Quyển Thượng Tập 2/3

11 Tháng Tám 20207:46 CH(Xem: 8300)
Quyển Thượng Tập 2/3
sam-giang-thi-van-giao-ly-quyen-thuong-2diendanpghh-duc-hunh-giao-chu
ong-thien-tam-bui-van-uong
Ông Thiện Tâm
BÙI VĂN ƯỞNG (1927-2007)

THAY LỜI TỰA 
(Tái Bản tại Hoa Kỳ Lần 1, Năm 2010)

         Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ là bộ pháp bảo, hàm chứa giáo thuyết căn bản, giúp người tín đồ PGHH hiểu biết tông chỉ và phương thức hành đạo.

         Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo khẳng định Ngài không lập một tôn giáo mới lạ. Ngài chỉ là vị thánh tăng vưng lịnh Đức Thế Tôn hạ giới xuống trần hưng truyền chánh pháp. Cho nên Ngài đã “nối theo chí Thích Ca ngày trước” và “rút trong các Luật các Kinh” để thành lập một giáo thuyết khế cơ, giản dị, dễ học, dễ tu cho căn cơ thấp kém của phần lớn chúng sanh trong thời Mạt pháp.

         Tuy nhiên, dù cố giản dị đến đâu, một bộ Sấm Kinh chỉ vỏn vẹn khoảng 500 trang mà tóm lược cả “rừng kinh kệ” của chư Phật Thánh thì nội dung tất phải hàm súc cô đọng. Hơn nữa, về hình thức, lời lẽ có bình dị cũng không tránh khỏi việc cần sử dụng điển tích, điển văn, Hán ngữ, dụng ngữ Phật pháp, phương ngữ, …để diễn đạt tư tưởng. Đó là các lý do khiến người tu học đôi khi không dễ hiểu nếu thiếu phương tiện sưu tầm tra cứu.

         Cố soạn giả Thiện Tâm là một tín đồ PGHH, một tu sĩ cả đời xả thân tu học, một giảng viên trong Ban Hoằng Pháp chùa Tây An Cổ Tự và Ban Phổ Thông Giáo Lý Giáo Hội Trung Ương Phật Giáo Hòa Hảo trước năm 1975. Ông nhận thức sự cần thiết của một bộ Chú Giải Sấm Giảng Thi Văn để giúp chư tín hữu khắc phục các trở ngại nói trên nên đã tự nguyện đứng ra làm công tác khó khăn nầy.

         Văn-Tư-Tu là phương châm của người tu học Phật pháp: đọc nghe, suy nghiệm rõ ràng rồi hạ công tu tập thì mới thành tựu được Đạo Giải Thoát.

         Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhắc nhở:

                  “Coi rồi phải nhận cho rõ lý.”

         Và:    “Nghe cạn lời chớ có mờ hồ,

                  Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo.”

         Cố Soạn Giả tự nhận việc làm để thể hiện mục tiêu trên không thể hoàn hảo ngay từ bước đầu. Công tác sưu khảo biên sọan nầy cần có nhiều người góp sức, cần có sự tiếp tục và tiếp tục chỉnh đốn bổ sung mãi mãi,…

         Tái bản và phát không bộ sách nầy, chúng tôi muốn nối vòng tay thể hiện hoài bão của cố Soạn Giả hầu giúp lợi ích trên đường tu học cho chư đồng đạo và tín hữu Phật giáo gần xa trong tinh thần khiêm tốn đó.

Chúng tôi chân thành cảm tạ quý bạn đạo, hữu danh cũng như ẩn danh, đã và sẽ yểm trợ tích cực về tịnh tài cũng như công sức để thực hiện hoàn thành Phật sự nầy.

Hoa Kỳ, Mùa Xuân Năm Canh Dần, 2010, P.L. 2554

        

BAN HIỆU ĐÍNH
 

CHÚ GIẢI QUYỂN NHÌ

KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG

XUẤT XỨ – VĂN THỂ

Đây là quyển Nhì mà Đức Giáo Chủ đã sáng tác vào ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939), lúc Ngài còn ở Tổ Đình Thánh Địa Hòa Hảo. Quyển Kệ nầy Ngài viết theo lối văn vần, thể thất ngôn, loại thuyết giáo, dài 476 câu.

Khởi đầu bằng câu:“Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế” và chấm dứt bởi câu:“Ta ra sức dắt dìu bá tánh”.

NỘI DUNG :

Trong quyển “Kệ Dân của Người Khùng”, Đức Thầy vạch rõ máy huyền cơ cho dân chúng biết những tai ách sắp xảy ra: nào sưu thuế nặng nề, chiến tranh chết chóc; nào nghèo khổ đói cơm, thiếu thuốc. Để rồi Ngài kêu gọi bá tánh sớm tỉnh ngộ tu hành, tránh họa diệt vong của ngày tận thế. Đồng thời Ngài cải sửa những sự sai lầm do phái Thần Tú và số người tu lạc chân lý bày ra trong Đạo Phật, như âm thinh sắc tướng, mê tín dị đoan v.v…Ngài cũng khuyên mọi người hành đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Thích Ca tự nghìn xưa, hầu trực kiến Phật tâm, tỏ ngộ chân tánh hoặc chuyên tâm niệm Phật, làm lành để được vãng sanh về Cực Lạc, thoát cảnh luân hồi sanh tử.

BỐ CỤC :

Toàn quyển Nhì gồm có ba phần chánh và 37 tiểu đoạn.

I.- Phần nhứt, tức các câu khai đề, Đức Thầy cho biết: Cuộc diện đất nước Việt Nam đang bị người Pháp đặt quyền thống trị, dân chúng phải gánh chịu biết bao tai nàn: nào chiến tranh, sưu cao thuế nặng, nào thiên tai địa ách, đói cơm thiếu thuốc.v.v…Từ câu 1 “Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế…” tới câu 8: “Mùa màng thất đói đau không thuốc…

II.- Phần hai, cũng là phần chánh đề: Ngài tiếp tục khuyên tu và thức tỉnh các người tu sai chân lý, nên cải sửa những nghi thức sai lầm, như: âm thinh sắc tướng hoặc mê tín dị đoan…Mỗi người hãy nương theo chánh pháp vô vi và tâm ấn của Đức Phật đã di truyền qua 33 vị Tổ…Từ câu 9: “Thương hại bấy lê dân đứt ruột…” tới câu 464:“Khắp lê thứ nghe lời thì ít…”

III.- Phần ba, cũng là phần kết đề. Ngài đem bàn cờ tướng sắp bị chiếu bí để tỷ dụ cuộc đời sẽ đến ngày tàn cỗi, tại sao bá tánh chẳng hồi tâm tỉnh ngộ ? Nếu ai biết quày đầu hướng thiện cải hóa thân tâm, tức mình và Tiên Phật chỉ là một…Từ câu 465:“Chốn sơn lãnh bây giờ mù mịt”, tới câu 476:“Ta ra sức dắt dìu bá tánh”. (Phần các tiểu đoạn chúng tôi có lược giải từng đoạn, nên phần nầy xin miễn nhận xét).

CHỦ ĐÍCH :

Đức Giáo Chủ khuyên các hành giả, từ hạng Tăng Ni Phật tử đến cư sĩ tại gia, nên xóa bỏ những điểm sai lầm do số người tu lạc chân lý bày vẻ thêm. Và nên hành trì đúng theo tâm ấn của Đức Phật.

“Khùng nói cho già trẻ làm tin,

Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú”.

Chú giải từ câu 001 – 204 (Quyển II)

CHÁNH VĂN

1. Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,

Thấy dân mang sưu thuế mà thương.

Chẳng qua là Nam-Việt vô vương,
Nên tai-ách xảy ra thảm-thiết.

Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,

Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.

Mới mấy năm sao quá hao-mòn,

8. Mùa-màng thất, đói đau không thuốc.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 01 tới câu 08) :

-Đoạn nầy ý nói Đức Thầy dùng trí huệ nhìn lại cuộc sống của dân chúng, đang gặp cảnh sưu cao thuế nặng mà động mối từ tâm. Từ khi nước Việt Nam bị người Pháp đặt quyền thống trị, dân ta gánh chịu biết bao cảnh lầm than cơ cực. Bởi: “Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thật là thảm thương”.(Sấm Giảng, Q.1)

-Nhận xét cuộc diện trong đời, sự giàu nghèo thay đổi rất mau chóng, bởi thiên tai địa ách cứ dồn dập mãi với đồng bào ta. Sự chuyển biến mới xảy ra chưa được bao năm mà tiền của hao hụt, đất vườn thay đổi, dân chúng nghèo đói, bệnh tật không sao kể xiết.

CHÚ THÍCH:

ĐOÁI NHÌN: Đoái là ngoảnh lại, tưởng nhớ đến. Nhìn là trông thấy. Nghĩa chung là nhìn lại, trông tưởng đến. “Chiều chiều mây phủ trời hồng, Đoái nhìn ngọn trúc, đau lòng thần hôn”.(Ca dao). Trong bài “Luận Vệc Tu hành”, Đức Thầy nói:

“Đoái thấy người đời lòng bắt chán,

Dương trần lầm lạc đáng ưu phiền”.

CUỘC THẾ: Cũng đọc là cục thế. Có nghĩa cục diện trong đời hoặc tình trạng hay cảnh trạng trong đời. Đức Thầy có câu: “Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy”.(Sa Đéc)

SƯU THUẾ: Cũng gọi là sâu thuế. Các công việc của nhà nước mà toàn dân phải làm gọi là sâu (sưu). Các sắc thuế mà mọi người dân phải đóng cho nhà nước gọi là thuế. Đây chỉ cho người Pháp cai trị nước ta, bắt dân ta phải làm sâu, đóng thuế rất nặng nề khổ nhọc.

NAM VIỆT: Quốc hiệu nước Việt Nam vào thời nhà Triệu (206-111 TCN). Thời Nguyễn gọi Nam Việt là miền Nam nước Việt Nam, thời Pháp thuộc gọi là Nam Kỳ.

VÔ VƯƠNG: Không có Vua. Ý chỉ dân tộc ta hiện tình bị mất chủ quyền (mất nước), dưới quyền thống trị của người Pháp.

TAI ÁCH: Tai nạn khốn khổ. Ý nói cuộc tai nạn dồn dập tới, hết nạn nầy tới nạn kia không ngớt, “tai trời ách nước”. Đức Thầy có câu:

“Ách trời nạn nước thình lình,

Người hung cứ mãi chống kình với Ta”.

(Dặn Dò Bổn Đạo)

BẠC KHÔNG CÁNH ĐỔI THAY CHẲNG BIẾT: Tiền bạc của cải tuy không có cánh, nhưng sự tiêu xài từ tay người nầy, sang tay người khác rất lẹ. Đây ý nói thời nay sự nghèo giàu thay đổi rất mau chóng. Đức Thầy từng nói:

“Chữ phù vân phú quí nay mai,

Luân với chuyển dời qua đổi lại”.

(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)

CHÁNH VĂN

9. Thương hại bấy lê-dân đứt ruột,

Thảm vợ con đói rách đùm-đeo.

Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,

12. Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc.

Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,

Máy Thiên-cơ mỗi phút mỗi thay.

Nẻo thạnh suy như thể tên bay,

16. Đường vinh-nhục rủi may một lát.

Ai phú-quí vào đài ra các,

Ta Điên Khùng thương hết thế-trần.

Khuyên chúng-sanh chẳng biết mấy lần,

20. Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.

LƯỢC GIẢI (từ câu 09 tới câu 20):

-Thấy sanh linh lâm cơ đồ thán, lòng Đức Thầy quá thương xót. Kẻ nghèo lại gặp cảnh nghèo hơn: nào vợ đau con đói, mùa màng ngập lụt; nào vật giá gia tăng đắt đỏ, bởi ngoại bang muốn bao vây kinh tế dân ta.

-Lại nữa, cơ luân chuyển mỗi phút mỗi xây không ngừng nghỉ, cuộc suy thạnh của con người đổi thay trong nháy mắt. Kẻ giàu sang họ đam mê theo sự ăn sung mặc sướng, chẳng chút để tâm đến những người nghèo khổ chung quanh. Lòng từ bi của đấng Giác ngộ lúc nào cũng thương khắp chúng sanh, nên đã nhiều lần giáo dân hướng thiện, nhưng chẳng được mấy người tỉnh ngộ tu hành.

CHÚ THÍCH:

ĐỨT RUỘT: Nghĩa của chữ “đoạn trường”. Ý nói tình từ bi của Phật đối với chúng sanh rất tha thiết, như tình mẹ thương con bị đứt từng đoạn ruột.

Thuở xưa, ông Hứa Tinh Vương (Hứa Chơn Quân), bình sanh ưa thích săn bắn. Hôm nọ, ông vào rừng bắn con nai nhỏ bị tên, nai chưa chết mang tên chạy sâu vào rừng. Ông và tùy tùng rượt theo đến bên hố, thấy nai con bị tên nằm dưới đất, nai mẹ cắn cỏ nhai nhổ cho con, liếm chỗ mũi tên và sa nước mắt. Thấy đoàn người rượt đến, nai mẹ vì thương con không nỡ bỏ chạy, bỗng té xỉu bên nai con, thế là mẹ con đều bị bắt. Hứa Tinh Vương cho người mang về làm thịt hết, khi mổ ra thấy ruột của nai mẹ bị đứt từng đoạn, còn nai con tuy bị tên nhưng ruột vẫn còn nguyên.

Hứa Tinh Vương thấy vậy động mối từ tâm liền đem cung tên bẻ bỏ hết, từ ấy ông chuyên tâm hành Đạo, sau đặng thành chánh quả.

Xét ra tình mẹ thương con của loài vật còn như thế, huống chi loài người, lòng thương chúng sanh của Phật, của Thầy hẳn còn sâu đậm hơn nhiều. Đức Thầy từng nói:

“Từ bi tình ấy đoạn trường,

Kể qua tích cũ mà lường lòng đây”.

(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

TỈNH TÂM: Lòng thức tỉnh, sáng biết hết mê lầm.

TÌM ĐẠO: Tìm hiểu đường lối giáo lý chơn chánh để tu hành theo. Đức Thầy từng kêu gọi:

“Sớm thức tỉnh tâm tầm Đạo chánh,

Sau nầy về Phật với ngôi Tiên”.

(Luận Việc Tu hành)

CHÁNH VĂN

21. Trai trung-liệt đáng trai hiền-thảo,

Gái tiết-trinh mới gái Nam-trào.

Lời Thánh Hiền để lại biết bao,

24. Sao trai gái chẳng coi mà sửa ?

Đời tận thế mà còn lần-lựa,

Chẳng chịu mau cải dữ về lành.

Làm Phật-Nhi phải được lòng thành,

28. Thì mới đặng vãng-sanh Cực-Lạc.

Tương với muối cháo rau đạm bạc,

Nghèo lương hiền biết niệm Di-Đà.

Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,

32. Lại được thấy cảnh Tiên nhàn-hạ.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 21 tới câu 32):

-Các bậc Hiền Thánh xưa kia đã truyền dạy biết bao lời lẽ, phận làm trai phải giữ tròn câu trung hiếu, còn gái thì giữ vẹn tiết trinh, mới xứng đáng công dân ưu tú của nước nhà và cũng chẳng hổ là con cháu của giống Tiên rồng.

Cuộc đời Hạ ngươn sắp đến ngày tàn cỗi để lập lại Thượng ngươn, thế mà chúng sanh mãi trù trừ lần lựa, chẳng sớm lo cải ác tùng thiện: “Nếu để chờ sấm nổ vang thinh, E bá tánh ăn năn đã muộn”(Diệu Pháp Quang Minh).

-Đã quy y theo Đạo và nguyện làm tôi con của chư Phật, thì phải thật tâm thành ý niệm Phật làm lành, sống cuộc đời đơn giản, đạm bạc rau tương để giữ tròn giới hạnh, tức được khỏi tà ma nhiễu loạn, kiến diện Tiên bang, sống cảnh đời an nhàn tự tại. Sau cùng được vãng sanh về Phật quốc, khỏi đường sanh tử luân hồi.

CHÚ THÍCH:

TRUNG LIỆT: Trung nghĩa với tiết liệt. Người dám liều chết để giữ tròn khí tiết của mình đối với Quốc dân.

HIỀN THẢO: Biết ăn ở hiền lành, đúng với Đạo nghĩa gọi là hiền. Tôn kính và bảo dưỡng Ông bà Cha mẹ gọi là thảo. Những kẻ hiền thảo bao giờ cũng có lòng trung liệt, cũng như người trung liệt không bao giờ để mất hiếu thảo, như Tử Lộ, Nhạc Phi bên Trung Hoa và Ngài Nguyễn Trung Trực tại Việt Nam…Là người tín đồ PGHH thì hai việc Trung và Hiếu không thể nào để thiếu, vì đó là hai điều trong “Tứ Đại Trọng Ân”. Đức Giáo Chủ từng dạy:

“Hiếu Trung hãy liệu cho xong,

Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về”.

(Sám Giảng, Q.3)

TIẾT TRINH: Cũng đọc là trinh tiết, tức là lòng trong sạch của giới nữ, không thể yêu đương một người đàn ông nào không phải là chồng chính thức của mình: “Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”(Lục Vân Tiên).

NAM TRÀO: Cũng đọc là Nam triều tức là triều đình nhà Nam. “Gái Nam Trào”, ý nói hiện nay người con gái nào giữ vẹn tiết trinh, mới xứng đáng là tôi dân của nước Việt Nam sau nầy.

LỜI THÁNH HIỀN: Chỉ cho lời giáo huấn của Đức Khổng Tử và các bậc Thánh Triết Hiền Nhân thuộc môn đồ kế truyền Đạo lý của Ngài. Những lời lẽ ấy gồm trong Ngũ Kinh: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Tứ truyện (Tứ thơ: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.) Trong đó biết bao lời lẽ chỉ dạy con người tu tập theo để trở nên bậc Thánh Hiền như các Ngài. Trong “Nang Thơ Cẩm Tú”, Đức Thầy có nói:

“Chữ Thánh Hiền mới được nôm na,

Ta thỏa chí hô hào Trung nghĩa”.

TẬN THẾ: Hết đời, tiêu diệt cõi đời cũ để lập lại cõi đời mới. Ví như miếng vườn cũ, cây trồng đã lâu năm, hiện giờ bị đốc (chạ) hết, nên phá bỏ để trồng lại. Một đoạn giảng khác trong Quyển 2, Đức Thầy đã nói:

“Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,

Nay tận diệt lập đời trở lại”.

LẦN LỰA: Trì hoãn mãi, tánh trù trừ giải đãi, hẹn lần hẹn lựa.

Xưa, có một nhà Sư khuyên một người bạn là Trương Tố Lưu niệm Phật. Lưu nói:“Tôi có ba việc làm chưa xong: một là quan tài của ông thân còn ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa con trai chưa cưới vợ, ba là con gái út chưa gả chồng. Chờ 3 việc ấy xong tôi sẽ tu niệm. Cách ít tháng sau, Lưu bị bạo bịnh mà chết. Nhà Sư đến cầu siêu và điếu Lưu một bài thi:

“Bạn tôi tên là Trương Tố Lưu,

Khuyên ông niệm Phật hẹn ba điều.

Ba điều chưa vẹn vô thường đến,

Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau !”

Đức Thầy cũng từng bảo:

“Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh,

Lúc bắt hồn mắc việc cũng đi”.
Và “Hãy rán tu đặng mà chết, Chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu” (Tư Tưởng)

CẢI DỮ VỀ LÀNH: Nghĩa của chữ “cải ác tùng thiện”, tức cải sửa những điều hung dữ để trở về con đường lành, với công việc lành. Trong bài Quy Y, Đức Thầy dạy:“…Nay con nguyện cải hối ăn năn làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo”.

PHẬT NHI: Cũng gọi là Phật tử, tức người đã quy y theo đạo Phật, đã tin Phật và nguyện làm tôi con của Đức Phật; từ đó chuyên tâm hành trì theo Pháp hạnh của Phật, nên sớm muộn gì cũng thành Phật, thế gọi là Phật nhi. Trong Kinh “Tứ Thập Nhị Chương”, Đức Phật có phán: “Những Phật tử tuy cách ta từ ngàn dặm mà thật tâm gìn giữ giới luật của ta, chắc chắn sẽ đắc đạo như ta. Còn những kẻ tuy ở gần bên ta, mà không trì hành giới luật của ta thì không xứng đáng là Phật tử và không thể đắc đạo”. Đức Thầy hiện nay cũng dạy:

“Đem tâm hồi hướng gốc lành,

Làm tôi Phật Tổ chí thành chí chơn”.

(Cho Ông Cò Tàu Hảo)

LÒNG THÀNH: Cũng gọi là thiềng lòng, tâm thành, thành tâm (xem chú thích tr.142 Tập 1/3).

VÃNG SANH:(Xem chú thích tr.209 Tâp 1/3).

CỰC LẠC: Đọc cho đủ là Cực Lạc Quốc, là cõi nước tột vui, tối diệu. Phạn ngữ: (Scr.) là Sukhavati, chỉ Quốc độ của Đức Phật A Di Đà, do công đức và nguyện lực của Ngài tạo nên. Căn cứ theo những quyển kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô lượng Thọ thì cách đây mười muôn ức cõi Phật, về hướng Tây có một thế giới, gọi là Cực Lạc (cũng gọi là An Dưỡng Quốc); cõi nầy từ đất cát đến cung điện toàn bằng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não). Hoa sen nơi đó có năm sắc; nước có tám công đức (1. Trừng thanh tức lặng trong, 2. Thanh lãnh tức man mát, 3. Cam mỹ tức ngon ngọt, 4. Khinh nhuyễn tức mềm nhẹ, 5. Nhuận trạch tức trơn bóng), 6. An hoà tức yên ổn hòa nhã, 7. Trừ cơ khát và 8. Nuôi dưõng các căn.); chim kêu thành tiếng pháp, cây báu diễn lời lành; y phục, nhà cửa và các thức ăn, uống đều tùy ý hiện ra. Nói tóm lại nơi ấy là một cõi hoàn toàn an vui, trong sạch, không có những nỗi khổ và ô trược như cõi Ta Bà của chúng ta đang ở.

Trong Kinh Tiểu Bản Di Đà, Phật có phán với Ngài Xá Lợi Phất:“Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc ? Kỳ Quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thụ chi lạc, cố danh Cực lạc”.(Cõi ấy vì sao gọi là Cực Lạc ? Vì chúng sanh cõi ấy không có những sự khổ, chỉ huởng các sự vui; bởi thế nên gọi là Cực Lạc).

Kẻ tu hành bất luận xuất gia hay tại gia, nếu ai có đủ tín, nguyện, và trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật một cách chí thành, chí thật thì khi lâm chung được Đức Phật A Di Đà tiếp rước, linh hồn được vãng sanh về cõi của Ngài, thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.

TƯƠNG VỚI MUỐI CHÁO RAU ĐẠM BẠC: Câu nầy ý khuyên người tu nên trường chay giới sát để thoát khỏi luân hồi quả báo. Đức Thầy từng dạy:“Tương dưa giữ phận cho tròn”.(Thiên Lý Ca). Câu giảng nêu trên cũng còn có nghĩa bảo mỗi người nên sống một cách:“Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh(Luận Về Bát Chánh/Chánh Tư Duy); chẳng nên ăn xài phung phí, để có thì giờ trau thân gìn đạo, như Đức Giáo Chủ từng dạy:

“Phận tu hành đạm bạc rau tương,

Miễn cầu được an khương bốn bể”.

(Nang Thơ Cẩm Tú)

NIỆM DI ĐÀ: Trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, tức tu Pháp môn Tịnh Độ (Niệm Phật). Kinh A Di Đà, Phật nói:“Nếu có người thiện nam tín nữ nào, nghe ta giải về Phật A Di Đà mà trì niệm danh hiệu của Ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày…dẫn tới 7 ngày mà tâm không xao lãng, cứ chuyên cần như vậy; đối với hạng người ấy, các tội đều tiêu diệt, tức được nhiều căn lành phước đức nhân duyên và đến lúc lâm chung sẽ có Phật A Di Đà cùng chư Thánh hiện ra trước mắt mình, nên tâm không điên đảo, tức thời được vãng sanh về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà”.

TINH MA: Tà ma quỉ quái. Nghĩa bóng là chỉ cho hạng hung tàn bạo ác. Một đoạn khác, Q.2, Đức Thầy bảo:

“Lớp đau chết kể thôi vô số,

Thêm tà ma yêu quái chật đường”.

CHÁNH VĂN

33. Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,

Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.

Coi là coi được Phật được Trời,

36. Coi phép lạ của Tiên của Thánh

Cuộc dương-thế ngày nay mỏng-mảnh,

Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn.

