ đích bài thi ấy Đức Thầy muốn dạy những gì?
*
*    *
3- PHẬT LÀ GÌ ? 
CHÁNH VĂN
          Phật giả là Giác giả. Giác giả là Tỉnh giả.
          Khi Đức Thích-Ca thành Phật thì Ngài nói pháp tứ-đế mà độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung-Đạo cho người hành theo.
ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT:
   1.- Không trưởng-dưỡng xác thịt quá ư sung-sướng như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung-sướng thái quá thì sanh nhiều dục-vọng mê đắm, làm cho trí-đạo tối tăm, không thể đạt huệ được.
 2.- Không nên hành xác hay ép xác-thịt thái quá như: phơi nắng, dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác quá độ thì hay sanh bịnh-hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi, tinh-thần kém cỏi, mệt nhọc, trí-hóa lu lờ, không đủ sức học Đạo đặng.
 Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá mà cũng chẳng để nó sung-suớng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa sức mình, gìn-giữ sức khoẻ mới mong học được đạo-pháp.
    Vậy, Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo trình-độ và lòng nhơn của mình.
          Điều cần yếu là phải:
   Làm hết các việc từ-thiện,
  Tránh tất cả điều độc-ác,
  Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.  
                          Bạc Liêu, năm Nhâm-Ngũ.
 
DÀN BÀI:
A-  KHAI ĐỀ: Tìm hiểu ý nghĩa chữ Phật.
B-  DIỄN ĐỀ:
     I/- CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO.
     Hai xu hướng sai lầm:
       1- Trưởng dưỡng xác thịt.
2- Ép xác hành khổ.
    II/- THẾ NÀO LÀ TRUNG ĐẠO ?
1- Chiết trung tránh sai lầm.
                 2- Thực hiện đúng con đường Trung đạo.
    III- PHÁP TU CẦN YẾU:
   1- Làm hết các việc từ thiện.
2-Tránh tất cả điều độc ác.
                 3- Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.
C- KẾT ĐỀ: Tóm tắt toàn đề.
 
LƯỢC GIẢI
          Là môn đồ nhà Phật, chắc ai cũng muốn tìm hiểu Phật là gì? Và tại sao cả thế gian đều xưng tụng Ngài là Phật?
          Chúng ta không thể hiểu suông bằng văn tự. Phật là đấng giác ngộ và tỉnh thức, mà phải tìm hiểu xác thực cái giác tỉnh ấy như thế nào?
          Tỉnh thức là danh từ đối với mê lầm, từ trước tới giờ đa số chúng sanh còn trong mê lầm tăm tối (vô minh) nhận ngụy làm chơn:
                  “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,
                    Màn vô minh che mờ căn trí,
                    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.( ĐT)
          - Ngược dòng lịch sử, ai cũng thấy Thái tử Sĩ Đạt Ta đang sống trong cảnh cung vàng điện ngọc, thụ hưởng các điều dục lạc, chẳng thiếu món chi. Thế mà Ngài nhận thức được cuộc sống ấy là giả dối, không thật, như phù hoa ảo ảnh. Mỗi người sanh ra đều phải chấp nhận sự sống khổ, tới già bịnh rồi chết mất, Ngài mới lìa bỏ cung vui tìm đường giải thoát.
                    “Đức Thích Ca xưa ở lầu đài,
              Nghiệm tứ khổ nên Ngài tầm Đạo”.( ĐT)
          - Đó là Ngài tỉnh thức “lánh chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyễn”.
          Còn phần giác ngộ là thời gian tầm thầy học Đạo, Ngài không nhắm mắt tin càng, mà tin bằng lý trí. Nghĩa là giáo thuyết nào không hợp chơn lý, không đưa mình ra khỏi sanh tử thì Ngài không theo. Cuối cùng Ngài tự mình tìm ra phương cách giải thoát và hành đạt đến hoàn toàn giác ngộ (Giác ngộ đồng nghĩa trí huệ):
                        “Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,
                    Lòng tự giác xả thân tầm đạo”.( ĐT)
          - Sự hiểu biết của Ngài chẳng phải như nhà Bác học (Thế trí biện thông), mà từ mọi hình thức bên ngoài, đến cái vô hình bên trong của tâm ý chúng sanh; xuyên qua vũ trụ vạn hữu và cả ba đời (Quá khứ, hiện tại, vị lai) Ngài đều thấu suốt. Do đó, khắp ba cõi sáu đường (Ba cõi: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới), đều xưng tụng Ngài là bậc tỉnh thức. Và cũng vì vậy Đức Thầy mới định nghĩa chữ Phật:“Phật giả là giác giả, giác giả là tỉnh giả”. Gọi tắt là đấng Tỉnh giác (Tỉnh thức và Giác ngộ hoàn toàn).
          I- CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO:
          Lúc Thái tử còn tu khổ hạnh với năm người bạn tại rừng Lộc giả, một hôm Ngài đang đi bỗng bị té xỉu vì quá kiệt sức. Chừng tỉnh dậy Ngài trông thấy một người lạ, ngồi ôm cây đờn lên dây khảy. Khởi đầu người ấy lên dây thẳng quá nên dây đờn bị đứt, người liền trả dây dùn lại thì đàn không kêu đúng tiếng. Lần thứ ba người ấy lên dây vừa vặn thì khảy tiếng đàn nghe tuyệt diệu. Thái tử liền ý thức: mình dốc tu cho thành Đạo để độ chúng sanh, nếu tu ép xác hành khổ thế nầy, trí huệ chưa mở, Đạo quả chưa thành mà đã bỏ thân, rồi làm sao cứu độ được ai ! Liền đó, Ngài tự phát kiến được hai xu hướng sai lầm và con đường Trung Đạo. Từ đó Ngài quyết định ăn uống bình thường lại, đoạn Ngài đến cội Bồ Đề ngồi tham thiền 49 ngày, là đắc Đạo “Vô Thượng Chánh Giác”.
          Lần đầu tiên Ngài trở lại Khổ Hạnh Lâm thuyết pháp “Tứ Diệu Đề” và chỉ con đường Trung Đạo cho anh em Kiều Trần Như nghe. Nghe xong, năm vị nầy đều chứng quả A La Hán.
          - HAI XU HƯỚNG SAI LẦM
          Muốn biết thế nào là Trung Đạo, cần phải tìm hiểu hai xu hướng sai lầm.
          1- Trưởng dưỡng xác thịt:
          Sự sai lầm trước hết là lối tu trưởng dưỡng xác thể, trong đây gồm có hai phần:
          a)- Phần thứ nhứt là do lo bồi bổ vật chất cho cuộc sống cao sang, sung sướng trong mọi sự ăn, mặc, ở quá với mức bình thường. Cách ăn, uống, ngủ, nghỉ không biết tiết chế điều độ.
          b)- Phần thứ nhì là nuôi tánh biếng lười, chẳng siêng năng học hỏi và làm việc. Người xưa từng bảo:“Nhàn cư vi bất thiện” (con người sống nhàn lạc sung sướng quá thì hay làm việc chẳng lành). Đúng thế, nếu người tu không siêng năng làm việc, cứ lo ăn uống bồi dưỡng cho xác thể quá sung mãn, thì lòng tham lam dục vọng càng nhiều, khiến cho tinh thần bạc nhược, trí huệ lu mờ, không thể nào tu hành mau sáng suốt được.
          2- Ép xác hành khổ:
          Sự sai lầm thứ hai là lối tu ép xác hành khổ, gồm có hai phần nhỏ:
          - Một là không ăn, không ngủ hoặc ăn ngủ quá ít.
          - Hai là làm việc thật nhiều, chẳng kể mưa nắng, quá với sức chịu đựng của xác thể. Bởi xác thân là vật chất, cần phải có ăn uống mới đủ chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Ví như cái máy, có đủ xăng nhớt mới chạy được. Nếu ta cung cấp thức ăn cho cơ thể không đủ, hoặc làm việc quá sức, thì xác thân phải lao tổn, hay nay đau mai ốm. Hễ xác thân bệnh tật rồi thì tinh thần cũng bị yếu kém theo, không còn đủ sức dõng mãnh, hăng hái để tu học Phật pháp.
          II- THẾ NÀO LÀ TRUNG ĐẠO?
1- Chiết trung tránh sai lầm :
          Đã nhận rõ hai xu hướng sai lầm vừa kể trên, Đức Thầy dạy môn đồ không nên tu theo hai lối cực đoan ấy mà phải chiết trung nó lại. Hành giả không siêng năng làm việc, học hỏi, không được; bằng làm việc nhiều quá cũng không xong. Ăn ngủ ít bị lao tổn thân xác, trí lực yếu kém. Còn ăn ngủ quá dư thì sanh biếng lười, mê tối. Cho nên nhà tu nên ăn uống điều độ, lao động vừa với năng lực của mình, để bảo vệ sức khỏe mới có đủ tâm năng, trí lực tu học đạo pháp.
                 2- Thực hiện đúng con đường Trung Đạo:
          Để cho sự tu hành đúng theo con đường Trung Đạo, mà xưa kia Đức Phật đã phát minh và tu hành đắc Đạo. Hôm nay Đức Thầy cũng dạy tín đồ như thế. Nghĩa là Ngài chẳng hề bắt buộc ai phải tu lối ép xác hành khổ và cũng chẳng bao giờ bảo môn đồ nào sống cảnh sung sướng, cho đến vấn đề ăn chay, ăn mặn cũng thế.
          Trên đường tiến đạo, nhà tu không nên đi mau quá (thái quá) mà cũng không bước chậm quá (bất cập). Ví như đoàn người leo núi đi mau quá thì mệt và hay vấp té nguy hiểm; bằng đi chậm quá thì không kịp đoàn, phải từ từ mà bước một cách thận trọng, tất sẽ được an toàn.
          Đức Thầy cũng không xúi biểu ai phải ăn chay kỳ cố định, hay ép buộc ai phải ăn chay trường. Ngài để tự nhiên cho trình độ giác ngộ và lòng nhân của mỗi tín đồ, tiến lên tới đâu thì tiến:
                    “Trong bá gia nhiều ít lòng chay”.
          Và: “Chay được tánh chay tâm mới quí”.( ĐT)
          Nhưng có điều quan trọng là mỗi hành giả phải thi hành ba điều cần yếu sau đây:
          III- PHÁP TU CẦN YẾU:
          Sau khi Phật Thích Ca tịch diệt thời gian, một hôm Đại Đức Ca Diếp kêu Tôn giả A Nan hỏi:
          - Tôi có nghe trong “Tăng nhứt A Hàm Kinh” Phật thuyết gồm 37 phẩm trợ đạo, có chăng?
          Tôn giả A Nan đáp:
          - Bạch Đại Đức! Khỏi cần đến bộ “Tăng Nhứt A Hàm”, chỉ một bài Kệ bốn câu cũng đủ bao hàm 37 phẩm trợ đạo, bài Kệ ấy như vầy:
          “Chư ác mạc tác; Chúng thiện phụng hành.
                 Tự tịnh kỳ ý; Thị chư Phật giáo”.
           (Điều ác đừng làm, Điều lành gồm làm.
              Tự lắng lấy lòng, Phật dạy như vậy!)
          Ngày nay Đức Thầy tóm tắt bài Kệ ấy, thành ba câu cần yếu là: Làm hết các việc từ thiện. Tránh tất cả điều độc ác và Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.
1- Làm hết các việc từ thiện:
          Là làm toàn những việc hiền lành, nhơn đức có ích lợi cho mọi người và vạn loại chúng sanh; tức là lo tu “mười điều lành”, để trả xong nghiệp nợ và tịnh được Tam nghiệp. Và có đáp được “Tứ Ân” mới đền xong phần ân nợ và tạo được vô lượng phước đức:“Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ”.
        2- Tránh tất cả những điều độc ác:
          Là tránh hết những việc làm có thương tổn đến sanh mạng, danh vị và hạnh phúc của muôn loài, tức là giữ Tám điều răn cấm, đừng cho vi phạm và tránh “Tam nghiệp”, chừa mười điều ác. Chính những sự đó là hột giống của luân hồi sanh tử, là nghiệp nhân sanh ra mưôn ngàn tội lỗi khác. Người tu có chừa được mười điều ác mới dứt được “duyên trần cấu” và gốc tội lỗi tiêu tan, thoát khỏi nghiệp báo luân hồi. Cho nên Đức Thầy bảo: “Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật”. Và:
                    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
                    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.
           3- Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch:
          Bởi tâm ý của mỗi chúng sanh thường nghĩ tưởng việc nhơ xấu, tà ác nên bị vô minh, dục vọng chi phối, như một biển nước đầy cặn cáu. Đức Thầy cho biết: cuộc đời của chúng ta đang sống đây gọi là ác thế ngũ trược.(Kiến trược, kiếp trược, chúng sanh trược, phiền não trược, mạng trược)
                    “Biển hồng trần lao lý diệu vơi,
                    Xô đẩy mãi trong vòng ngũ trược”.
          Hành giả muốn ra khỏi vòng ngũ trược để về nơi thanh khiết, tất phải:“Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch”.
          Cho nên Đức Thầy từng kêu gọi:“Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ”.
          Hễ lòng hết bợn nhơ phiền não thì cảnh thanh khiết và Phật tánh hiện bày chớ chẳng phải tìm nơi nào khác:
                    “Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
                      Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.( ĐT)
          Vậy muốn rửa tấm lòng cho trong sạch ta phải làm sao?
          Theo yếu chỉ PGHH thấy có hai cách rất đơn giản và quan thiết là hành Bát Chánh Đạo và Niệm Phật. Vì trong Bát Chánh Đạo có 6 chánh thuộc về tư tưởng:“Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niện và Chánh Định”. Nếu ai thực hành được sáu chánh đó thì lòng trong sạch, vào Niết Bàn:“Thiền Định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”.
          Còn pháp niệm Phật để đối trị vọng tâm phiền não, hễ có tưởng nhớ Phật thì không còn tưởng nhớ việc xấu xa tà khúc hay tham sân si…Nếu niệm Phật được liên tục thì lòng luôn trong sạch thanh tịnh mà vào cõi “Thường Tịch Quang Tịnh Độ”.
          Thêm nữa, hành giả có thi hành được ba điều cần yếu vừa kể trên, tất được trọn lành, trọn sáng, tức thân tâm thanh tịnh, công đức viên vun. Cho nên Kinh Phật gọi đó là Tứ Cú Kệ và gồm nhiếp 37 phẩm trợ đạo. Có thể nói ba điều cần yếu bao gồm cả tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì tu đến đây hành giả diệt tận gốc phiền não: tham, sân, si nên gọi là pháp tu quan trọng và cấn yếu hơn hết.
          Tổng kết bài “Phật là gì ?” trước hết Đức Thầy định nghĩa chữ Phật và vạch ra con đường Trung Đạo, đúng theo chân truyền của Đức Phật Thích Ca. Chính nó là con đường tắt nhứt và đưa đến “Tối Thượng Nhứt Thừa”, hành giả không thiên chấp hai bên: hành khổ hay sung sướng, hoặc có không, động tịnh hay nhân ngã, mặn chay…
                    “Tu hành nào luận mặn chay,
              Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư”.( ĐT)
          Sau cùng Ngài dạy pháp tu quan yếu, nếu ai kiên trì tu tập sẽ được thành Đạo giải thoát.
 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ:
          THƯỜNG TỊCH QUANG: Cũng gọi là Pháp tánh Tịnh Độ, là một trong năm điều thanh tịnh an vui. Có nghĩa người tu khi được vào Tịnh Độ thì tâm hồn luôn được an nhiên trong sáng, không còn bị phiền não trược chi phối. Kinh xưa đã bảo; hành giả khi vào được Tịnh độ thì năm điều uế trược sẽ đổi lại năm điều thanh tịnh an vui, như:
          1- Kiếp trược chuyển thành “Thanh Tịnh Hải Hội”.
          2- Kiến trược chuyển thành “Vô Lượng Quang”.
          3- Phiền não trược chuyển thành “Thường Tịch Quang”.
          4- Chúng sanh trược chuyển thành “Liên Hoa Hóa Thân”.
          5- Mạng trược chuyển thành “Vô Lượng Thọ”.
          TỨ ĐẾ: Cũng gọi là Tứ Diệu Đề. Có nghĩa bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật, gồm có: Khổ đề, Tập đề, Diệt đề, Đạo đề.
                    “Tứ diệu đề ai có mến ưa,
                    Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.( ĐT)
          TRUNG ĐẠO: Cũng gọi là Đường Trung Đạo. Có nghĩa con đường chính giữa. Có hai thuyết giải:
1- Theo Khổng Giáo: Trung Đạo là trung dung. Có nghĩa không thái quá, không bất cập, giữ mực bình thường ở giữa thì mọi việc đều được thích trung “Thánh Nhơn ghi sách Trung Dung”( ĐT).
2- Theo Phật Giáo: Đạo Trung là con đường Đạo, là Đạo trung hòa. Có nghĩa không thiên chấp, như: ép xác hành khổ hay sung sướng hoặc chấp thường, chấp đoạn, có không, động tịnh, lành dữ, lui tới, ngã nhân hay vui buồn, thương ghét, không duyên theo thất tình lục dục. Lìa cả hai bên là đối đãi mà phải xem sự lý, dung thông, sắc không đồng nhứt thể:
                    “Thắng thất tình giữ vẹn Đạo Trung,
                      Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm”.( ĐT)
          DỤC VỌNG: Lòng tham vọng ham muốn vật chất: danh, lợi, tình v.v…Đức Thầy dạy:
                    “Phải gìn dục vọng lòng tà,
              Đừng chìu theo nó vậy mà hư thân”.( ĐT)
          MÊ ĐẮM: Say mê đắm đuối theo lợi danh tài sắc, khó dừng lại được như người bị bịnh ghiền.
          TRƯỞNG DƯỠNG: Nuôi lớn xác thể.
          ĂN CHAY: (Xem CT chữ nầy bài Ăn chay, Q.6).
 
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa chữ Phật?
          2/- Do đâu người ta xưng tụng Phật là bậc tỉnh thức?
          3/- Tại sao đời tôn kính Phật là đấng Giác ngộ?
          4/- Lý do nào Đức Phật tìm ra con đường Trung Đạo?
          5/- Tại sao Đức Thầy không cho lối tu ép xác?
          6/- Ta sung sướng có tai hại gì?
          7/- Muốn tu đúng con đường Trung Đạo phải làm sao?
          8/- Ba điều cần yếu Đức Thầy rút ở đâu và của ai?
          9/- Làm hết các việc từ thiện là những gì?
          10/- Tu thế nào gọi là tránh tất cả điều độc ác?
          11/- Tại sao Đức Thầy bảo phải rửa tấm lòng cho trong sạch, và gội rửa bằng cách nào?
          12/- Lý do nào Đức Thầy gọi ba điều nói trên là cần yếu?
          13/- Hãy tổng kết bài “Phật là gì”?
*
*    *
4- CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI ĐỨC
CHÁNH VĂN
          Chư Phật có bốn đại-đức. Vậy ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại-đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đức ấy là:
           1.- Đức từ: Phật đối với chúng-sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo-lắng đến, hết lòng dìu-dắt, dạy- dỗ, không nỡ để chúng-sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não;
           2.- Đức bi: Nếu chúng-sanh nào dạy-dỗ chẳng nghe, làm điều độc-ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng;
           3.- Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn-cảnh trái-nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn-bã;
           4.- Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế-gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền-trần, tha-thứ hết thảy những ai tối-tăm lầm-lỗi, chẳng còn vướng- víu chi với cuộc lợi-danh, tài-sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.
           Vậy ta nên niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao cho ta đắc được bốn đức ấy.
           Ta cũng nên bố-thí, nhẫn-nhục, trì-giới (để độ tham, sân, si).
           Còn phương-pháp niệm Phật là để trừ cái vọng-niệm của chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mê-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền-não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chng ấy vọng niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình-dục còn đâu mà nảy sanh ra được?
          Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trược-nhiễm trần-ai.
          Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp).
Bạc liêu, năm Nhâm-Ngũ.
 
DÀN BÀI
          A- KHAI ĐỀ: Xuất xứ và tiêu đề.
                       B- DIỄN ĐỀ: - Tính chất tứ vô lượng tâm.
         - Định nghĩa:
          I- BỐN ĐẠI ĐỨC:
                    1- Đức Từ.
                    2- Đức Bi.
                    3- Đức Hỉ.
                    4- Đức Xả.
          II- ĐỘ THAM SÂN SI
    1- Bố thí độ tham lam.
         2- Nhẫn nhục độ sân hận.
3- Trì giới độ mê si.
          III- NIỆM PHẬT THẬT TƯỚNG
         1- Vọng niệm chúng sanh.
a)- Niệm ác.
        b)- Niệm bất tịnh.
            c)- Niệm không đâu.
              2- Niệm Phật thay vọng niệm.
  3- Nhất tâm bất loạn.
              4- Niệm cái bản lai thanh tịnh.
                  5- Tu thập thiện tịnh tam nghiệp.
          C- KẾT ĐỀ: Chủ đích và tóm tắt.  
 