Phải xả thân tầm Bát-Nhã thoàn,

40. Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt.

Đến chừng đó bốn phương có giặc,

Khắp hoàn-cầu thiết thiết tha tha.

Vậy sớm mau kiếm chữ Ma-Ha,

44. Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.

LƯỢC GIẢI ( từ câu 33 tới câu 44 ):

-Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết sau nầy trên vùng Thất sơn sẽ có nhiều việc quí báu lạ lùng:“Chừng bảy núi lầu son lộ vẻ, Thì người già hóa trẻ dân ôi !”(Đáp Lời Ông Lương Văn Tốt). Nếu ai sớm giác ngộ tu hành, trau sửa tâm tánh cho được thuần lương thanh khiết thì chẳng những đặng kiến diện Phật Tiên, còn được xem cảnh báu lạ sẽ diễn ra ở miền Bảy núi:

“Mắt nhìn thấy Thần thông biến hóa,

Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.

(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)

-Vả lại, cuộc đời quá mong manh, sắp đến hồi biến hoại, cơ tuyển chọn hiền còn dữ mất, thế mà kẻ giàu sang chưa biết hồi tâm hướng thiện, lại còn khinh khi lấn áp dân nghèo. Đức Giáo Chủ kêu thúc mọi người sớm quay về chánh Đạo và trau giồi trí tuệ cho tinh minh. Về cách thức tu huệ, Ngài đã dạy:“Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội).

Muốn diệt cái vô minh trước phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhứt của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành kiến cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy !”(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ – tr. 458-459 SGTVTB 2004).

-Khi người ta đã đứng vững trên con thuyền Đại Đạo và đạt được trí huệ thì những tai nạn hãi hùng, các cuộc chiến tranh binh lửa khắp hoàn cầu sắp tới đây, không thể làm hại mình được, bởi chư Phật và Đức Thầy lúc nào cũng hộ trì cho những kẻ chân tu.

CHÚ THÍCH:

BẢY NÚI: (Xem chú thích tại tr. 106 Tập 1/3)

TU TÂM DƯỠNG TÁNH: Trau sửa cái tâm và điều dưỡng cái tánh. Tâm và Tánh đồng một bản thể nhưng vì ứng dụng nên có hai tên. Vẫn biết tâm tánh của chúng sanh và chư Phật gốc cũng như nhau, nhưng vì tâm tánh của chúng sanh bị vô minh vọng hoặc nên nay cần phải tu dưỡng lại, chớ không phải tìm cầu cái tâm tánh nào khác.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật bảo ông A Nan:“Tất cả chúng sanh cùng mười phương chư Phật, đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh không hai. Bởi các ông bị vô minh vọng tưởng nên sanh ra mười phương hư không và thế giới nhiều như vi trần…Chẳng khác nào một điểm mây nhỏ sanh trong nền trời xanh. Nếu nay hết mây, tức ngộ được chân tánh thì mười phương hư không và thế giới đều tiêu diệt”.

Vậy hành giả cần tu sửa cho sạch hết các vọng tâm phiền não và điều dưỡng cái tánh cho được hòa vào một bản thể giác ngộ với chư Phật, tất nhiên huệ nhựt hiện bày, dứt hết nghiệp sanh tử, tự tại giải thoát, như Đức Thầy đã dạy trong Quyển Khuyến Thiện:

“Trau tâm luyện tánh cho minh,

Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn”.

Hoặc là:

“Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành,

Đừng cho ma nghiệp vọng tâm sanh.

Quay về cội phúc đường chân đạo,

Phật pháp thiền na dốc thực hành”.

(Cho Cô Võ Thị Hợi)

MỎNG MẢNH: Rất mỏng và yếu, dễ rách, dễ gãy bể. Ý chỉ cuộc đời sắp hư hoại:

“Đời nầy mỏng tựa màng thưa”.(Sấm Giảng Q.1) XẢ THÂN: Dám liều thân, không kể thân mình. Do chữ “xả thân tìm Đạo”; xả bỏ lòng vị kỷ tham lam, dốc hết tâm lực để tìm đạt được Đạo. Đức Thầy từng dạy:“Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”(Bát Chánh/ Chánh Tư Duy).

BÁT NHÃ THOÀN: Cũng đọc là thuyền bát nhã. Bát Nhã là phiên âm của Phạn ngữ (Scr.) Prajna, một danh từ đặc biệt trong Phật pháp, bao gồm nhiều ý nghĩa, dịch gọn là Trí huệ, là thanh tịnh sáng suốt. Bát nhã lại có 3 thứ:

1.- Thật tướng bát nhã: Cái linh trí sáng mầu, thường tồn bất biến của mỗi chúng sanh đều sẵn có (trí vô sư).

2.- Quán chiếu bát nhã: Cái trí sáng quán sát thấu suốt, phân biệt các pháp, người tu hành nhờ tịnh lự, tư duy mà mở thông.

3.- Văn tự bát nhã: Sự sáng suốt, thông hiểu lý nghĩa, mầu nhiệm cao sâu trong các kinh điển đạo Phật; nhà tu nhờ học rộng nghe nhiều, sưu tầm tra cứu mà thấu đạt.

Sở dĩ gọi Bát Nhã là chiếc thuyền, là vì trí huệ có diệu năng đưa mình và độ chúng từ bờ mê sang bến giác. Chính nó là một trong sáu pháp “Ba-la-mật” của chư Bồ Tát thường hành. Đức Thầy từng bảo:

“Thuyền bát nhã ta cầm tay lái,

Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.

(Diệu Pháp Quang Minh)

Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy:“Trí huệ (Bát nhã) là chiếc thuyền bền chắc, không một lượn sóng dục tình nào đánh đắm được, nó hay đưa người khỏi biển: sanh, lão, bịnh, tử. Là món thuốc thần diệu chữa lành các thứ bịnh thất tình lục dục.v.v…Là ngọn đuốc tột sáng, chiếu tan lớp vô minh vọng hoặc. Là lưỡi búa (kiếm) thật bén chặt đứt cội phiền não, tà kiến…”

Đức Thầy hiện nay cũng bảo:

“Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,

Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.

(Hiếu Nghĩa Vi Tiên)

Bởi diệu năng của trí Bát nhã như thế, nên Ngài bảo:“Phải xả thân tầm Bát Nhã thoàn”.(Kệ Dân, Q.2)

HOÀN CẦU: Khắp cả địa cầu, khắp cả thế giới.(Xem chú thích chữ Địa cầu tại tr.35 Tập 1/3)

MA HA: Phiên âm của Phạn ngữ (Scr.) Mahâ, dịch nghĩa là rộng lớn. Sự rộng lớn ấy ví như hư không, không bờ bến, nó vẫn rỗng thông sáng tỏ, đồng với bản thể của đạo tâm. Cho nên khi nói đến Ma Ha tức là nói đến Đại Đạo. Vậy Đức Thầy dạy chúng ta:“…sớm kiếm chữ Ma Ha”, là bảo sớm tìm Đại Đạo, vì trong đó có đủ giáo lý diệu mầu giúp ta hườn nguyên phản bổn, tức trực kiến được bản thể chơn như tự tánh. Đức Thầy dạy:

“Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp,

Cho đời thấu tỏ Đạo ma ha”

(Tối Mùng Một)

CHÁNH VĂN

45. Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu-Huyền sớm tối mới mầu.

Chữ Nam-Mô dẹp được lòng sầu,

48. Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.

Ghét những đứa giàu-sang kiêu-hãnh,

Thương những người đói-rách cơ-hàn.

Cảnh phồn-hoa khó sánh lâm-san,

52. Sau sẽ có nhiều điều vinh-hạnh.

LUỢC GIẢI (từ câu 45 tơí câu 52):

Đoạn nầy dạy hai thời cúng lạy của mỗi tín đồ PGHH, cần phải thực hiện hằng ngày, chớ nên xao lãng, bởi:“Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu, Thì sẽ được toà chương dựa kế(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). Còn sự niệm Phật tuy vỏn vẹn có sáu chữ Di Đà, nhưng nếu ai chuyên tâm tưởng niệm tất được nhiều lợi ích, như hiện tại sẽ khỏi tai nạn sầu khổ và tương lai đặng dự Hội Long Hoa, chầu mừng Phật Thánh. Vì ngày ấy sẽ có:

“Phật, Thánh, Tiên, Đông Độ lướt sang,

Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”.

(Nang Thơ Cẩm Tú)

-Những kẻ giàu sang thường cậy vào tiền của lên mặt khinh khi kẻ khác khiến ai trông vào cũng chán ghét. Còn hạng cơ bần nghèo túng ai nhìn tới cũng thương hại, đó là tâm trạng chung của xã hội loài người. Đức Giáo Chủ thường đề cập đến:

“Người sao lại bỉ bàng tôm cá,

Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng.

Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng,

Lại không đủ bữa rối nhăng đời người”.

(Bóng Hồng)

-Đức Thầy còn cho biết cảnh phồn hoa đô thị hiện giờ, tuy thấy đầy sự ăn sung mặc sướng, tiền bạc lụa là nhưng chẳng vinh hạnh bằng cảnh rừng núi tại vùng Thất sơn sau nầy. Bởi:

“Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,

Mà ruột năm non có các đài.

Chờ đợi con hiền noi tục cổ,

Tới ngày thượng cổ điểu hòa mai”.

(Đến Làng Nhơn Nghĩa)

CHÚ THÍCH:

TƯỞNG NHỚ PHẬT: tức là niệm Phật. Do chữ “Niệm Phật Ức Phật”. Ý nói người niệm Phật, lạy Phật cần phải thường xuyên và thiết tha thành khẩn, tưởng nhớ Phật như kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu cứu mới mong kết quả. Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:“Nhớ Phật, tưởng Phật thường xuyên thì lúc hiện tiền hoặc tương lai quyết định thấy Phật, thành Phật; chẳng cần phương tiện mà tự nhiên tâm địa khai thông”(Ức Phật, niệm Phật hiện tiền tương lai tất định kiến Phật, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai). Cho nên ngày nay Đức Thầy thường dạy tín đồ:

Đêm ngày tưởng Phật cho thường”(Sấm Giảng Q.1).

VỌNG CỬU HUYỀN: Vọng bái Tổ Tiên Ông Bà cha mẹ. Ý chỉ sự thờ cúng “Cửu Huyền Thất Tổ” của người tín đồ PGHH, phải thường xuyên mỗi ngày hai thời, không nên quên lãng. Đức Thầy đã dạy;

“Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,

Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.

(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)

CHỮ NAM MÔ DẸP ĐƯỢC LÒNG SẦU: Nam mô là phiên âm của Phạn ngữ (Namah); nhưng chữ “nam mô” ở đây là nói gồm đủ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ý dạy người trì niệm lục tự Di Đà sẽ tan hết tai nàn sầu khổ và kết quả cao quí:

“Cứu khổ nam-mô vô lượng phước,

Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh”.

(Tỉnh Bạn Trần Gian)

-Khi xưa Thái tử A Xà Thế nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa hạ ngục vua cha là Tần Bà Xa La và Mẫu hoàng Vi Đề Hy. Ở trong ngục thất quá sầu khổ, Hoàng hậu quì xuống hướng về Đức Phật, thành tâm khẩn nguyện nhờ Ngài ban vui cứu khổ. Cảm ứng đến Đức Thế Tôn, Ngài bèn dùng thần lực giúp cho bà thấy được cảnh giới Cực lạc và khuyên bà nên niệm Phật, để sau nầy được sanh vào cõi ấy. Bà Vi Đề Hy vâng lời Phật dạy chí tâm niệm Phật, ít hôm sau sự sầu khổ vơi dần, Thái tử A Xà Thế cũng hồi tâm cải hối, rước mẹ về xin lỗi và quay đầu hướng thiện (theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh).

Vấn đề nầy, trong Giảng Mười Một Hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:

“Niệm Phật vui thú thảnh thơi,

Buồn rầu giải hết, mặc người cười chê”.

Đức Thầy nay cũng cho biết:“Niệm chữ A Di dẹp lòng sầu”.(Muốn Rõ Đạo Mầu).

NHÀ TIÊN CỬA THÁNH: Có hai nghĩa:

1.-Chỉ cho cõi đời Thượng ngươn Thánh đức. Chừng ấy cơ trời mở Hội Long Hoa, chọn lọc hiền còn, dữ mất. Lúc đó sẽ có:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”(Không Buồn Ngủ). Người nào biết làm lành lánh dữ, niệm Phật tưởng Kinh sẽ được dự vào hội ấy mà an hưởng cảnh:

“Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,

Muôn năm cộng lạc Chúa hiền tôi trung”.

(Nang Thơ Cẩm Tú)

2.- Chỉ cho nhà tu khi được đắc Đạo. Vì nếu ai chuyên trì Lục tự, dứt hết nghiệp nhân tội lỗi, không còn nhiễm ô trần tục, tức đặng trở về tâm hồn Tiên Thánh:“Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực Hiền.(Luận Việc Tu hành). Thế nên Đức Thầy hằng kêu gọi:

“Nhơn sanh tỉnh giấc tìm nhà Thánh Tiên(Bóng Hồng)

CƠ HÀN: Đói và lạnh. Chỉ cho cảnh nghèo khổ túng thiếu, không đủ cơm ăn áo mặc.

PHỒN HOA:(Xem lại chú thích tại tr.211, Tập 1/3)

LÂM SAN: Cũng đọc là lâm sơn, có nghĩa rừng và núi. Đây chỉ cho miền Thất sơn. Đức Thầy có câu:

“Lâm san rày đã rời ra,

Dạo trong lê thứ vậy mà xét soi”.

(Vọng Bắc Hòa Nam)

VINH HẠNH: Vẻ vang và may mắn.

KIÊU HÃNH: Cậy mình lên mặt, làm cao, khinh khi kẻ khác. Ví dụ: Thấy người kiêu hãnh ai cũng ghét.


CHÁNH VĂN

53. Cõi trần thế hết suy đến thạnh,
Hết lâm nguy đến lúc khải-hoàn.

Tuy tu hành chịu chữ nghèo-nàn,

56. Sau đắc đạo gặp điều cao-quí.

Mặc bá-tánh đời nầy dị-nghị,

Ta Điên Khùng mà tánh lương-hiền.

Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền,

60. Mà dương-thế cứ theo biếm nhẻ.

Sau lập Hội thì già hoá trẻ,

Khắp hoàn-cầu đổi xác thay hồn.

Đức Ngọc-Hoàng mở cửa thiên-môn,

64. Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.

LƯỢC GIẢI (từ câu 53 tới câu 64):

-Thể theo định luật tuần hườn trong vũ trụ, hễ hết suy tới thạnh, qua hồi gian nguy, tới lúc an lạc thạnh hưng. Kẻ tu hành cũng thế, lúc đang hành đạo phải gặp nhiều gian lao cực khổ nhưng đến khi quả mãn công viên thì có chi quí báu cho bằng.

-Thuở Đức Thầy mới khai Đạo, có lắm người chẳng tin nghe, lại còn bài bác, nhưng với lòng từ bi vì muốn cứu độ chúng sanh, chớ chẳng phải vì tiền bạc. Thế mà người đời không chịu xét kỹ, cứ theo nhạo chê phỉ báng.

-Đức Thầy còn cho biết: tới ngày lập Hội sẽ có cuộc thay hồn đổi xác rất mầu nhiệm ký bí, nhiều người già yếu được trẻ đẹp trở lại và có nhiều người tu được đắc thành Phật, Tiên, Thánh. Đó là do phép huyền diệu của Trời Phật ban thưởng cho người có công tu. Còn những kẻ gian tà xảo quyệt, sẽ bị luật đào thải diệt vong:

“Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,

Người tu niệm sống đời thượng cổ”.

(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)

CHÚ THÍCH :

HẾT SUY TỚI THẠNH: Suy là sa sút, kém yếu, suy bại. Thạnh là sáng sủa, phát đạt hưng thịnh. Đây là định luật xoay vần trong trời đất: hễ hết suy tới thạnh, hết vinh tới nhục. Đức Thầy có câu:

“Hưng vong suy thạnh xưa nay,

Cuộc đời vay trả, trả vay đổi dời”.

(Viếng Làng Phú An)

LÂM NGUY: Gặp lúc nguy hiểm nghèo ngặt. “Lâm nguy, may được giải nguy”(Lục Vân Tiên).

KHẢI HOÀN: Khải là vui mừng; hoàn là trở lại. Khải hoàn là thắng trận vui mừng khi trở lại:“Vui khúc khải hoàn”. Đức Thầy có câu:

“Dân được vui nhờ lúc khải hoàn”(GMTK, Q.4).

ĐẮC ĐẠO: Được đạo, đạt đạo. Ý chỉ nhà tu đến khi thành đạo (diệt trừ hết hạt giống sanh tử, công viên quả mãn). Tùy theo công đức của mỗi người mà chứng đắc quả vị.

DỊ NGHỊ: Bàn khác, có ý bác đi. Đây ý nói Đức Thầy ra đời khuyên người làm lành, làm phải mà có nhiều kẻ không chịu nghe, lại còn bài bác đủ cách.

ĐỔI XÁC THAY HỒN: Thay đổi hồn nầy qua xác khác. Cuộc thay đổi nầy có nhiều cách:

1./ Những người tâm hồn chơn chánh hiền lương nhưng thể xác đã già nua yếu đuối nên đến ngày biến thiên sấm nổ, Trời Phật sẽ cho đổi qua xác khác, trẻ trung mạnh khỏe hơn, như trong Cửu Khúc của ông Ba Thới có nói:

‘Kẻ mất hồn người vía bay xa,

Vía bay xa người ta còn lại.

Phật đem hườn vía lại thủ thân”.

Và trong Sấm Giảng 11 hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai cũng bảo:

“Tu hành nhơn đức thì hơn,

Thay hồn đổi xác nhờ ơn cửu trùng”.

Đức Huỳnh Giáo Chủ nay đã cho biết:

“Cổ ngữ hằng ghi thậm khổ đa,

Tận diệt nhơn gian trực tiên khoa.

Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,

Ly kỳ thiên định dĩ thiên-la”.

(Lộ Chút Cơ Huyền)

2./ Sau ba tiếng sấm nổ mọi chúng sanh đều bất tỉnh, người nào hiền đức thì được chư Phật Thánh dùng linh dược cứu sống. Bấy giờ xác thể già xấu được đổi lại đẹp trẻ hơn trước. Hoặc những linh căn có tu hành đầy đủ công đức, nhưng đã bỏ xác từ trước nay được Phật dùng huyền diệu cho sống lại bằng cách “Liên hoa hóa thân”; như trường hợp Thái Ất Chơn nhơn dùng hoa sen tạo ra xác thể cho học trò là Na Tra. Trong Kim Cổ Kỳ Quan có câu:

“Thương cho người sống ít, thác nhiều,

Linh đơn Phật rưới mai chiều hóa tiên”.

Đức Thầy cũng bảo:

“Đến hội trăm quan còn hiện được,

Thì ra xác thịt có cần đâu ?”

(Cho Cô Hai Gương)

3./ Nguyên tâm tánh của mỗi chúng sanh trước kia đồng một bản thể với Phật Thánh song vì vọng niệm sai lầm, vô minh điên đảo mà thành ra chúng sanh và luân hồi sanh tử mãi mãi. Nên nay, hễ ai biết giác ngộ và y pháp tu hành đổi vọng tâm phiền não ra tánh Bồ Đề, sửa thân phàm phu ra thân Phật Thánh, tức chứng được Tam Thân bất hoại. (Tam thân gồm có: Thanh tịnh Pháp thân, Viên mãn Báo thân, Thiên bá ức Hóa thân). Bấy giờ chính mình tự thay hồn đổi xác cho mình rồi đấy. Trong Cửu Khúc, ông Ba Thới có câu:

“Hết tục rồi lại hóa tiên,

Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành”.

Nay Đức Thầy đã dạy rõ trong bài Hoài Cổ:

“Tính xong món nợ lần-khân,

Thoát vòng cương tỏa pháp-thân nhẹ nhàng”.

Nói tóm lại, trong ba cách thay hồn đổi xác vừa giải qua, tùy theo công năng tu tập cao thấp, sâu cạn của mỗi hành giả mà được thay đổi rất cân xứng.

Và hành giả tu tập đến đó sẽ được:

“Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,

Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao”(Hoài Cổ)

ĐỨC NGỌC HOÀNG: Cũng gọi là Đức Ngọc Đế. Chỉ cho đấng Chủ tể thượng giới lẫn hạ giới. Theo Lão giáo thì quan niệm rằng: Đức Ngọc Hoàng (Thiên Hoàng,Thượng Đế) chưởng quản cõi trời và cõi chúng sanh. Luật thưởng phạt của Ngài rất công bằng, căn cứ vào định nghiệp nhân quả của mỗi chúng sanh mà phạt hay thưởng. Đức Thầy có cho biết:

“Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,

Đức Ngọc Đế xử phân cho chúng”.

(Diệu Pháp Quang Minh)

Lúc ấy luật trời sẽ:

“Xử những kẻ hung hăng tồi tệ,

Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”.

(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)

THIÊN MÔN: là Cửa Trời. Đức Thầy có câu:“Thiên Hoàng mở cửa các lân”(Sấm Giảng, Q.3).


CHÁNH VĂN

65. Khuyên trai gái học theo Khổng-Mạnh,

Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người.

Xem truyện thơ chẳng biết hổ-ngươi,

68. Mà làm thói Điêu-Thuyền, Lữ-Bố.

Sau kẻ ấy làm mồi mãnh-hổ,

Cảnh Núi-Non nhiều thú dị-kỳ.

Nó trọng ai hiền-đức nhu- mì,

72. Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.

LƯỢC GIẢI (từ câu 65 tới câu 72):

-Theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân”, PGHH quan niệm rằng con người có vượt hơn người thường (siêu nhân) mới gọi là Phật Thánh. Cho nên Đức Thầy khuyên mọi người nên noi theo gương hạnh và lời chỉ giáo của các bậc Thánh Hiền (Khổng Mạnh) khi xưa để ăn ở đối xử cho tròn cái Đạo làm người. Đó là điều căn bản của mỗi tín đồ cần phải có.

-Sách sử đã ghi lại biết bao câu chuyện tốt đẹp hoặc xấu xa, thế mà con người thời nay chẳng biết xét soi trau sửa, lại đua đòi những thói trăng hoa, vô liêm bất nghĩa, như Lữ Bố và Điêu Thuyền thuở nọ.

-Đức Giáo Chủ còn cho biết, sau nầy đến thời kỳ thưởng phạt thì trên miền Bảy Núi sẽ có nhiều loài thú kỳ lạ trừng phạt kẻ bất trung bất nghĩa:

“Hổ lang ác thú muôn bầy,

Lớp bay lớp chạy sau nầy đa đoan.

Ai mà ăn ở nghinh ngang,

Đón đường nó bắt xé tan xác hồn”.

-Còn những người biết tỉnh ngộ tu hành, vẹn tròn trung hiếu tiết nghĩa thì có Phật Tiên Thần Thánh gia hộ an toàn.

CHÚ THÍCH :

KHỔNG: là Đức Khổng Tử. Ngài sanh vào ngày 27 tháng 8 năm Canh Tuất (551 TCN), thời Xuân Thu, năm thứ 21 đời Châu Linh Vương, năm 22 thời Tương Công nước Lỗ, vào khoảng cuối đời Hồng Bàng ở nước Việt Nam ta.

Quê Ngài ở làng Sương Bình, ấp Trâu, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, nước Lỗ (Trung Hoa). Cha Ngài là Thúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Trưng Tại (Nhan thị). Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người đời sau xưng tụng Ngài là Khổng Phu Tử. Xuất thân trong gia đình nghèo khó, mồ côi cha từ mới lên ba nên Ngài biết rất nhiều nghề, đảm đang tháo vác.

Ngài có tầm vóc cao lớn hơn người, môi trâu, tai cọp, vai uyên (chim uyên), lưng rùa, miệng rộng; sơn đình giữa thì thấp còn bốn phía thì cao . Ngài rất thông minh, học rộng thấy xa và có nhiều đức tánh thiện mỹ.

Lúc 50 tuổi, Ngài tầm ra chơn lý, bắt đầu hoạt động đạo nghĩa. Ngài làm quan nước Lỗ, từ chức Trung Đô Tể đến chức Nhiếp Chính Sự, hết lòng đem đạo đức dạy dân, xây dựng nên cảnh thanh bình trật tự thời đó. Nền Khổng Giáo từ độ ấy lan dần khắp nước Lỗ. Nhưng về sau, vua Lỗ mắc mỹ nhân kế của vua Tề Cảnh Công, đam mê nữ sắc, Ngài Khổng Tử bỏ nước Lỗ đi du thuyết. Ngài châu du qua nhiều nước, như: Tấn, Tề, Thái, Tống, Sở, Vệ.v.v…Nhiều nhà Vua nghe Ngài thuyết giảng đạo lý đều kính phục, nhưng ít ai chịu khó áp dụng theo.