LƯỢC GIẢI
          Bài pháp luận nầy Đức Thầy sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi (Bạc Liêu); viết theo thể văn xuôi lối thuyết giáo.
          Đức Thầy viết bài nầy không đề tựa, sau đó Ban Sưu tập căn cứ vào mấy chữ đầu, mới tạm đặt cho cái tiêu đề là “Chư Phật có bốn đại đức”. Song nếu nghiên cứu kỹ nội dung của bài, thì đây là Ngài dạy phương cách niệm Phật để thành Phật. Nên có thể gọi là “Niệm Phật Thật Tướng” hay “Niệm Phật Tam Muội”.Vì niệm Phật theo cách nầy sẽ trực nhận “Duy Tâm tịnh độ, tự tánh Di Đà”, như Kinh Duy Ma đã bảo:“Tâm tịnh tức Quốc độ tịnh”.
          Kinh Phật thường gọi bốn đại đức là “Tứ Vô Lượng Tâm”. Xưa kia Đức Phật thuyết phẩm Kinh nầy để dạy hành giả tu thành Phật, hay nói cách khác là ai muốn thành Phật phải tu bốn đại đức. Ngày nay Đức Thầy cũng xác định:“Công đức Phật từ bi vô luợng”. Bởi bốn đại đức: Từ, Bi, Hỉ, Xả rộng lớn vô biên, không thể lường tính được, nên gọi là đại đức và vô lượng. Vì thế bài Pháp luận nầy Ngài dạy môn đồ niệm Phật phải hiểu và hành theo hạnh Phật, tức là rèn tập cho mình có được bốn đại đức ấy như chư Phật, bởi Ngài từng dạy:
                    “Học câu hỉ xả đại từ,
            Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần”.
          Do đó Ngài định nghĩa chữ niệm Phật là để tưởng nhớ Phật, tức nhớ hạnh từ, bi, hỉ, xả của Phật hầu thực hành theo và được chứng quả như Ngài.
          I- BỐN ĐẠI ĐỨC:
          1)- Đức Từ:
          Cũng gọi là Tâm Từ vô lượng. Đức Thầy dạy môn đồ, hãy rèn tập cho mình có được tình thương bao la bình đẳng, chẳng những đối với loài người mà với cả vạn loại chúng sanh:
          “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
            Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh”.( ĐT)
          Người tu tâm từ không luận hoàn cảnh hay thời gian, mà bất cứ lúc nào cũng tìm phương cách làm cho chúng sanh bớt tội khổ và được an vui; như: tình cha mẹ đối với các con. Việc làm nầy dầu cho nhiều gian khổ hay cần phải hy sinh đến cả tánh mạng, hành giả cũng an vui thi thố. Như tiền thân Đức Phật đã từng hiến thân cho cọp đói và hóa kiếp làm cá kình cho dân chúng ăn, bớt đói khổ…Đức Thầy từng thốt:
                    “Thân ta dù lắm đoạn trường,
             Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài”.
          Và:
                    “Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
                Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng”.
          Tóm lại, tâm từ là lòng thương rộng lớn, không hề biệt phân nhân ngã, thường mang lại sự an vui cho tất cả chúng sanh. Thế nên khi lòng từ ban rải đến đâu, thì sự giết hại, hận thù, oán ghét đều tiêu tan tức khắc:
                  “Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng,
                    Chữ từ bi ta diệt nó liền.
                    Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
                    Thì thù oán tiêu tan mất hết”.( ĐT)
          2)- Đức Bi:
          Như đã biết, lòng Từ là thường ban vui, còn tâm Bi là luôn cứu khổ (Từ năng dữ nhứt thiết chúng sanhn chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ). Cũng vì mục đích ban vui cứu khổ ấy mà xưa Thái tử Sĩ Đạt Ta quyết chí lìa quách thành, thê tử để tìm ra chánh Đạo nhiệm mầu, cứu khổ chúng sanh:
                    “Mình vàng Thái Tử ngôi còn bỏ,
                    Vóc ngọc Đông Cung tước phế liền”.
          Và:
                    “Bác ái xả thân tầm Đạo chánh,
                    Độ người lao khổ dạ không phiền”.( ĐT)
          Cho đến chư Phật ba đời cũng có tâm Bi như vậy. Đức Thầy hiện nay cũng vì lòng bi mẫn, thấy chúng sanh đang ngụp lặn trong bể trần tội khổ, nên Ngài chẳng nỡ an “ngồi nơi ngôi vị, hưởng quả Bồ đề trường thọ” mà phải lâm phàm, khai thông Đại đạo, để “Rước đưa sanh chúng rời bể ái”. Và:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”. Ngài còn phát đại thệ:
                   “Nếu chừng nào khai thông Đại Đạo,
                    Đuốc từ bi rọi khắp cả nhơn gian.
                    Bể trầm luân khô cạn sáu đàng,
                    Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh”.
          Đại để tâm Bi của chư Phật và Đức Thầy có khác hơn người thường và bất cứ hạng người nào, các Ngài vẫn xót thương cứu khổ đồng đều, dù kẻ biết nghe lời hay không, chẳng hề có sự ghét thương, nhân ngã:
                    “Giàu sang nghèo khó cũng người,
                 Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.( ĐT)
          3)- Đức Hỉ:
          Tâm Hỉ là lòng an vui thường nhiên bất biến, không phải như sự mừng vui trong thất tình. Tâm hỉ ban rải đến đâu, phiền não tiêu tan đến đó, như gió thổi mây tan huệ nhựt hiện bày.
          Song muốn được kết quả như trên, hành giả phải có một lối sống “Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”. Lần đến “Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi”. Và nếu trên con đường tiến tới mục đích dầu có gặp nhiều chông gai thử thách ta cũng đừng phiền lòng, nao núng, luôn kiên nhẫn vượt qua tất được toại nguyện. Đức Thầy đã nêu lên ý chí đó qua một đoạn giảng:
“Bể trần sóng cuộn lao xao,
Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen.
Quản chi lực kém tài hèn,
Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.
Soi từ đài các xá liều,
Cho người trụy lạc biết điều nghĩa nhân”.
          4)- Đức Xả:
          Tâm xả là lòng buông bỏ, không vướng mắc. Chư Phật có buông bỏ nên được giải thoát an vui, chúng sanh vì còn chấp nê, vướng bận nên còn sanh tử luân hồi.
          Để rèn luyện tâm Xả, đời sống của người tu tuy còn phải va chạm với vạn pháp trong thế gian, từ hữu vi đến vô vi, thế gian hay xuất thế gian, lành hay dữ v.v…Nhưng lòng chẳng để nhiễm ô, kẹt mắc vào pháp nào. Nhận rằng ai cũng có gây tạo ít nhiều nghiệp duyên không tốt từ trước, như: danh, lợi, tình v.v…Giờ đây, đang bị nó trói trăn, sai khiến, nhưng hành giả phải sẵn sàng buông bỏ.
          Thuở xưa, lúc Đức Phật còn trụ thế, thuyết pháp độ sanh, có một thầy Bà La Môn tên Mông Tây Đen rất kính trọng Phật. Hôm nọ ông dùng thần thông nhổ hai cây bông khổng lồ, để nguyên cả cành rễ hoa lá, nắm chặt mỗi tay mỗi cây, bay đến xin dâng cho Phật.
          Đức Phật gọi tên ông. – Ông dạ!
          Phật liền bảo:“Buông xả xuống đi!”
          Thầy Bà La Môn liền bỏ cây hoa bên tay trái xuống trước mặt Phật.
          Phật lại bảo:“Buông xuống nữa đi!”
          Thầy Bà La Môn liền bỏ luôn cây hoa bên tay mặt.
          Nhưng Phật lại bảo tiếp:“Hãy buông nữa đi!”
          Thầy Bà La Môn liền bạch hỏi:
          - Tôi còn cái gì nữa đâu mà Phật bảo phải buông bỏ nữa ? Vậy Phật muốn dạy tôi điều gì?
          Phật đáp:
          - Ta không hề bảo ngươi buông hết mấy cây hoa, mà ta bảo ngươi bỏ ở đây là bỏ hết sáu căn, sáu trần và sáu thức. Khi người bỏ được hết, đến không còn cái gì nữa để bỏ. Đó là lúc người thoát ly tất cả sự ràng buộc của sanh tử luân hồi.
          Thời nay Đức Thầy dạy môn đồ tu tâm Xả cũng thế:
                    “Cõi hồng trần các việc mến ưa,
                      Sự giả tạm ta nên rứt bỏ”.
          Còn đối với những người gây khổ cho ta, thì ta nên rộng lượng tha thứ tất cả, lúc nào cũng an nhiên bình đẳng, xem thân tâm mọi người và vạn vật (vạn pháp) cũng như thân tâm ta (vạn vật đồng nhất thể).
          Hành được tâm Xả, hành giả chẳng còn chấp tâm, chấp pháp, nhân ngã hận thù, có không, cao thấp. Kinh xưa đã nói:“Hạnh vô hành hạnh, tu vô tu tu”.(Làm được các hạnh lành mà không chấp mình có hành, tu các pháp thiện mà không thấy mình có tu). Đức Thầy nay đã dạy:
                    “Chúng sanh mê nên đem ra thuyết,
                      Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.
          Đại lược hành giả có tu được đức xả thì lòng chấp mắc, nhiễm ô không còn, cho đến cái tâm không chấp mắc, ô nhiễm cũng không thấy có.
                    “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.
          Tóm tắt, nhà tu khi thực hành được bốn đại đức: Từ, bi, hỉ, xả tức chứng được tam giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Ấy là thành Phật tại thế gian.
          II- ĐỘ THAM SÂN SI:
          Người niệm Phật muốn trở về bản lai thanh tịnh, theo ý Đức Thầy dạy: ngoài việc tu tập “Bốn Đại Đức” từ, bi, hỉ, xả còn cần phải dùng ba phương pháp: bố thí, trì giới, nhẫn nhục để độ tham, sân, si. Vì tham, sân, si là nguồn gốc sanh ra ma trược phiền não:“Tà kiến tam độc thật Ma Vương”.(Kinh Pháp Bửu Đàn) Tại sao không gọi là Diệt mà lại gọi là Độ ?
          Vì phiền não tức là Bồ đề, chúng sanh tức là Phật. Xưa, chư Phật cũng từ tâm chúng sanh (tham, sân, si) tu thành Phật, nếu diệt nó lấy đâu làm đối tượng tu hành. Cho nên Đức Thầy mới dùng chữ Độ, tức là chuyển hóa từ tà ra chánh, từ phiền não ra Bồ đề, dữ ra lành, mê ra giác ngộ.
          1)- Bố thí độ Tham:
          Là chuyển lòng tham lam trở thành bố thí, bởi tánh tham lam ích kỷ là nguyên nhân sanh ra tội khổ và sanh tử luân hồi. Lòng ham muốn là con đường dắt người vào Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh. Còn Bố thí là chiếc thuyền vượt sông mê, sang bờ giác. Thế nên ai muốn giải thoát an vui, phải chuyển hóa lòng tham lam ích kỷ ra bố thí:
                    “Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
                      Phải bố thí diệt lòng ích kỷ”.( ĐT)
          Khi nhìn thấy người gặp khổ nạn, thiếu ăn thiếu mặc, không nhà ở, thuốc uống ta biết khởi lòng thương xót và trợ giúp từ tinh thần lẫn vật chất: (Tài thí, pháp thí và vô uý thí), thế thì có lý nào ta muốn bao gồm vật sở hữu của kẻ khác về làm của mình. Nhờ đó, lòng tham lam tan dần cho đến khi dứt sạch.
          Hơn nữa người có lòng bố thí đã rõ vạn pháp trong thế gian, như: của cải, gia tài, vàng bạc là của “năm  nhà”, chớ không thật của ta. (Xưa, có một nhà Vua, cai trị một nước lớn. Sau khi du ngoạn khắp nước, vua thấy dân chúng trong nước rất giàu sang, có nhiều gia đình xấp xỉ với vua quan. Vua động lòng tham bèn ra lịnh; buộc mỗi nhà dân phải hiến một phần ba tiền của vào công quỹ Quốc gia.
            Lịnh ấy ban ra, dân chúng đều nhôn nhao, ta thán! Song vì lịnh Vua…nên cuối cùng ai cũng đem nạp tài theo vụ lịnh. Riêng có một Cư sĩ nọ chở hết tài sản đem nạp cho Vua. Vua ngạc nhiên, hỏi:
            - Trẫm chỉ nhận một phần ba thôi, tại sao ngươi đem nạp hết thế nầy?
            Vị Cư sĩ trả lời:
            - Vì hạ thần nghĩ: Của trong thế gian là của năm nhà chớ không phải của riêng một ai!
            - Ông phải giải thích cho trẫm rõ!
            - Tâu bệ hạ!
            Thứ nhứt là của nhà lửa: Ví như tài vật của hạ thần như thế nầy, nếu gặp một cuộc hỏa hoạn thì bao nhiêu cũng làm mồi cho ngọn lửa.
             Thứ nhì là nhà lụt lội: Dù gia tài sự nghiệp nhiều thế nào đi nữa, hễ gặp trận bão lụt thì cũng bị cuốn theo dòng nước.
            Thứ ba là nhà giặc cướp: Hiện giờ dù tài vật có nhiều đến đâu, nhưng gặp thời giặc cướp dấy loạn thì ai cũng chỉ còn hai bàn tay trắng.
            Thứ tư là nhà con cháu phá tan: Nếu gia đình nào, con cháu biết hiếu thuận từ hòa là có phước; bằng gặp đám con ngỗ nghịch, lười biếng ăn chơi, sa ngã theo tửu, sắc, tài, phiến; quậy phá lung tung thì chỉ thời gian, tiền của ấy cũng phải tiêu sạch.
            Thứ năm là nhà xung công: Như tài vật của dân chúng trong nước mình đây, may gặp Bệ hạ là Vua nhơn từ, chỉ ra lịnh xung công một phần ba là phước. Bằng như rủi gặp ông Vua ác đức ra lịnh xung công toàn bộ, thì dân chúng cũng phải đành chịu chớ sao?
            Do vậy, mà tôi quyết định mang tài vật nạp hết cho Bệ hạ.
            Nghe vị Cư sĩ nói xong, Vua suy nghĩ giây phút. Liền đứng dậy ban khen Cư sĩ: Ông thật khéo cảm hóa được lòng ham muốn của ta. Đồng thời truyền bãi bỏ vụ lịnh ấy, tài vật của ai hãy đem về nhà nấy! Vua bắt đầu tu chỉnh thân tâm và giáo hóa toàn dân hành thiện, tránh ác. Chẳng bao lâu nước của Ông trở nên phú cường an lạc. Đây là một tấm gương sáng chói trong “Tiền Thân Đức Phật”).
            Còn thân bằng quyến thuộc, đến cái xác thân của ta cũng không giữ được lâu bền, huống chi là mọi sự vật  ở ngoài thân:
                   “Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
                    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
                    Thân ta còn rày đó mai đây,
                    Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.( ĐT)   
          Thế nên nhà tu lúc nào cũng sẵn sàng đem vật sở hữu của mình đổi lấy cái chơn không bất hoại, như Đức Thầy đã khuyên:“Hãy tìm kiếm cái không mới có”. Ấy là “bố thí vô trụ tướng”, tức là thí mà không kiến chấp mình có thí và người nhận cũng không thấy có danh tướng hay vướng mắc gì cả “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
          2)- Nhẫn nhục độ Sân:
          Chuyển lòng Sân hận trở thành nhẫn nhục. Bởi tánh nóng giận thường chuốc lấy nhiều tai hại:
          a). Bên ngoài thì gây thù kết oán lưu truyền nhiều kiếp đoạn tuyệt tình nghĩa giữa bà con thân hữu, lại còn sanh muôn ngàn tội lỗi như Bà Thanh Đề trước kia…Kinh Phật thường nói:“Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”(một tư tưởng nóng giận nổi lên thì trăm muôn cửa tội chướng đều mở rộng).
          Đức Thầy nay cũng diễn tả:
                  “Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,
                    Nên loài người ở cõi thế gian.
                    Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,
                    Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
                    Hơn tự đắc khoe khoang dõng sức,
                    Phải bị người hềm khích ghét ganh.
                    Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,
                    Gây nghiệp dữ oan oan tương báo”.
          b). Bên trong thì làm cho trí huệ tối tăm, “giận mất khôn” và bị nó đốt cháy bao nhiêu công phu tu tập của mình từ trước. “Nhất niệm sân tâm chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” (Một đốm lửa lòng nóng giận phát lên đốt cháy cả rừng núi công đức của mình đã bòn mót từ trước).
          Vì thế, Đúc Thầy dạy: hãy lấy đức tánh nhẫn nhục để độ rổi lòng sân hận. Nhẫn nhục là tâm biết nhịn chịu sự xấu xa hèn kém do kẻ khác trút lên cho mình, hoặc họ dùng võ lực đánh đập đàn áp hay lời lẽ nặng nhẹ mắng nhiếc ta, ta cũng cố gắng nhẫn nhục cho kỳ được. Đức Thầy thường khuyến tấn:
                    “Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
                      Khỏi mất lòng tất cả mọi người”.
          Vào mùa Xuân năm 1940, trên con đường du Sơn, Đức Thầy có nghỉ đêm tại Điện Đá Dựng (Thiên Cẩm Sơn). Ngài có kêu hỏi một số tín đồ cùng đi:
          - Nếu có người đem cho mình một món đồ mà mình không nhận thì họ làm sao?
          Một người trong số tín đồ đứng lên trả lời:
          - Nếu mình không nhận, chắc họ đem về, phải không Thầy?
          Ngài đáp:
          - Đúng thế! Nếu người ta dùng lời nặng nhẹ nói xấu, hoặc chửi mắng hay đánh đập, hiếp đáp mà mình nhịn được thì bao nhiêu nghiệp quả, người đó tự mang lấy. Các ông nên rèn tập đức tánh nhẫn nhịn.
          Xưa, Đại Tiên Xằn Đề Ba La nhờ áp dụng phương pháp nhẫn nhục mà cảm hóa được Vua Ca Lợi Vương và quần thần hồi tâm hướng thiện, và nhiều kiếp sau ông thành đạt ngôi Phật quả.
          Lại nữa, gốc sân hận thường ăn sâu trong tâm thức, hành giả muốn độ tận nó phải nhẫn luôn cả tâm ý, hận thù độc ác, vọng nhiễm trần ai và sự đói đau lạnh nóng. Hãy nhẫn nó lúc mới khởi nghĩ chớ đừng để phát ra lời nói, việc làm rồi mới nhẫn. Cũng như diệt cỏ, hãy diệt từ lúc mới nẩy mầm, chớ để nó đâm chồi nẩy tược mà khó trừ. Đức Thầy dạy:
                   “Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
                    Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền.
                    Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự.
                    Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên”. 
          Tóm lại, nếu mỗi hành giả nhẫn được theo các phương cách vừa kể trên, thì gốc sân hận không còn và chuyển thành đức nhẫn vô sanh. (tức Vô Sanh Pháp Nhẫn, trọn đủ ba phần: Sanh nhẫn, pháp nhẫn và vô sanh pháp nhẫn.)
            3). Trì giới độ Mê Si:
          Chuyển Mê si trở thành Giới, Định, Huệ: Mê si là tối tăm lầm lạc, không sáng tỏ, nó đồng nghĩa với vô minh. Sự mê tối nầy vốn sẵn có từ hồi vô thỉ:
                    Ác thứ mười đoạn chót mê si,
                    Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
                    Màn vô minh che mờ căn trí,
                    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.( ĐT)
          Bởi tối tăm mê dốt thường hay nhận ngụy làm chơn, tà chánh lộn lầm, nhận xét mọi việc không đúng sự thật (chơn lý). Như số người mù rờ một con voi…Chính mê si là đầu mối của tà kiến, là gốc sanh ra mười điều ác và luân hồi sanh tử. Cho nên Đức Thầy dạy môn đồ phải trì giới để độ nó. Tại sao thế?
          Vì mê si là đối tượng của trí tuệ, tức là tối và sáng. Nó đồng một thể chất, như trong cái nhà ban đêm không đốt đèn thì tối, bằng ông chủ nhà đốt đèn lên tất nhà sáng. Tâm của mỗi chúng sanh cũng thế, nếu có mê si thì không có trí huệ, bằng có trí huệ thì mê si chẳng còn.
          Vậy muốn có trí huệ thì tâm của hành giả phải định, và muốn có định phải trì giới. Hiểu xuôi lại là nhờ trì giới tâm mới được định, tâm định thì trí huệ hiện bày. Đây là pháp tu: Giới, định, huệ mà Kinh xưa thường gọi: dùng tam học: giới, định, huệ để trừ tam độc: tham, sân, si.
          Giờ đây, Đức Thầy chỉ nói trì giới, nhưng trong giới gồm có đủ định và huệ.
          Vậy phải trì giới bằng cách nào?
          Đức Thầy có dạy:“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp”.
Và:               “Nếu ai mà biết chữ tu trì,
                    Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.
          Tu trì là trau sửa và gìn giữ giới luật. Tâm của mỗi người trước kia đều yên lặng tự nhiên như mặt nước hồ, nhưng vì bất giác vọng niệm nên có xác thân, có thân tất có 6 căn như 6 cánh cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; bị 6 ngọn gió trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thổi vào làm biển lòng nổi sóng, khiến cho tâm loạn động. Hễ hồ tâm bị động thì cặn cáu (phiền não) nổi lên, khiến nước đục ngầu, tức mê tối thêm nữa.
          Giờ đây, bắt đầu trì giới, là đóng 6 căn đừng cho 6 ngọn gió trần thổi vào. Nghĩa là giữ 6 căn đừng duyên nhiễm theo 6 trần, tức tâm được định thì trí huệ liền phát khai và mê si tan mất. Cũng một cái tâm đó, nhưng trước thì ô nhiễm vọng động nên tối, giờ tâm hết vọng nhiễm và yên lặng nên mê tối tan mất, đèn trí tỏ rạng. Đức Thầy đã bảo:
           “Tâm sáng suốt như đài nguyệt kiến,
            Tánh trong như nước bích mùa xuân”.
          Đại khái hành giả muốn trì giới để độ mê si. Theo Đức Thầy dạy là phải lấy tâm làm chủ sáu căn:
               “Làm cho chúng phục tùng chơn lý,
                 Trong xác thân giám thị lục căn.
                    Đừng cho chúng tính lăng quằng,
              Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần”.( ĐT)
          Thật vậy, khi ta chỉ huy được sáu căn không duyên nhiễm theo sáu trần, giữ được liên tục như vậy, cho đến khi không còn giữ mà tâm (ông chủ) vẫn như như bất động thì định huệ đạt thành, như gió thổi mây tan, trời trong trăng tỏ.
                    “Vạn lý vô vân vạn lý thiên”.(?)
          Tóm lại Đức Thầy dạy môn đồ, dùng bố thí, nhẫn nhục, trì giới để độ tham, sân, si, đó là ba chiếc đò trong sáu chiếc đò của hạnh Bồ Tát. (Lục độ vạn hạnh, cũng gọi là Lục Ba La Mật. Tức 6 chiếc đò đưa đến bờ bên kia. Ấy là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ.) Ai thực hành được sẽ có diệu năng độ mình, độ chúng đồng đăng giác ngạn. Đức Thầy có dạy:
                    “Chúc ông thoàn nhã vững lèo,
             Qua bờ giác ngạn sớm treo gương mầu”.
          III- NIỆM PHẬT THẬT TƯỚNG:
          Theo ý trong đoạn phương pháp niệm Phật là Đức Thầy dạy phương cách niệm Phật thật tướng, cũng gọi là niệm Phật tam muội (chánh định). Nghĩa là Ngài dạy niệm Phật theo cách nầy sẽ được trở về với thật tướng chơn như, tức là Bản lai thanh tịnh của chính mình, hành giả sẽ chứng đạt:“Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”.Song hành giả muốn niệm Phật theo cách nầy, trước phải biết rõ vọng niệm chúng sanh ra sao?
          1- Vọng niệm chúng sanh: Là tưởng nhớ sự mê lầm, cũng gọi là niệm thế trần. Trong đây gồm có 3 phần:
          a)- Niệm ác: là tưởng nhớ những việc có va chạm tổn thương đến quyền lợi, danh vị, sanh mạng và hạnh phúc của người khác, kể cả các sanh vật có tri giác, khiến họ phải đau đớn buồn khổ, bực tức hận thù. Ai tưởng niệm như thế sẽ chuốc lấy quả khổ đau trong hiện tại hoặc gieo nhân luân hồi đền trả mãi mãi…
          b)- Niệm bất tịnh: Là ưóc mơ nghĩ tưởng những việc không trong sạch, như: năm điều dục lạc, sáu trần cảnh hoặc thất tình lục dục…Chính các điều ấy làm cho lòng mình tán loạn và mờ đục mảnh gương trí huệ, nên gọi là niệm bất tịnh. Đức Thầy hằng khuyên: “Hãy dẹp gát nhớ câu Lục tự”.
          c)- Niệm không đâu: Là tuởng nhớ việc bâng quơ, tức tưởng nhớ việc viễn vong, mơ hồ không thiết thực; kể cả việc qua rồi hay việc chưa tới, cũng vẫn nhớ. Sự tưởng nhớ nầy tuy không có hại cho ai, nhưng chẳng được lợi ích gì cho mình và mọi người, lại còn choán mất thời gian niệm Phật và việc trau giồi đạo đức, trí huệ của ta.
          Tóm lại sự tưởng nhớ việc thế trần vừa kể trên tức là vọng niệm chúng sanh.  Từ trước tới giờ nó sai sử tâm trí ta, từ niệm sai lầm nầy, dính chuyền qua niệm sai lầm khác, không phút nào dừng nghỉ, như con vượn chuyền cây (tâm viên). Chính nó là niệm mê lầm, là vọng niệm phiền não, ngăn che làm cho tâm trí ta mờ ám, chẳng lúc nào được an vui giải thoát.
            2- Niệm Phật thay vọng niệm:
          Đức Thầy dạy: “Phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh”. Có nghĩa khi biết rõ mặt mày của vọng niệm chúng sanh, hành giả phải dùng niệm Phật thay vào, đổi niệm chúng sanh ra.
          Lúc chưa tu, tâm trí ai cũng tưởng nhớ toàn là việc chúng sanh, khi được bước chân vào cửa Đạo thì có khi tưởng Phật, có lúc tưởng chúng sanh, tà chánh, vọng chơn, quấy phải lộn xộn, đó gọi là tâm ô tạp hay rối loạn. Vì mới tu phần đông chỉ tu theo hình thức bên ngoài, chưa kiểm lại lòng mình, nên có người tu đôi ba chục năm, mà vẫn chưa thấy an tâm…Đến khi có dịp chúng ta đọc qua các câu giảng của Đức Thầy:
                    Thấy đạo lý chớ nào thấy tánh,
                    Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.
          Hoặc:
                    Khó tìm cho gặp chủ nhơn ông,
                    Còn ẩn ánh trong vòng sanh chúng”.
          Hay là: “Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm”.
          Nghiệm xét theo đây ta mới nhận rõ chơn tánh, chủ nhơn ông, hay tâm Phật còn lẫn lộn trong tâm chúng sanh của mình. Nhờ đó, chúng ta mới chịu ngó vào nội tâm mà kiểm soát chọn lọc để chuyển vọng huờn chơn, như Đức Phật Thầy Tây An từng dạy:
“Lọc lừa thì đặng nước trong,
Ma Phật trong lòng lựa phải tầm đâu”.
          Đức Thầy nay cũng khuyên:
“Trí hiền tâm đức chùi lau,
Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.
          Lọc lừa hay thay đổi, chuyển hóa cũng đồng một lý. Nhà tu cứ niệm vào một niệm Phật, thay ra một niệm thế trần. Song nên nhớ niệm Phật bằng tâm tưởng mới kết quả, chớ không phải niệm lớn ra tiếng. Vì có khi miệng niệm Phật lớn mà tâm lại tưởng nhớ việc khác, nên không được “Nhất tâm bất loạn”. Vậy ta cứ niệm Phật thay niệm chúng sanh liên tục như thế mãi cho đến khi tâm tưởng ta không còn một niệm thế trần nào.
          Điều căn bản của sự niệm Phật trước nhứt là phải thấy tâm và chủ tâm:“Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”( ĐT). Rồi tưởng nhớ đủ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, hoặc tưởng nhớ Từ, Bi, Hỉ, Xả vì bốn đức ấy là Phật…Cũng có thể niệm thêm “Tam bảo tự tánh”.(Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng : trở về tánh giác ngộ là niệm Phật; trở về lòng chơn chánh là niệm Pháp, trở về bản lai thanh tịnh là niệm Tăng) Đó là niệm trí giác ngộ, niệm giáo pháp chơn chánh và niệm lòng thanh tịnh. Nghĩa là lấy giác ngộ trừ mê lầm, lấy giáo pháp chơn chánh trừ tà quấy, lấy tâm thanh tịnh trừ loạn động, nhơ xấu.
          Lại nữa, tâm thức của mỗi người từ trước ví như cái túi đựng lộn lạo hai thứ; đậu đen và đỏ. Giờ đây ta lựa nó ra, hễ để một hạt đậu đỏ vào, lấy một hạt đậu đen ra; cứ như thế mà đổi hoài, đổi mãi, cho đến khi còn toàn đậu đỏ tốt lành. Hành giả cứ niệm Phật theo phương cách nầy liên tục mãi cho đến khi “Nhất tâm bất loạn” tất tan hết chướng nghiệp mà vào cõi giải thoát.
                “Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp,
                 Thuyền từ Thầy rước lại Non Bồng”.( ĐT)
          3- Nhất tâm bất loạn :
          Nhất tâm là một lòng không tưởng khác, chỉ một lòng nhớ Phật, nghĩ chánh không còn xen tạp một niệm tà quấy hay ô nhiễm trần mê nào. Đến đây là dứt được tận gốc lòng ham muốn và các tình dục. Sự niệm Phật nầy phải được liên tục, trong mọi sự sinh hoạt đời sống hằng ngày, như: đi, đứng, nằm, ngồi, uống ăn, ngủ nghỉ…
          Đức Thầy đã dạy:
                   “Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
                    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.
                    Thì hiền lương quên mất điều ta,
                    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”
          Và:
                  “Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
                    Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp”.
          Một trong số tín đồ của Đức Giáo Chủ PGHH, khi đã thực nghiệm phương pháp niệm Phật nầy có viết:
          “Đi đứng niệm Di Đà. Nằm ngồi trì Lục tự.
            Thức cũng tưởng A Di. Ngủ cũng ghi Sáu chữ.
            Nói cũng nhớ Nam Mô. Nín cũng ôm Phật sự.
            Cực Lạc muốn vãng sanh. Cứ hành y như thử”.
Và:
          “Niệm Phật lúc nào cũng niệm luôn,
            Nằm ngồi đi đứng niệm không buông.
            Lúc chưa thuần thục còn xao động,
            Khi đã rành quen hết rối cuồng.
            Đứt đoạn buổi đầu đừng thối chuyển,
            Nối liền phút cuối sẽ tròn vuông.
            Dù Thiền dù Tịnh dù muôn pháp,
            Tự chủ nơi tâm ấy cội nguồn”.
          Nếu hành giả nhứt tâm niệm theo phương cách của Đức Thầy và người đệ tử vừa lý giải trên thì tâm trí chẳng còn loạn động (Nhất tâm bất loạn) lúc nào cũng an nhiên thanh tịnh.
          4- Niệm cái Bản Lai Thanh Tịnh:
          Là niệm cái vô niệm (vô vi thật tướng). Đây là tới chỗ pháp môn không hai, tức không có phân biệt Thiền hay Tịnh; mà trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền, dung thông cả vạn pháp. Đức Lục Tổ xưa đã bảo:“Pháp Ta lấy vô niệm làm Tông”. Và “Vô niệm niệm mới chánh, có niệm niệm thành tà”.
          Tuy hành giả niệm đến chỗ nhất tâm bất loạn, nhưng cũng còn vướng bận một vài tập khí phiền não. Vì còn thấy mình có được nhất tâm niệm Phật và có chứng đắc, tức còn cái tà trong đó. Cũng như người tu Thiền Tông tới chỗ “Tâm vô Tâm”, cũng còn cách một quan ải nữa, nên phải tiến tới “Bình thường tâm” mới tới đích. Còn người niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn, cần phải tiến vào “Bản Lai Thanh Tịnh”. Nghĩa là đối với mọi cảnh tượng lành dữ, động tịnh tâm trí vẫn như như bất động. Bấy giờ không niệm mà niệm, niệm mà không niệm, tâm tư không còn kẹt một pháp nào dầu dữ hay lành, thế gian hay xuất thế gian, hữu vi hay vô vi…Cho đến cái chứng đắc cũng không thấy có, ấy là được hòa vào “Bản lai thanh tịnh” “Phật hóa tánh tình”. Và cũng là:
                    “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật,
                    Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)
          5- Tu Thập thiện và tịnh Tam nghiệp:
          Đến đây Đức Thầy nhắc lại cho nhà tu nên nhớ là muốn vào được “Bản lai thanh tịnh” trước phải tu căn bản từ hành thập thiện và tịnh tam nghiệp đi lên. Vì trong ý nghiệp có tham, sân, si là gốc sanh ra vọng niệm chúng sanh và tâm tán loạn, nên khi tịnh được tam nghiệp thì quả vị thanh tịnh (Phật) sẽ đến một cách dễ dàng.
          Tại sao Đức Thầy dạy tịnh Tam nghiệp, dứt thập ác và hành Thập thiện đi cập nhau?
          - Vì tâm ta ví như miếng đất tốt (tâm địa), hễ đất tốt là lúa tốt, nhưng cỏ cũng mọc dẫy đầy. Vậy khi nhổ cỏ xong nhà nông phải gieo lúa xuống liền, rồi chăm sóc thời gian lúa tốt lên, cỏ mới hết. Bằng nhổ cỏ mà không gieo lúa, ít lâu cỏ sẽ mọc lại như cũ. (Cỏ dụ cho Tam nghiệp, Thập ác; lúa dụ cho hành Thập thiện).Cho nên Đức Thầy dạy chúng ta tịnh Tam nghiệp và hành Thập Thiện song đôi. Đây là cách tu thay đổi tiện lợi nhất, cũng như cách niệm Phật thay niệm chúng sanh đã giải trên.
          Vả lại có hành Thập Thiện, diệt Thập ác mới tịnh được Tam nghiệp, mà tịnh được Tam nghiệp là nền tảng để xây cất trên đó tòa lâu đài Phật quả (Bản lai thanh tịnh). Nếu nền móng không vững chắc, tòa lâu đài bị sụp đổ. Cho nên Đức Thầy mới quả quyết:“Cần tu thập thiện thì sự niệm (?) mới có hiệu quả”.
C-  KẾT ĐỀ:
          Đại khái bài “Chư Phật Có Bốn Đại Đức”, cũng gọi là niệm Phật thật tướng, chủ đích là Đức Thầy dạy môn đồ, niệm Phật để đạt đến Bản lai thanh tịnh, tức là thành Phật tại thế gian. Trước nhất hành giả rèn tập cho mình có được bốn đại đức:“Từ, Bi, Hỉ, Xả” đồng thời phải chuyển hóa Tham, Sân, Si trở thành Bố thí, Nhẫn  nhục, Trì giới và đổi niệm chúng sanh ra niệm Phật, bằng cách thay đổi liên tục, cho đến khi thuần nhứt chánh niệm, chẳng còn một tư tưởng trần mê nào xen tạp để được “Nhất tâm bất loạn”. Song hành giả nên nhớ “trước phải hành trì điều căn bản là tịnh Tam nghiệp, diệt Thập ác và hành Thập thiện làm nền móng để tiến tới mục đích cuối cùng là “Bản lai thanh tịnh”, tức hiểu được:“Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
           PHÁP: Phạn ngữ là Phamma, phiên âm là Đạt Ma hay Đan MaĐamMô. Tàu dịch là Pháp. Có nghĩa là sự vật (vạn pháp). Bất cứ sự vật chi dù nhỏ dù lớn, hữu hình hay vô hình, vô vi hoặc hữu vi, chơn thật hay hư vọng, tốt hoặc xấu, lành hay dữ. Và từ lý lẽ thưòng sự nhỏ hẹp trong gia đình, đến nguyên tắc lớn của tôn giáo hay uy lực chung của vũ trụ đều gọi là pháp.
          Người tu đức xả cứ tùy duyên mà sử dụng chớ không hề chấp kẹt hay vướng bận một pháp nào. Ấy mới gọi là Niết Bàn giải thoát.
          Xưa Đức Phật giáo hóa 49 năm mà Ngài vẫn thốt:“Suốt 49 năm ta chẳng thốt một lời nào cả”. Nay Đức Thầy cũng bảo:
                    “Chúng sanh mê nên đem Pháp thuyết,
                      Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.
          VƯỚNG VÍU: Mắc phải, dính vào, không buông rời ra.
          LUYẾN ÁI: Yêu mến, quấn quit. Ví dụ: luyến ái danh, lợi, tình, ngũ dục hay nam nữ luyến ái.
          BẢN LAI THANH TỊNH: Cái nguyên lai trong sạch, cái gốc yên lặng, trong sáng từ trước. Là một trong nhiều danh từ chỉ cho Phật tánh, như: Chơn tâm, như như, Như Lai, viên giác, thật tướng, Chơn như…
          Đức Thầy cho biết:
                    “Đem về giác tánh chơn như,
                   Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.
          TRƯỢC NHIỄM: Cũng gọi là nhiễm trược. Trược là dơ bẩn, cặn đục, xấu xa, lộn xộn. Gồm có ba thứ: thân trược, khẩu trược và ý trược. Kiếp hồng trần của mỗi chúng sanh có năm thứ trược: Kiếp trước, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược. Nhiễm là nhuộm thấm, dính ghiền. Nói chung nhiễm trược là ghiền nhiễm những điều xấu xa, nhơ đục, quấy ác. Nó đã thấm nhiễm trong tâm ta lâu đời khó gội rửa được. Trược nhiễm là đối tượng với thanh tịnh.
          Cho nên Đức Thầy khuyên môn đồ hãy nương về với thể thanh tịnh để tâm hết trược nhiễm trần ai, tức mình với Phật đồng hoà hay gọi là “Phật hóa tánh tình”.
 
CÂU HỎI
          1/- Cho biết xuất xứ và văn thể của bài “Chư Phật Có Bốn Đại Đức”?
          2/- Tiêu đề của bài Pháp luận trên ra sao?
          3/- Phật dạy tu Bốn Đại Đức để kết quả gì?
          4/- Tại sao Đức Thầy dạy niệm Phật phải tu bốn Đại đức?
          5/- Hãy định nghĩa chữ niệm Phật? 
          6/- Muốn có đức Từ phải rèn tập như thế nào?
          7/- Tu đức Bi ra sao?
          8/- Tu tâm Hỉ như thế nào?
          9/- Muốn có đức Xả phải làm sao?
          10/- Người có đủ bốn Đại đức kết quả như thế nào?
          11/- Tại sao Đức Thầy dạy dùng Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới để độ Tham, Sân, Si?
          12/- Tánh tham lam có tai hại gì, muốn độ nó phải làm sao?
         13/- Cho biết tai hại của lòng Sân và làm sao độ nó?
          14/- Mê si có tai hại gì và dùng cách chi chuyển hóa nó?
          15/- Cách niệm Phật theo bài “Chư Phật có bốn Đại đức” là phương thức gì?
          16/- Vọng niệm chúng sanh ra sao; giải rõ ra?
          17/- Vọng niệm chúng sanh có tác hại như thế nào?
          18/- Muốn dứt niệm chúng sanh ta phải thay đổi ra sao?
          19/- Niệm Phật như thế nào gọi là Nhất tâm bất loạn?
          20/- Niệm bản lai thanh tịnh là gì?
          21/- Tại sao diệt Thập ác và tu Thập thiện phải thực hiện một lượt?
          22/- Hãy tổng kết bài “Chư Phật có bốn Đại đức”?
*
*    *
5- SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐỀ         
          (Pháp Tứ Diệu Đề, Đức Thầy giảng hai lần: năm 1939 và năm 1942. Vì tùy theo cơ duyên mà Ngài viết có khác đôi phần. Là môn đồ, chúng ta cần học hết để dung thông cả hai.
            Cũng cần nên biết thêm, lúc Đức Thầy ở Bạc Liêu ông Nguyễn Chi Diệp có đến hỏi:“Sao bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề, Đức Thầy chỉ luận giải có bốn điều thôi ? Ngài đáp: Khổ đề là tám điều khổ Thầy đã viết trong Khuyến Thiện (Quyển 5). Còn Tập đề là Thập Nhị Nhân Duyên, Đạo Đề là Bát Chánh Đạo trong Quyển 6. Diệt Đề là Môn Hoàn Diệt, Thầy đã viết rồi hết. Dàn bài nầy ông Diệp lưu giữ mãi. Trước khi từ trần, Ông có kể lại cho chúng tôi nghe, nên chúng tôi căn cứ vào đây mà biên soạn”.)
    DÀN BÀI
 I- KHAI ĐỀ
                    - XUẤT XỨ - VĂN THỂ
   II- DIỄN ĐỀ
          - ĐỊNH NGHĨA:
          A- KHỔ ĐỀ: (Gồm có các sự khổ trong đời)
                    1- Sanh khổ.
                  2- Lão khổ.
                    3- Bệnh khổ.
                 4- Tử khổ.
                                     5- Mưu cầu bất đắc khổ.
                          6- Ái biệt ly khổ.
                               7- Oan tắng hội khổ.
                                 8- Ưu sầu lo ngại khổ.
                           B- TẬP ĐỀ: (Gồm có các tập nhơn sanh ra quả khổ).
                    1- Tập nghiệp vô minh.
                      2- Thập nhị nhân duyên.
                              a)- Tánh chất và nhân duyên.
                       b)- Tương duyên ba đời.
          C- ĐẠO ĐỀ: (Gồm tám con đường chánh)
         1- Chánh kiến.
            2- Chánh tư duy.
             3- Chánh nghiệp.
              4- Chánh tinh tấn.
            5- Chánh mạng.
          6- Chánh ngữ.
            7- Chánh niệm.
           8- Chánh định.
          D- DIỆT ĐỀ: (Phương pháp diệt khổ và hưởng quả Niết Bàn).
          1- Phương pháp diệt khổ:
                                                  a)- Nương theo Bát Chánh Đạo. Thi hành các đức tánh.
                              b)- Đoạn trừ phiền não và thói hư tật xấu
c)- Tự giác, giác tha.
          2- Hưởng quả Niết Bàn:
                    a)- Niết Bàn của Thinh Văn, Duyên Giác.
                    1- Hữu dư y Niết Bàn.
                  2- Vô dư y Niết Bàn
         b)- Niết Bàn của Bồ Tát và Phật.
                      1- Vô trụ xứ Niết Bàn.
                       2- Tánh tịnh Niết Bàn.
          3- Bốn đức ở Niết Bàn:
                    -  Chơn thường – Chơn lạc - Chơn ngã - Chơn tịnh.
          4- Nhận định.
        5- Khảo sát
           III- KẾT ĐỀ:
          1- Tóm tắt.
           2- Tổng kết.
 
LƯỢC GIẢI
          Bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề” là một trong những bài Pháp luận do Đức Thầy sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi ở Bạc Liêu. Ngài viết theo thể văn xuôi, lối thuyết giáo.
          Bài chúng ta đang nghiên cứu và tu học đây, là Đức Thầy giảng theo ý của Đức Phật Thích Ca, nhưng vì tùy theo cơ duyên mà Ngài phương tiện sơ lược những phần chính yếu và có thay đổi số thứ tự hai phần chót.
          Nguyên khởi là lúc Đức Phật rời gốc Bồ Đề, lần đầu tiên Ngài đến “Khổ Hạnh Lâm”(rừng lộc giả), thuyết pháp Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo, để độ năm người cùng tu khổ hạnh với Ngài trước kia, tức là: Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Ma Nam Câu Ly, Thập Lực Ca Diếp. Sau khi nghe pháp năm vị nầy đều tỏ ngộ, đồng chứnh Thánh quả A La Hán. Bắt đầu từ đó Phật, Pháp, Tăng có đủ. (Phật là Đức Thích Ca, Pháp là Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo, Tăng là năm vị A La Hán nói trên).
            Vậy, Tứ Diệu Đề là gì?
          Tứ Diệu Đề, cũng gọi là Tứ Đế hay Tứ Thánh Đế. Có nghĩa: Bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật, là pháp tu căn bản và chính yếu trong Đạo Phật nên được các giới tu hành xưng tụng là Bốn chân lý bất diệt.
          Thời nay Đức Thầy cũng dạy:
               “Diệu thâm Bát Chánh lời truyền giáo,
                  Xa thẩm tứ đề tiếng giục ông”.
*
*    *
CHÁNH VĂN
SƠ GIẢI VỀ TỨ-DIỆU-ĐỀ.
           1.- Khổ đề: Gồm  các sự khổ trong đời.
           2.- Tập đề: Gồm có các tập-nhơn sanh ra quả khổ.
           3.- Đạo đề: Gồm có tám đường chánh.
           4.- Diệt đề: Phương-pháp diệt khổ, hưởng quả Niết-Bàn.
          SƠ GIẢI:
 
          A.- KHỔ ĐỀ: 
          Đức Phật nói rằng tất cả chúng-sanh trong cõi trần nầy chịu muôn ngàn điều khổ-não, kể chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại làm tám điều, vì trong tám điều khổ ấy nó có thể nảy ra muôn ngàn sự khổ-não kia.
 
LƯỢC GIẢI
I- KHỔ ĐỀ: Gồm có các sự khổ trong đời.
          Xưa, Đức Phật cho biết mỗi chúng sanh luân chuyển trong cõi Ta bà, không một ai thoát khỏi sự đau buồn sầu khổ. Đức Thầy nay cũng xác định “Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ”. Ý nói mỗi chúng sanh sống trong cõi trần, đều gánh vác muôn ngàn sầu khổ, nhưng tất cả nỗi khổ ấy gồm nhiếp trong tám phần:
                    Đức Thích Ca từ xưa dạy bảo,
                    Khổ Ta bà nhiếp lại tám phần.
                    Bởi chúng sanh mang lấy xác thân,
                    Khổ thứ nhứt sự sanh là gốc”.
CHÁNH VĂN
           1.- Sự sanh khổ - Vì linh-hồn chưa được hoàn-toàn tròn đạo hạnh mà đắc quả vị nên còn phải đầu thai làm con người thế-gian. Khi nhập vào thai trong bụng người đàn-bà thì phải chịu sự tối-tăm tồi-túng, chẳng thấy trời trăng. Bị bao-bọc ràng-rịt, thai-nhi bị sự nuôi dưỡng bằng tinh-huyết của mẹ, lúc mẹ đau ốm thì thai-nhi yếu ớt; lúc mẹ làm-lụng mệt-nhọc, thai-nhi chẳng yên; lúc mẹ đói cơm, thai-nhi dường như cái túi bị treo chẳng vững; lúc mẹ ăn uống no bụng, thai-nhi bị sự lấn-ép của bao-tử và ruột rất nhọc-nhằn. Khi đúng ngày giờ phải chun ra cửa sản-môn ô-uế như hai viên đá ép mình, khi ra khỏi mình mẹ, cảm thấy hơi gió cắt da, đau nhức khó chịu nên cất lên tiếng khóc để tỏ ý chẳng bằng lòng với cảnh cực nhọc.
       Xét như vậy nên Phật mới cho sanh là khổ; mà chúng ta là người học đạo, xét cho chí lý đều cũng phải công-nhận sự nhận xét của Phật rất đúng vậy.
 
LƯỢC GIẢI:
          1- Khổ thứ nhứt là sự sanh, tức là các nỗi khổ của mỗi chúng sanh từ khi đầu thai vào bụng mẹ cho đến thuở sanh ra. Lúc ở trong đó bị bào thai bao bọc bịt bùng, như người bị nhốt trong ngục thất. Thai nhi bắt đầu chịu sự nuôi dưỡng bằng chất tinh huyết ô uế của mẹ. Những khi mẹ đau yếu, tinh huyết không đầy đủ, thai nhi phải ốm thon lại. Lúc mẹ đói lòng, bào thai như cái túi treo lơ lửng thường hay chới với. Ngược lại, khi mẹ được ăn uống no bụng thì thai nhi bị sự chèn ép của bao tử và ruột rất chật chội khó khăn. Suốt thời gian ở trong bào thai, thai nhi phải chịu bao lần khổ đau sầu cảm vì ảnh hưởng nơi người mẹ.
          Chẳng thế, khi đúng ngày khai nở, thai nhi phải ép mình chui ra sản môn ô uế, thật là đau đớn vô cùng, như một con voi chun qua kẹt đá nhỏ. Cho nên lúc ra khỏi mình mẹ đứa bé phát ra tiếng khóc “Khổ a !” Chứng tỏ đã nếm lấy cái hương vị cõi đời đầy ô trược.
CHÁNH VĂN
           2.- Sự  già khổ - Hễ sanh ra thì lớn, lớn rồi tất phải già; xét nghĩ trong lúc tuổi xuân xanh, đời sống cứng-cỏi, hoạt-động hăng-hái, đi đứng lẹ-làng, nói năng bặt-thiệp, xác thịt mạnh-mẽ, học-hỏi dễ-dàng, tỏ tai sáng mắt, thấy biết nhiều điều. Ô hô ! Mà nay sao lại răng rụng mắt lờ, ù tai, choán óc, da nhăn má cóp, gối mỏi, lưng khòm, nằm ngồi chậm-chạp, đi đứng xéo-xiên, uống ăn đổ tháo, bọn trẻ dể khinh, già đành nhờ cậy, đi tay nương gậy, phế việc dân quan, tinh-thần hao kém; khí lực hầu tàn, thoạt nhớ thoạt quên, nhiều khi lầm-lẫn, tóc bạc da mồi, lắm điều lao nhọc.
 
          Vậy nên Phật mới cho sự già là khổ, mà chúng ta cũng không thể nào không công nhận.
 
LƯỢC GIẢI
          2- Đến giai đoạn thứ hai là sự già khổ. Từ khi cất tiếng chào đời đến thân hình mạnh khỏe, vui tươi của tuổi xuân đầy nhựa sống, như đóa hoa đang cười nụ khoe hương. Phút chốc bị thời gian cướp mất, với tấm thân quắc thước hiên ngang, với bao vẻ yêu kiều diễm lệ, giờ đây chỉ còn trong mộng tưởng. Một nhà thơ đã cất tiếng than: “Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa,
            Một thân khô kiệt nghĩ buồn tênh!”
          Thật vậy, bấy giờ chỉ còn lại một thân già nua, gầy đét; gối mỏi lưng còm, mắt lờ tai điếc và mỗi khi đi, đứng, nằm, ngồi rất chậm chạp khó khăn. Xét qua thể trạng ấy, thử hỏi khách trần gian, ai mà chẳng công nhận sự già là một nỗi khổ khôn cùng !
CHÁNH VĂN
          3.- Sự đau khổ - Nghĩ vì thân thể con người sanh ra cõi trần, có lớn già thì tất nhiên yếu đuối; nếu đã yếu đuối ắt ăn ngủ chẳng được điều-hòa, thêm ngoài thì bốn mùa thay đổi tám tiết xây vần, do nơi thân già yếu đuối, cảm những tà khí mà sanh ra bịnh tật. Ôi ! Hễ thân huyễn-giả nầy mang lấy bịnh tật rồi, nào là cơn tỉnh, cơn mê, tay chơn nhức-nhối gan ruột quặn đau, phổi héo tim khô, da teo huyết cạn, kẻ mang lao mang tổn, phương đàm ho suyễn, người thì đui cùi lở-lói, bại xuội sưng tê, thang thuốc chẳng an, khẩn nguyền chẳng giảm, cầu sống chẳng đặng, cầu chết chẳng xong.
            Vậy thử hỏi khách trần-gian ai mà không muốn xa muốn tránh, mà nào ai được khỏi ? Muốn tránh, tránh chẳng được, lại đa mang; như còn khổ-não về bịnh tật, bút nào mà tỏ ra cho hết.
 
LƯỢC GIẢI
          3- Đến thứ ba là sự đau khổ. Có nhiều nguyên nhân làm cho con người phải vương mang bệnh tật: một là thời tiết bất hòa, gió mưa thay đổi, khiến tạng phủ trong người chuyển theo không kịp mà sanh bịnh. Hai là do sự ăn uống, ngủ nghỉ thiếu chừng mực, vệ sinh, hoặc ăn phải món không hạp cơ thể, mà sanh ra đau yếu. Ngoài ra cũng còn (tham, sân, si) làm ra bịnh. 
          Khi một người đã mang bệnh thì cả thân xác tinh thần lẫn quyến thuộc đồng chịu khổ: thân thì mất ăn bỏ ngủ, đau nhức khó chịu, tâm trí từ lo sợ đến bấn loạn hôn mê. Còn thân quyến thì lo thuốc thang chạy chữa đủ cách. Nhiều bệnh nhân không được lành hẳn, lại còn phải mang tật suốt đời, thật là khổ thảm muôn phần.
                “Cơn bịnh hoạn càng không tránh khỏi,
                   Còn mang thêm tật nọ tật kia”.( ĐT)
CHÁNH VĂN
           4.- Sự chết khổ - Vật chi mà sanh trong cõi trần-gian theo các công-lệ tự-nhiên, hễ có sanh ra thì phải có ngày tiêu-diệt. Còn cái thân con người của ta đã do nơi tứ-đại (đất, nước, gió, lửa) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày tan rã ?
          Tại sao mà gọi thân tứ đại hiệp thành?
          Xét rằng tuy là ta thấy có sự cấu tạo của cha mẹ mà thành thân của ta, nhưng mà cái thân nầy suy gẫm cho kỹ lại: thịt và xương cốt là chất đặc nên thuộc về đất; máu huyết chất lỏng nên thuộc về nước; hơi thở của ta thuộc về gió; sự ấm áp của ta thuộc về lửa.
           Nhờ bốn món ấy chung hợp lại mới thành cái xác thịt của ta. Nếu hễ đến ngày tàn hạ rồi thì xương thịt rã ra huờn lại đất, máu huyết chảy ra huờn lại nước, hơi thở dứt đi thì trở lại với gió, sự ấm áp dứt đi thì nó trở lại cái nóng của mặt trời. Như vậy tại làm sao gọi rằng khổ ? Vì lúc sống linh hồn nhờ xác thịt mà học hỏi, kinh-nghiệm việc đời, xử sự tiếp vật, đeo đắm theo lợi lợi, danh danh, tài tài, sắc sắc, không có chịu tra cứu phân biệt cho rõ giả chơn, ý thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp chánh tưởng tà, rồi cũng do sự sai lầm ấy mà nhận huyễn thân nầy làm thiệt thân của mình, mãi lo o-bế sửa-sang, dồi mài cạo gọt, cưng nó dưỡng nó như: tích trữ cơm tiền, dành cho nó ăn, dành để thuốc thang cho nó uống, kiếm tìm thanh sắc để cho nó vui, xây dựng cửa nhà cho nó ở (vẫn biết rằng ở trong đời ai cũng phải lo thân, nhưng mà người hiểu Đạo, biết rõ cái thân của mình tạm mượn trong thời-gian để học-hỏi nên lo vừa chừng, chẳng có ích-kỷ mà lo cho mình vừa giúp ích cho đời, chừng bỏ xác thì có cái khác, còn người không hiểu Đạo thì bo-bo giữ nó bằng lối ích-kỷ mê lầm) ấy là muốn cho nó được trường-tồn; kịp đến khi tử-thần gõ cửa, số vô-thường đã tới, sanh ra muôn ngàn kinh-hãi, thần-trí hôn mê rất triếu mến cõi đời, cửa nhà con vợ, mà không làm sao sống được nữa, nên lúc ấy kẻ phùng mang, trợn mắt, người chắt lưỡi, nghiến răng, lăn lộn giật (vật) mình, kêu than thảm-thiết. Xét coi lúc ấy khổ sở là dường nào.
LƯỢC GIẢI
          4- Thứ tư là các nỗi khổ về sự chết. Khi con người lâm cơn bịnh nặng, gia đình hết phương chạy chữa và thân xác không còn chịu đựng nổi, đành đi lần vào cõi chết. Phàm sanh ra cõi đời, hễ cái gì có hình tướng đều phải hư hoại. (Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng). Thế nên con ngưòi hễ có sanh ra tất phải đi theo định luật già, bịnh, rồi chết mất, chớ không một ai thoát khỏi. Những nỗi khổ ấy sâu dày như bể rộng, chẳng biết đâu là bờ bến: “Bể hồng trần lao lý diệu vơi”.( ĐT)
          Thử ôn lại quảng đời con người từ sanh ra đến khi chết, sự lao khổ không sao kể xiết. Sanh ra đã khổ, bệnh tật lại còn khổ hơn, thêm nỗi phải lo sao cho có cơm ăn, áo mặc, dầm mưa dãi gió, xuôi ngược bao lần. Vì mãi tháo vác việc đời mà phải sức cùng lực tận, để rồi một ngày kia cái thân giả hợp nầy, phải theo định luật đào thải mà tan nát và trả về cho tứ đại.
          Xét ra còn cảnh trạng nào đau khổ bằng, khi nhìn thấy con người lúc hấp hối; mắt trừng lên, môi giựt, răng nghiến lại, tâm thần bấn loạn, kinh sợ tiếc thương đều phô diễn, rồi dần dần lịm đi để giã biệt cõi đời ảo mộng.
          Vả lại trong đời biết bao vị Đế Vương khanh tướng, thế lực tiền tài, danh y bác học; họ tìm đủ cách ngăn ngừa cứu chữa để kéo dài tuổi thọ, nhưng rồi cũng phải chịu khuất phục trước luật tuần huờn. Dầu cho ai có học phép trường sanh hay ẩn mình nơi hang cùng, núi thẩm cũng không thoát khỏi tử thần.
          Như xưa kia có bốn Phạm Chí (Phạm Chí là người có chí tu đạt thần thông để về cõi Trời Phạm Thiên) tu hành đã đắc ngũ thông, biết rõ bảy ngày nữa bốn người cùng chết một lượt. Họ bèn hợp nhau bàn luận:
          “Anh em chúng ta tu hành đã chứng ngũ thông, lẽ nào chẳng tìm kế thoát khỏi vòng hái của tử thần sao?”
          Anh thứ nhứt liền nói: “Tôi sẽ nhảy vào trong biển lớn, trên chẳng ló đầu lên mặt nước, chân không đụng đáy biển, làm gì tử thần thấy được để bắt tôi”.
          Anh thứ nhì bảo: “Tôi chẻ núi Tu Di chui vào trong đó, rồi khép kín lại; thử hỏi tử thần làm sao thấy được mà tầm bắt tôi”.
          Anh thứ ba thốt: “Tôi sẽ tàng hình vào hư không, chẳng còn ai thấy tăm dạng, quỉ vô thường biết đâu mà theo bắt”.
          Anh thứ tư cho biết kề hoạch:“Phần tôi sẽ đến chợ đông, đi lẫn lộn vào trong đó, dầu tử thần có đến kiếm cũng không ra!”
          Bàn tính xong, bốn anh đắc ý lắm, mỗi người đều chuẩn bị đi đến chỗ mình đã định. Song đúng bảy ngày, nghiệp quả đã đến, bốn Phạm Chí đều bất lực trước tử thần (chết), họ đều chết một lượt.
          Bấy giờ, Đức Phật biết rõ chuyện ấy, bèn kêu các đệ tử kể cho nghe và nói lên bài Kệ”
                  “Phi không, phi hải trung,
                    Phi nhập sơn thạch gian.
                    Vô hữu địa phương sở,
                    Khả thoát bất thọ tử”.
 
                   (Chẳng không chẳng biển cả,
                    Chẳng vào trong núi đá.
                    Không có miếng đất nào,
                    Thoát được cái chết cả).
          Ngày nay Đức Thầy cũng xác định:
                    “Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
                    Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi”.
          5- MƯU CẦU BẤT ĐẮC KHỔ:
CHÁNH VĂN
“Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tõi,
Cầu Chẳng Thành những việc thích-ham.
Người trên đời ai cũng lòng tham,
Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của.
Nào vợ đẹp, hầu xinh, là-lụa,
Không được thì bực-tức ưu-phiền.
Cả tâm thần điêu-đứng đảo-điên,
Vậy có phải khổ hay là chẳng ?”
 
LƯỢC GIẢI
          5- Thứ năm là những nỗi khổ: mưu tính, tham cầu mà chẳng thành đạt. Khởi nguyên từ lòng ham muốn chúng sanh mới luân hồi vào cõi dục, nên khi sanh ra, con người sẵn có hột giống tham lam. Ai cũng muốn cho mình được ở lầu các cao sang, nào ruộng cả tiền nhiều, uy quyền thế lực, nào vợ đẹp con ngoan, bạc vàng nhung lụa. Cả gia đình đều sống cuộc đời hạnh phúc triền miên.
          Ngược lại, nếu sự ham muốn ấy không đạt thành, thì con người phải bức rức xốn xang, u buồn dã dượi, cả tâm trí bị quay cuồng đảo lộn, không lúc nào yên tĩnh, có khi phải liều mình tự sát.
          Trưóc cảnh trạng ấy, ai trông vào mà chẳng công nhận đấy là một nỗi khổ?

          6- ÁI BIỆT LY KHỔ:
CHÁNH VĂN
“Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,
Người mình thương bỗng lại chia-lìa.
Khi khóc-than nước mắt đầm-đìa,
Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.
Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,
Nợ gia-đình đeo đắm căn-duyên.
Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,
Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi.
Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân-ái,
Đến xong đời để lại sầu-ưu.
Cái khổ này dầu lắm trí mưu,
Cũng chung chịu như người tăm-tối”.
 
LƯỢC GIẢI
          6- Thứ sáu là các nỗi khổ của những người thân yêu nhau mà phải chia lìa.
          Ở đời ai cũng có thân bằng quyến thuộc, tình thương yêu thân mến nhau rất mực, nên muốn sống mãi bên nhau, nhưng khó mong toại nguyện. Trong lúc cảm thương khắn khít, bỗng gặp cuộc phân ly, kẻ lệ sầu khôn ráo, người ruột thắt từng cơn; bao nỗi nhớ thương vô cùng chua xót mà cả thế giới loài người có mấy ai vượt khỏi.
          Phàm hễ có gia đình tất phải có sợi dây ân ái ràng buộc, nợ duyên chằng chịt, gốc bởi tiền căn vọng tưởng. Giữa tình cha con chồng vợ lúc nào cũng đậm đà gắn bó, song vì mưu cầu cho cuộc sống, hoặc vì tình cảnh éo le khiến phải chia tay. Lúc ấy kẻ phiêu bạt chơn trời, ôm mối buồn đau, thương xót, người ở lại chờ đợi nhớ nhung. Thì ra cuộc đời chỉ là một trường bi hoan ly hiệp, đau khổ triền miên, ít khi nào được an vui thư thái.
          Sanh ly đã khổ, tử biệt lại còn khổ hơn. Hết hồi tan hiệp, hiệp tan; kế đến nếu có một người chấm dứt cuộc đời thì bao kẻ còn lại đành ôm mối sầu miên viễn. Cái khổ nầy dầu cho bực cao sang, tài trí cũng phải chung chịu như hàng hạ tiện:
               “Cái khổ nầy dầu lắm trí mưu,
             Cũng chung chịu như người tăm tối”.( ĐT)

          7- OAN TẮNG HỘI KHỔ
CHÁNH VĂN
“Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội,
Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
Thường tranh-đua tiếng thấp lời cao,
Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán.
Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng,
Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.
Làm cho người đau-đớn âm-thầm,
Khổ như thế diễn ra mãi mãi”.
 
LƯỢC GIẢI
          7- Thứ bảy là các nỗi khổ giữa những người oán thù hận ghét với nhau lại thường gặp gỡ.
          Phàm người ở đời hễ có thương tất có ghét, nguyên do là sự hơn thua cao thấp, tranh chấp giữa nhau, chẳng ai chịu nhường nhịn ai. Từ đó đôi đàng đâm ra oán hờn thù hận, rồi dẫn đến chỗ ấu đả chém giết lẫn nhau”
                    “Thường tranh đua tiếng thấp lời cao,
                    Chẳng nhẫn nhịn thành ra cừu oán”( ĐT)
          Một khi đã thành cừu địch thì không ai còn muốn nghe thấy tăm hơi, hình thể nhau nữa; vì khi gặp nhau lòng rất xốn xang khó chịu, như kim châm vào mắt. Nhưng khổ nỗi càng muốn tránh xa, lại càng thường gặp gỡ.  Nên khi giáp mặt nhau đôi đàng đều ôm ấp nơi lòng bao sự giận hờn, thù ghét. Nỗi khổ nầy cứ thế mà tiếp tục diễn ra như một truyền thống của nhân loại.
          8- ƯU SẦU LO NGẠI KHỔ: 
CHÁNH VĂN
        “Đoạn thứ tám Ưu Sầu lo ngại,
Cuộc tang-thương dâu bể cảnh trần.
Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,
Lo đau-đói liệu cơn nhà rách.
Buồn duyên-số phận mình nhơ sạch,
Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười.
Giàu thì lo chen lấn với người,
Miễn cho đuợc đầy rương đầy tủ.
Của dương-thế góp tom bảo-thủ,
Sợ gian-phi trộm cướp rình-mò.
Lo tước-quyền cho được thơm-tho,
Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.
Ôi! cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say”.
 
LƯỢC GIẢI
          8- Thứ tám là các nỗi khổ lo sợ buồn rầu mà trong đời ít ai tránh khỏi. (Khổ thứ tám, Kinh xưa giải là Ngũ ấm xí thạnh) Bởi cảnh hồng trần là cuộc bể dâu, nay dời mai đổi:
          “Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)
          Cảnh vật còn phải nay bồi mai lở thì kiếp sống con người đâu tránh sự giàu nghèo thay đổi. Ôi! Bao nỗi vui buồn lo nghĩ tràn ngập tâm tư, bởi lòng người còn nhiều tham vọng và chưa nhận được đời là ảo mộng. Kẻ nghèo thì lo chạy sớm chạy chiều, tảo tần vất vả, nhưng vẫn thiếu trước hụt sau, nào nợ nần chồng chất, đau không thuốc uống, cơm bữa đói bữa no; nào cửa nhà xiêu dột, quần áo rách rưới lang thang. Thật là:
                    “Nhà nghèo dạ tợ như bào,
              Vợ đau con yếu phương nào cho an”.( ĐT)
          Thêm nỗi bị người khinh chê cười nhạo, khiến lòng càng đau buồn tủi nhục cho kiếp sống quá vô phần bạc phước. Đến như hạng giàu sang cũng chẳng mấy ai được an vui thư thái. Vì khi đã dư ăn, lại muốn giàu thêm cho hơn thiên hạ, nên tâm con người chẳng dứt lo nghĩ tính toan. Muốn sao cho mình có ruộng đất thật nhiều, vàng bạc, tiền của đầy ắp cả nhà, bất kể hành động xấu tốt miễn bao gồm tiền của trong thế gian về cho mình là thỏa dạ.
          Chẳng thế, họ còn lo chạy cho mình được có tước quyền danh vọng, để ăn trên ngồi trước hơn người. Hằng đêm còn nơm nớp lo âu, vì sợ trộm cướp đào tường phá cửa. Thế cũng chưa hết, họ còn phải lo tính đến số người thiếu nợ, lời vốn ra sao, hoặc đòi cho được hay cốn chồng lên, để rồi ít lâu có dỡ nhà lấy đất mà trừ.
          Xét như trên: từ hạng nghèo khổ, đến bực cao sang quyền quí, đều phải chung chịu cái khổ “ưu sầu lo ngại” như nhau.
          Đã hiểu qua các sự khổ, giờ đây chúng ta phải làm sao? - Sợ hãi hay buồn rầu chán nản? - Chạy trốn hoặc tìm cách chết đi cho hết khổ?
          Không ! Buồn rầu chán nản vẫn bị khổ thêm, còn chạy trốn hoặc tự sát đâu phải hết, như người trốn nợ làm sao hết được. Nếu còn nghiệp nợ tất phải sanh trở lại để trả. Nghĩa là phải tiếp tục chịu khổ nữa. Đó là định luật: tử sanh, già bịnh, đáo đầu tử sanh, cứ thế mà chúng sanh luân hồi từ vô lượng kiếp tới giờ không có lối thoát.
          Vậy ai muốn thoát khổ, Đức Thầy dạy hãy tìm nguồn gốc của nó mà diệt trừ:
               “Khuyên chúng sanh khuya sớm chuyên cần,
                 Tìm nguồn cội diệt trừ tứ khổ”.
          Để kết luận phần Khổ đề, chúng tôi xin kể lại câu chuyện:
          Xưa, thời Đức Phật còn trụ thế, có bốn vị Tỳ Kheo cùng ngồi lại bàn luận về các sự khổ trong thế gian, cái nào là hơn cả!
          Tỳ Kheo thứ nhứt nói:
          - Theo tôi thì sự sợ hãi là khổ hơn hết!
          Vị thứ nhì trình bày:
          - Sự nóng giận mới là khổ cao độ hơn cả!
          Ông thứ ba bảo:
          - Chỉ có sự đói khát là khổ hơn hết!
          Tỳ Kheo thứ tư cãi lại:
          - Theo tôi thì chỉ có sự ái dục là khổ đệ nhứt!
          Mỗi Tỳ Kheo đều tranh luận theo ý mình, may đâu Đức Phật vừa đi đến, các ông ấy liền đứng lên thi lễ và trình bày sự nhận xét của mỗi người để nhờ Phật phân định coi lý nào là đúng?
          Phật liền phán dạy:
          - Các ngươi luận đều phải cả, song các người chỉ biết cái ngọn ngành của các sự khổ, chớ chưa hiểu tận nguồn gốc của nó. Gốc khổ là do xác thân, nếu không có thân, các nỗi khổ do đâu mà có? – Song sở dĩ có thân là bắt nguồn từ “vô minh phiền não”.
          Căn cứ theo đây chúng ta có thể hiểu: vô minh phiền não ví như hạt giống, xác thân như thân cây, còn các sự khổ như bông, trái. Từ hạt giống (vô minh) mọc lên cây (thân xác) rồi kết bông trái (khổ). Trong trái lại có hạt giống tiếp tục lên cây khác; một vòng nhân duyên tương tục mà dẫn đầu là tập nghiệp vô minh.
          Vậy ai muốn diệt tận gốc khổ (vô minh) phải quán xét qua Tập đề, tức là gốc khổ.
 
CHÚ THÍCH CÁC TỪ NGỮ
          CHÍ LÝ: Rất xác thực, chánh đáng, cùng tột.
          TÀ KHÍ: Không khí xấu, có thể làm sanh bệnh.
          TỬ THẦN: Thần chết. Tử thần gõ cửa là cái chết đến nơi. Vì cái chết không một ai tránh khỏi nên người ta rất ghê sợ, xem như có quỉ thần bắt hồn. Chỉ có người tu hành siêu sanh về Cực Lạc hoặc nhập Niết Bàn mới khỏi cảnh sanh, già, bệnh, chết, như Đức Thầy cho biết:
                    “Tử thần kia đâu dám bắt hồn,
                    Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử”.  
          SỐ VÔ THƯỜNG: Số là mạng sống theo một định luật. Vô thường là không thường còn. Vật chi trong thế gian thuộc về hữu hình đều phải biến dịch theo định luật: thành, trụ, hoại, không…Vô thường cũng chỉ cho sự chết, nên người ta quá sợ, xem như có quỉ thần đến bắt. Kinh Niết Bàn có câu:“Vô thường đại quỉ, tình cầu nan thoát”.(Khi quỉ lớn vô thường hiện đến dầu người có cầu khẩn thế mấy cũng không thoát khỏi). Đức Thầy đã bảo:
                   “Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
                    Quỉ vô thường dắt xuống Diêm đình.
                    Sổ sách kia tội phước đinh ninh,
                    Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ”.         
CÂU HỎI
          1/- Hãy cho biết xuất xứ bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề?
          2/- Đức Thầy sơ giải Tứ Diệu Đề dựa theo đâu và sửa đổi ra sao?
          3/- Hãy cho biết nguồn gốc Pháp Tứ Diệu Đề?
          4/- Định nghĩa Tứ Diệu Đề?
          5/- Tại sao gọi là Khổ Đề?
          6/- Sự sanh và Lão khổ ra sao?
          7/- Hãy cho biết khổ thứ ba và khổ thứ tư?
          8/- Khổ thứ năm và thứ sáu như thế nào?
          9/- Hãy luận giải khổ thứ bảy và thứ tám?
          10/- Do đâu có các sự khổ?
          11/- Muốn thoát khổ Đức Thầy dạy phải làm sao?
          12/- Muốn diệt tận gốc khổ ta cần biết vấn đề gì?
*
*    *
II- TỨ DIỆU ĐỀ: TẬP ĐỀ.
          B- TẬP ĐỀ: Gồm có các tập nhơn sanh ra quả khổ.
          Khi đã quán xét các nỗi khổ và nguồn gốc của sự khổ, là do tập nghiệp vô minh phiền não. Hành giả muốn diệt trừ nó cần phải khảo xét qua phần Tập Đề.
          1- TẬP NGHIỆP VÔ MINH:
          Theo Kinh Phật từ trước cá nhà hướng đạo đã phân định. Tập đề gồm có 10 món phiền não căn bản (Tham, sân, si, mạn, nghi. Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ). Và ba món mê lầm là kiết sử và kiến hoặc, tự hoặc (Sai sử trói buộc - Thấy lầm nghi lầm); đó là theo Tiểu thừa. Còn theo Đại thừa thì gồm có kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Vô minh hoặc là đầu mối tất cả, nếu hành giả trừ sạch được nó, tức chứng được Bồ Tát và Phật. Xưa, Đức Phật đã bảo:
                    “Chư pháp tùng duyên sanh,
                      Diệc tùng nhân duyên diệt”.
          Có nghĩa các pháp gồm chúng sanh và vạn vật đều do nhân duyên sanh và cũng do nhân duyên mà diệt.
          Do đó, thời nay Đức Giáo Chủ PGHH dạy tắt ngay gốc khổ là “Tập ĐỀ”, tức là “Thập Nhị Nhân Duyên”. Đó là mười hai duyên sanh. Hành giả nào quán xét nó, để diệt sạch tập nghiệp vô minh thì tất cả phiền não đều tiêu tan tức khắc và được chứng quả diệu giác Đại Thừa.
CHÁNH VĂN
          2- THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
          Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô-minh mà che lấp bản ngã (linh-hồn) nên làm cho người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp, chịu nẻo luân hồi thống khổ. Đây là 12 duyên sanh: Vô-minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh-sắc, danh-sắc sanh lục-nhập, lục-nhập sanh xúc-động, xúc-động sanh thọ-cảm, thọ-cảm sanh ái, ái sanh bảo-thủ, bảo-thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão-tử.
 
          Đó là 12 duyên-sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia không có dứt; cái vô-minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô-thỉ. Có mê dốt ta mới hành-động, rồi hành-động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết), ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh-sắc, còn ta là loài hữu-tình, cái biết ấy nên có xác thịt và linh-hồn, danh-sắc. Xác thịt và linh-hồn có thì phải có 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhiễm với 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục nhập. Có lục nhập mới có tiếp xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc động, rồi từ chỗ tiếp-xúc mới thọ hưởng của tiền-trần nên gọi là thọ-cảm. Có thọ-cảm, thọ hưởng của tiền-trần rồi mới có cái ưa thích, quyến-luyến, thâm tình nên gọi là ái.   
 
          Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó, thì ta phải gắng công gìn-giữ chặt-chịa nên gọi là bảo-thủ; mà gìn-giữ chặt-chịa thì mới có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc ấy mới đầu thai trở lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn vật hễ sanh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa) làm nên nào là tứ thời, cảm-mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất là phải chết nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp-nhơn của già, chết, ấy là tại cái vô-minh mà ra tất cả.
 