Trên con đường truyền Đạo, Ngài Khổng Tử đã gặp biết bao trở ngại, gian khổ: bị vây ở đất Khuông, bị mưu sát ở đất Tống, thầy trò lạc nhau ở đất Trịnh, bị cản trở ở đất Bồ, bị bao vây đến tuyệt lương ở đất Trần. Ngài nếm biết bao mùi vị đắng cay của dòng đời:“ Đời phong sương luống trải lắm gió mưa”(Cổ thi).

-Năm Ngài 68 tuổi, Quí Khang Tử ở nước Lỗ thay mặt vua Ai Công mời Ngài về. Thế là sau 13 năm lưu lạc phong trần, Ngài mới trở về cố quốc.

Ngài trở về Lỗ không phải dự Quốc chánh nữa mà là để truyền Đạo, bằng cách là mở trường dạy học trò, đồng thời Ngài khảo sát và san định kinh điển để lưu truyền dạy thế (Ngài khảo sát Kinh Lễ, Kinh Nhạc, san định Kinh Thi, Kinh Thư, khảo cứu Kinh Dịch, viết Kinh Xuân Thu, …).

-Đến năm Nhâm Tuất, một hôm Ngài dậy sớm, đi tiêu dao trước cửa nhà, tay chống gậy mà hát:

“Thái sơn kỳ đồi hồ ?

Lương mộc kỳ hoại hồ ?

Triết nhân kỳ nguy hồ ?

(Núi Thái sơn có lẽ đổ chăng ?

Cây lương mộc có lẽ nát chăng ?

Người triết nhân có lẽ nguy chăng ?)

Hát xong, Ngài ngồi dựa cửa. Lúc Tử Cống đến, Ngài hồi tưởng lời thân mẫu, kể lại:

– “Ta vừa gặp kỳ lân què chânKhi mới thọ thai ta, mẹ ta nói có con kỳ lân xuất hiện, đi vào nhà nhả tờ ngọc thơ. Mẹ ta lấy dây chỉ đỏ cột lên sừng nó làm dấu. Nay nó què chân, đoàn thợ săn bắt đem về, ta đoán nhiệm vụ ta sắp hết”. Từ đó, Ngài thọ bịnh và đến ngày thứ 7 thì mất, hôm ấy, vào ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, thọ 73 tuổi, nhằm đời vua Kinh Vương nhà Châu thứ 41. Phần mộ Ngài nằm ở làng Khổng Lâm, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông (Trung Hoa).

Các môn đệ của Ngài gồm có:

Tứ Phối, cũng gọi là Tứ Thánh, đó là:

1- Phục Thánh: Nhan Hồi tự Tử Uyên.

2- Tòng Thánh: Tăng Sâm tự Tử Dư.

3- Thuật Thánh: Khổng Cấp tự Tử Tư.

4- Á Thánh: Mạnh Kha tự Mạnh Tử.

Thập nhị Triết (Mười hai nhà Hiền Triết).

Thất thập nhị Hiền (72 ông Hiền).

Tam thiên đồ đệ (3.000 học trò).

Đạo của Đức Khổng Tử có nhiều danh xưng: Khổng giáo, Nho giáo hay Thánh giáo…Giáo thuyết gồm có: Ngũ Kinh và Tứ Truyện. (Ngũ Kinh là Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Thi, Kinh Thư và Kinh Xuân Thu. Tứ Truyện là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử). Tôn chỉ gồm 8 chữ:“Hiếu, Đễ, Trung, Thứ, Tu, Tề, Trị, Bình”. Mục đích là dạy người tu tròn Nhân Đạo để đạt đến bậc Thánh Triết, hiền nhân quân tử.

MẠNH: là Ngài Mạnh Tử, tức Á Thánh. Ông tên thật là Mạnh Kha, sanh vào ngày mùng 2 tháng Tư năm thứ tư đời Liệt Vương nhà Châu (372 TCN) ở đất Châu, tỉnh Sơn Đông (Trung Hoa). Thân phụ là Khích Công Nghi, hiền mẫu là Cù thị, thuộc dòng Công tộc Mạnh Tôn.

Ông mồ côi cha từ thuở bé, nhờ hiền mẫu thủ tiết, hết lòng chăm sóc dạy dỗ. Sợ con mình tập nhiễm theo nết xấu của những đứa trẻ ở chung quanh nên Bà phải dời nhà ba lần mới yên (có bài thơ kể như vầy):

“Tích xưa Mẹ Thánh huấn nhi,

Dọn nhằm chỗ ở dời đi ba lần.

Có khi trẻ chẳng ân cần,

Mình ngồi khung cửi cắt chân mà thề,

Từ sau cứ học một bề,

Phong làm Á Thánh thành nghề rất ngoan”.

Lớn lên, ông học với Thầy Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Đức Khổng Tử. Chẳng bao lâu ông thấu đạt thâm ý của Đạo Thánh và có tài hùng biện, đi du thuyết qua các nước Tề, Tống, Đằng, Lương…để quảng bá Đạo Thánh hiền, nhưng các vua chúa thời Chiến Quốc mãi lo chiến tranh giành giựt, ít ai để ý đến việc Nhân nghĩa. Tuy nhiên, ông là người có công lớn trong nền Nho giáo, bởi tài hùng biện đanh thép của ông làm cho nền Thánh giáo được phát triển lan rộng.

Khi trở về già, ông cùng các môn đệ ghi chép những lời của ông đã đối đáp với các nhà vua, hoặc các môn đồ, cùng những lời phê bình sự chênh lệch của các học thuyết khác, làm thành bộ sách gọi là Mạnh Tử, gồm có bảy thiên. Đây là một trong các bộ sách cốt yếu của Nho giáo, chẳng những có giá trị về tư tưởng mà còn cả về văn chương nữa, nên ông được người xưng tụng là Á Thánh. Mạnh Tử mất vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 26 đời Châu Noãn Vương (289 TCN), thọ được 83 tuổi.

SÁCH THÁNH HIỀN: (Xem chú thích chữ Lời Thánh Hiền nơi câu 23 trên).

ĐẠO LÀM NGƯỜI: Nghĩa của chữ “Nhân Đạo” tức mỗi người phải đối xử lẫn nhau cho được hài hòa tốt đẹp, nếp ăn thói ở đều biết tôn ti trật tự: Nam có Ngũ luân, Ngũ thường; Nữ có Tam tùng, Tứ đức. Trong bài “Luận Về Tam nghiệp”, Đức Thầy có dạy:“… Đạo của con người kêu bằng Đạo Nhân và nó cũng là một con đường, đi trúng thì sống, bước trật thì chết…”.

HỔ NGƯƠI: Mắc cỡ, trông thấy mà thẹn:“Hổ ngươi cáo bịnh xin về đã lâu”.(Lục Vân Tiên)

ĐIÊU THUYỀN LỮ BỐ: Điêu Thuyền là tên cô gái có nhan sắc tuyệt vời, con nuôi của Vương Doãn (quan Tư Đồ nhà Hán đời Tam Quốc bên Trung Hoa); còn Lữ Bố tự là Phụng Tiên, người ở đất Cửu Nguyên (Trung Hoa) cũng đời Tam Quốc. Lữ Bố là người võ dõng nhưng vô mưu và bất nghĩa. Lúc trước, Lữ Bố làm con nuôi của Đinh Nguyên, chống lại Đổng Trác, về sau lại giết Đinh Nguyên qua phò Đổng Trác (cũng làm con nuôi). Đổng Trác khi dụ được Lữ Bố liền mưu đồ đoạt ngôi nhà Hán.

Quan Tư Đồ Vương Doãn muốn cứu nguy vua Hán bèn thiết lập Liên hoàn kế (mỹ nhân): Ông hứa gả Điêu Thuyền cho Lữ Bố nhưng lại đem Điêu Thuyền dâng cho Đổng Trác trước. Kết quả y như dự định của Vương Doãn, vì quá đắm say sắc đẹp của Điêu Thuyền mà Lữ Bố quên nghĩa cha con, giết chết Đổng Trác để giành lại Điêu Thuyền.

Vậy, thói Điêu Thuyền Lữ Bố là thói vô nghĩa trăng hoa bất chánh, làm thương luân bại lý nước nhà. Thơ Lục Vân Tiên có câu:
Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên,
Mà hòng đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi !”

MÃNH HỔ: Cọp dữ.

NHU MÌ: Mềm mỏng, chín chắn, ôn tồn ít nói. Đức Thầy từng dạy:
“Tu là tâm trí nhu mì,
Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong”. (Sấm Giảng, Q.3).

SÁT PHẠT: Đánh giết, chết chóc. Ví dụ: Sát phạt lẫn nhau.

BỘI CHA PHẢN CHÚA: Quên ơn tổ tiên cha mẹ và phụ bạc nghĩa quốc dân. Chỉ cho người bất trung, bất hiếu. Đức Thầy thường thống trách hạng người ấy:

“Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,

Hiếm bao người đặng cá quên nôm.

Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,

Chẳng thèm kể cha hiền trông đợi”.

(Diệu Pháp Quang Minh)


CHÁNH VĂN

73. Đến chừng đó thiên-la lưới bủa,

Mới biết rằng Trời Phật công-bằng.

Nếu dương trần sớm biết ăn-năn,

76. Làm hiền-đức khỏi đường lao-lý.

Học tả-đạo làm điều tà-mị,

Theo dị-đoan cúng kiếng tinh-tà.

Thì sau nầy gặp chuyện thiết-tha,

80. Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu.

Thấy-bá tánh nghinh tân yểm cựu,

Học ai mà ngang-ngược nhiều lời.

Phụ mẹ cha khinh-dể Phật Trời.

84. Chẳng có kể công sanh dưỡng-dục.

LƯỢC GIẢI (từ câu 73 tới câu 84):

-Đoạn nầy cho biết đến ngày chấm dứt buổi Hạ ngươn, luật trời thưởng phạt rất công minh, không một ai thoát lọt, dù là một việc rất nhỏ. Nếu chúng sanh nào sớm biết cải hối, tìm về chánh Đạo lo tu bồi đức hạnh thì sau nầy được hưởng hạnh phúc, thoát khỏi vòng lao khổ.

-Bằng ai cứ tiếp tục theo con đường tà Đạo, mê tín dị đoan, sát sanh hại vật để cúng tế tà quỉ, chạy theo bùa chú thính linh, âm thinh sắc tướng,…sẽ tự rước lấy mọi sự bi thảm. Chừng ấy, đừng trách Phật Tiên và Đức Thầy sao không mở lòng từ bi cứu độ !

-Đức Giáo Chủ cũng cho biết con người thời nay mãi đua đòi theo văn vật:“Rồi phụ phàng tục cổ nước nhà và “Ham công danh quên chữ sanh thành, Mến phú quí quên câu dưỡng dục”.(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). Công sanh dưỡng của cha mẹ thật sánh tày non biển, thế mà họ chẳng màng kể, lại còn khinh khi Trời Phật, nhạo báng Thần Tiên, thật là điều quá mê mờ tội lỗi.

CHÚ THÍCH :

THIÊN LA: Lưới trời, do chữ“Thiên la địa võng”. Nghĩa rộng là luật trời hay luật nhân quả. Ý nói người làm lành hay dữ đều có kết quả không hề sai chạy. Sách Thánh có câu:“Thiên võng khôi khôi phân khúc trực, Thần linh hích hích định khuy vinh”.(Lưới Trời lồng lộng chia ngay vạy, Thần linh tỏ xét việc đầy vơi). Lão Tử cũng nói:“Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”.(Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt). Đức Thầy nay cũng bảo:“Cả trời Nam lưới bủa thiên la.(Nang Thơ Cẩm Tú) hoặc là:“Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi.(Khuyến Thiện, Q.5)

ĂN NĂN: Nghĩa của chữ “Sám hối”, tức là ăn năn lỗi trước chừa bỏ lỗi sau. Kinh Trường A Hàm, Phật nói:“Ai biết ăn năn lỗi lầm thì người ấy được tiến hóa trong giáo pháp của ta”. Đức Thầy nay có câu:

“Chữ tự hối nào ai có lạ,

Là ăn năn cải sửa tâm lành”.

(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)

LAO LÝ: Lo lắng, sầu khổ khó nhọc, lao lung, tù tội.

TẢ ĐẠO: Cũng gọi là tà đạo hay ngoại đạo, tức là bất chánh, đường lối không chánh đáng, không đúng chơn lý, trái với chánh Đạo.

Khi xưa, Phật có di chúc cho các Tỳ Kheo 6 loại ngoại đạo:

1.-“Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ Ma Ba Tuần vào trong Đạo pháp Ta, ở chùa cạo đầu mang áo Phật, xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời, ăn thịt uống rượu, làm dơ bẩn Đạo Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ nhứt.

2.- Còn có người dắt vợ con vào chùa học theo tà thuật, để truyền lại cho đệ tử, ăn thịt, uống rượu cũng đi làm chay tụng kinh cho người. Đó là loại ngoại đạo thứ nhì.

3.- Lại có những người trên không có Thầy truyền, dưới không có Thầy chứng, bị ma quỉ ám ảnh mê muội, trí hiểu biết bậy bạ lại cho là thông minh, chẳng có công tu, tự xưng là thành đạo. Bên ngoài làm giống theo Phật, nhưng trong tâm tính việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ ba.

4.- Lại có người làm theo việc hữu tình, học pháp hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đuổi quỉ sai thần, lừa dối bá tánh, ác kiến càng nhiều, nên chánh kiến càng tiêu. Đó là ngoại đạo thứ tư.

5.- Lại có người theo việc tốt xấu, học chiếm quẻ, bàn việc kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điều họa phúc, dối chúng gạt dân, tiêu diệt chánh pháp của Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ năm.

6.- Lại có người sửa soạn hình tướng, bụng trống lòng tự cao; không có tài năng mà tự cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ lại cho rằng mình đã chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình đã thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu, muối, trà, quả, tương, giấm; chấp theo tà tướng, dối gạt người thiếu trí. Chẳng cần xem Kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền. Không thọ trì giới luật, chẳng cần tìm sư học Đạo, dám đem cái thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng đi vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành, tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si. Đây là loại ngoại đạo thứ sáu.

Sáu hạng trên đây gọi là Lục sư ngoại đạo, tức là bọn ma Ba Tuần, đến đời Mạt pháp nó xen vào nền Đạo của Ta để phá hoại chánh pháp”.

TÀ MỊ: Dối trá, gian xảo, tà khúc.

DỊ ĐOAN: Dị là lạ; đoan là manh mối. Chỉ cho các tà đạo hay bày ra những điều mị dối lạ lùng để gạt gẫm người đời. Đức Thầy thường khuyến giáo:

“Giáo khuyên khắp hết đâu đâu,

Bớt điều mị dối mới hầu thấy ta.

Đừng theo lũ quỉ lũ ma,

Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”. (Sám Giảng.Q.3)

TINH TÀ: Tà ma quỉ quái. Những người mê tín dị đoan cho rằng: có thể dùng vật thực cúng tế Thần Thánh ma quỉ để cầu được hết bịnh. Đức Thầy bảo:“Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn hoặc”.(Thập ác/Ác sát sanh) Và:“Còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là tà thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.(Tám Điều Răn Cấm)

THIẾT THA:(Xem lại chú thích tại tr.179 Tập1/3).

NGHINH TÂN YỂM CỰU: Cũng gọi là yểm cựu nghinh tân. Có nghĩa chê dè cái cũ và đón tiếp cái mới. Ý nói người đời hay ham học đòi theo nếp sống mới, lối sống văn vật của Âu Tây, vội chê bai ruồng bỏ lễ nghi phong hóa của nước nhà. Đức Thầy từng than:

“Ôi ! đời yểm cựu nghinh tân,

Rùng rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên”.

(Thu Đã Cuối)

NGANG NGƯỢC: Ngang tàng ngược ngạo, vô nghĩa. Ví dụ: Ăn nói ngang ngược, tính khí ngang ngược.

KHINH DỂ: Cũng đọc là khi dể, tức là coi thường rẻ rúng.

CÔNG SANH DƯỠNG DỤC: Công ơn cha mẹ sanh con ra và nuôi con đến khôn lớn, nghĩa của chữ “Cúc dục”. Kinh Thi có câu:“Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao. Dục báo thâm ân hạo thiên võng cực”.(Cha mẹ sanh đẻ và nuôi ta khôn lớn, lòng thương cha mẹ dày công khó nhọc ! Muốn đáp ơn sâu như trời cao chẳng cùng).

Lại có “Cửu tự cù lao” (chín chữ cù lao): Sinh (sanh đẻ), Cúc (nâng đỡ), Phủ (vuốt ve), Xúc (cho bú), Phục (săn sóc), Phúc (bảo vệ), Trưởng (nuôi cho lớn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom).

Bởi công ơn cha mẹ sâu dày như vậy, nên Đức Thầy thường nhắc nhở:

“Sách có chữ thâm ân dục báo,

Phận làm người hiếu thảo noi gương”.(Sa Đéc)

Hoặc là:

“Lo bề cúc dục cội thung,

Nghe lời thầy dạy việc chung của đời”.

(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)

CHÁNH VĂN

85. Thương lê-thứ bày tường trong đục,

Mặc ý ai nghe phải thì làm.

Lời của người di-tịch Núi-Sam,

88. Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc.

Cảnh Thiên-Trước thơm-tho nồng-nặc,

Chẳng ở yên còn xuống phàm-trần.

Ấy vì thương trăm họ vạn dân,

92. Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ.

Giả Quê Dốt khuyên người tỉnh-ngộ,

Giả Bán Buôn thức giấc người đời.

Rằng ngày nay có Phật có Trời,

96. Kẻo dân-thứ nhiều người kiêu-ngạo.

LƯỢC GIẢI (từ câu 85 tới câu 96) :

-Vì lòng quá thương xót sanh linh, Đức Giáo Chủ phân bày mọi việc thật hư, chơn giả cho chúng sanh suy nghiệm, nếu ai thấy đây là lẽ phải thì sớm thực hành theo, bằng không cũng mặc. Ngài còn cho mọi người được biết, những lời lẽ trong quyển “Kệ Dân” nầy là của Đức Phật Thầy Tây An thuở xưa, chớ chẳng phải lời của ai đâu muốn lường gạt dân chúng. Bởi trước kia Đức Phật Thầy viên tịch tại chùa Tây An Núi Sam (Châu Đốc) vào ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856) nên nói đến người di tịch núi Sam thì ai cũng biết là muốn nói đến Đức Phật Thầy Tây An.

-Song vì lòng từ bi, Ngài không nở an ngồi nơi xứ Phật, hưởng cảnh thanh nhàn tự tại, nên Ngài chuyển kiếp lại trần gian. Trong cuộc đi dạo Lục châu, Ngài chẳng nài gian khổ, hóa hiện đủ hạng người để thức tỉnh bá gia và cũng để cho chúng sanh hiểu rằng: hiện thời đã có Phật Tiên lâm phàm độ thế, hầu bỏ bớt tánh kiêu căng ngạo mạn.

CHÚ THÍCH :

BÀY TƯỜNG: Trình bày tường tận. Giải bày mọi sự việc rất rõ ràng.

TRONG ĐỤC: Thanh khiết và dơ bẩn. Ý nói phân tách hai sự việc: sạch dơ cao thấp, hư nên, tốt xấu, tà chánh v.v…

DI TỊCH: Di là dời đổi, tịch là cõi tịch tịnh an nhiên, không còn hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, tức là cõi Niết Bàn. Di tịch là một trong nhiều danh từ để chỉ cho nhà tu được chứng đắc đạo quả, khi mãn nguyện, bỏ xác vào cảnh Niết Bàn. Đồng với ý nghĩa nầy có nhiều từ như: Tịch diệt, nhập diệt, viên tịch hay di tịch v.v…

NÚI SAM: (Xem lại chú thích tại tr.194 Tập 1/3).

HUYỄN HOẶC: Huyễn là giả, hoặc là lầm. Huyễn hoặc là che mắt, đánh lừa làm mê loạn khiến người khác dễ lầm.

CẢNH THIÊN TRƯỚC: Cũng đọc là Thiên Trúc, tức là xứ Ấn Độ, văn học Tàu gọi Ấn Độ là Thiên Trước. Bởi Ấn Độ là nơi Đức Phật đản sanh và cũng là nơi phát xuất Đạo Phật, cho nên gọi Thiên Trước là xứ Phật (Tây Thiên). Vậy, cảnh Thiên Trước là chỉ cho cảnh Phật, Đức Thầy có câu:

“Bát Nhã chẳng đưa người tội ác,

Thuyền từ nào rước lại Tây Thiên”.

(Luận Việc Tu Hành)

NỒNG NẶC: cũng đọc là nồng nực. Tức là mùi hương xông lên nồng nặc. Ý chỉ cảnh Phật thanh khiết toàn những hương sen ngào ngạt.

VẠN DÂN: Muôn dân (con số cực nhiều). Ý chỉ chung tất cả mọi người.

TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ. Hiểu rõ những điều sai lầm từ trước mà khởi lòng tự giác tu hành theo đạo lý. Đức Thầy từng kêu gọi:

“Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,

Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.

(Đến Làng Nhơn Nghĩa)

CHÁNH VĂN

97. Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão,

Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.

Nếu trẻ già ai biết thì dùng,

100. Chẳng có ép có nài bá-tánh.

Nghe Điên dạy sau này thơi-thảnh,

Đây chỉ đường Cực-Lạc vãng-sanh.

Đừng có ham lên mặt hùng-anh,

104. Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp.

Theo đạo-lý nhứt tâm mới kịp,

Ngày nay đà gặp dịp tu-hành.

Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,

108. Thì mới được sống coi Tiên-Thánh.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 97 tới câu 108) :

-Đức Giáo Chủ khai sáng Đạo PGHH vào năm Kỷ Mão (1939). Lúc đầu có nhiều người không ưa, theo chế nhạo bươi móc đủ điều. Công việc khuyến tu của Ngài chẳng hề nài ép một ai:“Tu không tu cũng không mời thỉnh, Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê”(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4).

-Đối với những kẻ thường hay xưng hô lớn lối, khoe khoang tự đắc, Ngài luôn cảnh giác họ nếu còn quen tánh ấy e cho một ngày kia phải rơi vào Địa ngục mà chịu sự hành phạt khốc liệt, rất uổng cho một đời con người để phải sa đọa, thối hóa.

-Vậy ai là người nhận được lời kệ giảng của Ngài, hãy sớm lo tu niệm, vì trong đây Ngài đã vạch sẵn con đường vãng sanh Lạc quốc. Tức là Ngài đã dạy chỉ pháp môn Tịnh Độ. Nếu ai nhứt tâm niệm Phật, làm lành đúng theo phương pháp của Ngài chỉ dạy, tức là niệm Phật được rành thì chẳng những sẽ kiến diện Phật Tiên trong ngày Long Hoa Hội mà còn được vãng sanh Phật quốc, dứt nẻo luân hồi.

-Đối với chúng sanh thời Mạt pháp, đây là dịp may ít có:“Nếu để trễ chầy e chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”( Để Chơn Đất Bắc).

CHÚ THÍCH:

CỰC LẠC VÃNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.209 Tập 1/3).

LÊN MẶT: Ra vẻ kiêu hãnh, tự đắc, có thái độ như người ở địa vị cao.

HÙNG ANH: Cũng đọc là anh hùng, tức là bậc tài giỏi xuất chúng, nhưng chữ “lên mặt hùng anh” ở đây là chỉ cho những kẻ bất tài, lại hay xưng hô lớn lối, giả mạo ta đây:“Anh hùng giả danh, anh hùng rơm”(Tục Ngữ).

ĐỊA NGỤC: (Xem lại chú thích tại tr.94 Tập 1/3)

ĐẠO LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.128 Tập 1/3).

NHỨT TÂM: Một lòng, dốc hết tâm trí vào một việc, không hề phân chia tư tưởng.

Khi xưa, Đức Na Tiên nói với vua Di Lan Đà :“Nhà tu hành dùng sự nhứt tâm mà gom tư tưởng lại và dùng trí huệ mà cắt phiền não ái dục”. Bởi vậy, nhứt tâm là có tánh cách hiểu biết, mà có trí huệ là đoạn tuyệt và diệt sạch. Cho nên nói nhứt tâm là chủ của các đức hạnh, nhà tu trước hết phải nương mình trong sự nhứt tâm mới mong thấy được chơn lý.

Ông Sư Vãi Bán Khoai đã dạy:

“Ai mà giữ đặng nhứt tâm,

Cũng như ngọc báu đã cầm trong tay”.