LƯỢC GIẢI
          Trong đoạn mở đề của bài “Thập Nhị Nhân Duyên”, Đức Thầy cho biết:“Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô minh mà che lấp bản ngã (linh hồn) nên làm cho con người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp chịu nẻo luân hồi thống khổ”. Mười hai nhân duyên, nó duyên chuyền từ cái nầy qua cái khác, có cái nọ mới có cái kia, dẫn đến sanh tử rồi trở lại vô minh. Nhân và quả tương liên với nhau, không bao giờ dứt.
          a)- TÁNH CHẤT VÀ DUYÊN SANH:
          1- VÔ MINH: Là mê mờ tăm tối, không rõ tâm chơn như diệu minh, trở lại nhận lầm các vọng tưởng. Cái giả cho là thật, cái thật cho là giả, như người nhắm mắt nhìn thấy hư không toàn là hoa đóm; một ngọn đèn cho là hai, một mặt trời thấy hai mặt. Vô minh đồng nghĩa với mê si, cho nên vô minh cũng chỉ cho các phiền não: tham, sân, si…Bởi nó là gốc sanh ra vô lượng, vô biên phiền não khác.
          Xưa, có người khách đến hỏi vị Tổ sư:
          - Thế nào là vô minh?
          Tổ Sư trả lời:
          - Quê mùa dốt nát đến thế, cũng đến chùa hỏi Đạo lý!
          Ông khách nổi giận, mặt mày đỏ bừng…
          Tổ Sư nói tiếp:
          - Vô minh là tánh sân của ông đó!
          Thời nay Đức Thầy cho biết:
                   “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
                    Màn vô minh che mờ căn trí,
                    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
                    Lo huyễn thân vật chất kém hơn,
                    Chẳng tìm biết tinh thần Đạo đức”.
          2- HÀNH: Hành ở đây là hành động của tâm thức, là sự sinh hoạt của tư tưởng. Từ chỗ mê lầm nhận cái giả cho là thật của mình. Do đó, tư tưởng mới lo nghĩ tính toan và ước mơ những phù hoa ảo ảnh. Ví như người bắt bóng trong gương, làm sao có được. Thế mà tư tưởng vẫn:“ Đeo tuồng mộng huyễn lập lòe sắc hương”.( ĐT)
          3- THỨC: là biết, là cái phân biệt của tinh thần. Do sự tính toan mơ ước của vọng tưởng mới có hiểu biết và phân biệt vạn pháp trong thế gian. Ấy là nghiệp của tinh thần. Từ đó mới bị nghiệp hút thần thức đi đầu thai để thọ chịu quả báo vui hoặc khổ.
          4- DANH SẮC: Gồm hai phần: xác thể và linh hồn. Bởi thần thức (linh hồn) là phần vô hình nên chỉ có tên gọi; ấy thuộc về danh. Nhưng khi vào trong bào thai của người mẹ thì có thêm xác thể (hữu hình) nên gọi là sắc.
          5- LỤC NHẬP: Là sáu chỗ vào. Đã đầu sanh vào bụng mẹ, thai nhi lần lần có đủ 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý như 6 cánh cửa để tiếp rước 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nhập vào, nên gọi là Lục nhập.
          6- XÚC ĐỘNG: là tiếp xúc và cảm động, ưa nhiễm giữa căn và trần. Như mắt thì tiếp với các màu sắc hay sắc người đẹp, xấu; tai tiếp với các thứ tiếng hay, dở; thân va chạm với các vật thô, mịn, trơn, nhám; ý tiếp với vạn pháp vô hình hay hữu hình trong thế gian, rồi khởi tâm phân biệt, ưa nhiễm, tạo tác để thụ hưởng.
          7- THỌ CẢM: Là thụ lãnh và cảm giác. Khi được hưởng thụ lục trần và mọi cảnh vật bên ngoài, thì sanh ra thỏa thích mê say theo các cảnh vật ấy. Thân tâm chỉ biết hành động theo lòng ham muốn năm điều dục lạc.
          8- ÁI: Ái là yêu thích. Sau khi thọ hưởng mọi điều dục lạc trong cõi trần, thì lòng ưa thích tham nhiễm ngày càng sâu đậm hơn, không phút nào muốn rời rứt hay dừng nghỉ.
          Đức Thầy cảnh giác:
                    “Hồng trần ái dục giết tài hoa”.
          9- BẢO THỦ: Là gìn giữ không để mất. Hễ cái gì con người đã yêu thích và tạo tác ra đặng, thì cố tâm gìn giữ cho kỳ được, để vui hưởng lâu dài.
          Nếu rủi bị mất đi hay sắp sang tay người khác thì quyết tâm giành giựt trở lại.
          10- HỮU: Là có. Hễ có nghiệp nhân tất có hưởng quả, do từ lòng tham ái rồi mưu cầu tạo tác để hưởng thụ cho vừa ý, nhưng biết bao giờ mới thỏa mãn. Cho nên cứ ham muốn thêm nữa, nếu mất đi thì rất luyến tiếc. Đó là nguyên nhân cho sự luân hồi qua kiếp khác. Đức Thầy đã diễn tả:
                     “Hố sâu tình dục lại ghiền,
            Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan tài”.
          11- SANH: là sống, tức đầu thai trở lại. Do nghiệp tham nhiễm dục lạc: danh, lợi, tình không ngằn mé đó, hút thần thức đi đầu sanh ra xác thân khác; để: một là thỏa mãn lòng khát ái, và hai là trả những cái quả do nghiệp bất lành, ô nhiễm đã gây tạo từ nhiều kiếp trước. Song trả mãi cũng chưa hết, vì nó song đôi với lòng khát ái. Cho nên phải luân chuyển hết kiếp nầy sang kiếp khác, như người ăn trái cây, trong trái sẳn có hột rồi gieo xuống đất, để sanh cây trái khác:
             “Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”.( ĐT)
          12- LÃO TỬ: Là già, chết. Đây là một định luật: sanh, già, bịnh, chết xưa sao nay vậy. Đức Thầy thường cho biết:
                  “Trên dương thế hữu hình tắc hoại,
                    Có sanh ra khổ hải đâu chừa.
                    Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
                    Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát”.
          Đã là hữu hình thì vạn vật hay loài người cũng vậy, đều phải có hạn định thời gian xoay chuyển. Thế thì:“Cây già cây cỗi, người già người suy”.(Ca dao). Cho đến vũ trụ đi nữa cũng phải chung chịu theo định luật: thành, trụ, hoại, không; nhưng không, chưa phải là hết mà phải trở lại kiếp thành. Còn chúng sanh cũng phải chết rồi sanh trở lại, đây là định luật sanh rồi tử, tử rồi sanh, liên tục với nhau như bánh xe xoay tròn, không biết đâu là đầu mối. Đức Thầy đã xác định:
                    “Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
                       Mắc trong vòng sanh tử luân hồi”.
          Ý Ngài còn dạy: từ vô minh đến lão tử là 12 duyên lành; chính nó là nghiệp nhân chi phối con người phải luân chuyển mãi trong cõi Ta bà và gánh chịu vô vàn thống khổ.
          b)- TƯƠNG DUYÊN BA ĐỜI:
          Khi đã hiểu rõ hành trạng và sự diễn biến của 12 duyên sanh, chúng ta nên biết qua sự tương quan ba đời của nó. Có thể chia làm hai phần như sau:
          1- Phần thứ nhứt: Là sự luân chuyển qua ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai.
          Khởi nguyên từ vô minh và hành là cái nhân quá khứ rồi kết thành cái quả hiện tại là thức và danh sắc, tức là cái hiểu biết phân biệt và xác thân. Khi đã có xác thân tức có lục nhập, xúc động, thọ cảm làm cái nhân hiện tại.
          Từ chỗ xúc, thọ mới sanh ra ái, tức là yêu thích tham cầu là cái quả hiện tại (ái). Trong cái quả hiện tại nầy lại có cái bảo thủ và hữu làm thành cái nhân hiện tại.
          Nhân đó, mới có cái quả vị lai là sanh và lão tử. Lúc có xác thân khác, tất phải có các nỗi khổ của thân và tâm, dẫn tới già bịnh chết, tức là cái quả hiện tại. Khi đó lòng chứa đầy phiền não, tâm trí mê mờ nên trở lại vô minh khát ái nữa. Đó là cái nhân hiện tại để tạo ra xác thân khác nữa, tức là cái quả vị lai.
          Vậy 12 duyên sanh như cái vòng xích sắt móc nối từ khoen nầy sang khoen khác, không biết đâu là đầu mối. Cũng như một cuộn tơ rối, nếu chưa phải tay nghề, khó mà tháo gỡ.
          Vậy hành giả muốn ra khỏi vòng lẩn quẩn của 12 duyên sanh, trước phải có lòng giác ngộ (trí huệ) và có gần Minh Sư, bạn thiện để nghiên cứu học hỏi kinh pháp, mới tin nhận được mối đầu của nó là vô minh và phương thức tháo trừ.
          2- Phần thứ nhì: Từ chỗ tâm trí mê mờ (vô minh) mới nhận lầm mọi sự việc, không phân biệt được chơn giả, tà chánh, lành dữ; ấy gọi là mê lầm (hoặc). Từ mê lầm con người mới toan tính tham cầu, rồi nghĩ tưởng nói làm các điều bất thiện đó là hành động của thân, khẩu, ý (nghiệp). Bởi cái nghiệp bất lành đó con người mới gánh lấy cái hậu quả vô cùng đau khổ (khổ). Nhưng sống trong cảnh sầu khổ chưa tỉnh giác được, nên phải lầm lạc trở lại, rồi khởi lòng luyến ái tham cầu nữa. Thế là bị sức mạnh của nghiệp hút đi đầu thai vào thân xác khác…
          Vậy ba phần: hoặc, nghiệp và khổ cứ xoay vòng không dứt, không dừng; con người khó tìm được lối ra.
          - Tóm lại, xưa nay trong thế giới loài người, muốn tìm hiểu nhân sinh và vũ trụ quan, có nhiều khái niệm khác nhau. Tuy nhiên chỉ có thuyết “Nhân duyên sanh” là rõ ràng và chính xác hơn cả.
          Lúc Đức Phật còn trụ thế, ông Xá Lợi Phất có hỏi vị tăng lữ là Át Bệ, một đệ tử của Phật:
          - Thầy Ngài dạy thế nào?
          Ngài Át Bệ liền thuyết về Nhân duyên và đọc tóm tắt một bài Kệ:
          “Chư pháp tùng duyên sanh, Diệt tùng nhân duyên diệt.
          Phật ngã Đại Sa Môn. Thường tác như thị thuyết”.
          Có nghĩa: Các pháp do nhân duyên sanh, cũng do nhân duyên mà diệt. Đức Phật của chúng tôi thường dạy nói như vậy.
          Nghe xong, Xá Lợi Phất liền chứng ngộ Đạo quả thanh tịnh. Khi về ông thuật lại cho người bạn là Mục Kiền Liên nghe. Ông nầy cũng được tỏ ngộ. Hai người liền đem hết 200 đệ tử đến thọ giáo với Phật, về sau hai ông trở thành hai trong mười đệ tử lớn của Phật.
          Ngày nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng dạy môn đồ về “Nhân duyên sanh”, tức “Thập Nhị Nhân Duyên”. Nghĩa là nguồn gốc đau khổ của mỗi chúng sanh là do tập nghiệp, vô minh phiền não, tức là 12 duyên sanh, mà đầu mối của nó là vô minh; hễ vô minh tan thì nghiệp và khổ không còn. Lúc đó hành giả sẽ tự tại giải thoát. Cho nên về “Tập đề” Ngài chỉ đưa ra 12 nhân duyên mà thôi.
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ:
          BẢN NGÃ: Cái thật ta, là bản chất của mọi người và vạn vật. Theo Phật học thì nó là cái thể tánh chân như của muôn loài và vạn vật trong vũ trụ; nên cũng gọi là Đại ngã, hay chơn ngã (khác với chữ Bản ngã trong Chánh kiến).
          VÔ THỈ: Không có đầu đuôi, không biết khởi đầu từ đâu.
          TỨ THỜI: Bốn mùa, tức là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chỉ cho thời tiết thay đổi.
          HỮU TÌNH: Gồm các chúng sanh có tri giác, có mạng sống. Đây chỉ cho loài người và các loài: Noãn sanh, Thai sanh, Thấp sanh và Hóa sanh:
             “Được dắt chúng hữu tình thoát khổ”.( ĐT)
          VÔ TÌNH: Vật không có tri giác, như: cỏ, cây, sắt đá…
          QUYẾN LUYẾN: Nhớ nghĩ yêu mến nhau không nỡ rời xa.
          THÂM TÌNH: Tình thương yêu rất đậm đà sâu rộng:“Liệu lượng thâm tình tợ biển sông”.( ĐT)
          NGHIỆP NHƠN: Cái nhơn duyên gây tạo ra nghiệp lành hay dữ, để rồi phải hưởng lấy cái quả vui hoặc khổ.
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa phần Tập Đề?
          2/- Theo Kinh xưa thì Tập Đề gồm có những gì?
          3/- Thời nay Đức Thầy dạy Tập Đề như thế nào?
          4/- Mười hai duyên sanh gồm có những gì?
          5/- Cho biết tánh chất và sự duyên sanh của 12 nhơn duyên?
          6/- Sự tương duyên của 12 nhơn duyên trong 3 đời gồm có mấy phần, kể đại cương?
          7/- Nhận xét sự tương duyên thứ nhứt ra sao?
          8/- Nhận xét các tương duyên thứ nhì như thế nào?
          9/- Theo Phật học giúp ta hiểu nhân sanh quan và vũ trụ quan ra sao?
          10/- Tại sao Tập Đề Đức Thầy chỉ đưa ra 12 duyên sanh mà thôi?
*
*    *
III- TỨ DIỆU ĐỀ : ĐẠO ĐỀ
 
LƯỢC GIẢI
          C- “ĐẠO ĐỀ”: Gồm có Tám con đường chánh, tức là “Bát Chánh Đạo”.
          Khi đã hiểu qua các nỗi khổ và nguyên nhân sanh khổ, Đức Thầy liền chỉ cho chúng ta con đường thoát khổ, tức là “Đạo Đề”. Chính nó là chơn lý mầu diệu vô cnùg, là con đường chơn chánh sáng suốt và rộng lớn vô biên. Cũng là chìa khóa để tháo gỡ 12 vòng xích sắt (nhân duyên) trói buộc con người trong luân hồi sanh tử. Xưa nay, hành giả nhờ Đạo để mà thoát ly sanh tử để tiến tới cảnh bất sanh bất diệt, ‘Niết Bàn tịch tịnh”.
          Theo kinh sách từ trước thì Đạo Đề gồm có 37 phẩm trợ đạo (Gồm có: 4 pháp niệm xứ, 4 pháp như ý túc, 4 pháp chánh cần, 5 căn, 5 lực, 7 pháp giác chi, 8 pháp Đạo phần (tức Bát Chánh Đạo). Thời nay Đức Thầy dạy Đạo Đề là tám con đường chánh, bởi nó là pháp tu căn bản, then chốt trong 37 phẩm trợ đạo. Hành giả chỉ cần tu Bát Chánh Đạo, cũng đủ đập tan 12 duyên sanh mà ra khỏi sanh tử. Bát Chánh Đạo rất thích trung với mức sống tinh thần và thể xác cho các giới tu hành dù xuất gia hay tại gia. Mục đích là cải thiện những tư tưởng, hành động và ngôn ngữ con người trở thành chí chơn chí mỹ. Cho nên Đức Thầy hằng dạy môn đồ:
                  “Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy,
                    Là chơn truyền của Đức Thích Ca”.
          Do đó, Ngài nói rõ:“Bát Chánh Đạo là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển trên đường giải thoát”.
          Để thấu đạt pháp tu nầy, chúng ta cần phải nghiên cứu tu học từ điều một.

          I- ĐẠO ĐỀ: BÁT CHÁNH ĐẠO
     1- CHÁNH KIẾN
CHÁNH VĂN
          CHÁNH-KIẾN.- Chánh: đúng sự thật, Kiến: thấy, xem xét. Chánh-kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.
          Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự-thật. Khi vì thiếu sự sáng suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán đoán không công bình chánh đáng, làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục Chánh-Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng, công-bình.
          Chẳng thế, nó còn giúp ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả-dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.
LƯỢC GIẢI
  A- Định nghĩa:
          Theo lý nghĩa Đức Thầy giải: Chánh kiến cũng gọi là Chánh tri kiến. Chánh là đúng sự thật, tức là chơn lý. Kiến là nhìn thấy xem xét. Cái thấy ở đây, không những thấy bằng mắt mà phải thấy bằng năng lực trí huệ của mình. Cho nên Ngài dạy:
“Đạo mầu Bát Chánh rán ghi,
Thứ nhứt Chánh kiến việc chi xem nhìn.
Luận bàn chơn lý cho minh,
Việc chi xét đoán xảo tinh mới là”.
          Chánh kiến có diệu năng đối trị tà kiến, tức là sự thấy biết xem xét tà vạy.
          Vậy hành giả muốn có Chánh kiến, trước hết phải biết nguyên nhân, tướng trạng và tai hại của tà kiến ra sao?
          B- Nguyên nhân sanh Tà kiến:
          Đức Thầy bảo:“Phàm con người thường hay bị bản ngã lôi cuốn, trí mờ ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật”.
          Bàn ngã là cái ta cố hữu. Con người hay bảo thủ: nào xác thân nầy của ta, gia tài, sự nghiệp, vị danh quyền tước của ta, nào vợ con thân quyến, đến đất nước quê hương đều của ta vĩnh cửu. Do sự tham ái gìn giữ riêng tư đó làm cho trí huệ mờ lu mà sanh ra tà kiến mê lầm.
C- Hành trạng Tà kiến: 
          Bởi tâm trí mờ ám, không sáng suốt nên khi xét đoán mọi sự việc, người ta thường dựa vào lòng tư thù hay lợi kỷ. Nghĩa là phân định làm sao cho mình có lợi là được, ai thân thương với mình thì binh vực, vị tư; ai thù oán thì chê bai ghét bỏ. Cho nên cuối cùng chỉ rước lấy tai hại.           
                                                                          D- Tai hại Tà kiến
          1- Người còn tà kiến thì suốt đời không tìm biết con đường ngay chánh; nhận xét mọi việc đều lầm lạc, không đúng chơn lý, như những người mù rờ voi…
          2-T ừ trong gia đình thân tộc, đến ngoài các giới quan trường, xã hội mỗi khi có việc phán xét đều không được công bình chánh đáng, khiến bao nhiêu kẻ khác chịu oan khúc đau thương.
                                                                          E- Hành Chánh kiến:
          Muốn được Chánh kiến, Đúc Thầy dạy môn đồ những điểm như sau:
          1- Đối diện với mọi sự việc dù lớn hay nhỏ, công hay tư, vô hình hay hữu hình đều dùng diệu năng của trí huệ cứu xét cẩn thận, phân định chu đáo để tránh sự lạc lầm:
                  “Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,
                    Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà.
                    Dầu việc người hay việc của ta,
                    Nên phán đoán cho tường cho tận”.( ĐT)
          2- Trước khi giải quyết vấn đề gì cũng phải quan sát cực điểm, phán đoán tận tường, hầu tránh những tà kiến.
          3- Xét rõ các điều tục lụy trong trần là xiềng xích, là tạm giả nên không tham đắm ích kỷ.
          4- Xét rõ quả báo không những việc làm, lời nói mà cả ý tưởng, nên luôn ngăn ngừa các điều dữ và làm hết các việc lành.
          5- Xét rõ chơn lý Phật pháp là hơn hết nên hướng theo cho đến chỗ tinh vi rốt ráo.
          6- Xét rõ các tà thuyết dị đoan, bùa chú, linh ứng không bền và chẳng đưa người đến chỗ giải thoát; ngược lại, rất có hại cho đời sống hiện hữu và tương lai, nên lòng ta không hề mong muốn.
   F- Lợi ích Chánh kiến:
          Hành giả khi hành đặng Chánh kiến sẽ kết quả:
          1- Tránh được tà kiến, dẹp tan bản ngã và phá sạch Ngũ lợi sử (5 món phiền não lanh lợi, tức là kiến hoặc). Chẳng lầm tà thuyết dị đoan.
          2- Hiểu thấu rõ ràng mọi việc chơn giả không hề lầm lẫn, phán đoán các việc luôn được chí công, bình đẳng.
          3- Không còn say mê các điều tục lụy, thấu đạt lý nhiệm mầu của Đạo pháp.
          4- Mãi nương về với chơn lý, thoát đọa hồng trần
                                                                            G- Kết luận:
          Tóm tắt khi người tu hành được Chánh kiến thì không còn kiến thức sai lầm, mười món phiền não hết trói buộc, sai sử thân tâm. Bấy giờ tâm hành giả thường được vô úy tự tại, và tiến hành phương pháp lợi lạc cho các tầng lớp chúng sanh, thẳng đến khi thành Đạo Bồ Đề.
                                                                           TỪ NGỮ
          BẢN NGÃ: Cái ta, chấp có ta và coi ta là trên hết.
          TƯ THÙ: Thù riêng.
          LỢI KỶ: Lợi ích riêng mình.
          TRÍ NĂNG: Năng lực của trí huệ, rất mầu diệu sáng suốt.
          TRUY CỨU:Theo dõi để cứu xét tìm hiểu tận gốc.
          CỰC ĐIỂM: Điểm cao hơn hết, tới chỗ cùng tột.
          TỤC LỤY: Những điều phiền lụy thống khổ trong cõi trần tục.
          HỒNG TRẦN: Bụi đỏ. Ý chỉ cõi đời đầy bụi bậm nhớp nhơ đau khổ. Đức Thầy bảo:
                    “Hồng trần biển khổ thấy rồi”. 
CÂU HỎI
          1/- Theo kinh xưa giải Đạo Đề gồm có những gì?
          2/- Tại sao Đức Thầy dạy Đạo Đề chỉ có Bát Chánh Đạo?
          3/- Bát Chánh Đạo có diệu năng gì với người tu hiện tại?
          4/- Hãy định nghĩa Chánh kiến và Tà kiến?
          5/- Bản ngã là gì, muốn dẹp nó ta phải làm sao?
          6/- Do đâu sanh tà kiến?
          7/- Hành trạng của tà kiến ra sao?
          8/- Người sống theo tà kiến có tai hại gì?
          9/- Muốn hành Chánh kiến phải làm sao?
          10/- Hành đặng Chánh kiến có lợi ích gì?
          11/- Cho biết kết luận mục Chánh kiến?
*
*    *
          II- ĐẠO ĐỀ: CHÁNH TƯ DUY
CHÁNH VĂN
          CHÁNH TƯ-DUY.- Tư tưởng chơn-chánh.
          Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng ...; cái tư tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thể nào thoát-ly ra được. Ấy là phần tà.
          Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời-Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm luân oan-nghiệt. Hãy tin tưởng Phật-Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phuớc lành cho nhân chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu-tỉnh.
LƯỢC GIẢI
A- Định nghĩa:
          Chánh tư duy là các tư tưởng chơn chánh, cao khiết, có lợi ích cho muôn loài.
          Tà tư duy là tư tưởng tà vạy, xấu ác có hại cho mình và nhiều người khác.
                    B- Nguyên nhân sanh tà tư duy:
          Bởi chưa làm chủ được tâm trí mình, nên bị các thị dục cám dỗ, sai khiến làm cho nảy sanh các tư tưởng tà vạy xấu ác.
       C -Hành trạng tà tư duy:
          Từ nguyên nhân đó, tư tưởng con người luôn mong ước tính toan, làm sao cho có tiền của thật nhiều, danh phận tước quyền cao lớn, tình ái hơn người để thụ hưởng đầy đủ, thỏa mãn.
          Do đó, lòng luôn có những tư tưởng hận thù, tội khổ, không phút nào bình tịnh, an vui
                                                                           D- Tai hại:
          1- Người sống theo tà tư duy, tâm trí luôn chứa chấp những ý nghĩ tà quấy, suy xét sai lầm, tâm tư tán loạn, khiến mờ đục trí huệ.
          2- Bị những tư tưởng ấy rù quến tâm trí mãi quay cuồng trong ngũ dục (Năm sự ham muốn: tiền của, sắc đẹp, danh vị, ăn uống, ngủ nghỉ), và luôn bị lặn ngụp trong bể trầm luân thống khổ, hết kiếp nầy qua kiếp khác.
             “Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.( ĐT)
      E- Hành Chánh tư duy:
          Để tránh những tai vạ nói trên, hành giả nên ghi nhớ các phương thức như sau:
          1- Dù sống trong hoàn cảnh nào, hay bận làm công việc gì, cũng giữ tâm mình luôn được bình thản, yên lặng và trong sạch, sáng suốt.
          2- Giữ tư tưởng thanh cao bằng cách chuyển hóa, thay đồi ý tưởng tà quấy ra chánh chơn thiện mỹ. Đức Thầy dạy:
                    “Chánh Tư duy mục ấy thanh cao,
                    Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ”.
          3- Tự lấy trí lực tìm hiểu chơn lý để thực thi cho thành đạt cái Đạo, tức là bổn phận của mình đối với chúng sanh, với Trời Phật và với cá nhân mình:
          - Đối với chúng sanh ta phải tập trung tư tưởng vào công cuộc tìm phương cứu vớt sanh linh, tỉnh giấc mê lầm, thoát vòng trầm luân khổ hải.
          - Đối với mình, ta phải tự tư duy tìm phương giải thoát cảnh trầm luân thống khổ, bằng cách “Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh” cho đến khi quả mãn công viên.
        G- Lợi ích Chánh tư duy:
          Khi hành được Chánh tư duy, hành giả sẽ đặng kết quả các phần lợi ích:
          1- Dứt hết tư tưởng tà vạy và hoặc nghiệp phiền não (tư hoặc). (Tư hoặc là tư tưởng lầm lạc, nghĩ lầm)
          2- Không còn bị ngũ dục làm điên đảo trí năng.
          3- Trí huệ sáng mầu, như Sa Di Suy Ca thời xưa, chỉ nhứt tâm chuyển hóa tư tưởng từ sáng mai đến đúng ngọ là thành Đạo…
          4- Cảm thông mọi thống khổ của chúng sinh đê tùy phương tiện thích trung mà giáo hóa
                                                                            H- Kết luận:
          Tóm tắt khi người tu hành được Chánh tư duy, không còn tư tưởng mê mờ, rối loạn, suy nghĩ bất chánh làm tổn thương cho mình và kẻ khác. Tâm tánh luôn được bình tịnh sáng suốt và đối trước mọi việc đều thấu đạt chơn lý.
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
          THỊ DỤC: Các sự ham muốn.
          CÁM DỔ: Rù quến, quyến rũ làm làm cho người say mê theo.
          QUAY CUỒNG: Xoay vòng theo không thoát ra được, cũng chỉ cho sự xoay trở một cách vất vả.
          BÌNH TỊNH: Bình là yên lặng, bình đẳng không phân biệt thiên chấp. -Tịnh là trong sạch, sáng suốt.
                    “Nếu ai mà biết chữ tu trì,
                Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.( ĐT)
          CHƠN LÝ: Cũng viết là chân lý. Có nghĩa là lý lẽ chân thật, là lẽ phải. Chơn lý cũng gọi là Đạo, là bản thể tuyệt đối. Đức Thầy có câu:
                    “Bàn với luận đặng coi chơn lý”.
          ĐẠO: (Chữ Đạo ở đây có giải trong phần Lược giải)
          SANH LINH: Sanh mạng, chỉ cho giới hữu tình, tức là loài có mạng sống          .
          OAN NGHIỆT: Mầm móng tai hại tự mình gây ra rồi tự hưởng lấy.
          ĐẤNG THIÊNG LIÊNG: Người đáng tin tưởng và sùng kính. Chỉ cho chư vị: Phật, Tiên, Thần, Thánh.
          NHÂN CHỦNG: Giống người, loài người.
          LẠC ĐẠO AN BẦN, XẢ THÂN TU TỈNH: Là an vui trong cảnh sống nghèo (tri túc thường lạc) để dồn hết thân tâm vào việc tu hành Đạo đức..
 
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa Chánh tư duy và Tà tư duy?
          2/- Lý do nào sanh tư tưởng tà vạy?
          3/- Hành trạng Tà tư duy như thế nào?
          4/- Tai hại của Tà tư duy ra sao?
          5/- Muốn được Chánh tư duy phải làm sao?
          6/- Hành Chánh tư duy xong được lợi ích gì?
          7/- Kết luận người tu được Chánh tư duy như thế nào?
          8/- Chữ Đạo trong Chánh tư duy có nghĩa ra sao? Và muốn thực hiện cho đúng ta phải làm gì?
 
*    *
        III- ĐẠO ĐỀ: CHÁNH NGHIỆP
CHÁNH VĂN
          CHÁNH-NGHIỆP.- Việc làm chánh đáng ngay thẳng.
          Đối với kẻ xuất gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.
          Những kẻ tại gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn: kẻ buôn tảo bán tần, người việc này việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi phối song cái chi-phối ấy, khác hẵn với kẻ gian tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ .. v..v..
          Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy lạc, hoang-đàng, trà đình tửu điếm …Họ là đồng loã mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say sưa.
          Thế nên mục Chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.
          Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.
LƯỢC GIẢI
  A- Định nghĩa:
          - Chánh nghiệp là các việc làm ngay chánh, hiền lành, chân thật, có lợi ích cho muôn loài.
          - Tà nghiệp là những hành động tà vạy, xấu xa, gian ác, có hại cho mình và kẻ khác.
              B- Nguyên nhân sanh Tà nghiệp:
          - Theo Đức Thầy cho biết: các tăng ni xuất gia nhờ làm các công việc Đạo nên ít gây ác nghiệp.
          -Giới cư sĩ vì muốn mưu cuộc sống còn và phải tiếp xúc, va chạm với mọi người, mọi giới trong xã hội, nên dễ sanh tà nghiệp.
C- Hành trạng Tà nghiệp
          1- Người sống tà nghiệp hay làm những việc gian ác, tổn thương đến quyền lợi, danh dự, hạnh phúc và mạng sống của mọi loài, như: sát sanh, đạo tặc, tà dâm, đầu cơ, cho vay cắt cổ…
          2- Tạo các nghề nghiệp khiến cho kẻ khác đam mê tội lỗi, như nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu…
                                                                         D- Tai hại Tà nghiệp:
          1- Ai sống theo tà nghiệp sẽ chuốc lấy tai họa: hiện tại không xứng đáng là một Tăng Ni hay Phật tử, vì bị coi như là phạm giới.
          2- Tương lai hạt giống Đạo và căn trí bị lấp vùi, lâu gặp cơ hội thức tỉnh.
          3- Chết bị đọa ba đường ác và còn phải luân chuyển báo đền nghiệp quả.
E- Hành Chánh nghiệp:
          Muốn sống theo Chánh nghiệp ta cần phải hành trì những điểm:
          1- Đã tu hành thì giới hạnh tinh nghiêm, chừa bỏ những ác nghiệp như vừa kể trên.
          2- Tôn trọng quyền sống và hạnh phúc chung của mọi người. Tuyệt nhiên không hành động phá hoại, hay tàn sát họ quá vô đạo.
          3- Tôn trọng nghề nghiệp và tài sản của kẻ khác như của mình, nên ủng hộ chớ không mưu mô thâu đoạt của họ quá bất công.
          4- Tôn trọng mạng sống của các loài vật, không làm nghề sát hại, hay đem mối cho người khác giết hại chúng nó.
          5- Tôn trọng lẽ công bằng, không làm nghề kiện cãi hoặc du thuyết việc có hại cho người khác.
    G- Lợi ích Chánh nghiệp:
          Người hành đặng Chánh nghiệp sẽ được các món lợi ích:
          1- Gia đình luôn hạnh phúc, thần trí được khỏe mạnh sáng suốt và no ấm đời đời.
          2- Được mọi người, mọi giới kính phục và mến theo.
          3- Các nghiệp oan tội khổ từ trước bị tiêu dần, và khỏi đọa 3 đường ác
                                                                          H- Kết luận:
          Tóm lại, người hành trì được chánh nghiệp thì diệt hết các nhóm tập nghiệp về thân và không còn các oan trái cay nghiệt. Đời đời thanh tịnh an vui, thẳng đến khi thành Đạo giải thoát.
 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
          THAM THIỀN: Tham là suy gẫm; Thiền là tịnh lự, là tư duy. Ý nói để tâm yên tịnh, suy gẫm Đạo lý mầu nhiệm:“Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham thiền”.( ĐT)
          NHẬP ĐỊNH: Vào chánh định, bằng cách ngồi yên lặng hay trong Tứ tướng oai nghi (là: đi, đứng, nằm, ngồi) tâm trí luôn trong lặng thuần chánh và sáng suốt.
          TRÌ TỤNG: Trì là gìn giữ và làm theo; tụng là đọc, xem. Ý chỉ cho việc công phu bái sám, hoặc đọc tụng Kinh sách hằng ngày. Đức Thầy dạy:
                    “Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,
                     Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta”.
          KINH HÀNH: Đi một cách thung dung quanh chùa tháp, hoặc chỗ tịch mịch để niệm Phật hay suy gẫm (thiền định) việc Đạo lý để phát sanh trí huệ.
          CÔNG QUẢ: Công là việc làm hay hạnh đức hoặc trí năng của mình làm. Quả là kết quả. Đức Thầy có câu:
                    “Nguyện đem công quả tu hành,
                Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài”.
          BUÔN TẢO BÁN TẦN: Tần là một loại rau; Tảo là rong biển (rau tần rau tảo). Ý nói bận lo buôn bán hoặc làm nhiều việc vất vả:“Tảo tần lo liệu năm ba”.( ĐT)
          Hay là:“Ta thương xót lo tần lo tảo”.( ĐT)
          BẤT NHÂN: Không có nhân đức, không thương người mến vật.
          ĐẦU CƠ: Đầu là ném lại; Cơ là cơ hội. Thừa cơ hội làm lợi cho mình, bằng cách không hợp lý hợp pháp:“Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi”.( ĐT)
          TRỤY LẠC: Sa ngã vào chỗ hư hèn, như “Tứ đổ tường” (tửu sắc tài khí).
          HOANG ĐÀNG: Cũng gọi là hoang đường. Ý nói người hoang chơi theo “tứ đổ tường” (tửu sắc tái khí), không kể đến nhà cửa, vợ con, cha mẹ…
          TRÀ ĐÌNH TỬU ĐIẾM: Phòng trà quán rượu có chứa gái điếm. Đây chỉ cho hạng người quá đam mê tửu sắc, hằng ngày la lết nơi nhà điếm, quán rượu, không kể đến gia đình, cha mẹ, vợ con. Đức Thầy bảo:
                    “Chốn trà đình xa lánh vãng lai”.
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa Chánh nghiệp và Tà nghiệp?
          2/- Lý do gì người Cư sĩ dễ sanh Tà nghiệp?
          3/- Hành trạng tà nghiệp như thế nào?
          4/- Người hành tà nghiệp có tai hại gì?
          5/- Muốn hành Chánh nghiệp ta phải làm sao?
          6/- Hành Chánh nghiệp được lợi ích như thế nào?
          7/- Tóm tắt người hành được Chánh nghiệp có kết quả gì?
*
*    *
IV- ĐẠO ĐỀ: CHÁNH TINH TẤN
CHÁNH VĂN
          CHÁNH TIN-TẤN.- Tín ngưỡng chơn chánh và lướt tới.
          Phái vô thần luận thường cho rằng thân xác tức là con người. Thân còn tức là ngưòi còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả báo luân hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao nhiêu mánh-khoé gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.
          Vì vậy, mục Chánh tinh-tấn này khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu-vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng-sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới, quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà vạy, dẹp lục-căn lục-trần và rán làm cho tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ, yên tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế độ chúng-sanh thoát luân-hồi quả-báo.
LƯỢC GIẢI
 A- Định nghĩa:
          - Chánh tinh tấn là tín ngưĩng chân chánh, bền chắc và lướt tới một cách mạnh mẽ.
          - Tà Tinh tấn là mê tín theo các tà thuyết, chần chờ, giải đãi, nghi ngờ Trời Phật.
          B- Nguyên nhân sanh tà Tinh tấn:
          1- Óc dễ tin nghi ngờ và hột giống giải đãi, yếu ớt có sẵn trong tâm thức từ vô thỉ, nên khi gặp sự tuyên truyền của các tà thuyết, vô thần vội nghe theo.
          2- Do các dục tình, vật chất như: danh, lợi, tình hoặc lục trần, lục dục câu nhử, cám dỗ làm ô nhiễm.
                                                                     C- Hành trạng Tà tinh tấn:
          Người có lòng tà tinh tấn hoặc tin theo đường tà có những hành trạng:
          1- Không tin có Trời Phật quả báo, luân hồi, tội phước hay Thiên đường, Địa ngục hoặc luân hồi.
          2- Chỉ lo tranh đấu mánh khóe gian hùng, điêu ngoa xảo trá, tàn bạo ngược ngang.
          3- Áp bức mọi người để mình có quyền uy và thụ hưởng trên hết
                                                                      D- Tai hại:
          Người sống theo tà tinh tấn có nhiều tai hại:
          1- Mất chánh tín và gây đau khổ cho muôn loài.
          2- Bị nghiệp chướng kéo dài trong luân hồi sanh tử.
          3- Dù có tu song vì giải đãi yếu ớt, nên rất lâu thành Đạo giải thoát, như anh chàng cày ruộng trong thời Đức Phật còn trụ thế.
          (Thuở Đức Phật còn trụ thế có anh nông dân đang cày ruộng bỗng gặp Đức Phật cùng đồ chúng vừa đi tới. Thấy tướng thể trang nghiêm và hào quang sáng chói của Phật, anh toan bỏ cày đến trước Phật qui y, nhưng nghĩ lại: để mình cày xong miếng ruộng nầy rồi thọ giáo cũng chẳng muộn gì.
            Phật hiểu rõ tâm trạng anh, bèn kêu đồ chúng nói:
            - Các ông có thấy anh cày ruộng kia chăng ? Đã trải qua 91 kiếp, có 7 vị Phật ra đời, hễ mỗi lần thấy Phật, anh đều muốn qui y, song bị lòng chần chờ giải đãi khiến chưa qui Phật được. Nay gặp ta ý cũng muốn đến rồi cũng dừng lại như mấy lần trước.
            Nãy giờ anh cày ruộng đứng lặng yên nghe Phật nói giựt mình liền buông cày chạy đến trước Phật quì xuống xin sám hối qui y.
            Xét thấy: tánh chần chờ lục đục, thiếu tinh tấn làm cho anh cày ruộng chậm lại thời gian bao chục ngàn năm, mãi còn lẩn quẩn trong vòng khổ đau sanh tử).
E- Hành Chánh tinh tấn:
          Để cho môn đồ có được Chánh tinh tấn, Đức Thầy dạy:
                  “Chánh tinh tấn dầu thành hay bại,
                    Cứ một đường tín ngưỡng của mình.
                    Dầu cho ai phá rối đức tin,
                    Ta cũng cứ một đàng đi tới”.
          1- Vậy ta phải giữ đức tin cho mạnh mẽ, sáng suốt không hề để uy quyền hay thị dục lôi cuốn.
          2- Luôn nhớ đến công cuộc cứu vớt quần sanh của Đức Phật, Đức Thầy và của chính mình.
          3- Tự nguyện ngày nào chúng sanh còn khổ thì ta cũng đồng chịu khổ với họ. Đức Thầy đã nêu gương hạnh:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.
          4- Xét vì ta có bổn phận giác ngộ trần gian, xa miền tục lụy, thoát khỏi nghiệp oan tội khổ.
          5- Phải gắng chí “tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn mà tấn tới”, quyết chí tu sửa thân tâm, đắc thành đạo quả, bằng cách là dẹp cho được các điều tà mị và lấy tâm làm chủ sáu căn, đừng để duyên nhiễm theo sáu trần:“Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”. Và:“Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.
          6- “Rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ, yên tịnh, hỷ lạc nghiêm trang”.
  G- Lợi ích Chánh Tinh tấn:
          Nếu ai hành được Chánh tinh tấn sẽ được các phần lợi ích như sau:
          1- Đường tu không còn nghi ngờ, do dự, dứt trừ được “Ngũ độn sử” và luôn thi hành chánh tín một cách mạnh mẽ.
          2- Không còn bị tà thuyết, vô thần hay các thị dục lôi cuốn.
          3- Được chư Thiên, Thần Thánh và 10 phương Phật hộ trì.
          4- Tế độ đặng vô số chúng sanh giải thoát.
          5- Sớm đạt được diệu trí, vào bậc bất thối chuyển.
          6- Được lực vô úy và chóng thành Đạo Bồ Đề
                                                                       H- Kết luận:
          Tóm lại khi hành được Chánh Tinh tấn, hành giả không còn thối đọa trong ba đường ác, mau chứng quả tam giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Luôn đặng tự tại trong công cuộc cứu vớt chúng sanh.
         
TỪ NGỮ
          VÍA: Một phần trong linh hồn con người lúc còn sống. Người ta  thường nói hết hồn hết vía, hay nhẹ bóng vía.
          MÁNH KHÓE: Mưu mô xảo trá.
          GIAN HÙNG: Dối trá xảo quyệt. Đức Thầy có câu:
                    “Lũ gian hùng mang lấy họa ương,
                     Trời đất xử những người bội phản”.
          ĐỨC TIN: Sự tin tưởng về Đạo đức cao cả.
          BỨC BÁCH: Ép buộc thúc giục.
          TÍN NGƯỠNG: Lòng tin tưởng và ngưỡng mộ.
          ĐỨC THẾ TÔN: Một trong 10 hiệu của Phật Thích Ca, có nghĩa cả ba cõi thế gian đều tôn Ngài là Thầy, là đấng Cha lành:
                    “Ngài là vua Pháp tột cao,
               Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tài.
                      Tiên người đồng kính Đạo Thầy,
               Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh”.( ĐT)
          Và câu:
                    “Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
                    Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp”.
          GIÁC NGỘ: Nghĩa của chữ Phật (đấng Giác ngộ), nhưng bốn chữ “Giác ngộ trần gian” ở đây có nghĩa là tỉnh thức kẻ còn mê trong cõi trần.
          OAN TRÁI: Nghiệp nợ do mình tạo tội ác, oan nghiệp kiếp trước mà kiếp nầy phải trả.
          TỰ GIÁC: Tự mình tỉnh ngộ sáng biết, tự giác là một trong tam giác của Phật (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).
                    “Lòng tự giác xả thân tầm Đạo”.( ĐT)
          NIẾT BÀN: Phiên âm của Phạn ngữ, Tàu dịch có nhiều nghĩa. Ở đây chỉ giải một ít nghĩa:
          1-DIỆT ĐỘ: Một nơi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.
          2-VIÊN TỊCH: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần gọi là Viên; trí huệ cụ túc, dứt sạch nghiệp chướng khổ lụy gọi là Tịch. Cũng chỉ trở lại bản tâm viên tịch để thoát trầm nịch khổ hải.
          3-BẤT SANH BẤT DIỆT: Chẳng còn một niệm sanh, nên chẳng còn sự chết khổ:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)
          Ngoài ra Niết Bàn cũng còn có nghĩa là vô vi, tịch diệt, giải thoát và an lạc…
          LỤC CĂN: Sáu căn, tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nó hay xúi giục tâm hồn người ô nhiễm theo sáu trần. Nó cũng gọi là 6 con giặc (lục tặc).
          LỤC TRẦN: Sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Đức Thầy dạy:
                    “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.
          YÊN TỊNH: Lặng lẽ trong sạch.
          HỈ LẠC: Vui mừng vì không còn các nỗi khổ làm bận tâm, chẳng phải như chữ hỉ lạc trong thất tình.
          NGHIÊM TRANG: Đoan trang nghiêm chỉnh.
 
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa Chánh tinh tấn và Tà tinh tấn?
          2/- Lý do nào sanh Tà tinh tấn?
          3/- Hành trạng Tà tinh tấn ra sao?
          4/- Người còn tà tinh tấn có tai hại gì?
          5/- Muốn có Chánh tinh tấn phải làm sao?
          6/- Người có chánh tinh tấn được lợi ích gì?
          7/- Hãy giải nghĩa chữ Niết Bàn?
          8/- Lục căn lục trần là gì ? Và muốn dẹp nó phải làm sao?
          9/- Muốn được yên tịnh phải tu cách nào?
          10/- Cho biết tóm tắt mục Chánh Tinh tấn?
*
*    *
V- ĐẠO ĐỀ: CHÁNH MẠNG
CHÁNH VĂN
          CHÁNH-MẠNG.- Sanh mạng chơn chánh, trong sạch.
          Ở đời người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quý trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức phận cao.
          Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ-ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.
          Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh thần bị đen tối, bỏ tất cả đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh: thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết-Bàn.
 
LƯỢC GIẢI
A- Định nghĩa:
          - Chánh mạng là sanh mạng chơn chánh, trong sạch và sáng suốt.
          - Tà mạng là mạng sống tà vạy, mê mờ, nhơ xấu.
                     B- Nguyên nhân sanh tà mạng:
          Người đời vì quá quí trọng thân xác, nên lúc nào cũng lo bảo vệ và chăm sóc bồi dưỡng nó, khiến nảy sanh các hành trạng tà mạng.
          C- Hành trạng Tà mạng:
          Tâm tham lam ích kỷ, lục căn ô nhiễm lục trần như:
          1- Mắt thích xem và luyến ái sắc đẹp.
          2- Tai ưa nghe những tiếng đờn nhạc, ca hát và những lời đường mật, nịnh hót ngợi khen.
          3- Mũi thích ngửi các mùi thơm tho dễ chịu.
          4- Lưỡi ưa dùng các thứ vị: ngọt, béo, chua, cay, mặn, đắng.
          5- Thân ham sự sống cao sang sung sướng.
          6- Ý là đầu dọc của các căn, từ quyền cao danh lớn đến mọi pháp trần trong thế gian nó đều thích ưa ghiền nhiễm.
          D- Tai hại Tà mạng:
          Bởi quá mê ghiền vật dục danh, lợi, tình và 6 trần nên con người tự chuốc lấy tai hại:
          1- Trí huệ càng ngày càng mơ ám ngu đần.
          2- Không hề nghĩ đến luật vô thường của vạn vật, luật sanh tử và nghiệp báo luân hồi của con người, nên họ không chịu tìm con đường giải thoát.
          E- Hành Chánh mạng:
          Muốn được Chánh mạng, theo Đức Thầy dạy chia làm hai phần:
          1- Bên ngoài ta phải xa lánh, tức là đừng duyên nhiễm theo những điều làm cho tinh thần đen tối, như: lục trần, lục dục, đài các xa hoa.
          2- Bên trong phải tự chủ thân tâm, nhằm mục đích bất diệt bất sanh tiến tới:
                    “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
                    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.( ĐT)
          Song muốn đạt đến đó, hành giả trước phải tu thiền định làm thể chất căn bản. Cần nên biết Thiền là tịnh lự là tư duy và quán xét nên gọi là huệ. Còn định là dừng lại, là buông xả hết vọng nhiễm trần lao để tâm được thanh tịnh, bình yân hoặc là:“Ngày đêm phải tự mình suy gẫm, ngăn gió trần cho lặng sóng tâm”. Nếu được như vậy trí huệ sẽ sáng mầu vô tận. Bấy giờ hành giả sống theo trí huệ để nhập thế cứu đời, không hề bị khách trần (6 trần), gạt gẫm lôi kéo:“Cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê”.
          Đây là pháp tu Định Huệ mà từ xưa chư Bồ Tát và Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy môn đồ như vậy. Định ví như cây đèn; Huệ như ánh sáng. Vậy ai muốn có ánh sáng để soi tan màn đêm u tối thì trước phải có cây đèn, vì ánh sáng từ cây đèn đó phát ra, cho nên định và huệ luôn tương quan với nhau. Do đó, Đức Thầy dạy chúng ta:“Thiền định đặt làm thể, trí huệ đặt làm mạng”.
          G- Lợi ích Chánh mạng:
          Khi hành giả thiền định được và lúc nào mạng sống cũng nương theo ngọn đèn trí huệ thì sẽ đặng kết quả:
          1- Linh hồn được nhập vào liên hoa tự tánh của chính mình, tức là cái thể thanh tịnh. Nên biết cũng tâm hồ đó, nhưng lúc còn mê loạn gọi là linh hồn mà khi định huệ được rồi thì gọi là Phật tánh. Đức Lục Tổ đã bảo:“Hội giả xưng vi Phật tánh, bất hội giả quán tác linh hồn”.(Pháp Bửu Đàn Kinh) Cái tánh thanh tịnh nầy ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt. Lúc nào cũng trong sạch an nhiên, nên ví nó như hoa sen, tuy từ bùn mọc lên, nhưng không bị bùn làm hoen ố. Cho nên liên hoa được tượng trung cho thể thanh tịnh trong sạch.
          2- Siêu sanh vào cõi Niết Bàn, tức được nhập Niết Bàn. Ở đây Đức Thầy dùng chữ siêu sanh cho mọi người dễ hiểu, khi tâm trí hành giả có đưọc định huệ rồi, tức hòa vào bản lai thanh tịnh, cũng gọi là “Phật hóa tánh tình” thì người với chư Phật chỉ là một. Lúc đó tâm đâu còn vọng sanh ô nhiễm, mà hễ tâm không vọng sanh, tức đâu có gì phải diệt (Tâm sanh chủng chủng pháp sanh, tâm diệt chủng chủng pháp diệt). Như Đức Thầy đã nói:
               “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.
          Đại khái trong hai phần “Thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng” là cái nhân tu hành. Còn “Linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”là cái quả của nhà tu khi thành đạt.
          H- Kết luận:
          Tóm lại, hành giả khi nhận được tà mạng để tránh, Chánh mạng để hành theo thì sau khi đạt được, tức không còn hạt giống sanh tử hay những ác duyên trầm trệ trong lục đạo luân hồi, thân tâm luôn được khinh khoái, vào cõi giải thoát (Niết Bàn).
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
          TRÍ TUỆ: (Xem chữ Trí huệ bài NĐSLCB, T-1, Q.6).
          XA HOA: Chưng diện lòe loẹt tốn kém. Đức Thầy dạy:             
                   “Khuyên đừng xài phí xa hoa,
                    Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.
          THIỀN ĐỊNH: Do chữ Thiền na. Có nghĩa để tâm trong sạch, yên lặng mà suy gẫm việc Đạo lý mầu nhiệm, không phân biệt ngồi nằm hay đi đứng, cách nào cũng thiền định được cả. Đức Thầy khuyên:
                    “Sớm tối đi nằm y chánh pháp”
          Và:     “Quay về cội phúc đường chân Đạo,
                      Phật pháp Thiền na dốc thực hành”.
          THỂ: là gốc, là bản chất của mọi sự vật. Ví như tất cả bàn, ghế, giường, ngựa…thể chất nó bằng cây làm ra. Các món nữ trang, thể chất nó bằng vàng. Các loại bánh ngọt, thể chất nó bằng bột và đường. Thể chất tốt thì các món làm ra đều tốt. bằng thể chất xấu thì cái gì cũng xấu.
          THIỀN ĐỊNH ĐẶT LÀM THỂ: Nhà tu muốn tiến đến Niết Bàn trước phải tu Thiền định làm căn bản. Có thiền định được trí huệ mới sáng tỏ và mọi suy nghĩ nói làm đều được trọn lành trọn sáng, tiến đến giải thoát. Bằng thiếu thiền định thì ý nghĩ hay nói làm đều xấu ác, quả Đạo bất thành.
          TRÍ TUỆ ĐẶT LÀM MẠNG: Người tu khi trí huệ được sáng tỏ, từ ấy mạng sống nương theo trí huệ mà vào Niết Bàn, không hề sai lệch. Như người đi đêm có đèn đuốc không lầm đường hay va chạm vào cây đá làm thiệt hại thân mạng.
          LINH HỒN NHẬP LIÊN HOA: Thần thức được hòa vào bản lai thanh tịnh tự tánh. Ý nói khi tâm hồn nhà tu được vào thể thanh tịnh, thì đối với các cảnh tượng lành dữ hay danh, lợi, tình…tâm mình vẫn an nhiên tự tại. Cũng như hoa sen dầu sống trong bùn vẫn không bị bùn làm hoen ố. “Cư trần bất nhiễm”, “Lẫn tục đừng mê”.
          SIÊU SANH VÀO CÕI NIẾT BÀN: Cũng gọi là nhập Niết Bàn, tức là siêu thoát vào cõi bất sanh bất diệt. Người tu thiền định được, tuy còn mang xác phàm như bao nhiêu kẻ khác, nhưng tâm hồn đã dứt sạch hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, nên gọi là vào Niết Bàn. Đức Thầy từng nói:
                    “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
                      Về chốn ni xa lánh hồng trần”.
          Hoặc là:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.
 
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa Chánh mạng và Tà mạng?
          2/- Nguyên nhân nào sanh Tà mạng?
          3/- Hành trạng của tà mạng ra sao?
          4/- Người sống theo tà mạng có tai hại gì 
          5/- Muốn được Chánh mạng ta phải tu cách nào?
          6/- Hành chánh mạng xong được lợi ích gì?
          7/- Thiền định là gì? Và tại sao Đức Thầy dạy ta phải đặt nó làm thể chất?
         8/- Hãy cho biết nhân quả trong phương cách hành Chánh mạng?
          9/- Kết luận mục Chánh mạng ra sao?
*
*    *
VI- ĐẠO ĐỀ: CHÁNH NGỮ
CHÁNH VĂN
          CHÁNH-NGỮ.-  Lời nói chơn thật.
          Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần.
          Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy cũng có nghiệp chướng của miệng lưỡi: Lưỡng-thiệt: làm cho thiên hạ bất hoà nhau. Ỷ-ngôn: lời chưởi mắng kẻ dưới tay. Ác-khẩu: tiếng độc ác tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh. Vọng-ngữ: nói láo, nói huyễn hoặc.
          Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ cộc cằn. Phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền lương đức-hạnh, những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức.
 LƯỢC GIẢI
    A- Định nghĩa:
          - Chánh ngữ là lời nói chơn thật, hiền từ, thanh bai hòa diệu có lợi ích cho mọi người.
          - Tà ngữ cũng gọi là ác ngữ, tức là những lời nói dối gian độc ác, không chơn thật dịu hiền, có hại cho mọi người.
                  B- Nguyên nhân sanh Tà ngữ:
          Bởi lòng ham muốn nuôi dưỡng xác thân cho được cao sang sung sướng, nên sanh ra muôn ngàn tội lỗi. Trong đây phần lớn là do khẩu nghiệp.
    C-Hành trạng Tà ngữ:
          Hành trạng của tà ngữ có rất nhiều, nhưng đây chỉ tóm tắt trong bốn phần
          1- Lưỡng thiệt: những lời nói hai chiều đâm thọc, thêm bớt làm cho thiên hạ đôi chối, tranh tụng bất hòa với nhau.
                    “Với người nầy dùng lời tha thiết,
                    Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”.( ĐT)
          2- Ỷ ngôn: Lời nói ỷ thị chê bai mắng nhiếc kẻ dưới tay, hoặc kém thiếu hơn mình về mọi mặt.
          3- Ác khẩu: Những tiếng độc ác thô tục…chửi rủa, mời thỉnh các cõi Thần Thánh.
          4- Vọng ngữ: Những lời nói thêm thừa huyễn hoặc, khiến cho người khác hiểu lầm mê tín.
          D- Tai hại của Tà ngữ:
          Người hay nói tà ngữ có nhiều tai hại:
          1- Thường bị mọi người mất niềm tin và chán chê xa lánh.
          2- Chư Thiên và Thần Thánh không ủng hộ, lại còn bị các Ngài trừng phạt cả gia đình, như trường hợp bà lão bồng đứa cháu đến nhờ Đức Thầy trị bịnh…năm 1939. (Xem Chuyện bên Thầy, Quyển 1)
          3- Đời sống chẳng những bị mọi người cô lập, không yên mà còn gây nhân luân hồi quả báo về sau, như câu chuyện người bán ngọc trong tiền thân Đức Phật…
          E- Hành Chánh ngữ:
          Muốn được Chánh ngữ nhà tu cần trì hành những điểm như sau:
          1- Đối với mọi người, mọi giới lúc nào cũng tập sửa lời nói mình cho được chơn chánh, đúng với sự thật.
          2- Bỏ dứt những tiếng xảo ngôn tráo chác, chửi rủa thô tục hoặc kêu mời Thần Thánh Trời Phật.
          3- Khi bàn luận việc chi phải nói ngay thẳng và đối với kẻ dưới bề trên, cần dùng lời hiền lương đức hạnh.
          4- Thường lấy lời hòa diệu khuyên bảo kẻ khác làm theo lẽ phải, có ích lợi cho đời và thích hợp với tinh thần Đạo đức.
          G- LỢI ÍCH CHÁNH NGỮ:
          Khi hành được Chánh ngữ sẽ đặng các món lợi ích:
          1- Khẩu nghiệp luôn thanh tịnh, tập nghiệp xấu ác của miệng lưỡi không còn.
          2- Không bị tai họa vì lời nói, trái lại còn nhờ lời nói chánh ấy giúp mình lập được nhiều công đức.
          3- Thường được chư Thiên và quỉ Thần ủng hộ.
          4- Sống trong các giới chúng sanh có nhiều bạn lành và địa vị mình được nhiều người nâng nhắc.
          5- Miệng lưỡi thường thơm sạch, ngôn ngữ siêu thắng chuyển hóa được nhiều người hướng thiện.
                                                                         H- Kết luận:
          Tóm tắt lời nói tà ngữ là một tội ác to lớn nhưng khi hành được Chánh ngữ thì không còn bị quả báo về khẩu nghiệp, thường nói lời lợi lạc cho mọi người và đường về Cực lạc, Niết Bàn không còn bị chướng ngại.
 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
          LỤC TRẦN: (Xem CT chữ Lục trần mục Chánh Tinh tấn).
          NGHIỆP CHƯỚNG: (Xem CT chữ Nghiệp chướng bài “Luận về Tam nghiệp”).
          ĐỨC HẠNH: Đức là tâm lành, từ bi và bình đẳng; Hạnh là nết tốt, cử chỉ đoan trang lễ phép. Đức Thầy dạy:
                    “Rán giữ gìn luân lý tam cang,          
             Tròn đức hạnh mới là báu quí”. 
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa Chánh ngữ và Tà ngữ?
          2/- Lý do nào sanh ra Tà ngữ?
          3/- Hành trạng tà ngữ ra sao?
          4/- Người nói không chánh ngữ có tai hại gì?
          5/- Muốn được chánh ngữ ta phải làm sao?
          6/- Lợi ích khi được Chánh ngữ như thế nào?
          7/- Tóm kết khi hành chánh ngữ ra sao?
*
*    *
VII- ĐẠO ĐỀ: CHÁNH NIỆM
CHÁNH VĂN
          CHÁNH-NIỆM.- Ghi nhớ sự chân chánh.
          Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng ... Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí não phụng sự cho nó. Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quý ... được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.
          Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm than hoạn-họa, hãy rán tưởng niệm phương pháp hành Đạo, bỏ các điều phù phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác-thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc động các mối dục tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.
 
LƯỢC GIẢI
          A- Định nghĩa:
          -Chánh niệm là ghi nhớ các việc chân chánh tốt lành.
          -Tà niệm là ghi nhớ những điều tà vạy nhơ xấu.
                       B- Nguyên nhân sanh Tà niệm:
          Nguyên nhân sanh tà niệm là bởi thất tình, lục dục sai khiến, làm cho con người dồn hết tâm cơ, trí não phụng sự cho nó.
          C- Hành trạng Tà niệm:
          Trong lòng ghi nhớ mãi những việc: danh, lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí…và các điều còn mất, có không, thành bại, thương ghét không phút nào yên tịnh.
     D- Tai hại Tà niệm:
          Những ghi nhớ sai lầm nói trên, chẳng những làm cho trí huệ mờ đục mà còn khiến con người mãi lăn lộn trong 6 nẻo luân hồi, không thoát khỏi vòng sanh tử. Đức Thầy từng bảo:
                 “Nay cõi tạm sông sầu bể khổ,
                   Làng ngựa xe cám dỗ tao nhân.
                      Gây ra lắm nợ phong trần,
               Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
          E- Hành Chánh niệm:
          Để thi hành được Chánh niệm, hầu thoát khỏi vòng luân hồi thống khổ, hành giả cần trì hành các phương pháp như sau:
          1- Luôn tưởng niệm những phương pháp hành đạo, như:“Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới để độ Tham, Sân, Si”; hoặc niệm Phật  để trừ vọng niệm chúng sanh…Và xả bỏ sự tưởng nhớ các điều phù phiếm xa hoa.
          2- Luôn nhớ nghĩ đến thân tứ đại giả hợp không bền chắc, sớm muộn gì cũng tan rã và mọi vật chất tiền tài, sự nghiệp, đến xác thân ta đều là phù hoa ảo ảnh. Tất cả phải bị chi phối bởi định luật “hữu hình tắc hoại”. Đức  Thầy luôm nhắc nhở:
                   “Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
                    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
                    Thân ta còn rày đó mai đây,
                    Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.
          G- LỢI ÍCH CHÁNH NIỆM:
          Hành giả khi tu được Chánh niệm tất đặng những điều lợi ích đáng kể:
          1 -Lúc nào cũng làm chủ thân tâm và thắng phục các thị dục, vô minh phiền não tiêu vong.
          2- Đối với mọi trần cảnh không còn xúc động, tâm luôn được an nhiên tự tại.
          3- Dứt được cuộc đời lầm than khổ lụy.
          4- Tâm hạnh phước trí ngày càng vượng lớn, khiến ai cũng kính nghe.
                                                                            K- Kết luận:
          Tóm lại, người tu hành khi được Chánh niệm, tức đặng giại thoát sanh tử luân hồi và sớm thành quả chánh giác
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
          THẤT TÌNH: Bảy cái tình trong tâm tưởng con người, tức là:“Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục”. Có nghĩa: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn. Bảy cái tình ấy ví như bảy con ma, hay xúi người làm quấy. Đức Thầy hằng khuyên:“Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung”.
          LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn của vọng tâm đối với sáu trần cảnh là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Lục dục cũng gọi là: sắc trang, tài lợi, danh vị, tư vị, hư vọng, tật đố. Nó ví như sáu con ma hay khơi gợi người đam mê ưa thích làm điều xằng bậy. Đức Thầy răn dạy:
                    “Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm”.
          TÂM CƠ: Cơ mưu riêng trong lòng.
          TRÍ NÃO: Trí óc. Nói riêng về sự hiểu biết, suy tính.
          SÁU ĐƯỜNG: Nghĩa của chữ “Lục đạo”. Cũng gọi là 6 nẻo luân hồi, gồm có: cõi Trời, cõi người, cõi Thần, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Đức Thầy có câu:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
          PHÙ PHIẾM: Bâng quơ, không thiết thực.
          XÚC ĐỘNG: Động lòng, mủi lòng, cảm động nhiều.
          LỤY KHỔ: Tai hại khổ sở.
 
CÂU HỎI
          1/- Định nghĩa chữ Chánh niệm và Tà niệm?
          2/- Nguyên nhân nào sanh tà niệm?
          3/- Hành trạng của tà niệm ra sao?
          4/- Người còn tà niệm có tai hại gì?
          5/- Muốn được chánh niệm phải làm sao?
          6/- Hành chánh niệm đặng lợi ích gì?
          7/- Giải nghĩa chữ thất tình và lục dục?
          8/- Đức Thầy bảo hãy tưởng niệm phương pháp hành Đạo, nên kể một vài phương pháp chứng minh?
*
*    *
VIII- ĐẠO ĐỀ: CHÁNH ĐỊNH 
CHÁNH VĂN
          CHÁNH-ĐỊNH.-  Suy gẫm chơn-chánh.
          Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên ... nghĩa là những ý-định hoàn toàn nhỏ nhen, thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái Sanh, cái Bịnh, cái Lão, cái Tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác ... rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bả lợi danh, mùi phú quý, đi theo những vặt-vụn, tiểu ti, eo-hẹp.
          Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền-định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta dùng sự Chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-thoát.
 
LƯỢC GIẢI
          A- Định nghĩa:
          - Chánh định cũng như chữ Thiền định. Có nghĩa để tâm yên lặng, quán xét, suy tầm việc Đạo lý mầu nhiệm một cách rõ ràng. Có diệu năng đối trị Tà định.
          - Tà định là dự suy gẫm tà vạy, xấu ác, sai lầm.
          B- Nguyên nhân sanh Tà định:
          Do lòng tham lam ích kỷ, con người mãi mê đắm theo mọi sự dục lạc trong trần.
          C- Hành trạng Tà định:
          Người chưa hiểu Đạo có những ý định sai lầm như sau:
          1- Ý định làm sao cho mình được cao sang sung sướng thêm lên và sáng biết mọi việc nhỏ nhen thấp thỏi.
          2- Không nhận được cuộc đời là giả tạm, nay đổi mai dời:
                    “Chữ phù vân phú quí nay mai,
                    Luân với chuyển dời qua đổi lại”.( ĐT)
          Hay là:“Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)
          3- Không nhận được xác thân vô thường, nó phải đi theo định luật: sanh, già, bịnh, chết. Cả nhơn loại chúng sanh không một ai thoát khỏi.
          D- Tai hại Tà định:
          1- Do xét định sai lầm ấy, khiến tâm trí con người cuống cuồng theo bả lợi danh, mùi phú quí:“Mê man danh lợi cõi hồng trần”.( ĐT)
          2-Lo gây tạo ác nhiệp rồi vương mang những vật tiểu ti eo hẹp, nên phải lăn lộn trong bánh xe luân hồi thống khổ. Đức Thầy đã bảo:
                    “Bá tánh say sưa mùi phú quí,
                    Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao”.
          E- Hành Chánh định:
          Muốn tránh các điều khổ nói trên, hành giả phải suy gẫm, quán xét những điều sau đây:
          1- Suy gẫm ngoài kiếp phù du của trần thế, còn có các cõi khác bất di bất dịch, vĩnh viễn trường tồn, như: Niết Bàn, Cực lạc. Cõi ấy con người chẳng còn buồn khổ hay quả báo luân hồi:
                    “Tội tiêu phước hưởng trường tồn,
                Không còn mắc nẻo dại khôn luân hồi”.( ĐT)
          2- Dùng thiền định phá tan màn vô minh, phiền não và các làn sóng thị dục, để lòng được an nhiên, thanh tịnh. Đức Thầy từng dạy:
                   “Mục Chánh định thật là rất khó,
                    Giữ tấm lòng bất động như như.
                    Cho hồn linh yên lặng an cư,
                    Thì mới được huờn nguyên phản bổn”.
          G- Lợi ích hành Chánh định:
          Nhà tu khi trì hành được Chánh định theo các điểm vừa kể trên, tất đặng những điều cao quí:
          1- Bên trong chẳng còn xao động, các tập nghiệp phiền não tiêu tan, trí tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, dứt tuyệt sự mê lầm (vô minh hoặc):“Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật”..( ĐT)
          2- Bên ngoài thì không hề duyên nhiễm theo các trần cảnh. Tuy sống chung với mọi người và cũng làm các việc giúp đời độ chúng, nhưng không một cảnh vật nào chi phối được mình. Tâm trí lúc nào cũng như như bất động, tự tại giải thoát:“Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)
          H- Kết luận:
          Tóm tắt khi hành giả tu được Chánh định thì tà định tiêu tan trong tức khắc. Bấy giờ trí ta chẳng còn loạn động vì phiền não, như: kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc và trần sa hoặc. Lúc nào tâm ta cũng thanh tịnh sáng suốt, thấy biết phân tách vạn pháp một cách rõ ràng, như thấy chỉ trong lòng bàn tay và chứng đại định Niết Bàn.
 
TỔNG KẾT
          Đại khái Bát Chánh Đạo là Đạo Đề. Chẳng những một trong Tứ Diệu Đề mà còn là Tám pháp Đạo phần, trong 37 phẩm trợ Đạo. Nó có diệu năng đối trị Bát tà và nhổ tận gốc nghiệp duyên phiền não, tức là tập nghiệp vô minh. Đây là pháp tu căn bản duy nhứt để thành quả Tam thừa và Phật thừa.
          Là một môn đồ nhà Phật, đã quyết chí tu hành để giải thoát cho mình và cả vạn loại, ta há chẳng lấy đây làm Kinh nhật tụng để hành trì ư. 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
          LẠC LUÂN: Lưu lạc rày đây mai đó, hoặc lên xuống theo bánh xe luân hồi.
          PHÙ VÂN: Mây nổi. Ý chỉ cái gì không bền chắc, thấy đó rồi mất đó. Đức Thầy có câu:“Một cuộc phù vân có mấy hơi”. Hay:
                    “Cuộc phù vân phú quí nay mai,
                     Luân với chuyển dời qua đổi lại”.
          PHÙ DU: Một thứ côn trùng nhỏ như chuồn chuồn bay trên mặt nước. Tối lại, thấy ánh sáng của bóng đèn bay quanh theo, rồi bị lửa nóng chết. Ý nói kiếp sống con người quá ngắn ngủi, dù có tham luyến vật chất tiền tài cũng chẳng hưởng lâu bền mà lại phải chết vì nó. Đức Thầy đã nói:
                   “Con phù du hẫng hờ nào biết,
                    Thấy bóng đèn thì quyết chun vô.
                    Thảm thương thay chết héo chết khô,
                    Nhìn đèn nọ thấy mồ phù dũ.
                    Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,
                    Đeo danh lợi như con vật ấy”.
          BẢ LỢI DANH: Bả là đồ ăn có tẩm thuốc độc. Ý nói ai tham danh lợi như người tự uống thuốc độc mà chết.
          MÙI PHÚ QUÍ: Cũng viết là mồi phú quí. Ý nói sự phú quí vinh hoa như miếng mồi có mùi thơm, tức có lưỡi câu trong đó, ai tham phú quí như cá tham mồi thì phải mắc câu, tất có hại.
          KHÔNG DI KHÔNG DỊCH: Chẳng dời chẳng đổi. Chỉ cho cái gì còn hoài không mất. Đây chỉ cho cảnh Niết Bàn.
          U MINH: Tối tăm mù mịt, cũng gọi là vô minh.
          PHIỀN NÃO: Hán học giải là buồn rầu, lo sợ, sân si. Phật học giải là cái vọng niệm tà quấy sai lầm. Phiền não kể ra có vô lượng, nhưng tóm tắt lại gồm có ba món căn bản, là:“Tham, Sân, Si”, nó có thể nảy sanh muôn ngàn trần lao phiền não khác. Trong bài “Các câu chú thường niệm” Đức Thầy có dịch:
                    “Nghe chuông phiền não tiêu tan,
                      Bồ đề tâm mở trí toan huệ mầu”.
 