Đức Thầy có câu:

“Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành,

Được cứu cánh về nơi an dưỡng”(Khuyền Thiện, Q.5)

NIỆM DI ĐÀ RÁN NIỆM CHO RÀNH: (Xem lại chú thích tại tr.113 Tập 1/3).

CHÁNH VĂN

109. Đức Minh-Chúa chẳng ai dám sánh,

Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ.

Bởi Võ-Vương đáng bực tu-mi,

112. Nay trở lại khác nào đời trước.

Kẻ gian-ác bị gươm ba thước,

Nơi pháp-tràng trị kẻ hung-đồ.

Được thảnh-thơi nhờ chữ Nam-Mô,

116. Khuyên bổn-đạo rán mà trì-chí.

LƯỢC GIẢI (từ câu 109 tới câu 116) :

-Đoạn nầy Đức Thầy nhắc lại thời mạt Thương xưa kia, bởi Trụ Vương quá nhu nhược tàn ác, đắm say tửu sắc, làm những việc càn bậy, không còn xứng đáng trị vì thiên hạ nữa, nên cơ luân chuyển đổi lại nhà Châu. Lúc ấy có tiếng chim Phụng Hoàng gáy trên núi Kỳ Châu, đó là điềm lành báo hiệu sẽ có Thánh Chúa ra đời.

-Bấy giờ Tây Châu nước Trung Hoa có cha con của Châu Võ Vương, vốn là người hiền đức, trị dân cả nước chẳng cần có đồ lao mà dân vẫn tuân theo răm rắp. Mọi hạnh phúc của Vua Quan toàn dân đều chung hưởng, xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ, nên cả 800 chư hầu đều mến đức theo về nhà Châu.

So lại thời nay cũng thế, chánh sách trị dân quá tàn ác dã man, sanh linh đồ thán, nạn chiến tranh chết chóc liên tiếp xảy ra khắp hoàn cầu. Cho nên sẽ có vị Thánh Chúa ra đời. Ngài có đủ đức hạnh, lòng thương dân như sông dài biển rộng. Ngài sẽ đem lại cuộc hòa bình vĩnh cửu cho vạn quốc chư bang. Điều nầy, Đức Giáo Chủ từng cho biết:“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng, Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”(Không Buồn Ngủ).

-Và trước khi ấy, những kẻ gian tà hung ác đều bị luật hình phân xử tại pháp trường. Còn những ai quyết tâm theo Đạo tu hành, kiên tâm trì chí, niệm Phật làm lành, tất được chung hưởng cảnh thanh bình an lạc tới đây. Đức Thầy đã cho biết trong Sám Giảng Q.3:

“Hiền lành chừng đó sum vầy,

Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.

Đến đó Ta mới mừng cười,

Nhìn xem Ngọc Đế giữa Trời định phân.

Thiên Hoàng mở cửa Các Lân,

Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn.

Mười cửa xem thấy ghê hồn,

Cho trần coi thử có mà hay không .

Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,

Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.

Ấy là đến lúc xuê-xang,

Tam Hoàng trở lại là đời Thượng ngươn”.

CHÚ THÍCH :

MINH CHÚA: (Xem lại chú thích tại tr.79 Tập 1/3).

MẠT THƯƠNG: Thời cùng cuối của nhà Thương bên Trung Hoa, tức là chỉ cho đời vua Trụ (1783-1122 TCN) (Xem thêm chú thích tại tr.172 Tập 1/3).

PHỤNG GÁY NON KỲ: Non Kỳ là do chữ “Kỳ Sơn” tức là núi Kỳ Châu (Trung Hoa) vào cuối đời nhà Thương sắp chuyển sang nhà Châu, người ta nghe tiếng chịm phụng (phượng hoàng, linh điểu) gáy trên núi Kỳ Châu, báo điềm sắp có Thánh chúa ra đời.

VÕ VƯƠNG: tức là Châu Võ Vương. Ông tên thật là Cơ Phát con thứ hai của Văn Vương đời nhà Châu. Khi Văn Vương lâm bịnh nặng kêu Cơ Phát lại dặn rằng:“Con hãy nhớ lời cha dạy: Thấy việc lành thì làm cho mau, xử việc phải chẳng nên lần lựa, tránh việc quấy đừng vương vấn. Ba điều ấy là sửa mình trị dân yêu nước”. Cơ Phát cúi lạy mà vâng lệnh. Khi Văn Vương qua đời, chư hầu và bá quan đồng tôn Cơ Phát lên nối ngôi nhà Châu, xưng là Châu Võ Vương, noi theo cha làm điều nhân đức, trị an một cõi, các trấn chư hầu đều phục. Võ Vương phong Tử Nha làm Thừa tướng và sau tôn lên hàng Thượng phụ. Khi Trụ Vương bạo ngược, 800 trấn chư hầu đồng phò Võ Vương hưng binh phạt Trụ. Võ Vương lập đàn bái tướng phong Tử Nha làm Nguyên soái điều khiển quân binh. Đạo binh nhân nghĩa đánh đâu thắng đó, tiến vào Trường An vây kín kinh đô, tướng nhà Thương tử trận gần hết. Trụ Vương túng thế phải ra trận, chúa tôi ấu đả trước ngọ môn. Võ Vương thấy vậy than rằng:“Bởi Thiên Tử vô đạo nên mới đến đỗi thế nầy, chúa tôi hỗn chiến với nhau còn chi là thể thống. Tuy bệ hạ bất chánh, mà phận mình là đạo tôi con, không lẽ quân thần mà giao chiến như vậy”. Lúc nầy, các chư hầu đồng rập nhau kéo đến đánh vua Trụ tưng bừng. Trụ Vương bại tẩu chạy về lầu Trích Tinh tự thiêu mà thác.

Chư hầu đồng tôn Võ Vương lên ngôi Thiên Tử, đổi nhà Thương làm nhà Châu. Võ Vương noi chí hướng của Văn Vương mà trị vì, nên thiên hạ âu ca, nhà nhà an lạc. Võ Vương ở ngôi được 7 năm, hưởng thọ 93 tuổi. Nhà Châu trị dân được 874 năm mới dứt.

TU MI: Râu và lông mày. Nghĩa rộng là chỉ cho bậc nam nhi (đàn ông): “Tu mi nam tử”. Đức Thầy có câu:

“Hiền thần sách sử nêu ghi,

Miễu son tạc để tu mi trung thần”(Sám Giảng, Q.3).

GƯƠM BA THƯỚC: Gươm ngắn để xử trảm những người tử tội.

PHÁP TRÀNG: Cũng đọc là pháp trường, tức là nơi hành hình những người bị kết án tử hình.

HUNG ĐỒ: Bọn người làm việc hung tàn bạo ác. Đức Thầy cho biết:

“Hung đồ với lũ dọc-ngang,

Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu”(Thiên Lý Ca).

NAM MÔ: (Xem lại chú thích tại tr.81 Tập 1/3 và nơi câu 47 trên).

CHÁNH VĂN

117. Xưa Tây-Bá thất-niên Dũ-Lý,

Huống chi ta sao khỏi tiếng đời.

Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,

120. Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết.

Ghét bạo chúa là xưa Trụ-Kiệt,

Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu.

Thương Minh-Vương bắt chước Thuấn-Nghiêu,

124. Lòng hiền đức nào ai có biết.

LƯỢC GIẢI (từ câu 117 tới câu 124):

-Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết Tây Bá Hầu (Văn Vương) xưa kia, được người đời tôn là Hiền Thánh, thế mà còn bị Trụ Vương bắt cầm tù tại Dũ Lý bảy năm. Huống chi công cuộc cứu đời của Ngài thời nay làm sao tránh khỏi sự kềm kẹp của kẻ cường quyền vô đạo và tiếng đời gièm pha biếm nhẻ.

-Nhìn lại chúng sanh đang lăn lóc trong bể trần thống khổ, hết nạn nầy tới ách kia không dứt, chẳng khác nào thời Kiệt, Trụ xưa kia dân chúng phải buồn than khóc hận, dưới chế độ cay nghiệt của hai nhà vua ấy. Bởi Kiệt, Trụ quá nhu nhược nên kẻ bị chết thiêu, người thì mất mạng; cơ đồ sự nghiệp ông cha về tay người khác và còn lưu tiếng cho muôn đời phỉ nhổ.

Nghĩ thương cho Đức Thánh Vương, là bậc thông minh hiền đức, noi gương Nghiêu, Thuấn tu thân lập hạnh, hầu:“Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng” cho nhân loại được hưởng nhờ.

CHÚ THÍCH :

TÂY BÁ: là Tây Bá Hầu. Tên thật ông là Cơ Xương, làm tôi vua Trụ (nhà Thương). Thuở ấy nước Trung Hoa chia làm 4 trấn chư hầu, mỗi trấn cai trị 200 nước nhỏ. Ông là người tài đức gồm đủ nên vua Trụ phong trấn giữ phương Tây (Tây Bá Hầu).

Bấy giờ Trụ Vương sủng ái Đắc Kỷ, nghe lời nàng làm điều trái lẽ: giết chết Khương Hoàng Hậu, lại sợ cha vợ là Khương Hoàng Sở báo thù, nên nghe lời Bí Trọng triệu bốn trấn chư hầu về Kinh giết đi, để trừ hậu hoạn.

Tây Bá được tin xủ quẻ biết đi chuyến nầy bị tù bảy năm. Khi vào đến Triều Ca, Bắc Bá Hầu vốn thuộc phe gian nịnh của Vu Hồn, Bí Trọng nên khỏi chết, còn Đông Bá Hầu và Nam Bá Hầu vì tánh cang cường, mắng Trụ Vương nên bị giết chết. Riêng Tây Bá Hầu, nhờ là người hiền đức và các quan hết lòng can gián mới được tha. Nhưng Trụ Vương chưa vừa ý, sai Vu Hồn Bí Trọng theo dò xét. Tây Bá trình thật câu chuyện chiếm quẻ, nên bị vua Trụ giam vào Dũ Lý.

Thời gian ở Dũ Lý, ông dạy dân lễ nghĩa và làm sách dịch dạy bói quẻ, nên dân chúng xa gần đều mến đức. Ngồi tù gần 7 năm, có con trưởng nam của ông là Bá Ấp Khảo đem báu vật trong nước dâng vua Trụ để cứu cha. (Báu vật gồm: 1. Xe thất hương, không cần người đẩy, muốn đi đâu cũng được. 2. Nệm tình tửu, có công giải rượu. 3. Bạch viên là con vượn biết nhịp và ca rất hay.)

Đắc Kỷ thấy Ấp Khảo đẹp trai nên sanh lòng tà dục, tâu vua cầm ông lại, lấy cớ học đờn để lả lơi trêu ghẹo. Song, Ấp Khảo lòng chánh trực, dùng lời can gián. Đắc Kỷ nổi giận tâu với vua Trụ: “Bá Ấp Khảo có tâm tà không thiệt ý dạy đờn…”Trụ Vương nghe theo, truyền giết Ấp Khảo và lấy thịt làm nhưn bánh bao, đem thử Tây Bá Hầu: “Nếu ông quả là bậc Thánh thì không bao giờ ăn thịt con, nên giết đi; bằng ăn thịt con, là người tầm thường, sẽ được tha về”.

Lúc đó Tây Bá biết trước, nên thương trách Ấp Khảo, sao không nghe lời cha dặn, để đưa tới tình trạng nầy, rốt lại ông phải nén lòng ăn thịt con để được tha. Khi đó, có Tán Nghi Sanh là quan của Tây Bá, đem vàng bạc hối lộ cho Vu Hồn Bí Trọng cứu được ông.

Về đến Tây Kỳ ông hết lòng dạy dỗ nhân dân, khiến trong nước mưa hòa gió thuận, nhà nhà đều an cư lạc nghiệp. Sau Văn Vương nghe tiếng Khương Thượng là bậc hiền tài, nên hai lần lên đến Bàn Khê rước ông về phong làm Thừa Tướng. Kế đó, vì Sùng Hầu Hổ quá tàn ác với lương dân nên Văn Vương cùng Khương Thượng cất quân sang đánh bắt được Hầu Hổ và giết đi.

Khi yên giặc, Văn Vương bắt đầu thọ bệnh rồi mất, nhằm tháng 11, niên hiệu 20 Trụ Vương, thọ 97 tuổi. Quần thần tôn Cơ Phát, con thứ của Văn Vương, lên nối ngôi, hiệu là Võ Vương và tôn Tử Nha lên hàng Thượng Phụ, cùng trị quốc.

BIỂN TRẦN: Trần là bụi. Ý nói cõi trần đầy bụi bặm nhớp nhơ đau khổ, sự đau khổ ấy không có ranh giới, mênh mông như bể cả. Đức Thầy có câu:

“Bể trần sóng cuộn lao xao,

Xông thuyền Bát nhã lướt vào một phen”(Tự Thán).

BẠO CHÚA: Vua hung bạo tàn ác.

TRỤ: (Xem lại chú thích tại tr.172 Tập 1/3)

KIỆT: Đời vua chót hết (thứ 17) của nhà Hạ (2205-1786 TCN). Vua Kiệt tên thật là Lý Quí, tục gọi là Hạ Kiệt, một ông vua có uy vũ, nhưng rất bạo ngược.

Lúc thế còn mạnh, vua Kiệt đem binh đánh họ Hữu Thị. Họ nầy thất thế phải dâng nàng Muội Hỷ để cầu hòa. Từ ngày được mỹ nhân, vua Kiệt đâm ra sủng ái Muội Hỷ bỏ bê việc triều chánh. Kiệt còn nghe lời Muội Hỷ xuất công quỹ xây thành Huỳnh Cung Diêu Đài (cung cẩn ngọc huỳnh, đài cẩn ngọc diêu), lập vườn để vui chơi. Tôi trung thần là Long Bàn, hết lời can gián, vua Kiệt đã chẳng nghe, lại sát hại ông, khiến nhân dân ta thán căm hờn.

Sau có vua Thành Thang (vốn là Chư hầu của Kiệt), rước được bậc ẩn sĩ là ông Y Doãn ở đất Hữu Sằn về giúp. Thấy Y Doãn là bậc hiền tài, vua Thang đem dâng cho vua Kiệt, Kiệt lại không dùng. Ông Y Doãn trở về hợp với Chư hầu phò vua Thang đem quân vào đánh bắt được vua Kiệt, đày ra đất Nam Sào, nhà Hạ mất từ đó.

THUẤN: là Đế Thuấn (2256-2195 TCN). Ông họ Diêu, tên thật là Trùng Hoa, là cháu 8 đời của vua Huỳnh Đế, ông là một trang hiếu tử đứng đầu trong “Nhị thập tứ hiếu” của Tàu.

Nguyên mẹ ông mất sớm, cha là Cổ Tẩu tục huyền với bà vợ sau sanh ra Tượng.(Người đời thấy ông nghe lời vợ kế mà rắp tâm giết ông Thuấn, không xét được lẽ phải trái nên gọi là Cổ Tẩu, nghĩa là người mù mắt). Thuấn bị lời gièm pha của kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch là Tượng nên Cổ Tẩu không ưa ông Thuấn và định bụng giết đi; nhưng Thuấn lúc nào cũng hiếu với cha và thuận cùng em. Cổ Tẩu sai ông Thuấn lên Lịch sơn cày ruộng. Nơi nầy có tiếng là nhiều thú dữ nên cha ông muốn thú ăn thịt ông cho khuất mắt. Nhưng khi ông đến đó thì trời sai voi ra cày, chim chóc nhặt cỏ. Thấy không hại được, cha ông sai đi đánh cá ở hồ Lôi Trạch, nơi thường có sóng to, gió lớn, nhưng khi ông đến thì sóng lặng gió êm.

Vua Nghiêu nghe tiếng đại hiếu của ông, bèn vời về gả con và truyền ngôi báu. Vua Thuấn đóng đô ở Đồ Bản (Ngũ Hương, Hà Đông, tỉnh Sơn Tây) đổi Quốc hiệu là Hữu Ngu.

Khi lên ngôi, Vua Thuấn dùng bậc hiền tài để giúp nước. Sai con ông Cổn là Võ thay cha đi trị lụt; cử ông Tiết làm quan Tư Đồ, ông Hậu Tắc dạy dân cày cấy năm loại thóc; ông Cao Đàm làm quan Tư Pháp…Vua Thuấn còn đặt ra lệ tuần thú để xem xét quan lại và dân tình trong nước. Lập ra nhà dạy học Thường Tường. Nước Trung Hoa có trường học từ đời Đế Thuấn.

Suốt 61 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam Phong mà thiên hạ thái bình, vạn dân an cư lạc nghiệp. Sau thấy con là Thương Quân kém tài, nên Vua Thuấn truyền ngôi cho ông Võ lập ra nhà Hạ. Đế Thuấn đi tuần thú phương Nam tới đất Thương Ngô thì băng hà. Ở ngôi 61 năm, thọ được 101 tuổi.

NGHIÊU: là Đế Nghiêu (2357-2256TCN). Vốn là con của Đế Cốc, họ Y Kỳ, tên là Phòng Huân. Khi Đế Chí là huyền tôn của Hoàng Đế nhu nhược, thì các chư hầu đồng tôn Phòng Huân lên ngôi, đóng đô ở Bình Dương (nay thuộc Lâm Phần, Hà Đông, tỉnh Sơn Tây), lấy Quốc hiệu là Đào Đường. Vua chăm lo việc triều chính, đem nhân đức cai trị dân.

Nhân vua Hùng Vương thứ nhứt, nước Văn Lang (Việt Nam ngày nay), có bắt được con Thần Qui ba chân, trên lưng có khắc chữ “Khoa Đẩu”, ghi từ khai thiên lập địa tới giờ. Vua Hùng liền sai sứ giả đem dâng cho vua Nghiêu.(Quốc Sử Diễn Ca có câu:“Thần Qui đem tiến Đào Đường, Bắc Nam từ đấy giao bang là đầu”).Vua Nghiêu sai ông Hy Hòa căn cứ theo đó mà lập ra qui lịch, cho dân biết thời tiết làm ruộng. Trong qui lịch ấy, người ta lấy sự tròn khuyết của mặt trăng mà phân thành tháng năm và thời tiết, nên gọi là âm lịch. Những ngày đầu năm gọi là Tết Nguyên đán và danh từ ba ngày xuân nhựt có từ đấy. Lịch ấy tính ra mỗi năm có 12 tháng (360 ngày), cứ 3, 4 năm thì có 1 năm nhuần gồm 13 tháng để điều chỉnh. Những người làm lịch sau nầy đều coi theo đó mà làm.

Dân chúng sống thời vua Nghiêu rất sung sướng, nhà khỏi đóng cửa, tiền của rớt ngoài đường không ai lượm lấy…Khắp nước đều thanh bình an lạc nên giềng mối nước nhà được vững bền.

Tuy vua Nghiêu có tới 11 người con, 9 trai 2 gái, nhưng vua xét không người nào có đủ tài đức nối ngôi. Cho nên khi nghe ông Thuấn là bậc đại hiếu, liền triệu về gả con và truyền ngôi. Vua Nghiêu trị vì được 101 năm.

CHÁNH VĂN

125. Thương trần-thế kể sao cho xiết,

Mượn xác-trần bút tả ít hàng.

Kể rõ ràng những việc lầm-than,

128. Mặc làng xóm muốn nghe thì chép.

Việc tu-tỉnh Khùng không có ép,

Cho giấy vàng Điên chẳng có nài.

Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài,

132. Cho bổn-đạo giải khuây niệm Phật.

Việc xảy đến Đây truyền sự thật,

Ấy là lời của Phật giáo-khuyên.

Rán nghe lời của kẻ Khùng-Điên,

136. Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh.

Bịnh ôn-dịch cũng đừng mời thỉnh,

Cõi ngũ-hành chẳng khá réo-kêu.

Hãy gìn lòng chớ khá dệt-thêu,

140. Nói xiên-xỏ cũng không no béo.

LƯỢC GIẢI (từ câu 125 tới câu 140) :

-Vì lòng quá thương xót chúng dân, nên Đức Thầy mượn bút mực viết ra Sấm Giảng. Ngài kể rõ cảnh thống khổ, nhơn sanh phải gánh chịu sắp tới đây. Mặc tình bá tánh, ai nhận thức được lời Kệ giảng thì chép lấy mà học hỏi tu hành. Chớ việc trau thân gìn Đạo, trị bịnh cho chúng sanh, Ngài không nài ép một ai.

-Bởi lòng từ ái, Ngài chẳng ngại sự gian lao cực nhọc, miễn sao cho mọi người bớt thảm khổ, để lo làm lành niệm Phật. Còn những trạng huống sắp xảy ra tới đây, là do Đức Phật sắc lịnh cho Đức Thầy truyền ra cho người đời được biết, chớ chẳng phải tự Ngài bịa đặt hay nói ngoa một điều nào.

-Ngài luôn kêu gọi bá tánh, từ đây nên kính trọng Phật, Tiên, Thần, Thánh và ngăn chừa khẩu nghiệp, không nên trù rủa con cháu, hoặc kêu Thần Thánh mà sai khiến. Nhứt là nên bỏ dứt những lời thêm thừa huyễn hoặc, nói xiên mắng xéo chòm xóm. Vì các lời ấy chẳng đem lại bổ ích gì mà chính mình phải mang lấy khẩu nghiệp, tự chuốc lấy họa hại.

Như vào năm 1939, trong thời gian Đức Giáo Chủ truyền Đạo tại Tổ Đình PGHH, một hôm Ngài đang nói chuyện với khách bỗng dừng lại, đứng phắt dây, hướng mắt ra cửa, nói lớn: “Đem đi đâu vậy ! Đem về đi ! Mượn người ta bắt thì mang ơn người ta chớ !”

Lúc ấy chẳng ai hiểu Đức Thầy muốn nói gì, đồng ngó theo ra cửa, thì thấy một bà lão, từ trên chiếc xe lôi đang bước xuống, trên tay bồng em bé độ bảy, tám tuổi đau oặt òa oặt oại đi vào. Bà lão vừa đặt đứa bé xuống bộ ván ngựa, thì Đức Thầy cũng vừa lập lại câu nói lúc nãy:

-“Đem đi đâu vậy ! Đem về đi ! Mượn người ta bắt thì mang ơn người ta chớ !”

Bà lão tỏ vẻ lo lắng, giọng trầm buồn bạch với Ngài:

– Bạch Thầy ! Nhờ Thầy ra ơn từ bi cứu giúp giùm cháu tôi. Số là buổi chiều hôm qua dâu tôi là mẹ đứa nhỏ nầy, vì tức giận mà rủa nó nào “ôn dịch đại càn vật”, nào “ngũ hành bắt” đủ thứ…Một lát sau, nó phát bịnh tới giờ.

Bằng một giọng rầu rầu tha thiết, bà nói tiếp:

– Nó đau nặng quá Thầy, xin Thầy làm phước cứu giùm nó !.

Thật vậy, đứa bé kia chỉ còn chút hơi thở yếu ớt mà thôi. Nên chi, dầu nói vậy, nhưng Đức Thầy trót đã“Vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa” nên Ngài phải:“…dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh, để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi…”, Ngài liền đi ngay lại bàn Phật sớt chung nước lã đem đưa bà lão, bảo cho đứa bé uống. Chẳng mấy chốc, đứa bé tỉnh lại như thường (trích dẫn theo Chuyện Bên Thầy).

Do đó, Đức Thầy mới khuyên:

“Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh,

Cõi ngũ hành chớ khá réo kêu”.

“Chư Thánh Thần đâu có mất lòng,

Mà kêu réo Đông Tây Nam Bắc

(Khuyến Thiện, Q.5)

CHÚ THÍCH :

BÚT TẢ: Bút là cây viết, đồ dùng để biên chép. Tả là chép ra, vẽ ra, bày tỏ vấn đề gì bằng giấy mực sách vở.

LẦM THAN: (Xem lại chú thích tại tr.63 Tập 1/3).

CHO GIẤY VÀNG: Lúc Đức Thầy mới khai Đạo có trị bịnh cho bá tánh bằng cách cho họ uống giấy vàng hoặc đốt để vô chén nước, hay xé nhỏ vò tròn mà uống; thế mà vẫn hết bịnh mau lẹ hơn uống thuốc thường, như Ngài từng dạy:

“Có đeo bịnh tật vào thân,

Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô.

Thành lòng nước lã nên hồ,

Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban”.

(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

CHẲNG NỆ VẮN DÀI: Không ngại sự cực khổ nhiều ít hay mau lâu. Sám Giảng, Q.3 có câu:

“Chữ tu hãy rán miệt mài,

Đừng kể vắn dài, đừng nệ mau lâu”.

TRỌNG KỈNH: Trọng vọng và tôn kính.