CÂU HỎI
          1/- Hãy định nghĩa Chánh định và Tà định?
          2/- Lý do nào sanh tà định?
          3/- Hành trạng tà định ra sao?
          4/- Người sống theo tà định có tai hại gì?
          5/- Muốn được chánh định ta phải làm sao?
          6/- Hành chánh định đặng lợi ích gì?
          7/- Tóm tắt ai tu được Chánh định tâm trí như thế nào?
          8/- Hãy cho biết tổng kết phần Đạo Đề?
*
*    *
IV- TỨ DIỆU ĐỀ : DIỆT ĐỀ
          Vừa qua chúng ta đã tu học phần Đạo Đề, để diệt trừ tận gốc tập nghiệp vô minh phiền não. Giờ đây, chúng ta học đến Diệt Đề, tức là phần chứng diệt. Thể theo ý Đức Thầy thì Diệt Đề là “Môn Hoàn Diệt”, trong đây gồm có hai phần: Phương pháp diệt khổ và hưởng quả Niết Bàn.
CHÁNH VĂN 
MÔN HOÀN DIỆT
          Nếu ta tìm con đường Bát Chánh Đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh-tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn-giận, chẳng dạ ghét-ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền-não và để bụng tham-lam ích-kỷ, gây mối thiện-duyên, lần lần trí-huệ mở-mang, cõi lòng sáng-suốt, thì màn vô-minh sẽ bị diệt mất.
         Vô-minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh-sắc diệt; danh-sắc diệt thì lục-nhập diệt; lục-nhập diệt thì xúc-động diệt; xúc-động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo-thủ diệt; bảo-thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tử diệt. Ấy là giải-thoát vậy
                                                                                                                 Bạc Liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)
 
LƯỢC GIẢI
A- PHƯƠNG PHÁP DIỆT KHỔ
          Trong các phương pháp diệt khổ, Đức Thầy dạy môn đồ phải:“Nương theo con đường Bát Chánh Đạo”, tức là Đạo Đề mà tiến hành. Bởi trong Bát Chánh Đạo gồm có ba phần: phần Chánh Nghiệp trừ các tập nhân về thân. Phần Chánh Ngữ diệt được các tập nhân về Khẩu. Còn lại 6 Chánh là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh tấn, Chánh Mạng, Chánh Nệm và Chánh Định diệt sạch vô minh phiền não.
          Tuy nhiên, qua phần Diệt Đề, Đức Thầy cũng dạy thêm một ít phương thức để hộ trợ hành giả tiến lên đường tự giác, giác tha của Bồ Tát và Phật.
          1- Giữ tâm thanh tịnh:
          Bởi biển tâm của mỗi chúng sanh lúc nào cũng có các làn sóng phiền não dấy lên làm mờ đục trí huệ, do 6 ngọn gió trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, hoặc 8 luồng gió “Bát phong” làm dao động: “Gió bát phong chao ngọn đèn tâm”.(Bát phong gồm có: Lợi (lợi lộc),Suy (bị thua thiếu), Hủy (danh thơm), Dự (tiếng xấu), Xưng (ca ngợi), Cơ (chê bai), Khổ (khổ nạn),Lạc (yên vui)) Giờ đây ta phải dùng sức tự lực làm chủ tâm mình và thi hành Chánh Mạng, Chánh Niệm và Chánh Định... Đồng thời quán xét các trần cảnh như phù hoa ảo ảnh, như trò huyễn thuật, không thật có, để tâm mình:“Chẳng luyến trần ảo ảnh gạt lường”( ĐT). Đặng vậy, tâm ta chẳng còn duyên nhiễm theo trần cảnh, lúc nào cũng vẫn bình tịnh sáng suốt. Ấy gọi là tự giác.
          2- Làm việc nhơn từ:
          Khi tâm hành giả được thanh tịnh, sáng suốt thì đối với các trần cảnh lòng luôn được an nhiên tự tại, như hoa sen “cư trần bất nhiễm”. Giờ đây ta phải mở lòng từ bi, thương xót muôn loài vạn vật còn đang ngụp lặn trong bể trần thống khổ, nên dùng phương tiện giúp đỡ từ tinh thần lẫn vật chất, khiến họ được an vui hạnh phúc và biết được Đạo lý tu hành, hầu tiến sang bờ giải thoát. Ấy là phần giác tha.
          3- Không lòng hờn giận chẳng dạ ghét ganh:
          Lòng hờn giận và đố kỵ ghét ganh là hai món phiền não khó trừ, diệt hết phần thô lại còn phần vi tế và tập khí, nó ăn sâu trong tạng thức của mỗi người, hành giả khó nhận ra. Ở đời người ta ganh tị thù ghét những người hà hiếp, quấy phạm với mình là thường. Nơi đây Đức Thầy muốn chỉ cái tánh hay ganh hiền ghét ngõ, đố kỵ thù hằn đối với các bậc tài đức hơn mình mà xưa nay, từ trường đời đến cửa Đạo đều có xảy ra.
          - Trường đời thì nịnh ghét trung, tiểu nhân hiềm tị quân tử. Như: Tần Thỉ Hoàng oán ghét hàng Khanh Sĩ, Châu Do danh tị Khổng Minh, Bàn Quyên tị hiềm Tôn Tẩn...
          - Cửa Đạo thì tà ghét chánh, hung ác ghét hiền nhơn. Như: Đạo chích tị hiềm Khổng Tử, vợ vua Lương Võ Đế đố kỵ Hoà Thượng chí công; Đề Bà Đạt Đa ganh hiền Đức Phật và chúng tăng. Đức Thầy đã phô diễn:
                    Thấy chúng sanh ghét ngõ ganh hiền,
                    Theo chế nhạo những người tu tỉnh”.
          Và:
                    “Ra đời chẳng nệ công lao,
           Chẳng hờn, không giận, hùng hào còn ganh”.
          Cho nên Ngài dạy môn đồ muốn tiến lên đường giải thoát, cần phải:“Không lòng hờn giận chẳng dạ ghét ganh”.
          4- Chuyên tâm niệm Phật giúp thế độ đời:
          - Đoạn nầy Đức Thầy dạy người tu vừa tự giác và vừa giác tha. Chuyên tâm đồng nghĩa với chữ nhứt tâm. Nghĩa là chỉ một lòng tưởng Phật, nhớ Phật để trở về với tánh giác ngộ, không để một vọng tưởng nào xen tạp. Niệm như vậy cho đến khi vô minh vọng hoặc tan hết, tức huệ nhựt hiện bày và tâm hành giả được hòa vào Bản lai thanh tịnh. Vào thời mạt pháp chúng ta muốn chuyển hoá vô minh phiền não trở thành thanh tịnh Niết Bàn, chỉ có pháp “chuyên tâm niệm Phật” là giản tiện hơn hết.
          - Đồng thời với sự chuyên tâm niệm Phật (tự giác) nhà tu cần thực hiện lòng từ bi, giác chúng độ đời (giác tha) để hoàn thành hạnh đại thừa của Bồ Tát và tối thượng thừa của Phật.
          5- Đừng chứa điều phiền não và để bụng tham lam ích kỷ:
          Tới đây, Đức Thầy nhắc lại ba món phiền não căn bản: Tham, sân, si, nó đã ăn sâu trong tâm thức của mỗi người, từ vô thỉ tới giờ. Nhà tu diệt hết phần thô và phần vi tế, lại còn phần tập khí. Bởi nó không có hình tướng, chỉ thoáng qua như hơi gió, xuất hiện bất ngờ nên khó trừ. Chính nó là đầu mối, là căn bản (vô minh). Cho nên đồng thời với các phương pháp vừa kể qua, hành giả cần gom hết năng lực trí tuệ của mình, chiếu phá tận gốc rễ của nó để đạt đến Niết Bàn giải thoát.
          6- Hoàn diệt:
          Theo Đức Thầy dạy, khi hành giả nhổ tận gốc:  tham, sân, si (vô minh) thì hành đắc thất và thức nhân ngã cũng tiêu vong. Hễ cái tâm thức hiểu biết phân biệt không còn thì danh sắc chẳng do đâu mà sanh được. Danh sắc đã không có (không sanh) thì đâu có 6 căn để duyên nhiễm theo sáu trần (lục dục) mà sanh ra xúc động. Khi xúc động đã hết thì thọ cũng mất luôn và đâu có sự vật nào để thương yêu luyến ái mà bảo thủ. Khi lòng đã buông xả không còn bảo thủ thì đâu còn chấp tâm hay chấp pháp mà gọi rằng có (hữu). Đã không có hữu thì đâu còn sanh ra con người ở cõi trần để bị định luật sanh, già, bịnh, chết chi phối.
          Hành Đạo đến đây nhà tu hoàn toàn giải thoát mà vào cảnh “Thanh tịnh Niết Bàn”
               “Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)
B- HƯỞNG QUẢ NIẾT BÀN
          Đây là lối về tới đích, là cứu cánh của người tu Phật:
                    “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
                    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.( ĐT)
          Như đã hiểu rõ Niết Bàn là nơi cứu cánh giải thoát, là diệt khổ, là viên tịch; cũng gọi là bất sanh bất diệt và pháp thân thường trụ...Song bất biến mà cũng tùy duyên và tùy duyên mà bất biết, lúc nào cũng tự tại vô ngại.
          Giờ đây chúng ta cần khảo xét cho chín chắn để chúng ta có một chánh tín và vững tiến. Tuy nhiên cũng tùy theo tâm đức và công năng tu tập của mỗi hành giả mà sự chứng đắc Niết Bàn có rộng hẹp và thứ bậc khác nhau:
          1- Niết Bàn của THINH VĂN và DUYÊN GIÁC:
          a)- Theo Kinh xưa, hành giả tu chứng tứ thông hoặc Bát thông Thiền định. (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền gọi là Tứ thông Thiền định. Thêm bốn bực nữa: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi phi tưởng gọi là Bát thông Thiền định). Trừ hết ngã chấp được chứng 3 quả Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm, nhưng vi tế và tập khí phiền não còn sót lại nên còn quả báo năm ba kiếp nữa. Song nhờ ngã chấp chẳng còn, nên dầu ở trong sanh tử vẫn không bị ràng buộc như chúng sanh thường. Thế gọi là chứng quả “Hữu dư y Niết Bàn”.
          b)- Khi nhà tu trì hành 37 phẩm trợ Đạo, được chứng quả A La Hán, các phiền não và câu sanh ngã chấp không còn. Ấy là hoàn toàn giải thoát ra khỏi sanh tử luân hồi, tâm luôn được tự tại ngoài vòng Tam giới, nên gọi là “Vô Dư y Niết Bàn”.
          2- Niết Bàn của Bồ Tát và Phật:
          Trong hàng Thinh Văn và Duyên Giác đạt đến chỗ Vô Dư Y Niết Bàn, tuy đã đoạn hết phiền não phần thô và vi tế, nhưng phần tập khí vẫn còn phưởng phất đôi chút, công đức, trí huệ chưa viên mãn, bởi tâm lượng độ tha chưa sâu rộng. Tu tới đây chỉ chứng Tiểu thừa của hàng Thinh văn, Duyên Giác mà thôi. Cho nên hành giả phải tu lên Đại thừa của Bồ Tát và tối Thượng Thừa của Phật. Trong Niết Bàn Đại thừa cũng chia làm hai phần:
          A- VÔ TRỤ XỨ NIẾT BÀN:
          Chỉ cho các hàng Bồ Tát tu “Lục độ vạn hạnh” và “Tứ vô lượng tâm”. (-Lục độ: Bố thí, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. -Tứ vô luợng tâm: Điạ từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả) Đã thấu rõ “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” pháp tánh bình đẳng như như, không có gì là chắc thật cố định. Các Ngài đã chứng được tự tánh bình đẳng hòa quan đồng trần, giáo hóa chúng sanh. Tuy thi hành công tác độ tha mà vẫn ở trong chánh quán và tâm vô trụ. Bồ Tát xem vạn pháp như huyễn, cho đến sanh tử hay Niết Bàn cũng không thật, nên tâm các Ngài không dính mắc vào chỗ nào:“ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.(Kinh Kim Cang)
            Do đó hàng Bồ Tát luôn vào trong sanh tử, dùng “Tứ nhiếp pháp” (là Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự nhiếp hóa) giáo hóa chúng sanh mà tâm vẫn ở trong Niết Bàn tự tánh, như trường hợp Đức Lục Tổ Huệ Năng, Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ hiện nay...các Ngài đã “Siêu phàm nhập phàm”.
          B- TÁNH TỊNH NIẾT BÀN: 
          Đây là chỉ cái thể vắng lặng mà diệu mầu, tuy sáng suốt linh hoạt mà vẫn thanh tịnh an nhiên “Chơn không mà diệu hữu”. Đức Thầy dạy môn đồ tu đạt đến chỗ nầy “Hãy tìm kiếm cái không mới có”. Đây cũng gọi là Phật tánh, là chơn tâm hoặc Bản lai thanh tịnh hay Như Lai Tạng...
          Hành giả tu đạt đến:“Tự tánh thanh tịnh Niết Bàn” sẽ thành Phật (Giác hạnh Viên mãn). Và có đủ bốn đức: Thường, Lạc, Ngũ, Tịnh.
          3- Bốn Đức Niết Bàn:
          a)- Chơn thường: là bản tánh thường hằng chơn thật, không bị chi phối bởi luật vô thường của thế gian.
          b)- Chơn lạc: là cái vui chơn thật, vì tâm không còn buồn khổ, lo sợ như các giới chúng sanh ở thế gian, nên tạm gọi là vui, chớ không phải cái vui tầm thường ích kỷ.
          c)- Chơn ngã: Đây là cái tâm bình đẳng xem vạn vật đồng nhất thể, tức là hoà vào cái đại ngã. Lúc nào cũng bình đẳng an nhiên, tự tại vô ngại, không còn bị nội tâm hay ngoại cảnh sai sử phân biệt.
          d)- Chơn tinh: là tâm hoàn toàn trong lặng sáng mầu, như mặt nước hồ thu hay Đài Nguyệt Kiến, không còn một tập khí nhiễm ô nào cả:
               “Tâm sáng suốt như Đài Nguyệt Kiến,
                Tánh trong như nước bích mùa Xuân”.( ĐT)
          4- Nhận Định:
          Theo Đức Giáo Chủ PGHH, hiện nay thì ý nghĩa của chữ Niết Bàn và cấp bực cũng như các Kinh luận giải từ trước. Nhưng về phương tiện hành đạo thì có giản dị hơn, để rộng độ các tầng lớp chúng sanh tiện bề học hỏi và trì hành.
          Qua yếu chỉ của Đức Thầy hướng dẫn, tuy hầu hết tín đồ PGHH chỉ mang hình thức Cư sĩ, nhưng phần nội tâm vẫn được tu công hạnh Bồ Tát Đạo để ra khỏi sanh tử và tiến tới Niết Bàn. Chứng cứ là trong đường lối “Học Phật Tu Nhân” Ngài đã đề vạch. Khi hành giả vừa bước đầu (tu nhân), Ngài đã rút ngay Phẩm Báo Tứ Ân, trong Kinh Đại Thừa Tâm Địa Quán” để dạy tín đồ:“Thượng báo tứ trọng Ân, hạ tế tam đồ khổ”. Đồng thời phải tiêu diệt mầm móng sanh tử là tránh Tam Nghiệp, chừa Thập ác để được trọn lành, trọn sáng.
          Kế đó, phải tiến lên phần tu Phật là phải thi hành công hạnh tự giác, giác tha bằng cách hành trì Bát Chánh Đạo để cải thiện hành động, ngôn ngữ, tư tưởng cho mình và cho người, được toàn hảo toàn hòa, an vui hạnh phúc, như Ngài đã dạy:“Bát Chánh Đạo là quyển Kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ tấn triển trên đường giải”. Chính đó là Đạo Đề.
          Vì thế trong phần Diệt Đề (Môn Hoàn Diệt) Đức Thầy dạy:“Nếu ta tìm con đường Bát Chánh Đạo của Phật mà đi” tất sẽ được hưởng quả Niết Bàn, Song tùy theo tâm đức và công năng giới hạnh của mỗi nhà tu mà sự chứng đắc Niết Bàn có nhiều bực, như từ trước.
          5- Khảo Xét:
          Khảo xét sâu vào Bát Chánh Đạo, tức Đạo Đề, thấy rằng: Nếu ai hành đặng Chánh Nghiệp, Chánh Ngữ, Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, sẽ phá được kiết sử và kiến hoặc, tư hoặc; tức là 10 món phiền não căn bản thì chứng quả Niết Bàn của hàng Thinh Văn và Duyên Giác.
          Còn ai tu đạt thành luôn bốn chánh: Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niệm và Chánh Định tất đoạn được trần sa hoặc và vô minh hoặc thì đặng Niết Bàn của Bồ Tát và Phật. Vì Đức Thầy đã từng dạy:“Thiền Định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”. Hoặc là:
                    “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật,
                    Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.
          III- KẾT ĐỀ:
          1- Tóm tắt:
          Nói tóm lại nhà tu muốn chứng diệt (Diệt Đề) cần phải hành trì Đạo Đề, tức Bát Chánh Đạo. Tuy nhiên cũng tùy theo công hạnh rộng hẹp, tâm đức cạn sâu của mỗi hành giả mà hưởng quả Niết Bàn của hàng Thinh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát và Phật. Song bực nào cũng được giải thoát sanh tử bình đẳng như nhau.
          2- Tổng Kết:
          Tổng kết bài Sơ giải Tứ Diệu  Đề, Đức Thầy dạy môn đồ, trước nhất phải tự kiểm nhận cho rõ kiếp sống khổ của chính mình và toàn thể chúng sanh đang gánh chịu, qua tám nỗi khổ. Chẳng những chịu các nỗi khổ của thân lẫn tâm, còn phải đương đầu với bao cảnh khổ bên ngoài đưa đến, bởi do cộng nghiệp hay biệt nghiệp của mỗi chúng sanh hay nhiều chúng sanh tạo ra.
          - Kế tiếp chúng ta muốn tránh các nỗi khổ đó cần phải quán xét tận gốc rễ của nó từ đâu sanh ra. Cho nên phần Tập Đề giúp chúng ta thấy rõ gốc khổ là do vô minh phiền não đã huân tập, kết cấu từ vô thỉ, đó là 12 duyên sanh mà vô minh là đứng đầu. Nó trói trăn chúng ta trong luân hồi sanh tử, từ vô lượng kiếp đến nay.
          - Giờ đây, chúng ta muốn diệt tận gốc nó phải tu Đạo Đề, tức Bát Chánh Đạo. Trì hành Bát Chánh Đạo xong, tức vô minh phiền não tan biến và bẻ gãy 12 duyên sanh mà thành đạt mục đích. Ấy gọi là chứng diệt.
          - Đến phần Diệt Đề phân tách cho chúng ta thấy rằng: trong lúc thực hành phương pháp giải khổ cũng tùy theo công năng, tâm đức của mỗi hành giả sâu rộng hay vừa chừng mà chứng Niết Bàn tương xứng.
          Đã là bốn chơn lý bất diệt, là 4 pháp mầu nhiệm vô biên, người tu Phật dẫu từ ngàn xưa hay hiện nay, cho đến ngàn sau, ai ai cũng phải công nhận và trì hành. Bởi Tứ Diệu Đề là phương tiện duy nhứt, có diệu năng đưa hành giả dù hạng nào: Xuất gia hay Cư sĩ, nếu ai thi hành được cũng đều đạt quả Tam thừa và Chánh giác như nhau.
 
CHÚ THÍCH (Bài Môn Hoàn Diệt)
          DIỆT ĐỀ: Một trong Tứ Diệu Đề, cũng gọi là Diệt Đế, là chứng Diệt hay nhập Diệt. Có nghĩa diệt dứt phiền não vào Niết Bàn. Ý nói sau khi hành Đạo Đề xong thì vô minh phiền não chẳng còn, hành giả được hoàn toàn giải thoát sanh tử mà nhập Niết Bàn:
                    “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,
                    Về chốn ni xa lánh hồng trần”.( ĐT)
          (Lưu ý chữ Diệt ở đây khác nghĩa với chữ Diệt Đề trong quyển Giác Mê Tâm Kệ (1939). Và các từ ngữ trong Môn Hoàn Diệt đã có giải trong phần lược ý).
 
CÂU HỎI
          1/- Diệt Đề là gì, và trong đây có mấy phần chính?
          2/- Trong phương pháp diệt khổ, Đức Thầy dạy như thế nào?
          3/- Muốn giữ tâm thanh tịnh ta phải làm sao?
          4/- Làm những gì gọi là làm việc nhơn từ?
          5/- Lòng hờn giận, ghét ganh ra sao?
          6/- Phiền não là gì, tai hại ra sao mà Đúc Thầy bảo đừng chứa?
          7/- Giải rõ về cách Hoàn Diệt?
          8/- Quả Niết Bàn là gì mà người tu cần đạt đến?
          9/- Niết Bàn của Thinh Văn Duyên Giác ra sao?
          10/- Sao gọi là Hữu dư y Niết Bàn?
          11/- Vô dư y Niết Bàn ra sao?
          12/- Cho biết Niết Bàn Đại Thừa của Bồ Tát và Phật?
          13/- Tu như thế nào mới nhập Vô trụ xứ Niết Bàn?
          14/- Tánh tịnh Niết Bàn ra sao?
          15/- Thế nào gọi là 4 đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh?
          16/- Diệt Đề theo Đức Thầy dạy, ta nhận định ra sao?
          17- Khảo xét về tu Bát Chánh Đạo như thế nào?
          18/- Tóm tắt mục Diệt Đề ra sao?
          19/- Cho biết Tổng kết bài Sơ giải Tứ Diệu Đề?
*
*    *
6- TỨ DIỆU ĐẾ (Bài hai) 
LƯỢC GIẢI:
          Như chúng tôi đã giới thiệu, Đức Thầy giảng pháp Tứ Diệu Đề hai lần. Chúng ta vừa nghiên cứu qua bài Sơ giải Tứ Diệu Đề Ngài dạy năm 1942, giờ đây chúng ta cần khảo xét bài Tứ Diệu Đề Ngài viết trong “Giác Mê Tâm Kệ” (1939).
          Ôn lại quá trình lịch sử, Đức Thích Ca khi xưa qua 5 thời kỳ thuyết pháp độ sanh, gồm có 3 tàng Kinh điển hàm chứa vô lượng pháp môn. Có những pháp, Phật chỉ giảng lược qua một lần, cũng có những pháp Phật giảng đi giảng lại nhiều lần, như ngay lúc sơ khởi Phật đã thuyết Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, Thập nhị Nhân Duyên...Rồi đén thời kỳ Niết Bàn chót hết, Ngài cũng giảng lại pháp ấy, nhưng Ngài giảng sâu hơn, để phá chấp cho các hàng La Hán và Bồ Tát. Những Pháp môn Đức Phật áp dụng liên tục như vậy, quả là những giáo lý căn bản, then chốt trong Đạo Phật.
          Thời nay, tới Đức Thầy cũng thế: pháp Tứ Diệu Đề Ngài giảng 2 lần, còn Bát Chánh Đạo giảng luôn 3 lần. (Lần 1 trong Giác Mê Tâm Kệ, lần 2 trong bài Dặn Dò Bổn Đạo, lần 3 (văn xuôi) trong phần nhì Thi Văn Giáo Lý năm 1942). Bài pháp Tứ Diệu Đề trong Giác Mê Tâm Kệ, Ngài lược tả bằng văn vần. Chúng tôi căn cứ vào đây mà diễn lược ý nghĩa để chúng ta cùng tu học hết hai bài mới thấy chỗ dụng ý của Ngài. Mở đề cho bàp Pháp luận nầy, Ngài nói:
                    “Tứ Diệu Đề ai có mến ưa,
                    Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.
          1- TẬP ĐỀ: Tu tập sửa đổi.
          Ý nói khi mới đặt chân vào cửa Đạo, nhà tu cần ghép mình trong khuôn khổ luật nghi và lo trau sửa thân tâm, cho đúng theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy. Với công hạnh tu sửa nầy, dù gặp nhiều khó khăn, cực nhọc ta cũng phải cố gắng trì hành.
                    “Qui y thì khá làm y,
               Giữ lòng thanh tịnh Từ bi giúp đời”.
          Có được như vậy mới chứng đặng quả vị Phật Thánh, và siêu sanh vào Niết Bàn, Cực lạc như Ngài đã dạy:
                   “Chữ Tập Đề nay đà mở cửa,
                    Để đem vào khuôn khổ người hiền.
                    Rán cực lòng một bước đầu tiên,
                    Sau mới được làm nên Phật Thánh”.
          2- DIỆT ĐỀ: Diệt trừ ác nghiệp phiền não.
          Ý nói đồng thời với sự khép mình trong qui điều giới luật, hành giả phải cương quyết diệt trừ tập nghiệp vô minh phiền não như: Tam nghiệp, tham, sân, si hay thất tình lục dục hoặc lục căn ô nhiễm lục trần...
          Vì những phiền não dục tình ấy đã kết thành ác nghiệp từ lũy kiếp, làm cho tâm trí ta mê mờ mà phải chuyển luân trong sáu đường sanh tử, nên nay ta phải cố gắng tiêu trừ tận gốc của nó mới đặng chứng quả:
                       “Về thượng giới cõi Tiên mới bảnh,
                  Đến Diệt Đề trừ vật dục xưa.
                    Cõi hồng trần các việc mến ưa,
                    Sự giả tạm ta nên rứt bỏ”.( ĐT)
          3- KHỔ ĐỀ: Chịu đựng sự khó nhọc và kiên nhẫn tu hành:
          Ý dạy rằng: Từ lâu chúng ta đã quen theo việc làm quấy, nói quấy, tưởng quấy (tam nghiệp, thập ác). Giờ đây ta muốn chuyển hóa nó lại là một điều rất khó. Ngoài ra còn có bao điều khổ khó khác, như: pháp nạn, thời gian thử thách, danh, lợi, tình câu nhữ...dễ làm cho lòng mình thối chuyển. Cho nên nhà tu phải kiên trinh nhẫn nại. “Dù cho lăn lóc rán kiên trinh”, để vượt qua các trở ngại ấy, hầu tiến tới mục đích:
                   “Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ,
                    Thì Khổ Đề phải chịu nhọc nhành.
                 Lòng dục tu thì phải thiệt hành,
                              Chớ đừng có ham điều sung sướng”.( ĐT)
          4- ĐẠO ĐỀ: Tiến hành Bát Chánh Đạo.
          Đại ý Đức Thầy dạy: đồng thời với sự kiên tâm trì chí, hành giả phải thành tâm thật ý, tiến hành theo con đường Bát Chánh Đạo sẽ trừ được Bát tà (Bát tà: Tà kiến, Tà tư duy, Tà nghiệp, Tà tinh tấn, Tà ngữ, Tà mạng, Tà niệm và Tà định.) và bứng tận gốc vô minh phiền não, tất được hoát nhiên tỏ ngộ chỗ quang vinh vi diệu vô cùng tận của Đạo tâm. Ấy gọi là thành quả giải thoát vào Niết Bàn:
                   “Đức Phật Tổ nào đâu hẹp lượng,
                    Chịu nhọc nhằn mới rõ Đạo Đề.
                    Thấy một đàng thẳng bẳng mà mê,
                    Ôi! chừng đó mới là mầu nhiệm”.( ĐT)
          - Sở dĩ pháp Tứ Diệu Đề Đức Thầy viết năm 1939 có khác bài viết năm 1942, tức là có đổi số thứ tự và định nghĩa không giống nhau là vì thời hạ ngươn mạt pháp, Đạo Phật bị suy yếu “Pháp môn bế mạt, Thánh Đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối...” Căn cơ chúng sanh cạn hẹp, nghiệp quả dẫy đầy. Lại thêm nhơn loại đang tiến theo đà văn minh vật chất. Sống trong cảnh khổ mà họ cho là an vui hạnh phúc, nên khó nhận được sự khổ và gốc sanh ra đau khổ để lo tu hành.
          Do đó, Đức Thầy mới tùy theo cơ duyên và hoàn cảnh hiện tình mà Ngài áp dụng phương thức đối cơ (xứng hạp với cơ duyên). Khiến họ dễ tỉnh thức quày đầu hướng thiện. Ngài hướng dẫn người tu từ dễ đến khó, từ hình thức chuyển đến nội tâm (vô vi), tức là từ chỗ biết kính tin Trời, Phật, qui y Tam Bảo, rồi lễ bái công phu, khép mình vào luật nghi trai giới, lánh ác hành thiện (Tập đề).Kế tiếp là lo tu sửa tâm ý, diệt trừ phiền não vô minh và dục vọng: danh, lợi, tình...(Diệt Đề). Để được thành công kết quả, hành giả phải kiên tâm trì chí và chịu khó nhọc hành trì mãi cho đến khi thành đạt (Khổ đề). Song muốn tẩy trừ cho sạch tâm trần ô nhiễm, nhà tu phải tiến hành theo con đường Bát Chánh Đạo (Đạo đề), tất sẽ được giải thoát sanh tử vào Niết Bàn.
          - Đến năm 1942, Đạo Phật lần lần chấn hưng và sau 3 năm tu học Đạo Pháp, trình độ môn đồ Phật tử, cũng được tiến lên mức độ; Đức Thầy mới viết bài “Sơ giải Tứ Diệu Đề” theo ý của Đức Phật, song cũng có đổi số thứ tự là Đạo trước Diệt sau.
          Trước nhứt Ngài chỉ cho mọi người nhận rõ các sự khổ của mỗi chúng sanh đang gánh chịu (Khổ Đề) là do tập nghiệp vô minh phiền não gây ra (Tập đề). Giờ muốn giải thoát phải trì hành “Bát Chánh Đạo”( Đạo Đề).
          Khi hoàn thành tám điều chánh thì gốc sanh tử hết, tức được trở về với Bản Lai Thanh Tịnh, Chơn như Diệu Minh của chính mình. Ấy gọi là Niết Bàn giải thoát (Diệt Đề).
          - Nhận xét giữa hai bài Tứ Diệu Đề, Đức Thầy viết năm 1939 và năm 1942, thấy rằng chỉ khác nhau ở phương tiện sửa đổi cho thích ứng trình độ và căn cơ, hoàn cảnh của mỗi chúng sanh; chớ chỗ qui túc cũng đồng mục đích giải khổ và thành Đạo như nhau. Nhà tu nếu nương theo pháp Tứ Diệu Đề nhận rõ sự khổ và nguyên nhân sanh khổ mà tiêu diệt nó mới đạt Đạo Vô Thượng Bồ Đề.
          Tóm lại từ xưa chư Phật ba đời giáo hóa chúng sanh đều dùng pháp Tứ Diệu Đề làm căn bản. Nó vừa mầu nhiệm vừa thực tế (chân lý), không ai mà chẳng công nhận. Là một môn đồ nhà Phật, mỗi người trong chúng cần khảo xét tinh tường về bốn chân lý chắc thật nầy và hăng hái thực hành để độ mình, độ chúng ra khỏi vòng sanh tử mà thành Đạo giải thoát. Đặng vậy mới chẳng phụ công trình giáo hóa của Đức Phật, Đức Thầy.
 
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ
           PHẬT THÁNH: Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ và tỉnh thức. Ở đây chỉ cho bậc Phật thừa hay tối thượng thừa và hàng Bồ tát Đại Thừa, hoặc Duyên Giác Trung thừa. Phật là đối với chúng sanh. Đức Thầy khuyên:
                    “Rán bắt chước làm theo Phật Thánh,
                    Nếu thiệt người thì biết thương người”.
          THÁNH ở đây chỉ cho hàng Tứ Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán của hàng Thinh Văn Tiểu Thừa. Bởi tùy theo tâm đức và công năng tu tập pháp Tứ Diệu Đề mà kết quả có rộng hẹp cao thấp khác nhau. Thánh là từ đối với phàm.
          TRỪ VẬT DỤC XƯA: Diệt trừ tận gốc lòng ham muốn các vật chất danh, lợi, tình hay lục dục. Bởi nó có sẵn trong tâm thức (A Lại Da Thức) của mỗi người từ vô thỉ tới giờ, nên gọi là xưa. Đây cũng chỉ cho vô minh phiền não:“Trừ vật dục trì chơn bất hoại”.( ĐT)
          SỰ GIẢ TẠM: Sự vật không thật có, không bền chắc lâu dài, có được thời gian rồi tan mất. Ý chỉ cho vạn vật trong thế gian những cái gì thuộc về hình tướng, như gia tài, sự nghiệp, vợ đẹp, con ngoan hay thân xác của ta đều đi theo định luật: thành, trụ, hoại, không. Chẳng có một vật nào giữ được bền lâu nên gọi là giả tạm. Cổ nhân từng bảo:
               “Thương bấy người đời không vẫn không,
                 Ruộng vườn nhà cửa có như không.
                 Vợ con cha mẹ lâu rồi chết,
                 Danh lợi giàu sang rốt cuộc không.
                 Trăm khéo trăm khôn đều giả tạm,
                 Ngàn mưu ngàn kế cũng huờn không.
                 Suốt đời lo lắng gầy cơ nghiệp,
                 Nhắm mắt hai tay vẫn phủi không”.
          Kinh Kim Cang, Phật cũng bảo:
                    “Nhất thiết hữu vi pháp,
                      Như mộng huyễn bào ảnh.
                      Như lộ diệc như điển,
                      Ưng tác như thị quán”.
          Tạm dịch:
(Phật rằng: muôn pháp trong đời,
Ví như sương bọt giữa vời dễ tan.
Chiêm bao điện chớp tiếng vang,
Đến như thân xác hơi tàn còn đâu!)
          Đức Thầy nay cũng thường cho biết:“Cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác thân thế lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt mây bèo; những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác, rồi đến người khác nữa. Nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai...”
          NHỌC NHÀNH: Cũng viết là nhọc nhằn. Có nghĩa vất vả, nhiều việc khó khăn cực nhọc.
          MẦU NHIỆM: Cũng gọi là nhiệm mầu. Có nghĩa sâu kín và huyền diệu vô cùng, khó diễn tả và nghĩ bàn cho hết được:“ Đạo lý tầm sâu, sâu chẳng cạn”.( ĐT) Ý nói người tu Đạo Đề, tức là Bát Chánh Đạo thì tỏ ngộ được cái chơn lý vô sanh bất diệt (Niết Bàn) thì kết quả mầu nhiệm vô cùng.
         