BỊNH ÔN DỊCH: Bệnh dịch tả, tức bịnh cảm gió ói ỉa, ai vướng vào bịnh nầy rất khó trị. Ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:“Chết mà chẳng thấy trối than, Là kêu ôn dịch nên mang khốn nghèo”. Đức Thầy bảo:

“Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,

Chờ mãn phước ra tay bẻ họng”.

(Nang Thơ Cẩm Tú)

NGŨ HÀNH: Năm chất: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cũng gọi là năm vị thần xem xét và thưởng phạt việc tội phước của mọi người ở thế gian. Năm vị nầy có thể làm thiệt mạng những người hung ác, hoặc hết phước. Ông Sư Vãi có nói:“Chết mà còn nói còn cười, Là khi trong cõi Ngũ hành chẳng linh”.Và Ngài còn cho biết năm vị Ngũ Hành ấy là:

“Năm vị con vua Ngọc Hoàng,

Cho nên cõi thế coi mà năm cung.

Đại Giang là Liễu Lục Cung,

Coi về cõi nước chuyển luân cho trần.

Đại Lâm là Mộc Tinh Quân,

Coi trong thảo mộc vạn dân đều nhờ.

Đại Địa là vị Thổ Quan,

Coi về sở đất cho trần hạ đây.

Vạn dân gia đạo an hòa,

Hoặc là tử táng cũng là Thổ Quan.

Hỏa Tinh là vị lửa hồng,

Làm cho chín vật được trần độ thân.

Kim Tinh là vật báu châu,

Có diêm có mễ mà nuôi cõi trần.

Năm vị vốn thiệt năm Thần,

Chẳng thiếu nợ trần sao lại réo kêu ?”

-Ngũ Hành còn chỉ cho năm vị Phật Vương, chưởng quản việc sản sanh vật chất để nuôi dưỡng vạn loại chúng sanh, gồm có:

1- Đông Phương Giáp Ất Mộc Thanh Đế Chí Công Vương Phật.

2- Tây Phương Canh Tân Kim Bạch Đế Lãng Công Vương Phật.

3- Nam Phương Bính Đinh Hỏa Xích Đế Bửu Công Vương Phật.

4- Bắc Phương Nhâm Quí Thủy Hắc Đế Hóa Công Vương Phật.

5- Trung Ương Mồ Kỷ Thổ Huỳnh Đế Đường Công Vương Phật.

(Đức Phật Thầy Tây An khi xưa có truyền cho Đức Cố Quản cắm 5 cây thẻ quanh vùng Thất Sơn để bày trừ những cuộc trấn ếm của người Tàu, ý muốn ngăn chận các địa huyệt hiển linh của nước ta. Mỗi cây thẻ có đề theo ngũ hành là:

1- Tại làng Vĩnh Hanh, tỉnh Long Xuyên, phía trong Hang Tra, gọi là “Đông Phương Thanh Đế”.

2- Tại Ngã Bát, rạch Cái Dầu, làng Thạnh Mỹ Tây, Quận Châu Phú, Tỉnh Châu Đốc, gọi là “Bắc Phương Hắc Đế”.

3- Tại Bài Bài, trên bờ kinh Vĩnh Tế, xã Vĩnh Ngươn, Tỉnh Châu Đốc, gọi là “Tây Phương Bạch Đế”.

4- Tại Giồng Cát rừng Tràm, Hà Tiên, gọi là “Nam Phương Xích Đế”.

5- Tại phía trước núi Cấm, bên cạnh giếng nước mà Đức Phật Thầy cho đào khi trước, làng Tú Tề, Châu Đốc, gọi là Trung Ương Huỳnh Đế.)

-Ông Sư Vãi cũng bảo:

“Cõi trần mà đặng bình an,

Nhờ đâu mà lại chê hàng Ngũ Vương.

Hóa sanh vạn vật nuôi mình,

Cũng là trong hội Ngũ Vương vậy mà”.

DỆT THÊU: Nghĩa của chữ vọng ngữ. Ý nói đã dệt thành vải, còn thêu thêm hình nầy hình nọ cho nổi lên. Nên dệt thêu có nghĩa là đặt điều nói thêm. Đức Thầy từng bảo (trong quyển Khuyến Thiện):

“Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,

Thương viện lẽ thấp cao bào chữa”.

NÓI XIÊN NÓI XỎ: Nói xâm xỉ, châm chọc cách vách. Kích bác người nầy mà ám chỉ người khác. Mắng xiên mắng xéo người ta:

“Có người nói xéo nói xiên,

Chú muốn kiếm tiền nói gạt bá gia”(Sấm Giảng, Q.1).

CHÁNH VĂN

141. Đời Nguơn-Hạ ngày nay mỏng-mẻo,

Khuyên thế-trần hãy rán kiêng-dè.

Mặc tình ai lên ngựa xuống xe,

144. Ta chẳng có ham nơi phú-quí..

Trong bổn-đạo từ nay kim-chỉ,

Đói với nghèo sắp đến bây giờ.

Vì thương đời nên Lão kể sơ,

148. Cho bá-tánh rõ lời châu ngọc.

Nước Nam-Việt ai là thằng ngốc,

Người đời nay như ốc mượn hồn.

Chim tìm cây mới gọi chim khôn,

152. Người hiền-đức mới là người trí.

LƯỢC GIẢI (từ câu 141 tới câu 152) :

-Đoạn nầy ý nói cuộc đời Ngươn hạ sắp đến ngày biến hoại, nên Đức Thầy khuyên bá tánh, từ đây rán dè dặt trong việc xử thế, lo thi hành nhân nghĩa, tránh xa điều tội ác để khỏi vương mang khổ lụy sau nầy.

-Mặc cho người đời sống cảnh giàu sang đài các, riêng phần Ngài đãXa nơi tranh đấu lợi danh, Giữ lòng thanh tịnh tánh lành trau tria(Khuyến Thiện, Q.5). Và Ngài kêu gọi mọi người không nên xa hoa phung phí, mà phải lo ăn cần ở kiệm, vì cảnh nghèo đói sẽ kề bên lưng: “Nghèo với đói từ đây sẽ biết, Hàng ngoại bang bố thiết ta hoài.(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4).

-Bởi lòng từ bi bác ái, Ngài mới phân bày cho chúng dân được rõ; tâm địa của con người thời nay, quá mê si tội ác (lòng lang dạ thú); họ thực hiện bao mánh khoé gian hùng, điêu xảo để lừa bịp thế gian. Cho nên Đức Giáo Chủ khuyên mọi người, phải khôn ngoan sáng suốt trong mọi vấn đề, và cần phải:“Chọn nơi nào Đạo Chánh phượng thờ. Thì mới được thân sau cao quí(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4).

CHÚ THÍCH :

NGƯƠN HẠ:(Xem lại chú thích tại tr.51 Tập 1/3)

MỎNG MẺO: (Xem chú thích chữ mỏng mảnh nơi câu 37 trên)

KIÊNG DÈ: Kiêng cữ, dè dặt kỹ lưỡng để tránh sự đụng chạm thất bại.

LÊN NGỰA XUỐNG XE: Do thành ngữ “Lên xe xuống ngựa”, ý chỉ sự sang trọng sung sướng, ăn xài xa xí. Đức Thầy thường khuyên:

“Đừng ham lên ngựa xuống xe,

Ăn xài phí của lụa the làm gì”.(Sám Giảng, Q.3)

PHÚ QUÍ: Giàu sang quyền quí, nơi sang trọng. Đức Thầy có câu (trong Luận Việc Tu Hành) :

“Phú quí tạo đời thêm mệt xác,

Tham danh phế Đạo chí đâu yên”.

KIM CHỈ: (Xem lại chú thích tại tr.278 Tập 1/3)

LỜI CHÂU NGỌC: Cũng gọi là “lời vàng tiếng ngọc”, tức những lời khuyên dạy quí báu như vàng ngọc, đáng ghi nhớ; vâng lời. Truyện Kiều có câu:

“Nàng rằng: Vâng biết ý chàng,

Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.

Trong bài Thiên Lý Ca, Đức Thầy bảo:

“Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,

Nay gặp người quái lạ tỏ phân”.

THẰNG NGỐC: Do chữ “ngốc tử”, có nghĩa người ngu, kẻ mê muội nhu nhược, không thấy xa hiểu rộng, chẳng hề nghĩ đến việc hư nên tốt xấu sau nầy.

ỐC MƯỢN HỒN: Một loại động vật ở dưới nước hoặc sống trên bãi cát, hình giống con tôm, đầu có đủ râu, mắt, càng, que xem rất kỳ dị; mình nó như cục thịt tròn và mềm, không có vỏ cứng, phải chui vào vỏ ốc mà trốn các thủy tộc khác. Người ta thường lầm là ốc, nhưng ruột nó lại là thứ khác.

Nghĩa bóng chỉ cho hai trường hợp:

1- Chỉ cho hạng người sống tạm bợ, bấp bênh chẳng có nhà cửa căn cứ.

2- Chỉ cho hạng “mặt người lòng thú”. Tuy thấy là con người, nhưng lòng dạ của họ vô cùng độc ác, gian xảo, thường lừa gạt ám hại kẻ hiền lương. Ông Sư Vãi Bán Khoai đã cho biết:“ Ác nhơn như ốc mượn hồn, Đừng thấy tu niệm ỷ khôn mà cười”.

CHIM TÌM CÂY MỚI GỌI CHIM KHÔN, NGƯỜI HIỀN ĐỨC MỚI LÀ NGƯỜI TRÍ: Hai câu nầy ý dạy: chim khôn thì tìm nơi có cây cao kín đáo mà đậu tất được sống an lành, khỏi bị bẫy dò của người ám hại, hoặc giả trời sắp giông bão, những chim khôn tự sớm tìm các rừng cây ẩn núp để khỏi bị tai nạn.

Còn người trí lúc nào cũng ăn ở hiền đức. Vì rằng: dù người có tài trí, uy dũng đến đâu mà thiếu đức thì chẳng thành công bền vững, như phe Hạng Võ chẳng hạn…Còn những người hiền đức luôn đặng vững bền và làm việc gì cũng được kết quả vẻ vang, như phía Hán Bái Công.

Cho nên, về mặt đời, ta nên chọn nơi nào có đức hạnh, có đường lối chánh nghĩa mà nương theo mới được yên lành bền vững:“Chim khôn lánh bẫy, lánh dò, Người khôn lánh chốn hồ đồ mới khôn”.(Tục ngữ). Hoặc là:“Chim khôn lựa cây lành mà đậu , Tôi hiền lựa chúa Thánh mà thờ”.

Về phương diện đạo đức thì người tu nên tìm con đường Chánh Đạo, có tôn chỉ, mục đích giải thoát mà qui y, mới gọi là người trí và sau nầy mới được liễu ngộ:

“Chim khôn lựa cây lành mà đậu,

Người khôn tìm chánh Đạo mà thờ.

Đừng học theo những thứ bá vơ,

Mới có thể gặp cơ tỏ ngộ”.

(Thần Cơ Thật Luận của Thanh Sĩ)

Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng ân cần dạy bảo:

“Lựa cho phải kèo xưa danh mộc,

Đừng để lầm thợ khéo sơn da.

Thì sau nầy đến lúc phong ba,

Giông gió lớn cột kèo khỏi gãy”.

(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)

CHÁNH VĂN

153. Theo Phật-Giáo sau nầy cao-quí,

Được nhìn xem Ngọc-Đế xử phân.

Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân,

156. Cảnh phú quí nhờ ơn Phật-Tổ.

Thấy bá-tánh nhiều điều tai-khổ,

Khùng thương dân nên phải hết lời.

Dạo Lục-Châu chẳng có nghỉ-ngơi,

160. Mà lê-thứ nào đâu có biết.

Dạy Đạo chánh vì thương Nam-Việt,

Ở Cao-Miên vì mến Tần-Hoàng.

Trở về Nam đặng có sửa-sang,

164. Cho thiện-tín đuợc rành chơn-lý.

LƯỢC GIẢI (từ câu 153 tới câu 164) :

-Đức Giáo Chủ cho biết nếu ai sớm quy y Phật Pháp, tu thân hành đạo thì sau nầy được hưởng nhiều điều quí báu: Nào được xem luật Trời thưởng phạt, nào thụ hưởng cảnh quí báu, do Phật Tổ ban cho. Bởi chừng đó:

“Phuơng Nam rạng ngọc chói lòa,

Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung.

Dành cho kẻ lòng trung chánh trực,

Quân cùng thần náo nức vui tươi,

Liên-hoa đua nở nụ cười,

Rước tôi lương đống chào người chơn tu”.

(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)

-Thấy trong bá tánh đang gánh chịu biết bao tai khổ, nên Đức Thầy động lòng từ bi hết lời khuyên bảo. Ngài cũng đã vân du khắp sáu tỉnh miền Nam để tùy phương thức tỉnh, thế mà trong dân thứ có mấy ai được rõ.

-Thời gian trước đây, có lúc Ngài dạy Đạo cứu dân ở đất Miên, bởi thấy vua tôi nước nầy sắp vương cảnh khổ. Nay vì quá thương dân tộc Việt Nam nên Ngài trở lại đất nước nầy khai truyền chánh Đạo, hầu giúp cho thiện nam tín nữ rõ thông đường lối tu hành.

CHÚ THÍCH :

PHẬT GIÁO: Giáo lý nhà Phật, là Đạo Phật, một nền Đạo lớn trên thế giới, phát khởi từ cõi Ấn Độ, do Đức Thích Ca Mâu Ni làm Giáo Chủ. Đạo Phật dạy người tự tỉnh, tự tu, tự ngộ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, tức là thành Phật, nhằm mục đích giải khổ cho cả nhân loại chúng sanh.

Sau khi Đức Phật Thích Ca tịch diệt thì Tổ Tổ tương truyền và các nhà tu đắc đạo tiếp tục quảng bá Đạo Phật khắp dân gian. Đạo Phật có trên 800 triệu tín đồ, chiếm tỷ số 1/3 dân số thế giới (thống kê cũ).

Đức Huỳnh Giáo Chủ được Đức Phật Tổ sắc chỉ lâm phàm xương minh Đạo Phật trong thời hiện đại:

“Ngọc tòa Phật Tổ nấy sai Ta,

Xuống cứu thế gian nẻo vạy tà.

Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp,

Cho đời thấu tỏ Đạo Ma ha. (Tối Mùng Một).

NGỌC ĐẾ: (Xem chú thích nơi câu 63 trên)

BỆ NGỌC: Bệ là chỗ để thờ, hoặc chỗ để Vua ngồi, nơi ấy là bực cao, xây toàn bằng ngọc ngà châu báu. Đức Giáo Chủ có bảo (trong bài Thiên Lý Ca):

“Ai muốn gần bệ ngọc các lân,

Thì phải rán lập thân nuôi chí”.

CÁC LÂN: Các là gác, lầu, điện đền nội các, Lân là cửa, bực cửa; nói chung là điện đền lầu các. Ý chỉ chỗ cao sang quyền quí của Vua quan ở. Đức Thầy có câu:“Vào các ra đài tột bực giàu sang”(Sấm Giảng Q.1).

TAI KHỔ: Tai nạn khổ sở.

LỤC CHÂU: (Xem lại chú thích tại tr.91 Tập 1/3)

ĐẠO CHÁNH: Đây chỉ Đạo Phật, có nghĩa con đường chơn chánh, đúng chơn lý, có diệu năng đưa người giải thoát trần lao. Xưa, Đức Phật có di chúc cho các hàng đệ tử:“Qua đời sau nơi nào có Bát Chánh Đạo là Đạo chánh, bằng ngược lại là Đạo tà”. Đức Thầy viết:“Bác ái xả thân tầm Đạo chánh Độ người lao khổ dạ không phiền (Luận Việc Tu Hành)

CAO MIÊN: Cũng đọc là Cao Mên, tức là tên cũ của nước và dân tộc Cam Bốt, dịch âm chữ Khmer. Tên Cam-Bốt (Cambodge) thay cho tên “Cao Miên” (bị Quốc Hội nước ấy hủy bỏ).

TẦN HOÀNG: Ám chỉ Vua nước Cao Miên. Trong Giảng 11 hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:

“Tôi đâu mà có yên thân,

Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần.

Mến là mến Đức Hoàng Lân,

Thương là thương lấy vạn dân khổ nàn”.

Giờ đây Phật lại trở về Nam Việt:

“Bấy lâu Phật ở nước Tần,

Bây giờ Phật lại trở lần về Nam”.

THIỆN TÍN: (Xem từ Thiện Nam, Tín Nữ tại tr.61 Tập 1/3).

CHƠN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.171 Tập1/3)

CHÁNH VĂN

165. Trong Sáu-Tỉnh nhiều điều tà-mị,

Tu-hành mà vị-kỷ quá chừng.

Thì làm sao thoát khỏi trầm-luân,

168. Khuyên bổn-đạo rán tầm nẻo chánh.

Chừng lập Hội xác thân mới rảnh,

Nếu không thời khó thấy Phật Trời.

Khùng dạy dân chẳng dám nghỉ-ngơi,

172. Đi chẳng kể tấm thân già cả.

Cảnh trần-thế mặc ai thong-thả,

Chớ lòng ta chẳng đắm hồng-trần.

Có thân thì rán giữ lấy thân,

176. Để đến việc ăn-năn chẳng kịp.

Yêu những kẻ tâm đầu ý hiệp,

Mến những ai biết kiếm Đạo-mầu.

Cảnh Tây-Thiên báu ngọc đầy lầu,

180. Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng.

LƯỢC GIẢI (từ câu 165 tới câu 180) :

-Đức Thầy nhận thấy khắp sáu tỉnh miền Nam có lắm kẻ tu hành không đúng cách, lòng tham lam vị ngã chưa diệt trừ, chỉ lo tạo những điều mị dối, để lợi dụng lòng tin tưởng của bá tánh. Nếu hành đạo như thế thì càng tu càng chìm trong luân hồi lục đạo, mong gì được thành quả giải thoát. Như trong bài“Luận Việc Tu Hành”, Ngài có viết:“Trần gian đầy dẫy người làm dối, Đạo cả nào trông đến cửa thiền”.

-Thế nên Đức Thầy hằng khuyên tín đồ từ đây hãy tìm con đường chơn chánh nương theo và cố gắng thực hành y chánh pháp, để được tự do giải thoát, có mặt trong ngày Long Hoa Hội.

-Đức Thầy chẳng nệ tấm thân lao nhọc, luôn dạo khắp đó đây để tùy phương giáo hóa mặc cho đời đua chen theo việc ăn chơi sung sướng, riêng lòng Ngài đã rứt sạch nghiệp duyên trần cấu, chỉ còn lo kêu gọi chúng dân:“Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ, Đến tội rồi mới hối muộn màng.(Khuyến Thiện Q.5)

-Vậy ai là người đồng tâm hiệp chí, hãy sớm lo tu thân lập hạnh, để cùng thấu đạt lẽ diệu mầu của Đạo pháp. Kìa, nơi xứ Phật có biết bao nhiêu điều quí lạ: nào đền vàng điện ngọc, sen báu năm màu, nào chim kêu tiếng pháp, cây báu diễn lời lành; nhà cửa y phục, thức ăn, tiện nghi sử dụng, tất cả đều dành cho người chơn tu thọ hưởng.

CHÚ THÍCH:

SÁU TỈNH: Cũng gọi là Lục châu (Xem chú thích tại tr. 91 Tập 1/3).

TÀ MỊ: Gian xảo ton hót để lợi dụng. Đây chỉ cho kẻ giả dạng mang lốt tu hành bên ngoài, nhưng trong lòng luôn tính việc mê dối, không thật tâm. Đức Thầy có câu:“Bớt điều mị dối mới hầu thấy Ta(Sấm Giảng, Q.3).

VỊ KỶ: (Xem lại chú thích tại tr.37 Tập 1/3).

TRẦM LUÂN: Chìm đắm, lăn lộn mãi trong sáu nẻo luân hồi. Đức Thầy từng nói:“Trầm luân oan nghiệt càng gây thêm hoài”.(Thu Đã Cuối).

NẺO CHÁNH: Nghĩa của chữ Chánh Đạo, tức là con đường ngay chánh.

ĐẮM: Chìm lắng dưới đáy nước, mê mết say sưa: chìm đắm, say đắm. Chữ đắm ở đây là chỉ cho sự quá say mê dục lạc trong cõi hồng trần – lòng Đức Thầy đã giác ngộ giải thoát nên chẳng còn đắm hồng trần. Ngài luôn nhắc nhở:

“Nếu mãi mê man mùi tục lụy,

Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.

(Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)

ĂN NĂN: (Xem lại chú thích tại tr.65 Tập 1/3 và nơi câu 75 trên).

TÂM ĐẦU Ý HIỆP: Vốn là một thành ngữ, có nghĩa lòng dạ và ý chí hiệp nhau giữa hai người hoặc nhiều người, những người đồng một chí hướng đạo đức với nhau.

ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr.280 Tập 1/3)

TÂY THIÊN: (Xem lại chú thích tại tr.138 Tập 1/3)

AN DƯỠNG: là An Dưỡng Quốc của Đức Phật A Di Đà, cũng gọi là Cõi Cực lạc (Xem chú thích chữ Cực Lạc nơi câu 28 trên).


CHÁNH VĂN

181. Kẻ hiền-đức sau nầy được hưởng,

Phép Thần-Linh của Đức Di-Đà.

Lại được thêm thoát khỏi Ta-Bà,

184. Khỏi luân chuyển trong vòng Lục Đạo.

Đức Diêm-Chúa yêu người hiền thảo,

Trọng những ai biết niệm Di-Đà.

Lại được gần Bệ-Ngọc Long-Xa,

188. Coi chư quốc tranh-giành châu-báu.

Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão,

Gái bé thơ biết trọng tuổi già.

Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà,

192. Thì được thấy Phật, Tiên, Thần, Thánh.

LƯỢC GIẢI (từ câu 181 tới câu 192) :

-Đoạn nầy ý nói những người hiền lương đức hạnh, sau nầy được Đức Phật A Di Đà dùng phép thần diệu cứu thoát mọi thống khổ nơi cõi Ta bà và tiếp dẫn linh hồn vãng sanh về Cực Lạc, hưởng quả an vui, chẳng còn bị luân hồi trong sáu nẻo.

-Đức Diêm Chúa lúc nào cũng kính yêu những kẻ biết ăn ở hiền từ, hiếu thảo và chuyên niệm “Lục Tự Di Đà”. Các người ấy sau nầy chẳng những chầu mừng Đức Thánh Vương mà còn đặng xem cảnh vạn quốc giựt giành châu báu tại miền Thất Sơn, như Đức Thầy hằng khuyên (trong bài Thiên Lý Ca):

“Hãy mau khuya sớm chuyên cần,

Đặng xem chư quốc non Tần giành chia”.

Hoặc là:

“Phong trần dày dạn gió sương,

Chư bang ham báu hùng cường đua tranh.

Còn một cuộc chiếu manh giành xé,

Khắp hoàn cầu ó ré một nơi.

Dòm xem châu ngọc chiều mơi,

Sao đời không sớm tách rời cõi mê”.

(Để Chơn Đất Bắc)

-Đức Thầy cũng từng khuyến dạy trong hàng thiếu niên nam nữ, từ đây đối với bậc già cả tuổi tác phải biết kính trọng lễ phép và sớm thức tỉnh tu hành, diệt trừ lòng tà quấy hầu sau nầy kiến diện Phật Tiên Thần Thánh. Bởi lúc ấy sẽ có:“Phật Thánh Tiên Đông độ lướt sang, Miền Nam địa phân chia đẳng cấp.(Nang Thơ Cẩm Tú)

CHÚ THÍCH :

PHÉP THẦN LINH: Pháp thần thông linh diệu. Nhà tu Phật khi trừ diệt sáu căn, không còn ô nhiễm sáu trần thì chứng đắc A La Hán, có đủ sáu phép thần thông (Nhân căn trần thanh tịnh, nhi đắc lục thông thị hiện giả dã). Còn khi chứng lên bực Bồ Tát và Như Lai thì pháp thần thông càng cao diệu hơn.

ĐỨC A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích tại tr.136 Tập 1/3).

TA BÀ: Cũng đọc là Sa-bà, Phạn ngữ (Scr.) là Saha, có nghĩa là kham nhẫn, đại nhẫn. Bởi chúng sanh ở cõi nầy ( tức cõi chúng ta đang ở) kham chịu mọi điều thống khổ. Kinh Bi Hoa có nói:“Vân hà danh ta bà ? Thị như chúng sanh nhẫn thọ tam độc. Cập như phiền não, cố danh nhẫn độ”.(Thế nào gọi là Ta bà ? Bởi thế giới nầy, chúng sanh mắc phải ba điều độc hại tức tham, sân, si và các phiền não mà không hề chán mỏi, nên gọi là cõi kham nhẫn). Cổ đức đã bảo:

“Ta bà khổ, ta bà khổ,

Ta bà chi khổ, thùy năng sổ”.

Nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng luận giải ý nghĩa ấy trong hai câu giảng (trong quyển Khuyến Thiện):

“Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,

Có bao người xét cho tột chỗ”.

Lại nữa, trong cõi Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm” có 20 từng thế giới. Mỗi thế giới là một cõi Phật; cõi Ta bà ở về từng thứ 13, gồm có nhiều thế giới nhỏ. Trong mỗi thế giới nhỏ, có ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới; có bốn châu: -Đông, Thắng thần châu, -Tây, Ngưu hóa châu, -Nam, Thiệm bộ châu, -Bắc, cu lư châu; và, có 1 núi Tu Di, 2 nhựt, nguyệt.

LUÂN CHUYỂN: Luân hồi chuyển kiếp. Ý nói chúng sanh ở kiếp nầy, nơi nầy chết đi, rồi đầu sanh qua kiếp khác, nơi khác. Cứ thế mà lăn lộn xoay vần mãi trong ba cõi sáu đường, không thoát ra được. Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:“Nhứt thiết chúng sanh từ vô thỉ dĩ lai, tánh tịnh minh thể, dụng chư vọng tưởng, thể tưởng bất chơn, cố hữu luân chuyển”.(Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sống chết trôi lăn đều do chỗ chẳng tỏ được cái chơn tâm thường trụ, thể tánh trong sạch, cứ dùng lầm theo vọng tưởng nên mới thành cái nghiệp sanh tử xoay vần mãi mãi).Trong Khuyến Thiện, Q.5) Đức Thầy có nói:

“Chuyển luân trong nhơn vật các loài,

Căn mờ ám làm điều dại dột”.

LỤC ĐẠO: Sáu đường luân hồi, gồm có: 1- Thiên đạo (cõi trời), 2- Nhân đạo (cõi người), 3- A Tu La đạo (cõi thần), 4- Súc sanh đạo (loài thú), 5- Ngạ quỉ đạo (cảnh giới ngạ quỉ), 6- Địa ngục đạo (cảnh giới địa ngục). Trong Tỉnh thế Ngộ chơn có câu:

“Lục đạo luân hồi vạn kiếp trầm,

Tử tế tư lương sanh tử khổ”.

(Sáu đường lăn lộn nhiều muôn kiếp,

Phải rán lo lường tránh chỗ nguy).

Đức Thầy cũng bảo:

“Gây ra lắm nợ phong trần,

Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

(Cho Ông Cò Tàu Hảo)

DIÊM CHÚA: Cũng gọi là Diêm Vương hay Diêm Ma Pháp Vương. Có nghĩa là cõi Thiên Ma, tức cõi âm, cõi Địa ngục. Bởi Ngài thường khuyến khích kẻ làm lành, trừng trị kẻ tà ác, cho nên có danh xưng là Pháp Vương. Cũng có tên là Bình Đẳng Vương, vì Ngài luôn lấy lòng bình đẳng, công bằng mà xử trị kẻ tội nhơn, không hề tư vị một ai. Đức Thầy từng cho biết:

“Ngục môn đầy quỉ vô thường,

Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng”.

(Đến Làng Nhơn Nghĩa)

HIỀN THẢO: (Xem lại chú thích nơi câu 21 trên)

NIỆM A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích nơi câu 30 trên)

BỆ NGỌC: (Xem lại chú thích nơi câu 155 trên)

LONG XA: Xe rồng, tức xe của vua đi.

CHƯ QUỐC: Cũng đọc là “vạn quốc’, hay “chư bang”, tức chỉ chung cho các nước khắp trong thế giới. Đức Thầy có câu (bài Hoài Cổ):“Trông ngày chư quốc, chư hầu tỉnh tâm”.

CHÂU BÁU: Ngọc ngà, vàng bạc, kim cương…

KÍNH THÀNH: Tôn kính lễ độ và thành thật.

TRƯỞNG LÃO: Bậc già cả tuổi tác, các cụ bô lão. Đó là người đời, còn trong Đạo thì chữ Trưởng lão chỉ cho bậc tu hành giới hạnh tinh nghiêm, trí đức cao khiết.

TỈNH TÂM: (Xem lại chú thích tại tr.259 Tập 1/3)

LÒNG TÀ: Nghĩa của chữ “Tà tâm” tức lòng tà vạy, lòng nghĩ tưởng việc xằng xiêng tà khúc, mơ tính dục lạc. Đức Thầy có câu (GMTK, Q.4):

“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,

Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”.

CHÁNH VĂN

193. Việc hung-dữ hãy nên xa lánh,

Theo gương hiền trau sửa làm người.

Sau tà-tinh ăn sống nuốt tươi,

196. Mà bá-tánh chẳng lo cải thiện.

Miệng dương-thế hay bày nói huyễn,

Sách Thánh Hiền ghét kẻ nhiều lời.

Khuyên chúng-sanh niệm Phật coi đời,

200. Cõi Hạ-Giái rồng mây chơi giỡn.

Ở chòm-xóm đừng cho nhơ-bợn,

Rán giữ gìn phong-hóa nước nhà.

Câu tam-tùng bọn gái nước ta,

204. Chữ hiếu-nghĩa trẻ trai cho vẹn.

LƯỢC GIẢI (từ câu 193 tới câu 204) :

-Đoạn nầy Đức Thầy khuyên mọi người nên xa lánh các việc tà ác, và noi theo những tấm gương tốt lành mà trau sửa tâm mình cho sớm được trọn lành trọn sáng. Bởi sau nầy có nhiều tai nạn hãi hùng xảy đến cho nhân loại:

“Lớp đau chết kể thôi vô số,

Thêm tà ma yêu quái chật đường.

Chốn hồng trần nhiều nỗi thảm thương,

Làm sao cứu những người hung ác”(Kệ Dân, Q.2).

-Thế mà bá tánh cứ mãi chần chờ, chẳng sớm lo ăn năn hối cải, lại còn bày vẽ nhiều điều huyễn hoặc, che lấp đạo mầu. Các bậc Thánh Hiền thường răn trách hạng người ấy:“Bán cú phi ngôn, ngộ tổn bình sanh chi đức”(Chỉ nửa câu nói quấy cũng đủ làm giảm mất đức hạnh của mình). Đức Thầy còn khuyên dạy khắp chúng sanh chuyên tâm trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, để sau nầy được chứng kiến cảnh:“Trên cửa Phật mùi hương thơm bát ngát, Dưới Quân thần phụ tử khải hoàn ca (Bài Không Buồn Ngủ).

-Giờ đây, mọi người cần diệt bỏ lòng tham gian nhơ xấu, đối với chòm xóm cần được hòa vui chân thật. Bảo vệ nền phong hóa tốt đẹp của nước nhà để hoàn thành nhân đạo; bổn phận Nam nhi phải vẹn tròn câu hiếu nghĩa, còn Nữ giới cần xử trọn đạo tam tùng.

CHÚ THÍCH :

GƯƠNG HIỀN: (Xem lại chú thích chữ treo gương thiện tại tr.275 Tập 1/3)

TÀ TINH: (Xem lại chú thích tại tr.127 Tập 1/3)

BÁ TÁNH: Cũng gọi là bách tính. Có nghĩa là trăm họ. Ý chỉ chung tất cả mọi người.

CẢI THIỆN: Sửa đổi, thay đổi lại cho được hoàn thiện hơn, thí dụ: “Cải thiện mức sống của nhân dân”. Người tu thì cải thiện thân tâm cho được trọn lành trọn sáng.

NÓI HUYỄN: Nói không đúng sự thật; có nói không, không nói có, đặt điều nói láo:“Thêm thừa huyễn hoặc”, làm lật ngược mọi vấn đề, khiến cho người khác hiểu lầm. Lời nói huyễn là nghĩa của chữ vọng ngữ, nên sách Thánh thường răn dè:“Ngôn bất trúng lý, bất như bất ngôn; nhất ngôn bất trúng, thiên ngôn vô dụng”(Nói chẳng trúng lẽ, chẳng bằng không nói cho xong; bởi vì nói một lời chẳng trúng thì ngàn lời đều không dùng được). Đức Thầy đã răn cấm lời nói ấy (trong Khuyến Thiện, Q.5):

“Ác vọng ngữ thứ tư cũng cấm,

Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều.

Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,

Thương viện lẽ thấp cao bào chữa”.

SÁCH THÁNH HIỀN:(Xem lại chú thích nơi câu 23 trên).

NHIỀU LỜI: Nghĩa của từ (đa ngôn) và cũng thuộc phần Ác vọng ngữ. Đức Thầy đã giải:“Khoe khoang tự đắc xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị”(Luận về Tam nghiệp/Ác vọng ngữ).

CHÚNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.40 Tập 1/3).

HẠ GIÁI: Cảnh giới trần gian của chúng ta đang sống, đối với thượng giới (cõi trời). Đức Thầy có câu:

“Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,

Khắp hạ giái truyền khai Đạo pháp”.

(Diệu Pháp Quang Minh)

RỒNG MÂY: Nghĩa của chữ “Long Vân” tức chỉ cho Hội Long Vân, hội vui mừng cao quí. Đức Thầy cho biết (bài Diệu Pháp Quang Minh):

“Ai mà sửa đặng vuông tròn,

Long Vân đến hội lầu son dựa kề”.

NHƠ BỢN: Bòn chèn, xin xỏ, nhờ vả người khác. Đây chỉ cho sự tham gian lặt vặt trong chòm xóm, nên mang tiếng xấu xa, bị người đời chán ghét.

PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa. Cách thức ăn ở, lễ nghi, đối xử và nền văn hóa của một Quốc gia hay một dân tộc. Đức Thầy có câu:

“Tùy phong hóa dân sanh phù hạp,

Chấp bút thần tả ít bổn Kinh”.(Sám Giảng, Q.3)

TAM TÙNG: Ba điều nên theo của hàng phụ nữ, hay là ba phận sự chánh thức của người đàn bà đối với gia đình. Theo Nho giáo:“Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử”. Đức Thầy từng dạy:

“Nghe lời cha mẹ cân phân,

Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy”.

Tam Tùng gồm có:

1.- Tùng phụ: người con gái lúc chưa chồng, còn nương theo cha mẹ, tức thời kỳ đáp ơn. Bổn phận con gái phải siêng năng vén khéo mọi công việc bếp núc, thêu thùa, may vá. Đối với ông bà cha mẹ đầy lòng hiếu thảo, với cô bác chòm xóm lễ độ khiêm cung; hòa hảo với anh chị, thương yêu dạy bảo em cháu. Đối bên ngoài, mọi việc chi đều phải thưa hỏi và đợi lịnh của cha mẹ, tự mình không nên quyết định lấy, chỉ trừ những việc thường thức trong nhà. Phải bảo trọng thân danh của cha mẹ và phẩm hạnh của mình. Không xem những loại sách bất chánh, cũng không gần kẻ lả lơi, tham gian hỗn láo để ngừa hại đến danh thể. Bỏ hẳn thói biếng lười mê ngủ, mà phải thức khuya dậy sớm để vẹn tròn bốn đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

2.- Tùng phu: Khi xuất giá theo chồng, nên biết tánh ý chồng để chìu theo. Chồng muốn làm việc đạo nghĩa chơn chánh nên nung đúc, còn muốn làm việc tà vạy, hư hèn thì khuyên ngăn. Phải sạch, khéo mọi công việc nội trợ, đừng để phiền đến chồng những việc quá nhỏ mọn.

Các việc có tánh cách hệ trọng trong gia đình không nên giấu chồng. Lúc chồng đi vắng, nếu có bạn của chồng đến thăm, phải giữ lễ độ, nghiêm chỉnh chào hỏi; hãy cẩn thận mọi cử chỉ: nói năng, đi, đứng, nằm, ngồi đều phân biệt chủ khách rõ rệt. Không nên cười nói lả lơi suồng sã, khiến cho kẻ ngoài sanh nghi mà mang tiếng thất tiết.

3.- Tùng tử: Nếu gặp việc chẳng may, chồng chết sớm, vợ nên thủ tiết nuôi con cho đến khi nhắm mắt theo chồng; bằng không được cũng phải đợi mãn kỳ tang khó mới tái giá.

Phải tận tâm dạy dỗ con cho được khôn ngoan ngay thảo, đạo đức đối xử và có nghề nghiệp chân chánh sanh sống; nhứt là phải nêu gương tốt lành cho con bắt chước. Được như thế, mới xứng đáng là bậc mẹ hiền; trọn tiết với chồng và cũng chẳng lỗi việc khói hương với Tổ Tiên cha mẹ.

HIẾU NGHĨA: Hiếu hạnh và tiết nghĩa. Cũng giải là thích làm việc phải có ích lợi cho mọi người. Chữ “hiếu nghĩa” ở đây còn có nghĩa rộng là thi hành việc đạo nghĩa, tức đối xử cho tròn cái Đạo làm người. Như Đức Thầy từng dạy:“Hôm nay đã quy y đầu Phật tu niệm tại gia, ta hãy cố gắng vưng lời Thầy Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu nghĩa. Đức Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các môn nhơn đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa, có bốn điều ân, ta phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn.(Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền – tr. 180 SGTVTB 2004).

CHÁNH VĂN

205. Ghét những kẻ có ăn bỏn-sẻn,

Thương những người đói rách lương hiền.

Muốn tu-hành thì phải cần-chuyên,

208. Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi,

Kẻ phú-quí đừng vong cơm nguội.

Sau đói lòng chẳng có mà dùng.

Ta yêu đời than-thở chẳng cùng,

212. Mà bá-tánh chẳng theo học hỏi.

A-Di-Đà nhìn xem khắp cõi,

Đặng trông chờ mong-mỏi chúng-sanh.

Hiện hào-quang ngũ sắc hiền lành,

216. Đặng tìm kiếm những người hiền-đức.

LƯỢC GIẢI (từ câu 205 tới câu 216) :

-Thói thường người giàu sang mà bón rít thì ai trông vào cũng chán ghét. Còn kẻ ăn ở hiền lành tốt đẹp, dù nghèo khó ai thấy cũng mến thương. Đức Giáo Chủ khuyên trong sanh chúng, nếu ai muốn tu hành thì lòng phải chuyên cần, tinh tấn, trong các thời lễ bái, niệm Phật tham thiền không nên chểnh mảng sơ sót, có thế mới mong kết quả.“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa, Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”(Kệ Dân, Q.2)

-Ngài cũng kêu gọi những nhà giàu có, dư ăn, dư để đừng phụ bỏ cơm thừa mà nên dành cho kẻ nghèo đói, tàn tật. Vì sau nầy sẽ gặp tai nạn đói khổ:“Đói với nghèo sắp đến bây giờ”:“Cảnh vinh hoa lại quá cheo leo, Nhà giàu có sau nhiều tai ách(Kệ Dân, Q.2). Trong lúc nầy dù họ muốn có chén cơm nguội đỡ lòng, cũng chẳng biết tìm đâu ra.

-Vì lòng quá thương xót chúng dân sắp lâm cơn đồ thán, nên Đức Thầy thở than khuyên dạy không ngừng, thế mà ít ai thức tỉnh tìm học Đạo mầu.

-Đức Phật A Di Đà lúc nào cũng rất mong đợi chúng sanh, biết hồi tâm hướng thiện, niệm Phật làm lành. Tuy Ngài an tọa nơi Tây phương Cực Lạc, nhưng luôn dùng hào quang năm sắc soi rọi khắp cõi Ta bà, tìm thấy chúng sanh nào biết tu thân lập hạnh, chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Ngài thì Ngài ủng hộ và tiếp dẫn chúng sanh ấy được vãng sanh về cõi Cực Lạc.

CHÚ THÍCH:

BỎN SẺN: Hà tiện, rít róng, hẹp hòi với bà con chòm xóm trong việc tiền bạc. Ví dụ: người có tánh tham lam bỏn xẻn.

LƯƠNG HIỀN: Tốt lành, người hiền lành tốt đẹp, chơn chất làm ăn. Đức Thầy có câu:

“Kẻ lương hiền chờ giọt mưa ngâu,

Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi”.

(Trao Lời Cùng Ông Táo)

CẦN CHUYÊN: Cũng viết là chuyên cần. Có nghĩa là siêng năng, chăm chú, không xao lãng. Ví dụ: cần chuyên tu học. Ở đây ý nói hai thời công phu lễ bái, niệm Phật, xem kinh, người tu hành phải chịu khó chuyên trì cho đầy đủ, đừng để lãng xao, sơ sót. Đức Thầy từng nhắc nhở trong bài “Dặn Dò Bổn Đạo”:

“Sớm khuya bá tánh cần chuyên,

Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề”.

TƯỞNG NHỚ PHẬT CHỚ NÊN SÁI BUỔI: Câu nầy ý dạy sự niệm Phật, nhớ Phật trong hai thời cúng lạy, mỗi tín đồ phải thật hành cho đúng, như lời Đức Thầy dặn dò trong bài “Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa”:

“Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,

Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.

ĐỪNG VONG: Đừng quên, không nên bỏ, chẳng nên phụ bạc.

CHẲNG CÙNG: Không dứt, không hết, còn hoài, nói chẳng cùng.

A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích nơi câu 30 trên)

MONG MỎI: Ao ước, mong muốn.

HÀO QUANG: Hào là lông; quang là sáng. Nơi chơn mày của Phật có những sợi lông trắng phóng ra ánh sáng, nên gọi là hào quang. Đây là một trong 32 tướng hảo của Phật. Đức Thầy bảo:

“Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,

Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.

(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)

NGŨ SẮC: Năm màu sắc: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen. Đức Thầy có viết trong bài Nang Thơ Cẩm Tú:“Vừng mây lành ngũ sắc hào quang”.

CHÁNH VĂN

217. Kẻ tâm-trí mau mau tỉnh-thức,

Kiếm Đạo-mầu đặng có hưởng nhờ.

Chốn hồng-trần nhiều cảnh nhuốc-nhơ,

220. Rán hiểu rõ huyền-cơ mà tránh.

Chốn tửu-điếm ta nên xa lánh,

Tứ-đổ-tường đừng có nhiễm vào.

Người tránh xa mới gọi trí cao,

224. Sa bốn vách mang điều nhơ-nhuốc.

Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,

Đức Di-Đà truyền mở Đạo lành.

Bởi vì Ngài thương xót chúng-sanh,

228. Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.

Nên khổ-lao Khùng không có nại,

Miễn cho đời hiểu đặng Đạo-mầu.

Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu,

232. Thì hãy dẹp tánh tình ích-kỷ.

LƯỢC GIẢI (từ câu 217 tới câu 232) :

-Đức Thầy kêu gọi, ai là người hữu tâm hữu trí, nên sớm thức tỉnh tìm lẽ diệu mầu trong Đạo pháp mà thật hành theo, để sau nầy được hưởng điều cao quí. Cảnh trần đầy dẫy sự nhớp nhơ, mọi người nên khôn ngoan sáng suốt mà xa lánh. Nhứt là đừng để đắm nhiễm vào bốn vách: tửu, sắc, tài, khí. Vì nơi ấy làm cho con người phải hư thân mất nết, đọa lạc trần mê, xã hội chán chê ruồng bỏ.

-Vậy ai là người tỉnh tâm tu niệm thì đây là dịp may ít có:“Xưa nay không có mấy khi, Dương trần có Phật vậy thì xuống đây.(Sấm Giảng Q.1) Bởi Đức Phật A Di Đà quá thương xót chúng sanh, nên truyền lịnh cho Đức Thầy khai hóa Đạo mầu.

-Do đó, trên con đường giáo độ nhân sanh, dù gặp nhiều gian lao thử thách, Ngài cũng chẳng nao núng ngại ngùng miễn sao cho người đời hiểu biết Đạo mầu là thỏa nguyện. Và Ngài luôn khuyến tấn: Ai muốn thấu đạt lý diệu huyền trong Đạo pháp, trước tiên phải diệt lòng vị kỷ tham lam, đường tu mới mau thành đạt mục đích.

CHÚ THÍCH :

TÂM TRÍ: (Xem lại chú thích tại tr.154 Tập 1/3).

ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr.280 Tập 1/3).

NHUỐC NHƠ: Dơ xấu, nhục nhã.

HUYỀN CƠ: (Xem lại chú thích tại tr.40 Tập 1/3)

TỬU ĐIẾM: Uống rượu và đàng điếm, hai trong “Tứ đổ tường”. Đức Thầy từng dạy:

“Người tu phải lánh hơi men,

Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình”.(SG-Q.3)

TỨ ĐỔ TƯỜNG: Bốn việc tệ hại giữa bốn bức tường:“Tửu, Sắc, Tài, Khí”.

1- Tửu là thích uống rượu. Trong rượu có chất men, đủ năm thứ vị: chua, cay, đắng, mặn, ngọt nên ai uống vào đều bị nhiễm ghiền, nóng nảy, say sưa thường sanh ra 10 điều lỗi:

1./ Sắc diện khác thường.

2./ Cử chỉ chẳng ra gì.

3./ Mắt thấy không tỏ.

4./ Hiện ra tuồng giận dữ.

5./ Phá hại sản nghiệp, không lấy gì nuôi sống.

6./ Hay sanh bịnh hoạn.

7./ Gây thêm sự kiện cáo.

8./ Danh xấu đồn khắp.

9./ Trí huệ hao kém.

10./ Chết bị đọa vào ba đường ác.

Đức Thầy từng răn cấm:“Uống rượu : Phải cữ tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ, để đừng có tỏ sự chia rẽ với người ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội lỗi(Những điều phải tránh hẳn, hoặc được châm chế, hoặc nên làm – tr.205 SGTVTB 2004 ).

2- Sắc là chơi bời theo đàng điếm. Những kẻ đắm mê sắc lịch, nếu là thường dân thì thân mau tàn tạ, trí hóa lu mờ, nhà tan cửa nát; hạng vua quan thì mất nước, danh thể nhuốc nhơ như “Trụ, Kiệt”…Còn người tu hành nếu không diệt được lòng tham sắc thì bị tiêu tan giới đức, dù Tiên cũng phải hườn tục, như Uất Đầu Lâm Phất.v.v…

3- Tài là ham tiền của, cờ bạc. Người sa vào vách nầy, hay sanh ra trộm cướp, đàng điếm, bị xã hội ruồng bỏ. Tục ngữ thường nói:“Cờ bạc là bá thằng bần, Cửa nhà bán hết tra chân vào cùm”. Đức Thầy đã bảo:“Cờ Bạc: Phải cữ tuyệt; những kẻ cờ bạc muốn vào Đạo, phải thệ nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự nầy chẳng có cuộc vui nào có thể châm chế đặng”.(Những điều phải tránh hẳn, hoặc được châm chế, hoặc nên làm – tr.205 SGTVTB 2004).

4- Khí là hơi thuốc phiện (nha phiến, a phiến)…Kẻ

hút thuốc phiện thì thân hình ngày càng gầy ốm, bạc nhược; ngày đêm xoay quanh bàn hút, nhả khói phun mây, không còn biết đến việc gì nữa, nên bao nhiêu tiền của ruộng vườn đều tiêu sạch. Người xưa từng cảnh giác:“Có ăn, ăn điếu thuốc lào, Đừng ăn a phiến ai nào có ưa”.

Đức Thầy nay đã cấm tín đồ:“Thuốc phiện: Phải cữ tuyệt; không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút muốn vào Đạo phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác, mới có thể châm chế đặng.(Những điều phải tránh hẳn, …tr.205 SGTVTB 2004).

Tóm lại, về “Tứ đổ tường”, Đức Thầy đã răn cấm các tín đồ:“Điều thứ nhứt: Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường.(Tám Điều Răn Cấm – tr.214 SGTVTB 2004).

SA BỐN VÁCH: Rơi vào bốn điều tai hại “Tứ đổ tường”: Rượu thịt, sắc đẹp, cờ bạc, hút thuốc phiện.

ĐẠO LÀNH: Đạo từ thiện, đây chỉ Đạo Phật. Bởi chủ yếu của Đạo Phật là dạy tín đồ phải:“Làm hết các việc từ thiện – Tránh tất cả điều độc ác – Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch(bài Phật Là Gì ?) để đạt đến mức giải thoát. Trong bài “Cảm Tác”, Đức Thầy có viết:“Đạo lành mở cửa nơi miền Nam bang”.

ĐẠO CẢ: Đạo lớn, nghĩa của chữ Đại Đạo (xem tr.48 Tập 1/3, đoạn 4 bài Sứ Mạng).

ÍCH KỶ: Chỉ biết có lợi riêng cho mình, chỉ nghĩ đến mình, ai sao mặc kệ.