CÂU HỎI
          1/Định nghĩa Tứ Diệu Đề theo bài Đức Thầy viết năm 1939?
          2/- Tại sao Đức Thầy viết Tứ Diệu Đề hai lần?
          3/- Hãy cho biết Tập Đề bài năm 1939?
          4/- Diệt Đề theo ý bài nầy ra sao?
          5/- Khổ Đề theo đây có nghĩa như thế nào?
          6/- Phần Đạo Đề có ý nghĩa gì?
          7/- Lý do nào Đức Thầy giải hai bài Tứ Diệu Đề khác nhau?
          8/- Hãy tóm lược bài Tứ Diệu Đề năm 1942?
          9/- Đại khái bài Tứ Diệu Đề năm 1939 ra sao?
          10/- Nhận xét hai bài Tứ Diệu Đề khác và giống nhau ở điểm nào?
          11/- Kết luận bài Tứ Diệu Đề năm 1939 ra sao?
*
*    *
7- TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ.
CHÁNH VĂN
          Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín-đồ chân thành của đạo Phật được. Tại sao vậy?
          Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng: “Các ngưi hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các ngưi” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các ngưi nên hiểu biết phận-sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt-hành theo giáo-lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng- dẫn và ủng-hộ vậy.
          Ta hãy đem đức-tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành-động y theo lời phán dạy của Phật.
          Nếu ta cứ đem đức-tin thờ-phượng tôn-giáo bằng cách sai-lầm thì rất có hại cho đời mạng của ta. Như vậy chỉ tỏ ta là người rất mê-tín (mặc dầu Đạo của ta thờ là một Đạo rất chánh đáng)
          Vậy đồng thời với Đức-Tin và Lòng Lành phải để cho nó đi cặp luôn luôn.
          Có Đức Tin (tin về thần quyền) mà thiếu Lòng Lành thì rất dễ bị tà-thần cám dỗ, bọn tăng-đồ lợi- dưỡng gạt-lường. Bởi những kẻ ấy thường bày ra cúng-kiếng để chuộc tội, hoặc bắt-buộc ta thờ-kính một cách phiền-phức làm cho lòng u-tối của ta càng ngày càng u-tối thêm.
          Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển vậy.
          Vậy đồng thời với đức tin và lòng trí lành phải đi cặp luôn luôn.
          Có đức tin và lòng lành rồi thì dùng trí-huệ mà bình-đoán cái Đạo của ta đang học hay sẽ học một cách xác-thực, tìm hiểu cho rõ-ràng cái mục-đích ấy, như thế mới mong thoát khỏi tà kiến gạt-gẫm ta đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay một ông thầy mê dốt.
          Người học Đạo muốn mở mang trí-huệ cần phải tìm phương-pháp diệt cái vô-minh (tối tăm ngu muội).
          Muốn diệt cái vô-minh trước hết phải điêu-luyện khối tinh-thần cho mạnh-mẽ đặng tự lập con đường rõ-ràng, duy nht của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương-mục mà bài trừ những thành-kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu-ngạo, tật-đố, gièm-siểm, dua-nịnh, ích-kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục-tình và sự phiền-não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở-mang vậy.
          Người có tâm nếu không tập suy-gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.
          Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm của người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát-triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc-chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả.
          Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông-đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo-lý ấy như thế nào.
          Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội-vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ thấy rõ ta mê-tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài-bác, nhạo chê hủy-báng và cũng rất uổng cho cái công trình thành-kính lễ-bái của ta vậy.
          Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy-gẫm, phán-đoán kỹ-càng; chừng hiểu biết rõ-ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả.
           Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư- tưởng, tìm cách đánh đổ tư-tưởng xấu xa, đem thay vào những tư-tưởng ôn-hòa, đạo-đức.
                                       Bạc Liêu, năm Nhâm-Ngũ.
 
DÀN BÀI
          A- KHAI ĐỀ :
                    - XUẤT XỨ - VĂN THỂ - ĐẠI Ý
          B-DIỄN ĐỀ :
          I/- LỜI DẠY QUAN TRỌNG
1/- SỰ THỜ CÚNG LỄ BÁI
                                                             2/- PHẬN SỰ CON NGƯỜI (tu Nhân cũng gọi là tu Phước)                
 a)- TU THÂN
             b)- XỬ THẾ TIẾP VẬT
                                           3/- TÌM KIẾM CHƠN TÁNH (tu Phật cũng gọi là tu Huệ).
          II/- ĐỨC TIN và LÒNG LÀNH :
          1/-ĐỨC TIN TRONG SẠCH.
2/-LÒNG TRÍ LÀNH.
          3/-TU THIÊN LỆCH CÓ HẠI
          III/-TU HUỆ
          1/- ĐIÊU LUYỆN TINH THẦN.
                      2/- DIỆT VÔ MINH và CÁC TẬT XẤU.
       3/- TÂM TRÍ SONG HÀNH.
   4/- CHỌN THẦY QUI Y
          IV/- CHUYỂN HÓA TƯ TƯỞNG
          1/- CHÁNH TƯ DUY.
       2/- CHÁNH NIỆM.
          C- KẾT ĐỀ :
        1/- TÓM TẮT.
          2/- TỔNG KẾT.
---oOo---
 