CHÁNH VĂN

233. Mau trở lại đừng theo tà-quỉ,

Tham, Sân, Si chớ để trong lòng.

Phải giữ lòng cho được sạch-trong,

236. Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ.

Lớp đau chết kể thôi vô số,

Thêm tà-ma yêu-quái chật đường.

Chốn hồng-trần nhiều nỗi thảm-thương,

240. Làm sao cứu những người hung-ác.

Khắp thế-giới cửa nhà tan-nát,

Cùng xóm làng thưa-thớt quạnh-hiu.

Bấy lâu nay nuôi duỡng chắt-chiu,

244. Nay tận-diệt lập đời trở lại.

Khắp lê-thứ biến vi thương-hải,

Dùng phép-mầu lập lại Thượng-Ngươn.

Việc Thiên-Cơ Khùng tỏ hết trơn,

248. Cho trần-hạ tường nơi lao-lý.

LƯỢC GIẢI (từ câu 233 tới câu 248) :

-Đức Thầy kêu gọi những ai chạy theo tà đạo (mê tín dị đoan), sớm trở lại con đường chánh giáo.Vì:“Những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là tà thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta”.(Tám Điều Răn Cấm/ Điều Thứ Năm).Còn lòng tham, sân, si của mỗi người, chính nó là thứ tà quỉ của nội tâm:“Tà kiến tam độc thật Ma Vương”(Pháp Bửu Đàn Kinh). Hễ tham sân si càng tăng thì bịnh khổ càng nhiều và hột giống trí tuệ càng bị vùi lấp. Cho nên Đức Thầy khuyên người tu cần diệt trừ tận gốc, ba món phiền não căn bản ấy, tức lòng mình được thanh tịnh, huệ mạng sáng suốt, vững vàng và khỏi nỗi khổ do tham, sân, si khuấy động.

Ngài còn cho biết, sắp tới đây: nào cảnh ốm đau chết chóc, nào tà quái cả âm lẫn dương nhiễu hại khắp lê dân. Bởi:

“Thời kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma,

Trời mở cửa Quỉ Vương xuống thế”.

(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)

Thảm thương cho kẻ hung ác, phải gặp nhiều khổ nạn, dù Phật Tiên có đầy lòng từ bi, nhưng cũng không sao cứu được. Lại nữa, cơ Trời tiêu diệt buổi Hạ ngươn bắt đầu diễn tiến: trước nhất là cảnh chiến tranh chết chóc xảy ra, làm xóm làng thưa thớt, tài vật tiêu hao; kế đó là nạn đói đau tiếp diễn, khiến cả nhân loại, đều chịu cảnh lầm than thống khổ. Trong “Giác Mê Tâm Kệ, Q4”, Đức Thầy nói rõ:

“Khổ với thảm ngày nay có mấy,

Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.

Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,

Cảnh sông máu núi xương tha thiết”.

Và rồi đây cuộc diện sẽ xảy ra:

“Ngọn thủy triều nô nức sục sôi,

Bầu trái đất một phen luân chuyển”.

(Nang Thơ Cẩm Tú)

Hoặc là:

“Ôi ! Khổ thảm bốn bề sóng dậy,

Dòm lưng trời lửa cháy liên miên.

Tiêu điều sản vật điền viên,

Thần thông biến hóa dưới miền Trung Ương”.

(Đến Làng Nhơn Nghĩa)

-Sở dĩ có thảm cảnh như vậy là do định luật trả vay của nhân và quả. Đó là do phép mầu của trời đất, dùng rửa sạch những phần tử xấu xa, tội ác trong thời hạ mạt, lập lại cảnh đời Thượng ngươn Thánh đức. Tất cả huyền cơ của tạo hóa, Đức Giáo Chủ đã nói hết cho thế trần được rõ những đau thương thống khổ, hầu sớm cải ác tùng thiện.

CHÚ THÍCH :

TÀ QUỈ: Tà ma quỉ quái. Đây chỉ cho các tà đạo thường bày ra sát hại sanh vật cúng tế quỉ thần ma quái, để cầu cho hết bịnh, nhưng bịnh đã không hết dứt mà trong gia đình lại thường bị đau ốm liên miên, nên Đức Thầy từng kêu gọi (trong Sấm Giảng,Q3):

“Đừng theo lũ quỉ lũ ma,

Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”.

THAM, SÂN, SI: Là ba điều ác của ý nghiệp, là ba món phiền não trong “ngũ độn sử”(tham, sân, si, mạn, nghi). Cũng gọi nó là “tam độc” (ba điều độc hại):

Tham: là lòng ham muốn quá độ, nó thường sanh ra chiến tranh, giết hại và trộm cướp.v.v…

Sân: là tánh nóng giận, hay sanh gây gổ, cấu xé, hận thù.

Si: là mê muội tà kiến, không phân biệt được lẽ tội phước, hư nên, tốt xấu; không nhận đâu là chân lý. Tham Sân Si là nguồn gốc sanh ra muôn ngàn tội lỗi khác, Đức Thầy thường răn dạy (Giác Mê Tâm Kệ, Q4):

“Chữ Tham trong ý muốn mặc tình,

Rán định tánh trừ cho nó tuyệt.

Chữ gây gổ là Sân hãy diệt,

Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng.

Thêm chữ Si thiệt quá lòng dòng,

Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt”.

THẢM THƯƠNG: Đau đớn thương xót.

CHẮT CHIU: cũng gọi là chít chiu, có nghĩa là đùm bọc, dắt dìu. Cổ thi có câu:

“Chắt chiu trong trứng mới nở ra,

Diều đâu bay lại sớt con gà”.(Thân Gà)

Hoặc là:“Mẹ gà, con vịt chắt chiu”.(Ca dao)

TẬN DIỆT: Dứt hết, tiêu diệt hết; cơ tận diệt, đời tận diệt.

BIẾN VI THƯƠNG HẢI: Do câu “Tang điền biến vi thương hải”, hoặc “Thương hải biến vi tang điền”. Có nghĩa là ruộng dâu hóa ra biển xanh, biển xanh trở thành ruộng dâu. Tục truyền trong trời đất, cứ 500 năm có biến đổi một lần. Do tích Tiên nữ Ma Cô: Bà thấy ba lần biển xanh hóa ra ruộng dâu…Đây ý nói sự biến đổi từ cảnh đời Hạ ngươn ra Thượng ngươn, theo luật “Châu nhi phục thỉ”.

THƯỢNG NGƯƠN: Ngươn đầu tiên (Xem thêm Chú thích chữ Hạ ngươn tại tr.51 Tập 1/3).

THIÊN CƠ: (Xem chú thích tại tr.64 Tập 1/3).

LAO LÝ: Nhà ngục. Ý nói bị giam hãm trong tù ngục, rất buồn thương khổ sở. Ví dụ: Mắc vòng lao lý.

CHÁNH VĂN

249. Lão nào có bày điều ma-mị,

Mà gạt-lường bổn-đạo chúng-sanh.

Đức Minh-Vương ngự chốn Nam-Thành,

Đặng phân xử những người bội nghĩa.

Trung với hiếu ta nên trau-trỉa,

Hiền với lương bổn-đạo rèn lòng.

Thường nguyện-cầu siêu-độ Tổ-Tông,

256. Với bá-tánh vạn dân vô sự.

Đời Ngươn-Hạ nhiều người hung-dữ,

Nên xảy ra lắm sự tai-ương.

Đức Di-Đà xem thấy xót-thương,

260. Sai chư Phật xuống miền dương-thế.

Tu kíp kíp nếu không quá trễ,

Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.

Cứu lương-hiền chẳng cứu người hung,

264. Kẻ gian-ác đến sau tiêu-diệt.

LƯỢC GIẢI (từ câu 249 tới câu 264) :

-Đoạn nầy ý nói Đức Thầy chẳng hề mị dối để lừa gạt tín đồ và bá tánh mà lúc nào Ngài cũng tỏ thật cho mọi người được biết: sau nầy sẽ có Đức Thánh Vương ngự tại Hoàng thành Việt Nam để phân xử những người vong ân bội nghĩa:

“Trên vua minh chánh cầm cân,

Dưới quan liêm tiết xử phân công bình”.

(Hoài Cổ)

-Cho nên Ngài khuyên vạn dân phải vẹn gìn trung hiếu, vì đó là hai điều trong “Tứ Đại Trọng Ân”:“Hiếu trung phải liệu cho xong, Đến chừng gặp chúa mới mong trở về” (Sám Giảng Q.3). Đồng thời lo rèn tập thân tâm được trở nên hiền từ thanh khiết và luôn tu cầu cho Cửu huyền Thất tổ đặng siêu thăng, cả vạn dân đều an cư lạc nghiệp, sớm tỉnh ngộ tu hành.

-Bởi chúng sanh thời mạt hạ quá hung tàn bạo ác, nên có tai biến hãi hùng xảy đến. Đức Di Đà xót thương cho bá tánh gặp hồi tai họa nên sắc lịnh cho Đức Thầy theo chư Phật lâm phàm khai Đạo cứu dân. Ngài truyền dạy mỗi người gấp rút tu hành, để kịp thời thoát khỏi “Nếu để trễ chầy e chẳng kịp”(Để Chơn Đất Bắc). Và:“ Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra”(Sám Giảng, Q.3).

-Căn cứ luật công bằng của tạo hóa thì hiền còn dữ mất. Trong cuộc tẩy trần tới đây, chỉ có người lương thiện, mới được sống còn tới ngày Thượng ngươn an lạc, còn những phần tử ác hung tất phải bị luật đào thải diệt vong.

CHÚ THÍCH :

MA MỊ: Dua mị dối trá.

NAM THÀNH: Thành trì nước Việt Nam.

BỘI NGHĨA: bội bạc (bội ơn, bạc nghĩa), không nhớ ơn nghĩa. Đức Thầy có câu:“Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân”(Khuyến Thiện Q.5)

TRUNG VỚI HIẾU: (Xem chú thích chữ “Thảo cha ngay chúa” tại tr.166 Tập 1/3).

TRAU TRỈA: Cũng đọc là trau tria. Có nghĩa tu sửa, giồi chuốt; ý chỉ người hành đạo cần trau sửa bào chuốt cho thân tâm được hoàn toàn tốt lành. Đức Thầy từng dạy:“Mau mau trau trỉa chữ lành cho xong”.(Thiên Lý Ca)

Và: “Trau tria nhục thể về nơi cũ,

Chùi rửa tim gan một tấc lòng”.

(Cho Một Vị Sơ Tâm)

SIÊU ĐỘ TỔ TÔNG: Siêu độ là cứu lên cho khỏi. Cũng gọi là độ thoát. Tổ tông là Ông bà dòng họ (Cửu huyền Thất tổ)… Ý nói người tu cần lo trau thân hành đạo, bố thí trì chay để hồi hướng công đức, cầu nguyện cho tổ tiên dòng họ được siêu thăng Tịnh độ, thoát khỏi sự khổ não trong luân hồi lục đạo. Đức Thầy dạy tín đồ hằng nguyện:

“Nguyện đem công quả tu hành,

Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài.

Về Phật quốc ngày ngày an lạc,

Cả giống dòng giải thoát luân trầm”.

(Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Cửu Huyền)

TAI ƯƠNG: Tai họa lớn. Đức Thầy có câu:

“Nếu chẳng nghe hồn vướng tai ương,

Chừng ấy mới kêu mời khó rước”.

(Khuyến Thiện, Q.5)

KÍP KÍP: Gấp gấp, ý khuyên việc gì cần làm mau, làm gấp mới kịp. Đức Thầy từng khuyên:“Đời cùng tu gấp kịp thì, Đặng xem báu ngọc ly kỳ năm non.(Sám Giảng, Q.3).

ĐỐI ĐẦU: (Xem lại chú thích tại tr.123 Tập 1/3)

GIAN ÁC: Gian trá và hung ác: phường gian ác. Đức Thầy thường cảnh tỉnh:

“Thương đời văn vật say mê,

Làm điều gian ác thảm thê sau nầy”(Sám Giảng, Q.3).

TIÊU DIỆT: Diệt hết, làm tan mất cả, không để sót lại.


CHÁNH VĂN

265. Nay trở lại như đời Trụ-Kiệt,

Hãy tu nhơn chớ có tranh-giành.

Tuy nghèo hèn mà chí cao-thanh,

268. Được hồi-phục nhờ ơn chư Phật.

Hãy thương-xót những người tàn-tật,

Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười.

Trên Năm-Non rồng phụng tốt-tươi,

272. Miền Bảy-Núi mà sau báu-quí.

Mặc trai gái trẻ già có nghĩ,

Thì khoan cười tôi rất cám ơn.

Khùng ra đời truyền dạy thiệt hơn,

276. Chư bổn-đạo chớ nên khinh rẻ.

Nay Khùng đã hết già hoá trẻ,

Nên giữa đồng bỗng lại có sông.

Ở Tây-Phương chư Phật ngóng trông,

280. Chờ bá-tánh rủ nhau niệm Phật.

LƯỢC GIẢI (từ câu 265 tới câu 280) :

-Thế cuộc hiện nay, chẳng khác thời Kiệt Trụ khi xưa, tình trạng Vua bất minh, tôi bất trung:“Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”(Bài Cảm Tác) khiến chúng dân gánh chịu cảnh lầm than cơ cực. Đức Thầy kêu gọi mọi người nên mở rộng lòng nhơn bố thí cho những ai nghèo đói tàn tật. Đồng thời diệt bỏ tánh tham lam giành giựt. Tuy sống trong cảnh nghèo hèn, nhưng hãy rán giữ lòng trong sạch cao khiết, tất có ngày chư Phật sẽ hộ trì cho phục hồi cựu vị Phật Tiên.

-Ngài còn cho biết tại miền “Năm Non Bảy Núi”, tuy hiện giờ thấy toàn là cây đá âm u, nhưng sau nầy sẽ có cảnh vui tươi quí báu:“Rừng lâm cây đá thấy ngày nay, Mà ruột năm non có các đài( Đến Làng Nhơn Nghĩa).

-Vì lòng quá thương xót chúng dân, nên Ngài kể hết sự tình, mặc cho nam nữ trẻ già có tin hay không tùy ý, chớ không nên khi dể nhạo chê làm chi cho vương nghiệp tội.

-Thời gian trước Đức Thầy giáo dân với xác thân là một ông Lão, nhưng Ngài chuyển kiếp khai Đạo kỳ nầy, với một thể xác trẻ trung. Nguồn giáo pháp của Ngài thuyết ra ví như con sông thông ra biển cả. Nếu ai biết nương theo đó mà tiến hành và chuyên tâm làm lành niệm Phật, tất được giải thoát an vui. Vì bên cõi Tây phương Cực Lạc Đức A Di Đà cùng chư Bồ Tát rất mong đợi khắp bá tánh đồng tâm niệm Phật để được các Ngài tiếp dẫn vãng sanh về cảnh giới ấy.

CHÚ THÍCH :

TRỤ: (Xem lại chú thích tại tr.172 Tập 1/3).

KIỆT: (Xem lại chú thích nơi câu 121 trên).

CAO THANH: Cũng đọc là thanh cao. Có nghĩa cao thượng và thanh nhã, trong sạch. Truyện Kiều có câu:“Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Đức Thầy cũng dạy:

“Thường trau giồi chí hướng cao thanh,

Cho khỏi thẹn con lành Phật giáo”.

HỒI PHỤC: Khôi phục lại như cũ. Ý nói cái đã bị mất mát, sai lạc hay bịnh hoạn mà nay được hồi phục trở lại.

NĂM NON: Năm cái chỏm cao (vồ) trên núi Cấm (Thiên Cẩm Sơn), gồm có:

1- Vồ Bò Hong: vì khi xưa, ít người lai vãng nên giống bò hong sanh sản nhiều vô số ở tại vồ nầy. Cao 716 thước, ở về hướng Tây.

2- Vồ Đầu: phải chăng vì cái vồ đầu tiên mà người ta gặp được khi lên núi do ngã chợ Thum Chưng. Cao 584 thước ở về hướng Tây Bắc.

3- Vồ Bà hay Phnom Barech: vì ở đây có một cái điện thờ Bà Chúa Xứ. Cao 579 thước, ở về hướng Nam.

4- Vồ Ông Bướm: vì khi xưa Ông Bướm và Ông Vôi, vốn người Miên, tướng lĩnh của Cố Quản Trần Văn Thành, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương. Sau về ẩn náu tu hành ở nơi đây và được chứng đạo.

5- Vồ Thiên Tuế hay Phnom Prapéal: Vì ở đây có nhiều cây thiên tuế. Cao 514 thước ở về hướng Đông.(theo quyển Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn Văn Hầu).

BẢY NÚI: (Xem lại chú thích tại tr.106 Tập 1/3).

NAY KHÙNG ĐÃ HẾT GIÀ HÓA TRẺ: Đức Thầy đã nhiều lần chuyển kiếp độ đời, từ xác già chuyển sanh lại xác trẻ, bởi Ngài:“Thương hồng trần mượn xác tái sanh(Bài Diệu Pháp Quang Minh).

Như từ Phật Thầy Tây An chuyển sanh lại Đức Huỳnh Giáo Chủ:

“Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,

Chờ thời Thiên định thiết hùng ca”.

(Hai Mươi Chín Tháng Chạp)

(Câu giảng trên còn có ý nghiã đúng theo lời tiên tri của Đức Phật Thầy: Năm 1856, Đức Phật Thầy Tây An cùng các đệ tử đứng trước thềm chùa Tây An núi Sam, nhìn xuống đồng Láng Linh, nhằm mùa nước lớn mênh mông như biển, Ngài nói: “Chừng nào giữa đồng Láng Linh nầy có con sông thì ta sẽ trở lại độ đời với hình thể trẻ trung hơn bây giờ”. Đến năm 1939, người Pháp cho xáng múc con Kinh Vịnh Tre xuyên qua đồng Láng Linh. Và cũng trong năm 1939 ấy, Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời khai sáng PGHH. Nên biết Đức Phật Thầy tiên tri lời nầy năm 1856 lúc Ngài 50 tuổi; 83 năm sau, Đức Giáo Chủ PGHH ra đời mới 20 tuổi. Cho nên sự việc nầy cũng rất ứng với các câu giảng kể trên).

NÊN GIỮA ĐỒNG BỖNG LẠI CÓ SÔNG: Phàm những người ở giữa đồng khô, thường bị thiếu nước xài và cũng chẳng có sông rạch, để thông ra biển cả. Bỗng nhiên lại được con sông đào đến, thật là điều may mắn ít có. Ý nói chúng sanh sống thời mạt pháp cảnh khổ bao trùm, rất khao khát trông đợi người cứu tinh, bỗng được Đức Thầy khai nguồn Đạo pháp, thì có chi vinh hạnh cho bằng.

Con đường Đạo lý của Ngài vạch ra ví như dòng sông, giúp cho chúng sanh nương theo đó mà vượt ra biển cả, tức được giải thoát an vui. Như Ngài cho biết:

“Cá to mà phải ở ao,

Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sông.

Một mai dạo được Tây Đông,

Khắp trong thế giới thỏa lòng ước ao”.

TÂY PHƯƠNG: Cảnh Phật, tức cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

NIỆM PHẬT: Trì niệm lục tự Di Đà. Tức chỉ người tu theo Pháp môn Tịnh độ để được vãng sanh về cõi Tây phương Cực lạc. Bởi Đức Phật A Di Đà có nguyện:“Nếu chúng sanh nào xưng danh hiệu Ta (niệm Phật) thì chắc sanh về nước Ta, nếu không y lời thì ta chẳng thể làm Phật”. Đức Thầy nay cũng xác định:

“Ao sen báu Tây phương đua nở,

Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm”.

(Khuyến Thiện, Q.5)

CHÁNH VĂN

281. Làm nhơn-ái ắt tiêu bệnh-tật,

Vậy hãy mau tầm Đạo Thích-Ca.

Phật tại tâm chớ có đâu xa,

284. Mà tìm kiếm ở trên Non-Núi.

Chúng đục-đẽo những cây với củi,

Đắp xi-măng sơn phết đặt tên.

Ngục A-Tỳ dựa kế một bên,

288. Chờ những kẻ tu hành giả-dối.

LƯỢC GIẢI (từ câu 281 tới câu 288) :

-Đức Giáo Chủ khuyên mỗi người, nên mở rộng lòng nhơn ái, đối với vạn loại chúng sanh thì ít vương mang bệnh tật. Bởi căn cứ vào luật nhân quả, hễ ai tạo nghiệp sát, hoặc đánh đập làm đau khổ chúng sanh khác thì kiếp nầy hoặc kiếp sau bị giảm thọ (bớt tuổi), đau ốm liên miên và thân hình xấu xí tàn tật. Bằng ai bố thí phóng sanh đối với người và vật thì được phúc thọ (sống lâu), ít bệnh tật, thân xác tươi đẹp. Kinh Niết Bàn có chép:“Có hai nhân duyên làm cho chẳng sanh ra bệnh khổ: Một là thương xót tất cả chúng sanh, hai là thí thuốc cứu những người có bệnh”.

-Trên đường tu học, nếu hành giả muốn kết quả chắc chắn, trước phải tìm hiểu Đạo Phật cho chính xác. Bởi muôn ngàn phương tiện trong Giáo lý của Phật đều dạy nhà tu hãy tìm lại Phật tâm của mình:“Phải bền lòng tầm Phật trong tâm(Kệ Dân, Q.2). Muốn thế, hành giả phải dùng trí huệ diệt hết vọng tâm phiền não, tức Phật tánh hiện bày:“Trí hiền tâm đức chùi lau, Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng(Sám Giảng, Q.3). Bằng ai tìm Phật theo những tượng cốt (thinh âm sắc tướng) hoặc núi non am cốc thì chẳng khác “người cỡi trâu lại đi tìm trâu”, tu như thế rất sai lầm mong gì kết quả.

-Còn những kẻ tu hành giả dối, phô trương hình thức bên ngoài để lừa bịp thế gian. Chính họ đã hành sai chân lý, lại còn dẫn dắt bá tánh lầm lạc thì ắt:“Khó mong cửa Phật dựa kề, Càng gần địa ngục nhiều bề thảm thương”(Phụ Nữ Ca Diêu).

CHÚ THÍCH :

NHƠN ÁI: Cũng gọi là nhân ái, tức lòng nhơn đức hay thương người mến vật, tha thứ người, thương xót hạng cơ bần và tận tâm giúp đỡ họ mọi điều ích lợi. Người có lòng nhơn ái bao giờ cũng tròn hiếu đạo với cha mẹ, kính thuận với đệ huynh, hòa hài với xóm chòm, cô bác, tôn trọng mạng sống các sanh vật, không vô tình hay cố ý làm đau đớn hoặc thiệt hại thân mạng của chúng.

Kinh Phật bảo:“Cái lợi lớn hơn hết là ở nơi lòng nhân từ, cái phước lớn hơn hết là do tâm thanh tịnh”. Đức Thầy nay cũng từng dạy trong bài “Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện:“Lòng nhơn xin khá tập rèn và trong bài“Diệu Pháp Quang Minh”:“Chí quân tử lòng nhơn vạn đại”.

ĐẠO THÍCH CA: Đạo Phật, vì Đức Thích Ca là Giáo chủ Đạo Phật toàn cõi Ta bà. Truyện Quan Âm Thị Kính có câu:“Buồn muốn đi tu Đạo Thích Ca”.

PHẬT TẠI TÂM CHỚ CÓ ĐÂU XA: Tâm của mỗi chúng sanh đồng một bản thể với chư Phật. Từ vô thỉ trong thể chơn như ấy, vì một tích-tắc bất giác vọng niệm sai lầm, nên bị đám mây phiền não che lấp Phật tâm. Từ đó mọi kiến thức đều do phiền não chi phối, nên ta không thể thấy được Phật tâm của mình. Cũng ví như hồ nước đang trong sạch, bỗng bị gió thổi, sóng trào, khiến cặn cáu nổi lên làm nước đục ngầu, không thể nhìn ra đâu là nước trong. Nhưng khi hết gió, sóng lặng, bùn cặn lắng chìm tận đáy, bấy giờ ta thấy hồ nước trong lành trở lại.

Vậy trong hồ nước đục trước kia, có sẵn thể nước trong sạch. Cũng như trong tâm chúng sanh (vọng), có sẵn chơn thân (Phật), tức trong phiền não vẫn có bồ-đề, trong mê có giác. Nên người muốn tìm Phật mà cứ chạy theo hình tướng bên ngoài, hoặc tìm nơi non cao rừng thẳm là sai lầm. Bởi không có Phật nào khác hơn là bản lai thanh tịnh của chính mình.

Kinh Niết bàn, Phật bảo:“Nhược nhơn bất tri Phật tánh giả, tắc vô trượng phu tướng giai danh nữ nhơn”(Nếu người không biết mình có tánh Phật thì người đó không phải là bậc trượng phu, chỉ gọi là nữ nhơn thôi). Đức Lục Tổ Huệ Năng cũng nói:

“Người tu hành muốn kiếm Phật thân,

Nơi nào kiếm chơn thân của Phật.

Trong tự tánh thấy thường chơn thật,

Có chơn thì giống Phật mới thành.

Chẳng thấy tâm kiếm Phật ngoài thân,

Tâm vọng khởi thiệt phần si ám”.

Đức Phật Thầy Tây An cũng dạy:

“Lọc lừa thì được nước trong,

Ma, Phật trong lòng lựa phải tầm đâu ?”

Đức Thầy nay cũng đã hằng khuyên:

“Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,

Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”.

(Đến Làng Nhơn Nghĩa)

NGỤC A TỲ: Phạn ngữ là Avichi, phiên âm là A-tỳ, dịch là vô gián (không lúc nào ngừng, gián đoạn). Ngục A-tỳ là cảnh địa ngục thấp hơn hết và nguy khổ hơn hết trong tám cảnh Địa ngục lớn (Bát đại Địa ngục). Tội nhân vào đó bị trừng phạt không lúc nào ngừng nghỉ, nên có tên là ngục vô gián.

Trong Địa Tạng kinh có giải năm nghiệp cảm chẳng gián đoạn ấy như sau:

1- Tội nhơn vào đây, ngày đêm đều chịu sự trừng phạt, cho đến hằng số kiếp, không lúc nào gián đoạn.

2- Nhiều người nằm trong giường ngục thì bị chật, nhưng bớt ra, chỉ còn một người cũng thấy chật như thường.

3- Những đồ trừng trị như: gậy, côn, chim cắt, rắn, chó sói, chó thường, cối xay, cối giã, cưa xẻ, đâm, xẻo, vạc dầu, lưới sắt, dây sắt, ngựa sắt, da sống trói đầu, sắt nóng dội vào mình, đói ăn viên sắt, khát uống nước sắt, quanh năm suốt kiếp, kể vô số.

4- Bất luận nam nữ, thổ mán mọi rợ, già trẻ sang hèn, hoặc Trời, người, quỉ, thần.v.v…Hễ ai làm ra tội gì thì mang lấy tội nấy đều phải chịu mãi như vậy.

5- Đọa xuống Địa ngục nầy, từ khi mới vào cho đến trăm ngàn kiếp, trong một ngày một đêm muôn lần chết đi rồi sống lại, cầu xin tạm nghỉ một chút cũng không được, cứ liên tiếp như vậy mãi, trừ ra khi nào hết tội nghiệp mới được đi đầu thai.

Cũng trong Địa Tạng Kinh còn nói rõ những người phạm tội như sau đây sẽ bị đọa vào Ngục A Tỳ:

Kẻ bất hiếu với cha mẹ, chê bai Tam Bảo, hủy báng Kinh Pháp; làm thân Phật chảy máu; kẻ xâm lấn tổn hại nhà chùa, làm ô uế tăng ni, ở trong vòng chùa chiền làm việc dâm dục, phóng túng hoặc giết hại nhơn vật. Kẻ giả bộ thầy tu để phá đồ vật nhà chùa, lường gạt kẻ tại gia, làm trái giới luật và tạo ra nhiều tội ác; kẻ trộm cắp đồ vật của nhà chùa và chúng tăng”. Tất cả những tội phạm nói trên đều bị đọa vào Ngục A-tỳ.


CHÁNH VĂN

289. Khuyên sư-vãi mau mau cải-hối,

Làm vô-vi chánh Đạo mới mầu.

Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu,

292. Hãy tìm kiếm cái không mới có.

Ngôi Tam-Bảo hãy thờ Trần-Đỏ,

Tạo làm chi những cốt với hình.

Khùng nói cho già trẻ làm tin,

296. Theo Lục-Tổ chớ theo Thần-Tú.

LƯỢC GIẢI (từ câu 289 tới câu 296) :

-Bởi thấy thời nay có số tăng ni trong các chùa tu theo sắc tướng thinh âm làm sai lạc chân truyền của Đạo Phật từ trước, nên Đức Thầy khuyên họ mau trở về với Chánh pháp vô vi:“Huyền pháp thâm trầm thơm bất tuyệt, Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”(Cho Ông Tham Tá Ngà).

Có thế mới đúng chân truyền của Đức Phật Thích Ca và mới kết quả trên đường tu Phật. Vì rằng: tất cả hình tướng màu sắc đều là hư vọng, ảo ảnh. Người tu theo sắc tướng (hữu vi), khác nào kẻ bắt bóng trong gương, mò trăng đáy nước. Kinh Thiền Môn đã nói:“Tu mà cầu hình tướng bên ngoài, tuy trải qua nhiều kiếp, rốt cuộc chẳng đặng thành công. Nếu giác ngộ trở về xem bản tánh mình, thì trong một niệm liền chứng quả Bồ đề. Cho nên hành giả phải tìm cái chơn không (chơn tâm) mới là thật có”. Đức Giáo Chủ hằng dạy:

Chuyện cao siêu Phật pháp còn dài,

Khó gặp chữ không không mà có”

(Sa Đéc).

-Do đó, về nghi thức thờ phượng, Đức Thầy không cho tín đồ tạo thêm hình cốt, hoặc tụng tán trống mõ, chuông đẩu, mà:“…nên thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào nháng bề ngoài”. :“Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ Ông Bà cúng món chi cũng đặng”(Xem Cách Thờ Phượng…, tr.201-202 SGTV 2004).

-Đức Thầy hằng khuyên dạy tín đồ hãy tu theo Đức Lục Tổ Huệ Năng, tức là tu đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Thích Ca, vì Đức Lục Tổ đã chứng thọ chân truyền, chớ không nên tu theo Thần Tú, bởi phái nầy thường bày ra sắc tướng thinh âm, làm sai lạc chân lý của Đạo Phật.

CHÚ THÍCH :

SƯ VÃI: Các Tăng sư và những Ni cô đã xuất gia vào chùa tu hành.

CẢI HỐI: Hối hận những việc đã lầm lỗi và quyết định sửa đổi lại.

VÔ VI: Phạn ngữ Asamskrta. Dịch là Vô vi, có nghĩa: không có nhân duyên tác động, không có hình tướng màu sắc, không có bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt. Vô vi tức là chơn lý tuyệt đối, là Niết bàn, là Đạo, là Vô tướng và Thật tướng.

Vậy làm vô vi là làm không có hình tướng về sắc mà cũng không có hình tướng về tâm. Tuy tri hành tất cả việc Đạo pháp, nhưng tâm không còn phân biệt ngã chấp, không có tướng người, tướng ta, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tất đạt đến thật tướng Niết bàn, chơn không diệu hữu.

Đức Thầy dạy “làm vô vi mới là Chánh Đạo, và mới đúng chân truyền của Đức Thích Ca, bởi tâm ấn của Ngài là:“Chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm”, lìa cả hình tướng văn từ, ngôn ngữ, chỉ dùng tâm mà trì hành chứng đắc và dùng tâm truyền qua 33 vị tổ. Tới Đức Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ có một tâm ấn. Đức Thầy hiện nay cũng bảo:“ Đạo vô vi của Phật ân cần, Noi theo chí Thích Ca ngày trước”.(Giác Mê Tâm Kệ Q.4).

Và: “Xả thân tầm Đạo vô vi,

Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày”.

(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)

CÁI KHÔNG MỚI CÓ: Cái lý chơn không mà diệu hữu. Cái không ở đây là không có sắc tướng, bởi Đức Phật từng bảo:“Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thinh cầu ngã. Thị nhân hành tà Đạo, bất năng kiến Như Lai”(Nếu dùng sắc mà thấy ta, lấy âm thinh cầu ta. Thiệt là người hành Tà đạo, chẳng bao giờ thấy được Như Lai). Hoặc là:“Phàm hữu sở tướng, giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng, phi tướng, tức kiến Như Lai”(Các pháp tướng đều là không thật, đều là ảo mộng. Bằng thấy các tướng mà chẳng chấp tướng tức thấy được Như Lai).

Vậy hành giả nếu không còn thiên chấp theo sắc tướng tức chứng được “cái không”, tức là chơn không, cũng gọi là Tạng Tánh Như Lai. Nhưng không mà chẳng không, nên gọi là có. Bởi trong cái chơn không thanh tịnh ấy vốn có diệu dụng sáng mầu, chẳng thể nghĩ bàn được, nên gọi “không mà có”. Như Đức Thầy từng bảo trong Giác Mê Tâm Kệ, Q.4:“Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”. Hoặc là:

“Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,

Cho đời hiểu rõ lý chơn không”.

(Khuyên Bỏ Dị Đoan)

TAM BẢO: Phạn ngữ Triratna, dịch là Tam Bảo. Có nghĩa ba ngôi quí báu : Phật, Pháp, Tăng.

1- Phật là đấng toàn thiện toàn giác “bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải”. (Ân Tam Bảo)

2- Pháp là lời của Phật thuyết ra để giáo hóa chúng sanh, về sau các Đại đệ tử kết tập lại thành Tam tạng: Kinh, Luật, Luận. Người tu nhờ trì hành theo đó mà đắc thành Đạo quả.

3- Tăng là các Đại đệ tử của Phật, bậc giới hạnh tinh nghiêm, liễu ngộ Phật pháp và vâng ý Phật mà giáo hóa chúng sanh.

Lúc Đức Phật Thích ca còn trụ thế, chính Ngài là Phật bảo. Lần đầu tiên Ngài đến rừng Lộc Giả thuyết pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo cho năm anh em Kiều Trần Như nghe, đó là Pháp Bảo. Năm vị ấy khi nghe xong đều tỏ ngộ chứng quả A La Hán, ấy gọi là Tăng Bảo. Rồi từ đó Phật pháp truyền dạy lan rộng thêm vô số Pháp bảo và Tăng bảo.

Còn luận giải theo lý tánh thì tự tâm mình giác ngộ là Phật Bảo, tự tâm mình chơn chánh là Pháp Bảo, tự tâm mình thanh tịnh là Tăng Bảo.

Ngôi Tam Bảo mà Đức Thầy đề cập ở đây là chỉ cho Bàn thờ Phật tại mỗi gia đình của mỗi tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.

TRẦN ĐỎ: Bức trần màu đỏ thờ trên ngôi Tam Bảo để biểu hiện tinh thần từ bi của Phật. Đó là lúc Đức Thầy mới khai Đạo, nhưng sau đó 8 tháng Ngài cho đổi lại màu dà. Về ý nghĩa và lý do thay đổi, Ngài có nói rõ trong một đoạn văn như sau:

“Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng Tông phái với chúng ta, làm sái phép, sái với Tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các Sư dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại, không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật(Xem Cách Thờ Phượng,… tr.201 SGTVTB 2004).

LỤC TỔ: (638-713). Ngài là vị tổ đã được thọ truyền tâm ấn của Đạo Phật. Kể từ Sơ tổ Ca Diếp truyền dẫn đến Ngài là Tổ thứ 33, song kể riêng bên Trung Hoa, từ Đạt Ma Tổ sư thì Ngài là tổ thứ sáu (Lục Tổ).

Lục Tổ tên thật là Huệ Năng, họ Lư, đạo hiệu là Phụ Trung Cư sĩ, con của Lư Khánh Thao và bà Lý Thị. Nguyên quán Ngài tại đất Phạm Dương, sau dời về Tân châu, xứ Lãnh Nam.

Ngài sanh vào đêm mùng 8 tháng 2 năm Mậu Tuất (638), thuộc nhà Đường (Trung Hoa). Từ khi lọt lòng mẹ, Ngài không bú sữa, vì hằng đêm có thần nhân cho uống nước Cam lồ. Mới ba tuổi Ngài phải mồ côi cha; mẹ của Ngài thủ tiết nuôi con trong cảnh nghèo khổ, cháu rau đạm bạc. Lớn lên Ngài chuyên đốn củi đổi gạo về nuôi mẹ. Một hôm, Ngài gánh củi xuống chợ đặng đổi gạo nghe có người tụng Kinh Kim Cang đến câu:“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”(Không trụ vào chỗ nào để sanh tâm mình) thì Ngài tỏ ngộ và ý quyết đi tu. May mắn có người giúp cho 10 lượng bạc, Ngài chu cấp cho mẹ già, rồi đến chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai cầu học với Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn.

Trên tám tháng Ngài vui vẻ làm công quả bửa củi, giã gạo, gánh nước.v.v…mà không hề than van, chỉ chuyên trì môn kiến tánh:“Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Một hôm Ngũ Tổ truyền khắp môn đồ: mỗi người hãy làm một bài kệ tự tánh, nếu ai được tỏ ngộ sẽ được kế truyền ngôi Tổ thứ sáu. Trong đồ chúng cả ngàn người, nhưng không ai dám làm, duy có Thần Tú học rộng biết nhiều, làm một bài kệ lén dán trên tường:

“Thân thị Bồ đề thọ,

Tâm như minh cảnh đài.

Thời thời cần phất thức,

Vật sử nhá trần ai”.

(Thân ấy Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài.

Giờ giờ cần phủi sạch, Chớ để vướng trần ai).

Bài kệ ấy được đồ chúng truyền tụng, thấu đến tai Huệ Năng. Ngài liền đến xem và muợn người chép giùm bài kệ của Ngài lên vách:

“Bồ đề bổn vô thọ,

Minh cảnh diệc phi đài.

Bổn lai vô nhứt vật,

Hà xứ nhá trần ai”.

(Bồ đề vốn không thọ, Minh cảnh cũng không đài.

Xưa nay không có vật, Nào chỗ vướng trần ai”.

Sau đó, Ngũ Tổ đến xem biết Huệ Năng đã ngộ chơn tánh, nên dùng mật ngữ gọi vào phòng, truyền tâm ấn và phú chúc y bát cho Ngài nối ngôi Tổ thứ sáu. Lúc ấy nhằm đời Đường Cao Tông, hiệu Long Sóc năm Tân Dậu. Ngài lãnh y bát, về phương Nam ẩn dật 16 năm mới ra truyền Đạo. Đến ngày 13 tháng 8 năm Quý Sửu, Ngài ở chùa Quốc Ân kêu đồ chúng lại thuyết bài kê:

“Trơ trơ chẳng làm lành,

Xăn xăn chẳng tạo ác.

Bặt bặt dứt thấy nghe,

Lộng lộng tâm không mắc”.

Thuyết kệ xong, tới canh ba Ngài ngồi ngay thẳng mà tịch. Đến đời vua Hiến Tông nhà Đường, ban hàm ân cho Tổ là:“Đại Giám Thiền Sư” và đề tặng trên tháp bốn chữ “Nguyên Hòa Linh Chiếu”, các đệ tử tạo tháp thờ Ngài ở Tào Khê. Nhục thân của Ngài không hư rã, đệ tử xây tháp lưu giữ cho đến ngày nay.

Quan huyện Thiều Châu có dựng bia ghi Đạo hạnh của Tổ sư để làm kỷ niệm:“Tổ Sư Xuân Thu bảy mươi lẻ sáu. Hai mươi bốn tuổi được truyền y bát, ba mươi chín tuổi xuống tóc. Sư thuyết pháp ba mươi bảy năm. Trong các môn nhơn của Ngài có bốn mươi ba người đặng đạt Tông Chỉ và nối truyền chánh pháp. Còn những người ngộ đạo siêu phàm chẳng biết bao nhiêu mà kể”.

Trong hàng cao đệ của Lục Tổ như: Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Hà Trạch Thần Hội, Vĩnh Gia Huyền Giác, Nam Dương Tuệ Trung và Pháp Hải.v.v…Đó là những nhân vật trọng yếu.

Lời truyền giáo của Ngài còn lưu lại cho đời quyển Pháp Bửu Đàn Kinh; lý nghĩa diệu mầu khó tả, hàm chứa tâm ấn và chánh Pháp của Đạo Phật.

Ngày nay Đức Giáo Chủ bảo chúng ta tu theo Lục Tổ là tu đúng theo Chánh Pháp Vô Vi của Đức Phật Thích Ca vậy.

THẦN TÚ: (606-707) Trong lịch sử Phật giáo không có ghi chép tiểu sử rõ ràng, chỉ biết đại lược: Thần Tú là đệ tử của Tổ Hoàng Nhẫn, làm chức Giáo thọ, trông coi đồ chúng tu học; mọi người đều kính nể sự học tập nghe nhiều của ông.

Khi ông làm Kệ dâng Ngũ Tổ, lòng luôn nao nức tự phụ trong hàng tăng chúng chẳng ai bằng mình. Song sau khi chẳng được truyền y bát, ông đâm ra hiềm khích Lục Tổ Huệ Năng, bèn lập thành một tông phái Đạo Phật truyền bá phương Bắc nước Tàu, trụ trì tại chùa Ngọc Tuyền, ở Kinh Châu. Học trò của Thần Tú có khoảng 3.000. Thầy trò đều chủ trương lối tu tiệm giáo, lần lần bày ra âm thinh sắc tướng: gõ mõ, tụng kinh, cúng kiếng chè xôi…làm sai lạc tông chỉ của Đạo Phật.

Trong hàng đệ tử muốn tôn ông làm Tổ thứ sáu, nhưng vì Lục Tổ Huệ Năng đã được thọ truyền y bát, thiên hạ đều tin nghe. Thế nên đã mấy lần đệ tử của Thần Tú âm mưu hành thích Lục Tổ, song cơ mưu bất thành. Từ đó hai tông phái Bắc, Nam lần lần xa cách.


CHÁNH VĂN

297. Khuyên bổn-đạo chớ nên mê ngủ,

Thức dậy tìm Đạo chánh của Khùng.

Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng,

300. Được sanh sống nhờ ơn Chín-Bệ.

Hóa phép lạ biết bao mà kể,

Chín từng mây nhạc trổi tiêu-thiều.

Kẻ tà-gian sau bị lửa thiêu,

304. Người tu niệm sống đời thượng-cổ.

Khùng vưng lịnh Tây-Phương Phật-Tổ,

Nên giáo-truyền khắp cả Nam-Kỳ.

Hội Long-Hoa chọn kẻ tu-mi,

308. Người hiền đức đặng phò chơn Chúa.

Khuyên những kẻ giàu sang có của,

Hãy mở lòng thương-xót dân nghèo.

Cảnh vinh- hoa lại quá cheo-leo,

312. Nhà giàu có sau nhiều tai-ách.

LƯỢC GIẢI (từ câu 297 tới câu 312) :

-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ khuyên trong bổn đạo, chớ đắm mê theo danh lợi ảo huyền mà hãy sớm thức tỉnh, nương theo con đường Đạo đức chân chánh, do Ngài đã vạch sẵn, hầu sau nầy:“ Đặng coi chư quốc non Tần giành chia” (Thiên Lý Ca). Chừng ấy sẽ có:“ Đức Minh Vương ngự chốn Nam Thành(Kệ Dân, Q.2), biết bao cảnh vui tươi báu lạ, nhạc Tiên reo mừng khắp ba cõi, chín từng để tiếp rước “Phật, Thánh, Tiên an bang cùng định quốc” (Không Buồn Ngủ). Ai biết tu tỉnh hiền lương thì được “… nhuần ân Thánh Đế(Nang Thơ Cẩm Tú), và Ngài sẽ ban thưởng cho sống đời thượng cổ; còn hạng gian tà bạo ác, tất bị luật đào thải diệt vong.

-Đức Phật Tổ ở Tây Phương đã sắc lịnh Đức Thầy truyền dạy cho nhân dân được rõ: Phật Trời sẽ lập Hội Long Hoa để chọn những ai xứng đáng là bực râu mày quân tử, tài đức vẹn toàn, hầu được phò trì Đức Thánh Vương và sống đời Ngươn thượng.

-Ngài cũng hằng khuyên hạng người giàu sang dư ăn dư để hãy mở rộng lòng nhơn, giúp đỡ cho kẻ cơ bần, bệnh tật. Vì bao sự nghiệp phú quí vinh hoa đối với thời chiến loạn, khó mà bảo tồn vĩnh cửu:“Giàu sang như nước trên nguồn, gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.(Sấm Giảng, Q1).

CHÚ THÍCH :

ĐẠO CHÁNH: (Xem lại chú thích nơi câu 161 trên)

LIỆT QUỐC: Các nước trên thế giới. Cũng như chữ chư quốc hay chư bang. Đức Thầy có câu:

“Các nơi liệt quốc chư bang,

Chúc cầu bình trị trướng loan sum vầy’.

(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)

TRANH HÙNG: Tranh giành để xưng hùng với thiên hạ.

CHÍN BỆ: Cũng gọi là chín từng, là nghĩa của chữ “cửu trùng”, tức là chín bực thang (thềm), bước lên ngai vua. Ý chỉ cho ngai vua hay là ông vua. Ví dụ: Tâu qua chín bệ; “Trên chín bệ mặt trời gang tấc”. (Cổ thi)

TIÊU THIỀU: Tiếng dùng để chỉ chung cho âm nhạc trong cung vua. “Tiêu thiều nhả nhạc vang lừng” (Cổ thi).

THƯỢNG CỔ: Thời Thái cổ, đời xưa; thời xa xưa trước thời trung cổ. Nghĩa cũng như chữ Thượng ngươn.

HỘI LONG HOA:(Xem lại chú thích tại tr.45-47 Tập1/3).

TU MI: (Xem lại chú thích nơi câu 111 trên).

CHƠN CHÚA: Cũng viết là chân chúa. Có nghĩa ông vua rất chân chánh, công bằng và sáng suốt, được lịnh Trời sai xuống trị dân.

VINH HOA: (Xem lại chú thích tại tr.233 Tập 1/3).

CHEO LEO: Lắt lẻo, không vững; rất nguy hiểm, rất có thể ngã rơi bất cứ lúc nào. Người xưa từng hát;

“Phượng Hoàng đậu chốn cheo leo,

Đến khi thất thế phải theo đàn gà”.

TAI ÁCH: (Xem lại chú thích nơi câu 4 trên).

CHÁNH VĂN

313. Hỡi bá-tánh rừng sâu có mạch,

Tuy u-minh mà có đền vàng.

Lịnh Quan-Âm dạy biểu Khùng troàn,

316. Cho bổn-đạo rõ nguồn chơn-lý.

Lũ thầy-đám hay bày trò khỉ,

Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền.

Chốn Diêm-Đình ghi tội liên-miên,

320. Mà tăng-chúng nào đâu có rõ.

Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ,

Từ xưa nay có mấy ai thành ?

Phật từ-bi độ tử độ sanh,

324. Là độ kẻ hiền-lương nhơn-ái.

LƯỢC GIẢI (từ câu 313 tới câu 324) :

-Đoạn giảng trên Đức Thầy ý thức cho mọi người được biết: dù là ở chốn núi cao rừng thẳm song nơi nào cũng có sẵn mạch nước ngọt trong lòng đất. Còn miền Thất sơn, tuy hiện giờ chỉ thấy toàn là cây đá âm u nhưng sau nầy sẽ có đền vàng điện ngọc:“Chừng Bảy núi lầu son lộ vẻ”(Đáp họa cho Ông Lương Văn Tốt). Hoặc là:

“Chừng nào tiếng sấm nổ vang,

Thất sơn lộ vẻ đền vàng báu thay”.

(Vọng Bắc Hòa Nam)

Lại nữa, Đức Quan Thế Âm đã sắc lịnh cho Đức Thầy truyền dạy khắp giới tu hành được rõ đâu là chơn thật ngay chánh nên theo và đâu là tà mị nên tránh.

-Bởi hiện tình có số người tu giả dối, đã mang lốt Sư mà còn đem kinh kệ đi tụng mướn để thọ hưởng tiền công đức của bá tánh, mê hoặc thiện tín, làm sai tông chỉ tu hành, đó là điều nên tội mà tăng chúng nào đâu hay biết !

Những âm thinh sắc tướng, cúng kiếng chè xôi, tụng tán cầu siêu, làm đám.v.v…là do phái Thần Tú bày ra từ trước, làm sai lạc chân truyền của Đạo Phật. Thế mà trong giới tu hành chẳng lo cải sửa. Cho nên từ ấy đến nay ít có nhà tu được chứng đắc.

-Vẫn biết chư Phật đầy lòng từ bi bác ái, lúc nào cũng muốn độ hết chúng sanh, nhưng nếu hành giả nào muốn được sự cứu độ của các Ngài, cần phải tu sửa thân tâm trở nên hiền lương nhân ái. Chớ chẳng phải do sự mướn người tụng kinh, cầu siêu hoặc bày ra cúng kiếng lễ mễ mà được.

CHÚ