LƯỢC GIẢI:
XUẤT XỨ - VĂN THỂ - ĐẠI Ý
          Đây là bài giáo lý sau cùng trong loạt bài Pháp luận mà Đức Thầy đã sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942), lúc Ngài lưu trú tại tư gia ông Võ Văn Giỏi (Bạc Liêu). Ngài viết theo thể văn xuôi, lối thuyết giáo.
          Đại lược bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” bao gồm các vấn đề quan thiết, căn bản. Cũng được gọi đây là điều then chốt hay bí yếu trong Giáo lý PGHH. Vậy mỗi tín hữu chúng ta cần phải tìm học lý nghĩa cho chính xác, và y cứ theo đó thực hành, sẽ được kết quả chắc chắn.
          Chúng tôi căn cứ nội dung của bài, phân ra các đề mục và lược giải như sau:
          I- LỜI DẠY QUAN TRỌNG:
          Vẫn biết từ xưa đến nay, mục đích chính của Đạo Phật là chỉ thẳng vào vô vi thật tướng, song vì muốn rộng độ các tầng lớp chúng sanh; mà ngay từ Đức Phật, chư Tổ, chư Sư đều phải áp dụng muôn ngàn phương tiện. Từ hình thức đến nội tâm, từ sự đến lý, để thích hợp với mọi cơ duyên cho mỗi tín đồ tiện bề tu học.
          1/- SỰ THỜ CÚNG LỄ BÁI:
          Đây là vấn đề đầu tiên của người sơ cơ hành đạo. Khi hành giả phát tâm qui y Phật, tất phải phụng thờ Tam Bảo, hằng ngày lo lễ bái công phu, ăn chay niệm Phật, hành thiện tránh ác và nghiêm trì giới luật. Vào năm 1939 Đức Thầy đã dạy môn đồ:
                    “Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,
                    Vọng Cửu Huiyền sớm tối mới mầu”.
          Và:
                    “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
                       Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.
          Hoặc là:
                      “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
              Thường hằng như vậy, nhớ lời đừng sai”.
          Các lời dạy đó, mỗi tín đồ ai cũng phải trì hành, song đây mới là nấc thang đầu là sự tướng của Đạo và cũng là phương tiện phụ thuộc mà thôi. Cho nên đến năm 1942, Đức Thầy đưa tín đồ lên bước nữa để đi đến sự lý dung thông. Ngài nói:“Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín đồ chân thành của Đạo Phật được”. Rồi Ngài tự đặt câu hỏi: “Tại sao vậy ?” Bởi tâm lý chung của người mới tu, khi nghe lời dạy trên ai cũng không khỏi thắc mắc. Đoạn rồi Ngài trả lời liền theo đó:
          “Vì Đức Phật không bao giờ ngỏ ý rằng: Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người, mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.
          Đây là phần chính yếu và quan trọng trong Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của PGHH.
          2/- PHẬN SỰ CON NGƯỜI:
          Phận sự tức là bổn phận, là một trong nhiều nghĩa của chữ Đạo. Đạo là bổn phận của mỗi người.
          Là một nền Đạo phát xuất từ lòng dân tộc, nhập thế cứu đời. Bắt nguồn từ Sơ Tổ Huệ Trung Thượng Sĩ, qua Trúc Lâm Tam Tổ (Tam Tổ: - Sơ Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. - Nhị Tổ Pháp Loa Tôn Sư. – Tam Tổ Huyền Quang Tôn Sư.) đến Phật Thầy Tây An với Bửu Sơn Kỳ Hương và Đức Huỳnh Giáo Chủ với Phật Giáo Hòa Hảo hiện nay. Nhận thấy có sự tương quan và thừa kế rất kỳ diệu, như khi xưa Vua nhà Trần lên núi tìm Phật, có đến hỏi Quốc Sư Phù Vân thì Ngài đáp: “Phật không có trên núi, Vua muốn tìm Phật phải đứng tại thế gian mà tìm”, Và Ngài Pháp Loa hỏi Sơ Tổ Giác Hoàng:“Yếu chỉ của sự tu hành là thế nào ?”. Ngài Điều Ngự Giác Hoàng cũng đáp: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự”. Có nghĩa là phải xoay cái nhìn lại chính mình đó là phận sự gốc của người tu. Ngày nay Đức Giáo Chủ cũng dạy Môn đồ:
                    “Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
                  Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.
          Và:
                    “Phật tại tâm chớ có đâu xa,
                     Mà tìm kiếm ở trên non núi”.
          Vậy phận sự của con người tức là Đạo Nhân. Trong đây gồm có hai phần; Tu thân và Xử thế tiếp vật.
          a)-TU THÂN:
          Tức là trau sửa thân, khẩu, ý. Vì trong con người của mỗi chúng ta đều có ba phần: hành động, ngôn ngữ và ý tưởng; mà ý tưởng tức là tâm, vì nó là nguồn gốc tất cả. Hễ ý tưởng tốt thì lời nói việc làm đều tốt; bằng ý tưởng xấu thì lời nói việc làm cũng xấu theo. Chính nó là nghiệp nhân của luân hồi sanh tử. Vậy ai muốn giải thoát sanh tử, trước phải tu thân. Đức Thầy hằng dạy:
                    “Trời Phật thương người lo độ tận,
                       Muốn lo giải thoát phải tu thân”.
          Và:
                    “Tu thân thiện tín phải chuyên cần,
                       Lục tự Di Đà giữ Tứ Ân”.
          Theo đây ta phải chuyên cần bằng cách nào ? Để thiệt thi đúng theo ý nghĩa, là hành giả trong tứ tướng oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm), giờ phút nào cũng theo dõi và kiểm soát thân, khẩu, ý mình một cách chặt chẽ. Đừng cho vi phạm 10 điều ác và luôn thi thố 10 điều lành để được trọn lành, trọn sáng.
                    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
                  Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.( ĐT)
          Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận quan trọng là: “Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bằng xả thân tu tỉnh”.( ĐT)
          b)- XỬ THẾ TIẾP VẬT:
          Đây là bổn phận của chúng ta vừa lo đền đáp Tứ đại trọng Ân:“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”( ĐT). Và vừa đối xử với mọi người, mọi giới từ gần đến xa. Gần là trong gia đình cha mẹ có bổn phận thương nuôi dạy dỗ các con. Làm con có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ cho tròn câu hiếu đạo. Vợ chồng cư xử ân nghĩa song toàn, anh em đối đãi hài hòa kính thuận. Chẳng thế, ta còn có bổn phận đối với cô bác trong thân tộc và mọi người chung quanh trong xã hội; mỗi mỗi đều cư xử toàn hảo toàn hòa để đem lại niềm an vui hạnh phúc chung.
          Nói tóm lại, chúng ta hãy tự thấy mình trong hiện tại đang đứng vào địa vị nào, phải xử sự đúng với bổn phận của địa vị đó. Ấy là Đạo, chớ không phải còn kiếm cái Đạo ở viễn vong.
          Đức Thầy đã tóm tắt ý nầy trong một đoạn Giảng:
         “Đạo tôi Chúa chặt gìn câu chung thỉ,
          Đạo Thầy trò khắc cốt với ghi tâm.
          Đạo Cha con chặt chẽ chữ miên trường,
          Đạo Chồng vợ thuận hòa cho đến thác.
          Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác,
          Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì.
          Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri,
          Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá.
          Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã,
          Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan”.           
          3- TÌM KIẾM CHÂN TÁNH:
          Đây là phần học Phật và tu Phật. Vậy chân tánh là cái gì ? Và muốn tìm nó ta phải tìm ở đâu?
          a)- ĐỊNH NGHĨA VÀ VỊ TRÍ:
          Hiểu theo văn tự, chân tánh là cái tánh chân thật của mỗi người, ai cũng có, cũng gọi là tánh Phật hay Phật tánh. Đức Phật xưa đã bảo: “Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai”. Hoặc là: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Đức Thầy hiện nay cũng nhận định như vậy và Ngài còn chỉ vị trí của tánh Phật.
                “Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
                  Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.
          Và:
                    Thấy Đạo lý chớ nào thấy tánh,
                    Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.
          Ngài còn quả quyết: “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm”. Và ai muốn thấu đạt thì:
               “Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm”.( ĐT)
          Nếu hành giả nào tìm Phật ngoài tâm thì như tìm sừng thỏ lông rùa, làm sao thấy được ? Lục Tổ đã bảo: “Người tu mà bỏ tâm đi tìm Phật, như người đội nón đi tìm nón, cỡi trâu lại tìm trâu”. Đức Phật Thầy Tây An cũng cảnh tỉnh mọi người:
                    “Ngọc nhà luống bỏ chẳng mài,
                     Tiểu tâm vì bởi cậy tài nên xa”.
          Thêm nữa, người muốn tìm tánh Phật mà chỉ chạy theo hình tướng sắc màu hay Kinh kệ, lễ bái suông, hoặc ngôn từ đối đãi lại còn cách xa hơn nữa. Bởi: “Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành” (Kinh Phật). Cho nên Tổ Sư Đạt Ma có dạy:
               “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền.
               Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.
          b)- PHƯƠNG CÁCH THẤY TÁNH:
          Khi biết rõ vị trí của chân tánh ở trong tâm của mỗi người, nhưng chẳng phải dễ gì thấy được. Bởi nó còn tiềm ẩn trong tim óc xác phàm của mỗi chúng ta. Ví như ly nước múc từ dưới sông lên, cặn cáu còn lộn lạo đục ngầu. Sau khi ta lóng lặng và lọc ra thì còn lại chất nước trong tốt lành. Cho nên ngoài ly nước đục không có chất nước trong, cũng như ngoài tâm chúng sanh không có tánh Phật, ngoài phiền não không có Bồ Đề…
          Thế thì ai muốn thấy tánh Phật, phải thấy tánh chúng sanh trước, cũng như muốn thấy Bồ Đề (giác ngộ) trước phải thấy phiền não. Rồi ra công lọc lừa, chuyển hóa nó lại, như Đức Phật Thầy TâyAn từng dạy:
                    “Lọc lừa thì đặng nước trong,
             Ma Phật trong lòng lựa phải tầm đâu ?”
          Và Ngài còn bảo: nếu nước được lắng trong thì tự nhiên bóng nguyệt hiện bày. Cũng như người tu khi quét sạch bụi trần đang bám víu nơi tâm tư thì nghiệp sanh tử liền dứt. Bấy giờ Đài Minh Cảnh, tức trí huệ của mình sáng tỏ. Ấy là đoạn hết nợ tiền khiên và được hoàn về “Thể Tánh Chơn Như”, tức là Kiến tánh thành Phật:
                   (Thủy thanh nguyệt ảnh hiện tự nhiên,
                    Tảo tận trần ai đoạn thế duyên.
                    Thủy nguyệt Quan âm Minh Cảnh Chiếu,
                    Danh như bổn tánh đoạn tiền khiên).
          Còn Đức Thầy hiện nay Ngài dạy tín đồ:
                              “Trí hiền tâm đức chùi lau,
                           Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”.
          Vậy hành giả nào muốn tìm kiếm chân tánh, nên noi theo gương hạnh của Đức Lục Tổ Huệ Năng, Đức Thầy có đề cập:
                    “Khùng nói cho già trẻ làm tin,
                    Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú”.
          Thuở Lục Tổ còn là một tiều phu, ông đang đi đốn củi, bỗng được nghe người tụng Kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.(Nên trụ cái tâm ở chỗ không sanh) Nghe xong ông liền tỉnh ngộ quyết chí tu hành, ông trở về xin phép mẹ rồi đến chùa Huỳnh Mai xin thọ giáo với Ngũ Tổ. Khi nhập viện xong, ông bị đồ chúng coi thường, nên họ cắt phần ông phải giã gạo suốt ngày, không giờ nào rảnh để lên giảng đường nghe pháp, hoặc lễ bái công phu. Dầu vậy, ông vẫn an vui, nghĩ mình ở trong Đạo tràng thì phải có bổn phận giã gạo cho đồ chúng ăn và chỉ chuyên lo tu rèn môn Kiến Tánh. Nghĩa là vừa làm phận sự, vừa nhìn thẳng vào tâm mình và an trụ chỗ vô trụ. Giờ phút nào cũng liên tục như vậy. Thế là chỉ hơn 8 tháng, lòng ông hoàn toàn trong lặng…
          Đến lúc Lục Tổ và Thần Tú vâng lịnh Thầy trình Kệ Kiến Tánh thì Thần Tú làm bài kệ lạc đề vì còn có tướng và tương đối. Đây là bài kệ của Thần Tú:
                    “Thân thị Bồ Đề thọ,
                      Tâm như Minh Cảnh đài.
                      Thời thời cần phất thức,
                      Vật sử nhá trần ai”.
                     (Thân ấy Bồ Đề thọ,
                       Tâm như Minh Cảnh đài.
                       Giờ giờ cần phủi sạch,
                       Chớ để vướng trần ai).
          Và đây là bài kệ của Lục Tổ:
                    “Bồ Đề bổn vô thọ,
                      Minh Cảnh diệc phi đài.
                      Bổn lai vô nhứt vật,
                      Hà xứ nhá trần ai”.
                     (Bồ Đề vốn không cây,
                       Minh Cảnh cũng chẳng phải đài.
                       Xưa nay không có vật,
                       Nào chỗ vướng trần ai).
          Bài kệ của Lục Tổ là vô tướng, không còn biệt phân đối đãi, chứng tỏ là đã kiến tánh. Song vì muốn bảo vệ Lục Tổ, nên Ngũ Tổ vừa bôi bài kệ của Lục Tổ, vừa nói: bài kệ nầy cũng chưa thấy tánh và bảo đồ chúng hãy chép bài kệ của Thần Tú mà tu học, vì bài nầy hợp với người đang tu.
          Sau đó, Ngũ Tổ đi đến chỗ Lục Tổ đang giã gạo, hỏi:
          - Ông giã gạo trắng chưa?
          Lúc đó ông hiểu ý Thầy mình muốn hỏi Đạo xong chưa, nên trả lời:
          - Bạch Thầy! Gạo giã đã trắng rồi, nhưng chưa có người sàng.
          Ngũ Tổ liền cầm gậy gõ vào tay cối 3 cái, rồi chấp tay sau lưng đi lên. Lục Tổ liền hiểu Thầy bảo mình đến canh ba vào ngõ sau cho Ngài truyền Đạo. Quả đúng như vậy, tới giờ đó Lục Tổ đến nơi, thấy cửa không gài, chỉ khép lại. Ngài liền hé cánh cửa lách mình vào thì Ngũ Tổ ngồi dậy và thuyết Kinh Kim Cang cho Lục Tổ nghe. Ngài nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì hoát nhiên đại ngộ. Ngài liền ngâm Kệ:
          “Nào dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh,
            Nào dè tánh mình vốn sẵn đầy đủ.
            Nào dè tánh mình vốn không lay động,
            Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,
            Nào dè tánh mình hay sanh muôn pháp”.
          Đoạn Ngũ Tổ trao y bát cho Ngài và dặn dò mọi việc rồi đưa Ngài ra đi để sau nầy nối ngôi Tổ thứ sáu.
          Xuyên qua gương hạnh của Đức Lục Tổ, thấy rằng Ngài chỉ vừa làm phận sự, vừa tu trực chỉ nhân tâm mà kiến tánh thành Phật. Cho nên Đức Thầy mới dạy chúng ta lời quan thiết là vừa làm bổn phận của một con người và vừa tìm kiếm chơn tánh. Không phân biệt người tu xuất gia hay tại gia, hoặc một hình thức cố định nào và cũng không luận giờ khắc hay hoàn cảnh, miễn lúc nào cũng thực hành y như lời dạy trên, tất được thành công mỹ mãn.
          Đó là pháp tu Đại thừa đốn giáo, do Đức Lục Tổ thực hành và lưu truyền lại. Chung qui gồm vào ba điểm chánh là: vô tướng, vô trụ và vô niệm.
          c)- VÔ TƯỚNG – VÔ TRỤ - VÔ NIỆM:
          Với ý pháp nói trên Đức Giáo Chủ PGHH cũng dạy môn đồ như thế, nhưng vì muốn cho trình độ nào cũng có thể tu học được và thành quả như nhau mà Ngài dùng một thứ văn ngữ mới, tóm tắt trong hai phần:
          1/- TU TRỰC THẲNG CHÂN TÁNH:
          Trước nhất là Vô Tướng, tức tu thẳng vào vô vi thật tướng, không thiên chấp ở hình thức sắc màu hay một nhân duyên tác động nào, nhưng cũng chẳng phải là không làm gì hết. Nghĩa là tu tất cả hạnh lành mà không chấp mình có tu hay có pháp để hành. Cũng không còn phân biệt nhân ngã hay ngữ ngôn đối đãi. Đó là đúng với ý câu “Thật Tế lý địa” (Thật tế lý địa, Bất nhiễm nhứt trần, Vạn hạnh môn trung, Bất xả nhứt pháp). Và chánh pháp vô vi, như Đức Thầy dạy:
                    “Hiệu Lão sĩ ra đời thật tế,
                    Đem lời vàng dạy dỗ dương trần”.
          Và:
                    “Làm vô vi Chánh Đạo mới mầu,
                    Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
                    Hãy tìm kiếm cái không mới có”.
          Cũng như: “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”. (Không còn phân biệt tướng người, tướng ta, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tức chứng được cái chơn tướng Như Lai (Kim Cang Kinh).
          - VÔ TRỤ: là không trụ vào chỗ nào và cũng không trụ vào chỗ “vô sở trụ”. Cứ tùy duyên mà làm, tùy duyên mà nói, duyên hết thì buông xả, chẳng còn dính dáng vào chỗ nào hay việc làm, lời nói nào. Đức Thầy hằng cho biết:
               “Chúng sanh mê nên đem pháp thuyết,
                 Giải thoát rồi pháp bất khả dùng”.
          Và:
                    “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật…
                 …Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.  
          - VÔ NIỆM: Là lòng luôn chánh niệm mà tâm không chấp được chánh niệm, hoặc niệm Phật đến chỗ nhứt tâm bất loạn mà không chấp mình có niệm, đồng với lý “vô tu, vô chứng, vô sở đắc”. Chính đó là niệm cái “Bản lai thanh tịnh”, mà cái Bản lai thanh tịnh là cái tâm trong lặng, làu làu sáng tỏ. Không an trụ nơi nào mà nơi nào cũng có và lúc nào cũng luôn bình đẳng như như. Ấy gọi là “Phật hóa tánh tình”, tự tại giải thoát.
          2- TU TUẦN TỰ:
          Tức tu lần lần từ thấp lên cao, từ chỗ còn thấy có tu có niệm đến vô tu, vô niệm. Cách nầy Đức Thầy dạy ai muốn thấu đạt tánh Phật phải tu Thiền định, tức Chánh định. Ngài bảo:
                   “Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành,
                    Đừng cho ma nghiệp vọng tâm sanh.
                    Quay về cõi phúc đường chân Đạo*,
                    Phật pháp Thiền Na* dốc thực hành.”
            (*Chân đạo cũng gọi là Chân tánh. - *Thiền Na là Thiền định).
            Và một đoạn giảng gồm nhiều pháp tu:
                “Rày tỉnh ngộ ái hà quyết dứt,(1)
                  Đèn đạo tâm sáng rực soi đường.(2)
                      Cầu tu cho đạt ngũ hương,(3)
            Huơi gươm trí huệ ma vương hãi hùng”.(4)
                  Làm cho chúng phục tùng chơn lý,
                  Trong sắc thân giám thị lục căn.(5)
                       Đừng cho chúng tính lăng quằng,
                 Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần.
                   Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái,(6)
                   Cội sân si cũng phải tảo trừ.(7)
                       Đem về giác tánh chơn như,(8)
                 Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”.(9)
          - Qua 4 câu thi và 12 câu giảng của Đức Thầy, xét thấy hàm chứa bao ý pháp. Là một tín đồ, chúng ta cần suy cứu để thấu đạt lý nghĩa và thực hành tất được kiến tánh.
          Đến đây, xin kể câu chuyện có liên quan một trong các phương cách đã dạy trên. . Lúc Đức Thầy mới khai Đạo tại Tổ Đình, Thánh địa Hòa Hảo. Một hôm sau giờ thuyết pháp tồi, Ngài nằm nghỉ nơi ghế bố. Ông Đặng Thành Tựu từ phía sau đi tới. Ngài liền ngồi dậy, ông Tựu chấp tay xin Ngài cho hỏi ít lời Đạo lý.
          Đức Thầy vui cười nói:
          - Có phải ông muốn hỏi tu làm sao cho được minh tâm kiến tánh, phải không?
          Nghe Đức Thầy hỏi trúng ý mình, ông Tựu thưa tiếp:
          - Tôi thiết nghĩ không riêng tôi mà bất cứ ai tu hành, chắc cũng đều muốn được như vậy.
          Đức Thầy liền nói:
          - Không! Ở đây tôi không có dạy pháp minh tâm kiến tánh mà chỉ có dạy: “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”. Đoạn rồi Ngài vừa đọc vừa giải thích đoạn giảng trong “Giác Mê Tâm Kệ” từ câu “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”. đến câu “Dứt được nó ấy là giải thoát”. Cho ông Đặng Thành Tựu nghe.
          Qua câu chuyện kể trên chắc ai cũng nhận được “diệt lục căn, lục trần” là cái nhân tu hành, còn minh tâm kiến tánh là cái quả chứng đắc. Hễ 6 căn không còn duyên nhiễm theo 6 trần thì hành giả tự nhiên kiến tánh. Đây là một trong nhiều lý pháp của 12 câu giảng dẫn trên. Đức Thầy còn dặn dò thêm: nếu ai “…thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.
          II- ĐỨC TIN VÀ LÒNG LÀNH
          Đức tin là việc đầu tiên của mỗi người dù ai cũng phải có. Cổ đức đã bảo: “Nhơn vô tín bất lập” (Người không có lòng tin thì chẳng làm nên việc gì). Từ một em học sinh đến hạng thầy thợ cũng vậy. Đi học phải tin Thầy Cô và tin mình có học mới khỏi dốt, còn được thi đậu làm quan, làm thầy giáo nữa. Kẻ học nghề có tin thầy thợ mới nên việc.
          Đối với người tu Phật còn quan trọng hơn, hành giả phải có lòng tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin mình có đủ khả năng tu thành Phật quả, mới hăng hái và kiên chí tiến hành. Song có đức tin cũng cần có trí lành đi cặp nhau, lòng mới được trong sạch, sáng suốt và chánh tín. Bằng thiếu trí lành, ắt phải bị sai lầm và mê tín theo tà đạo.
          1/- ĐỨC TIN TRONG SẠCH:
          Là đức tin chánh đáng đúng chân lý, không lợi dụng riêng tư, tin Phật và tin Thầy có lòng từ, bi, hỉ, xả, rộng độ chúng sanh, mình cũng rèn tập tâm đức ấy để thành Phật như các Ngài. Không hề sân si buồn chán hay mong cầu lợi lạc riêng mình mà có hại cho kẻ khác.
          2/- LÒNG LÀNH:
          Cũng gọi là lòng trí lành hay là hiền minh. Nghĩa là lòng mình có đủ tâm đức và trí huệ. Vừa học hỏi nhận xét giáo pháp của Tổ Thầy chính xác, để trọn niềm tin tưởng; và vừa cương quyết thực hành theo một cách nghiêm chỉnh.
                    “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,
                    Cố công gìn giữ tánh thuần lương”
          Hoặc là:
                    “Coi rồi phải thân mình tự trị,
                    Chẳng độ xong Phật khó dắt dìu”.( ĐT)
          Hành giả có đủ hai điều kiện đức tin trong sạch và lòng trí lành mới không bị trở ngại trên đường tiến tu lập hạnh.
          3/- TU THIÊN LỆCH CÓ HẠI:
          Lòng tin tưởng Trời Phật và Đạo pháp là quí, tốt; nhưng thiếu trí lành để suy xét, cân nhắc sẽ gặp nhiều tai hại:
          a)- Có đức tin mà thiếu lòng trí lành thì trước nhứt là bị các tà sư ngoại Đạo bức bách, cám dỗ; khiến chúng ta bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời. Hoặc họ bày ra bùa chú, phép linh, soi căn, coi bói, nói tướng ứng rù quến ta mê tín theo. Đức Thầy diễn tả cảnh trạng ấy:
                  “Thêm còn bị lắm phen dông tố,
                    Lời tà sư ngoại đạo gieo vào.
                    Cho nhơn sanh trong dạ núng nao,
                    Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.
                    Dùng thế lực dùng nhiều mánh khoé,
                    Cám dỗ người đặng có khiến sai.
                    Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài,
                    Để khốn khổ mặc ai trối kệ”.
          Hoặc là:
                  “Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ,
                    Dùng phép mầu loè mắt chúng sanh.
                    Ai ham linh theo nó tập tành,
                    Sa cạm bẫy khó mong sống sót”.
          b)- Phần thứ nhì là bị “Bọn tăng đồ lợi dưỡng gạt lường”. (ĐT). Đây là nói đến số người cùng chung một Đạo Phật với chúng ta, nhưng họ tu sai chơn lý, không tuân lời giáo huấn của Phật của Thầy; bởi lòng tham muốn còn nặng, nên đã tu hành còn mong lợi dưỡng  riệng tư. Họ bày ra cúng kiếng lễ mễ, xin xăm bói quẻ, làm đám cầu siêu, cầu tài cầu phước, mạnh giỏi làm ăn, nợ duyên hạnh phúc.v.v…Ai đời chẳng gieo nhân mà muốn hưởng quả, làm sao đúng lý ?
          c)- Còn “có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình” cũng có hại, tuy hành giả có biết nhận xét và lòng từ thiện, nhưng thiếu đức tin hoặc lòng tin quá yếu kém, nên khi gặp thử thách bất ngờ, như: tai nạn, bệnh tật hoặc thời gian dài dặt, rồi nãn lòng thối chí không còn hành Đạo nữa. Chúng ta thường thấy nhiều người hiểu Đạo cũng rành, lý luận Đạo pháp cũng hay, thế mà chỉ tu thời gian rồi dừng lại. Bởi trí lành ở đây mới là kiến thức, chớ chưa phải là trí huệ mà kiến thức là vọng thức, tức là cái biết còn trong vòng phân biệt thiên chấp. Thế nên khi gặp danh, lợi, tình câu nhữ thì lòng trí lành bị giảm xuống, hoặc mất đi. Bấy giờ hành giả sẽ thối chuyển hay bỏ Đạo thôi tu là khác. Vì thế Đức Thầy mới ân cần khuyên dạy tín đồ: “Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển”.
          Cho nên người tu cả đức tin và lòng trí lành phải làm cho phát triển quân bình chớ để chênh lệch. Khi có đủ hai đức tánh đó rồi, hành giả nên lấy trí huệ mà quán xét, nhận định cho rõ ràng nền Đạo pháp của mình đang tu học. Xem tại sao ta phải tu, giáo pháp hành đạo đó có thực tế và đúng chân lý không ? Và sẽ đưa ta đến mục đích gì ? Có giải thoát sanh tử cho mình và cả nhân loại chúng sanh không ?
          Có nhận xét kỹ lưỡng như vậy, chúng ta mới không bị các chủ thuyết tà kiến gạt lường “…đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay ông thầy mê dốt”. Đức Thầy luôn luôn nhắc nhở:
                   “Đạo với lý từ đây nhiều vhỗ,
                    Phải lọc lừa cho kỹ mà nhờ.
                    Chọn nơi nào Đạo chánh phượng thờ,
                    Thì mới được thân sau cao quí”.
          3/- TU HUỆ:
          Về cách tu huệ Đức Thầy dạy: “Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh”. Bởi vô minh đồng nghĩa với mê si, tức là tối tăm ngu muội:
                    “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ,
                      Màn vô minh che mờ căn trí,
                      Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.
          Hay là:
                    “Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,
                      Nên quay lộn ta bà cõi khổ”.( ĐT)
          Vô minh là đối tượng của trí huệ, hễ có trí huệ thì không có vô minh, mà có vô minh là không có trí huệ. Cũng như cây đèn và bóng tối. Vậy muốn phá trừ vô minh để trí huệ sớm hiện bày, Đức Thầy có dạy các phương cách như sau:
          1- ĐIÊU LUYỆN KHỐI TINH THẦN CỨNG MẠNH:
          Tinh thần là phần sáng suốt tinh anh và cái thấy nghe hay biết trong xác thể con người, tinh thần điều khiển mọi việc hư nên tốt xấu của xác thân. Thân xác ví như cái nhà và chiếc xe, còn tinh thần là ông chủ nhà và anh tài xế. Bấy lâu nay tâm hồn của mỗi chúng ta bị vô minh che lấp làm cho mê tối bạc nhược, nay muốn chiếu phá vô minh để cho thần trí sáng tỏ thì trước phải điêu luyện tức là rèn tập cho tinh thần cứng mạnh. Vậy rèn tập bằng cách nào?
          Bất cứ nghề chi hay làm việc gì muốn cho kết quả tốt người ta cũng phải rèn tập. Như tập lái xe, tập gánh nước, vác lúa, võ công.v.v…luyện tập từ dở đến hay, từ chậm đến lẹ, từ yếu đến mạnh, song những cái đó thuộc về hình tướng. Về mặt tinh thần tuy không thấy, không rờ mó được, song mỗi người của chúng ta tự hay biết, như: ham muốn, mừng giận, ghét thương.v.v…đã có sẵn trong mỗi người từ thuở bé. Khi ta nhìn thấy người khác có các tánh xấu ấy thì mình không đồng ý, nhưng ít ai chịu nhìn lại mình để tự thấy, tự kiểm lại các tánh xấu đó mà loại trừ. Đức Thầy khuyên nhắc:
                    “Ai ai cũng rán xét mình,
             Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài”.
          - Giờ đây hành giả đã quyết chí tu hành thì ai cũng muốn diệt trừ các tánh xấu, song vì tinh thần còn yếu kém, nên không thắng phục nó được liền. Bây giờ ý chí ta phải bùng lên, phấn đấu thêm lên, lần nầy không được lần khác, bền dẻo, kiên chí cuối cùng tất thành công, những thứ đó là lực lượng mạnh mẽ của tinh thần. “Có công mài sắt chầy ngày nên kim”.(Ca dao), kết quả như câu chuyện Ngô Công đục đá thành hang thông qua núi.
 (Xem Cổ học Tinh Hoa)
            Khi tinh thần được cứng mạnh ta phải tăng thêm lập trường vững chắc, ý chí đại hùng để tiến lên con đường Đạo pháp mà ta đang tu học, hầu đạt được mục đích là phá vỡ vô minh, đạt thành trí huệ. Hành giả hãy coi sự việc nầy là giềng mối duy nhứt mà suốt đời mình phải hoàn thành, không có gì đánh đổi được.
          2- DIỆT VÔ MINH VÀ CÁC TẬT XẤU:
          Muốn diệt phá vô minh, hành giả trước phải loại trừ các binh gia tướng tá của nó, tức là các tật xấu:
          a)- Thành kiến:
                    Là lòng bảo thủ sự suy tư, thấy biết của mình là đúng là hay hơn hết, không chịu trao đổi hay tiếp nhận thêm ý kiến của người khác có kinh nghiệm hơn. Có khi cũng biết kiến thức mình còn cạn hẹp sai lệch, song vẫn kiên trì bảo thủ như bức thành kiên cố, không ai phá vỡ được.
          b)- Cố chấp:
                    Bệnh cố chấp cũng là cái tật cố hữu của mỗi người. Nó là tánh hay chấp nê, câu nệ, khăng khăng không chịu đổi ý. Với mình thì chấp sự chấp lý, chấp có không, chay mặn hoặc chấp tâm chấp pháp. Với mỗi người thì chấp người nầy tu được, người kia tu không được. Chấp tướng nhơn, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.v.v…
(1- Tướng Nhơn: là thấy mọi người không bằng ta, phân biệt hơn thua tốt xấu, thọ giới nhiều ít.
2- Tướng Ngã: chấp có ta và chỉ có ta là hơn hết, là đáng yêu, đáng quí; coi thường kẻ khác.
3- Tướng chúng sanh: chấp tướng chúng sanh khác xấu xí hơn ta, hoặc còn muốn sanh lên cõi trời để có tướng đẹp.
4- Tướng thọ giả:
chấp mạng sống ta lâu dài, lo cầu phước báo, xem người khác, loài khác không sống bằng ta. Ai còn chấp 4 tướng ấy là chúng sanh, không chấp 4 tướng ấy là Phật: “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.)  
Cố chấp còn chỉ cho bịnh khó tánh, hay để ý tới những lỗi vụn vặt, vô tình của người khác, ít khi cởi mở, thông cảm tha thứ.
          c)- Thói quen:
                    Nghĩa của chữ Tập quán, tức là những việc làm, lời nói, ý nghĩ tội ác xấu xa nhiều lần thành ra thói quen, từ quen trở thành ghiền nhiễm. Nó cũng là cái bệnh khó bỏ, người tu cần phải diệt trừ cho được các thói quen đó mới cải đổi tánh phàm phu ra Phật Thánh.
          d)- Sự chần chờ:
                    Nghĩa của chữ Giải đãi, tức trù trừ lần lựa, lười biếng không siêng năng làm việc hay tu học. Nhà tu còn bịnh nầy sẽ không kịp với thời gian vô thường, như anh chàng cày ruộng xưa kia, khi thấy Phật đi đến lòng cũng muốn qui y, song bị tánh chần chờ giải đãi, nên đã trải qua bảy vị Phật ra đời, và anh cũng luân chuyển qua 91 kiếp, vẫn còn cày ruộng chưa chịu tu…
          g)- Lòng ham muốn:
                    Tức là tánh tham lam, một trong tam độc (tham, sân, si). Chính nó là nguyên nhân của luân hồi sanh tử:“tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài…”tham quyền cao chức trọng và mọi vật chất trên thế gian, Đức Thầy từng bảo:
                    “Biết sao đầy được túi tham,
            Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.
          Bởi lòng ham muốn không ngằn mé và khó dừng lại được, nên đến khi chết lòng khát ái vẫn còn mà phải luân hồi trở lại. Thuyền trí huệ không bao giờ chở đưa những người còn ham muốn mọi vật chất trong trần, hay gây tội ác:
                “Bát nhã chẳng đưa người tội ác,
                Thuyền từ nào rước lại Tây Thiên”.( ĐT)
          h)- Tánh kiêu ngạo:
                    Đồng loại với ác ỷ ngôn, tức tánh hay cười chê, nhạo báng người khác. Ai hay dở tốt xấu gì cũng tìm cách chế nhạo cho bằng được. Ngược lại, sự yếu kém sơ thất của mình thì che dấu và hay khoe khoang tự đắc. Đây là một tật xấu mà người tu muốn có trí huệ không bao giờ dung chứa.
                                                                                i)- Tật đố:
                    Là cái bệnh hay đố kỵ, ghen ghét những người tài đức hơn mình, hoặc mọi vật khác; từ tiền của, tướng mạo hay bạn bè thân tín, v.v…cũng đều đố kỵ. Từ lòng đố kỵ ganh ghét sanh ra nhiều tội ác, rồi gặt lấy quả báo chẳng những kiếp nầy còn qua nhiều kiếp khác cũng chưa dứt, như ác hữu ghen ghét thiện hữu…cho nên người tu quyết định dứt trừ bệnh tật đố.
          k)- Gièm siểm dua nịnh:
                    Hai từ ngữ nầy có tương quan với nhau, tức là nói gièm nói siểm chê bai cách gián tiếp để a dua nịnh hót với người có quyền thế, hầu được lòng và hại kẻ khác. Tật xấu nầy thường gây chia rẽ hiềm khích giữa người nầy với người khác.
  l)- Ích kỷ tư tâm:
                    Là lòng riêng tư muốn các lợi lộc về mình. Từ lòng ích kỷ sanh ham muốn rồi lo tạo tác, tức là gây nghiệp nên phải sanh tử luân hồi. Ai trừ được bịnh nầy mới mong có trí huệ và giải thoát.
                                                                              m)- Sự gây gổ:
                    Từ lòng sân hận sanh ra ác khẩu, tranh tụng hơn thua, rồi gây thù kết oán. Tật xấu nầy thường xảy ra tai hại sâu rộng trong quần chúng như: đoạn hết tình nghĩa bạn bè thân tộc, đốt cháy rừng công đức của mình đã tu bồi từ trước, nên hành giả phải tiêu trừ nó.(Nhất niệm sân tâm chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn)    
          n)- Mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não làm cho náo loạn cõi lòng:
                    Trong muôn ngàn phiền não chỉ có lòng ham muốn tình dục là nặng nề hơn hết (Hải trung sanh tử ái dục đệ nhất). Chính nó là gốc sanh ra vô số phiền não khác, nó làm cho tâm thần dao động khiến mờ đục trí huệ, hành giả phải nhổ tận gốc nó mới mong giải thoát an vui.
          Nói tóm lại, các thói hư tật xấu nói trên là con đẻ của vô minh. Cho nên Đức Thầy mới dạy chúng ta: “Nếu bày trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy”.
          3- TÂM TRÍ SONG HÀNH:
          Đến đoạn nầy Đức Thầy dạy hành giả phải tu cả tâm và trí một lượt, như Ngài bảo:
          “Người có tâm nếu không tập suy gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.
          Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả”.
          Chúng ta thử ôn lại câu chuyện của Thầy trò Tam Tạng đi thỉnh Kinh. Nếu chỉ một mình Tam Tạng, chẳng có Tôn Ngộ Không thì làm sao Tam Tạng biết đường đi đến Tây phương và lấy ai trừ yêu đuổi quỉ, hay biết non tiên cảnh Phật để cầu khẩn các Ngài xuống trợ giúp. Còn Ngộ Không, lúc chưa được Tam Tạng làm Thầy thì tánh tình ngang bướng, chọc Trời khuấy nước, loạn thiên cung; gạt chư Tiên ăn đào và uống Tiên tửu, đòi làm Tề Thiên Đại Thánh. Chỉ có Phật Tổ mới thâu nhốt y được dưới núi Ngũ Hành và sau nhờ Quan Âm độ rổi, cho làm học trò Tam Tạng để phò tá Thầy đi thỉnh Kinh chuộc tội. Khi Tam Tạng và Ngộ Không hiệp lại mới đi đến Tây phương, thỉnh được 3 tàng Kinh điển đem về.
          Đây là câu chuyện triết lý, Tam Tạng dụ cho cái tâm, còn Ngộ Không dụ cho cái trí. Nếu có tâm từ mà thiếu trí tuệ như Tam Tạng thiếu Ngộ Không, hoặc chẳng nghe lời, tức là người tu không rèn tập được trí huệ thì chẳng phân biệt chơn giả, Phật ma, nên Tam Tạng bị quỉ yêu gạt bắt liên miên. Bằng có trí mà thiếu tâm cũng có hại, như: có Ngộ Không mà chẳng có Tam Tạng làm chủ, điều khiển thì Ngộ Không hay làm xằng, có lúc còn muốn trở về Thủy Liêm động làm chúa yêu. Cho nên khi tâm tín và trí huệ phát triển quân bình, tức đồng hòa vào một thể, bấy giờ hành giả đạt thông Tam Tàng Kinh pháp nơi tự tánh.
          Tóm lại, tâm ví như ông Vua, trí như vị Tể Tướng và cũng như ông chủ nhà và người quản gia. Tâm đức và trí huệ gồm tu thì hành giả có đủ: Bi, Trí, Dũng, cũng gọi là Đại hùng, Đại lực, Đại Từ bi, tức quả vị chánh giác sẽ thành công. Đức Thầy hằng tỉnh thức:
                 “Phải chổi dậy nương dây hùng tráng,
                    Chữ đại hùng, đại lực, đại từ bi”.
          Bởi có tâm đức mới làm chủ được sáu căn, có hùng lực của trí huệ mới thắng được tam bành lục tặc, trừ sạch thập tam ma (thất tình lục dục). Và soi tan ngũ uẩn, vượt sông mê, sang bờ giác. Do đó Đức Thầy mới dạy chúng ta: “Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai”.  
          4- CHỌN THẦY QUI Y:
          Đến đây Đức Thầy nhắc lại giai đoạn đầu của người mới phát tâm quay về nẻo thiện, cần phải chọn nơi nào chân chánh để nương theo;
                  “Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,
                    Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.
          Mà phải:
                  “Chọn nơi nào Đạo chánh phượng thờ,
                    Thì mới được thân sau cao quí”.
          Đề tỏ rõ vấn đề nhà tu cần hiểu thế nào là mê tín và thế nào là chánh tín?
          a)- Qui y mê tín : Có hai cách :
          1/- Mê tín qui y theo chánh Đạo: là “Thấy ai theo mối Đạo nào đông đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo lý ấy như thế nào…” Hoặc: “…Thấy người ta thờ Phật rồi vội vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào; và tại sao phải thờ kính Đức Phật”. Qui y như thế gọi là mê tín qui y theo chánh Đạo, mặc dù chúng ta đang thờ học Đạo với ông Thầy ấy rất chánh đáng. Đức Phật xưa hằng cảnh giác thiện tín: “Nếu ai chưa rõ Ta mà bảo là tin Ta thì tội ấy còn hơn hủy báng Ta”.
          2/- Mê tín qui y theo tà Đạo: là hạng người chưa theo Đạo nào hoặc có theo đạo, nhưng thấy đạo khác nổi lên, ông thầy ấy chủ xướng thinh âm sắc tướng, đức hạnh chẳng ra gi, lời dạy mập mờ, đường lối không rõ rệt mà lại đắc nhân tâm là nhờ dùng những bùa mê ảo thuật, lòe mắt thiên hạ. Hoặc nói tướng ứng, bịa đặt điều linh thính rồi ta vội vàng qui y. Đó gọi là mê tín qui y theo tà Đạo.
          b)- Qui y chánh tín:
          Là trước khi thọ giáo với Đạo nào hay ông Thầy nào, ta hãy lấy trí huệ mà suy xét, tìm hiểu mối Đạo ta định theo, phải có nền giáo lý chơn chánh, ông Thầy ta muốn học phải có nhân phẩm cao thượng. Nhứt là những lời chỉ giáo đúng chơn lý, có tôn chỉ mục đích rõ rệt giúp chúng ta tu học đến chỗ giải thoát.
           Vậy trước khi thờ học Đạo nào ta hãy lấy trí huệ nhận xét một cách tinh tường và khi đã qui y thì phải hành y theo lời chỉ giáo của Tổ Thầy:
                    “Qui y thì khá làm y,
             Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.
          Nói tóm lại qui y chánh tín là bằng cách có suy xét kỹ càng, chừng hiểu biết rõ ràng mới qui y và hành theo. Còn qui y mê tín là không nhận xét cân nhắc kỹ lưỡng, cứ “tin bướng nghe càn”.
          IV- CHUYỂN HÓA TƯ TƯỞNG
          Theo Đức Thầy dạy: “Sự đầu tiên của người hành đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa, đem thay vào những tư tưởng ôn hòa, Đạo đức”.
          Để thi hành lý pháp nầy, trước nhứt hành giả phải biết mặt mày của các tư tưởng xấu xa ra sao. Người chưa giác ngộ lẽ Đạo thì lúc nào tâm tư cũng nghĩ tưởng mơ mộng những vật chất tiền tài, quyền cao chức trọng, vợ đẹp hầu xinh…Bất cứ cái gì làm cho ta được cao sang sung sướng và thỏa mãn lòng khát ái thì tha hồ mà mơ ước, nghĩ tưởng. Không xét rằng các tư tưởng đó phần nhiều là lợi kỷ tổn nhân, chính nó làm cho tâm hồn ta đắm chìm trong vô minh dục vọng và sanh tử luân hồi.
          Khi hiểu được tướng trạng và tác hại của các tư tưởng xấu ác, hành giả hãy gấp rút thay đổi. Căn cứ trong giáo lý của Đức Thầy chỉ dạy, chúng ta có thể rút ra một ít phương cách để áp dụng:
          1/- HÀNH CHÁNH TƯ DUY:
          Đức Thầy dạy;
                    “Chánh Tư duy mục ấy thanh cao,
                    Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ”.
          Và: “Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh. Giữ tư tưởng cho thanh cao, trí rán tìm chân lý…” Vậy thì hành giả lúc nào cũng nghĩ tưởng kỹ thuật đức tánh cao cả, như: “Từ bi, Bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ” hoặc luôn tư tưởng đến việc “Tìm phương cứu giúp sanh linh trong vòng trầm luân oan nghiệt”. Đống thời lo suy tìm “…con đường giải thoát cho mình, bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu tỉnh”.
          2/- HÀNH CHÁNH NIỆM:
          - Để chấm dứt những mơ ước niệm tưởng xấu xa, hành giả phải luôn ghi nhớ những việc chân chánh, như: nhớ tưởng các phương pháp tu hành, nhớ Đức Phật, Đức Thầy đã đầy lòng Từ bi bác ái, và đã dày công khai hóa chúng ta. Giờ phút nào cũng chạm khắc vào lòng các lời dạy bảo để thực hành cho kỳ được. Hoặc dùng chánh niệm quán xét:
                   “Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
                    Vật ở trần như bọt nước làn mây.
                    Thân ta còn rày đó mai đây,
                    Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.( ĐT)
          Nếu tâm trí chúng ta luôn suy xét, tưởng nhớ các phương cách nói trên thì những tư tưởng xấu xa, quấy ác đâu có kẽ chen vào; ấy gọi là đánh đổ nó ra ngoài.
          3/- NIỆM PHẬT TAM MUỘI.  
          Cách niệm Phật nầy gọi là niệm Phật chánh định, tức là tâm hành giả luôn nhớ tưởng 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật cho đến khi “nhất tâm bất loạn”, không để một tư tưởng sai lầm, xấu ác nào chen vào. Hoặc niệm vào một tiếng niệm Phật thay một niệm chúng sanh ra, cứ thay hoài, thay mãi cho đến khi không còn một niệm chúng sanh nào mống khởi. Lúc nào ta cũng nhìn thấy và nghe rõ cái tâm ta, đang tưởng Phật liên tục như vậy trong tứ tướng oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm, uống ăn, ngủ thức, sẽ được kết quả như ý. Đức Thầy thường nhắc nhở:
                   “Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
                    Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.
                    Thì hiền lương quên mất điều tà,
                    Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.
          Nếu hành giả tưởng nhớ Phật được liên tục như vậy thì các tư tưởng xấu ác sẽ tiêu vong.
          Nói tóm lại trong các phương tiện của Tổ Thầy chỉ dạy cải đổi tư tưởng tà xấu ra chánh chơn thiện mỹ. Ở đây chỉ rút ra 3 phương thứcc vừa giản tiện vừa xác thực. Nếu ai chịu cố gắng thực hành, tất loại trừ được các tư tưởng xấu ác và trí huệ phát khai mà thành Đạo giải thoát tại thế gian.
          C- KẾT ĐỀ:
          Tóm tắt bài: “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ” trước nhất Đức Thầy đưa ra lời dạy quan trọng là mỗi tín đồ phải biết rõ trong các phương cách tu hành. Cái nào là phụ thuộc, cái nào là chánh yếu; đâu là sự tướng, đâu là nội tâm và chân lý để đi vào chánh pháp vô vi, đúng theo chân truyền tâm ấn của Đức Phật khi xưa.
          - Phần chính yếu theo Tôn chỉ Đức Thầy đã đề vạch, là vừa thu hành phận sự thực tế của một con người đứng giữa thế gian, và vừa trực nhận được chân tánh giác ngộ trong tâm thể của mỗi hành giả.
          - Về pháp tu tuần tự Ngài dạy môn đồ cần làm cho đức tin và lòng lành được phát triển quân bình cả hai. Kế đó là tu rèn trí huệ để chiếu phá vô minh dục vọng mà tâm và trí phải song hành mới mong kết quả. Ngài cũng ý thức những người mới phát tâm, hãy cẩn thận xét suy, chọn lựa ông Thầy cũng như nền Đạo chân chánh mới qui y và phải tu chánh tín chờ đừng tu mê tín.
          - Sau chót là Ngài dạy cách tu giản tiện và tốt nhứt, là chuyển hóa tư tưởng xấu xa, quấy ác, ô nghiễm trở nên tốt lành cao khiết. Ấy là thành Đạo giải thoát.
TỔNG KẾT
          Tổng kết bài Pháp luận trên đây là một đề tài tổng quát, tuy thấy Đức Thầy dạy nhiều vấn đề và hình như rời rạc, nhưng sau khi suy nghiệm kỹ, thấy Ngài có một dụng ý sâu sắc. Ngài giảng huấn rõ về đường lối “HỌC PHẬT TU NHÂN”. Nghĩa là hãy lấy tâm Phật mà hành xử Đạo Nhân, tức dùng tư tưởng nhân hòa, tinh thần hỷ xả, bình đẳng từ bi mà tiếp xử hầu hết nhân loại chúng sanh. Ngài dung thông cả sự lẫn lý, cả đốn pháp lẫn tiệm pháp để rộng độ các giới tín đồ và mọi tầng lớp dân sinh. Tuỳ theo cơ duyên thích hợp của mỗi hành giả, ai cũng có thể tu học được và đưa đến kết quả viên mãn như nhau.
CHÚ THÍCH TỪ NGỮ (1)
          (1)- LƯU Ý: Các từ ngữ trong bài phần nhiều đã có giải trong phần lược ý, cũng có số học rồi, nên ở đây chỉ giải một ít thôi.
          (1) ÁI HÀ: Lòng thương yêu luyến ái tình dục tràn ngập như sông biển, kinh xưa có câu: “Ái hà thiên xích lăng, khổ hải vạn trùng ba” Đức Thầy nay cũng nói: “Bể ái hà gươm linh sớm dứt”.
          (2) ĐÈN ĐẠO TÂM: Tâm trí sáng suốt. Chỉ cho ánh sáng của trí huệ và chơn lý (Đạo). Đức Thầy có câu: “Ngọn đèn chơn lý hết lu”.
          (3) NGŨ HƯƠNG: Năm phần chơn hương nơi tâm của mỗi người, gồm có:
          1- Giới Hương: Tâm không còn tham, sân, si hay các ý nghĩ tà quấy, sát sanh, đạo tặc…
          2- Định Hương: Đối với các trần cảnh như: lục trần hoặc các hiện tượng tốt xấu, lành dữ, tâm mình vẫn an nhiên không loạn động.
          3- Huệ Hương: Tâm trí mình không bị ngoại cảnh ngăn che, hay lôi cuốn. Hằng lấy trí huệ xem soi tự tánh, chẳng tạo các điều ác, tuy tu các hạnh lành mà lòng không chấp trước. Kính người trên, nghĩ kẻ dưới hay thương xót và giúp đỡ người nghèo đói, bệnh tật.
          4- Giải Thoát Hương: Tự tâm mình đã không dính mắc vào các việc dữ hay lành, cũng chẳng chấp có không, động tịnh, lòng luôn tự tại, không gì ngăn ngại được.
          5- Giải Thoát Trí Kiến Hương: là tự tâm mình đã không còn thiên chấp, dính mắc những cái có không động tịnh; nhưng cũng cấn học rộng nghe nhiều, thấu suốt bổn tâm, thông đạt lý Phật, hòa sáng tiếp người, không hề phân biệt nhân ngã. Tâm trí lúc nào cũng an nhiên sừng sững tiến thẳng đến ngôi chánh giác.
          (4) MA VƯƠNG: Vua các loài ma quỉ, tên là Ba Tuần ở từng Trời thứ sáu, hay xuống thế gian phá hại Đạo Phật. Chữ Ma Vương ở đây chỉ cho tà kiến tam độc (tham, sân, si). Đức Lục Tổ bảo: “tà kiến tam độc thật Ma Vương”.
          (5) GIÁM THỊ: Người trông coi trật tự trong trường sở, chỉ huy điều khiển các học sinh. Giám thị ở đây chỉ cho cái tâm làm chủ sáu căn (lục tặc).
          (6) NGŨ UẨN: Cũng gọi là Ngũ ấm, là năm cái che đậy chân tánh của mình. Kinh Phật giải là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đức Thầy giải là Tham, Sân, Si, Nhân, Ngã. (Xem thêm phần Chú giải trong Giác Mê Tâm kệ).
          (7) TẢO TRỪ: Quét dọn. Nghĩa của chữ “Tảo Chủ”, là chổi quét, tức là quét sạch hết vọng tâm phiền não, như chuyện ông Bàn Đặt Ca Tôn Giả chỉ tu hai chữ chổi quét có mấy ngày mà chứng quả A La Hán.
          (8) GIÁC TÁNH CHƠN NHƯ: Cũng gọi là chơn như thật tướng. Chỉ cho tánh Phật hay tạng tánh Như Lai.
          (9) KIM THÂN: Thân Kim cang của Phật, tượng trưng cho lòng cứng chắc. Có ba đặc tánh siêu thắng cao khiết:
          1- Không hư hoại.
          2 -Hơn hết các món báu.
          3- Hơn hết các chiến cụ.
CÂU HỎI
          1/- Cho biết xuất xứ, văn thể và đại ý bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ”?
          2/- Sự lễ bái đối với người tu như thế nào?
          3/- Tại sao sự lễ bái chưa phải là phương tiện chính yếu?
          4/- Đức Thầy dạy lời quan trọng ra sao?
          5/- Phận sự của con người là gì?
          6/- Ngược dòng lịch sử PGHH có tương quan và thừa kế các Tông Phái nào, hãy chứng minh?
          7/- Tu thân ra sao?
          8/- Xử thế tiếp vật như thế nào?
          9/- Chân tánh là cái gì và tìm nó ở đâu?
          10/- Đức Phật Thầy Tây An dạy pháp kiến tánh ra sao?
          11/- Đức Thầy bảo muốn thấy tánh phải noi gương hạnh ai?
          12/- Tại sao bài kệ của Thần Tú không thấy tánh?
          13/- Ý gì bài Kệ của Lục Tổ được Kiến Tánh?
          14/- Đức Thầy dạy pháp tu kiến tánh có mấy cách, cách thứ nhứt ra sao?
          15/- Phương thức thứ nhì là gì, và tại sao Ngài dạy tới hai cách?
          16/- Tại sao nhà tu cần phải có Đức Tin?
          17/- Đức Tin trong sạch là gì?
          18/- Lòng trí lành ra sao?
          19/- Tu thiên lệch có tai hại gì?
          20/- Tai hại thứ nhứt như thế nào?
          21/- Tai hại thứ nhì ra sao?
          22/- Muốn phá vô minh ta cần làm gì?
          23/- Phải tu như thế nào mới có trí huệ?
          24/- Phải rèn luyện làm sao cho có tinh thần cứng mạnh?
          25/- Giải thích hai từ ngữ thành kiến và cố chấp?
          26/- Thói quen và sự chần chờ ra sao?
          27/- Lòng ham muốn và tánh kiêu ngạo như thế nào?
          28/- Hai bệnh: tật đố và gièm siểm ra sao?
          29/- Giải thích bệnh ích kỷ và sự gây gổ?
          30/- Dục tình, phiền não làm tâm rối loạn ra sao?
          31/- Tạo sao tâm và trí phải song hành?
          32/- Qui y mê tín có mấy cách, giải ra?
          33/- Qui y chánh tín như thế nào?
          34/- Cải đổi tư tưởng có mấy cách, giải ra?
          35/- Hãy tóm tắt bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ”?
          36/- Cho biết Tổng kết bài “Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ”?
*
*    *
8- LỜI CUỐI SÁCH
          Có nghiên cứu kỹ qua loạt bài trong Quyển Sáu và các bài Pháp ngữ do Đức Thầy sáng tác vào năm 1942 và 1945, chắc các bạn đều thấy đây là phần căn bản, là Tôn chỉ và Yếu Pháp trong Giáo lý PGHH và cũng thấu rõ Ngài dạy gồm đủ các pháp tu từ Nhân thừa tới tối thượng Nhứt thừa, không thiếu sót một phương tiện nào.
          Thế mà thời gian qua có nhiều bạn bên ngoài, cũng như trong nội tình của Đạo nhận thức chẳng giống nhau. Ấy là bởi căn duyên và trình độ của mỗi hành giả không đồng nhau.
          - Có người cho rằng nếu còn tu tại gia và lo hành xử Đạo Nhân thì làm sao giải thoát được.
          - Số khác thì bảo giữa thời Hạ ngươn mạt pháp, chỉ lo tu Nhân cho rồi, chớ tu Phật không kịp đâu!
          Theo ý kiến của soạn giả là trước khi khai vạch con đường để đi đến mục đích, Đức Giáo Chủ PGHH đã từng bước qua và cũng đã thực nghiệm một cách chính xác, rõ ràng mới đem giáo hóa nhân sanh:
                    “Kinh nghiệm rồi ta mới diễn ca”.
          Các bạn thử đọc lại một đoạn văn của Ngài: “…Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng “Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại. Ngài dạy rằng “Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”.
          Căn cứ theo đây, mỗi hành giả vừa xây đấp cho mình có một nền tảng chắc chắn (phận sự con người) ấy là tu Nhân. Và vừa lo kiến tạo tòa lâu đài Phật Đạo (tìm kiếm chân tánh) đó là tu Phật. Vậy ta phải tìm kiếm chân tánh ở đâu?
          Đức Thầy có chỉ rõ vị trí:
                    “Thấy Đạo lý chớ nào thấy tánh,
                      Còn ẩn nơi tim óc xác phàm”.
Cho nên: “Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm” và lo tu sửa chuyển hóa: “Tu cầu Phật hóa tánh tình, Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao”.
          - Đây quả là Ngài dạy đúng theo tâm ấn: ‘Chánh pháp nhãn tàng Niết Bàn Diệu Tâm…” của Đức Phật đã truyền qua 33 vị Tổ, như Tổ Đạt Ma đã nói:
          “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền.
          Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật”.
          Đức Thầy nay luôn kêu gọi: “Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”
Và:     “Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,
             Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.
          Về chương trình cải tiến nhân sinh Ngài chủ trương: “Đời Đạo liên quan rạng chói ngời”. Hành giả đem Đạo hòa đời để cứu đời và thi hành công hạnh Đại thừa Bồ Tát Đạo. Điều tất yếu là lúc nào cũng an nhiên: “Cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê” Và:
               “Nhân ngã, ngã nhân đừng cách biệt,
                 Sắc không không sắc chớ lìa xa”.
Hoặc là: “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.
          Hơn một lần Ngài đã dạy:
          “Với sự hành đạo của tôi cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành đạo đúng theo ý tưởng xác thực của nó là làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả và thực hành trên thiệt tế bằng mọi biện pháp để đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng sanh thì đó là sự thỏa mãn trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy tiện về vật chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết”.
          Vả lại một đấng từ bi cứu thế lúc nào cũng muốn rộng độ các tầng lớp chúng sanh vượt khỏi vòng khổ đau sanh tử. Nhưng vì cơ duyên, trình độ của mỗi hành giả chẳng đồng nhau, nên sự nhận định giáo lý và phát tâm hành Đạo có khác nhau. Song dù cơ duyên, tâm nguyện cỡ nào, hay muốn áp dụng phương tiện gì, tất cả đều phải tiến theo một lộ trình “Học Phật Tu Nhân” đó, và quyết định không để bước ngoài 2 bờ lề tám điều răn cấm, tất ai ai cũng đều có kết quả. Nghĩa là có tu có hưởng, tu tới đoạn nào hưởng đoạn đó, tu tột đỉnh thì kết quả tột đỉnh. Có điều cần chú ý là đã quyết tâm tu tiến, cần thường xem coi kệ giảng và phải:
                    “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu”.
          Hoặc là:
                    “Nghe cạn lời chớ có mơ hồ,
                    Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo”.             
          Thêm nữa, nếu người đứng xa nhìn bên ngoài cái Đạo thì thấy lối tu của PGHH quá thông thường: chỉ mang hình thức tại gia, vừa sanh nhai vừa tu. Cách thờ phượng giản dị, sống hòa hợp với đại chúng, không có sắc thái riêng biệt; tất cả môn đồ đều đối xử bình đẳng như nhau. Lời giáo lý thì bình dân vắn tắt, chỉ vỏn vẹn một quyển Thi Văn Giáo Lý, dầy khoảng 500 trang.
          Song nếu ai chịu khó nghiên cứu sâu vào bên trong của Đạo và thử thực nghiệm một ít điều, sẽ thấy Đức Giáo Chủ áp dụng một phương thức rất hòa hợp với căn cơ đại chúng; và giúp cho các giới tu hành một sự kết quả mầu diệu vô giá !
          Tóm lại PGHH với Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân”, Đức Thầy dạy tín đồ hãy lấy tâm Phật mà hành xử Đạo Nhân. Ban rộng tình thương yêu bình đẳng đến vạn loại chúng sanh, như Ngài đã nói rõ:
                    “Đem nguồn sống mới cho nhơn loại,
                       Để tiến, tiến lên cõi Đại đồng”.
          Và:
                    “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
                    Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.
                                                 
                     SOẠN GIẢ
 

Đến đây là hết Quyển Trung tập 2. Xem tiếp Quyển Hạ tập 1, 2 gồm các bài Thi Văn Giáo Lý.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn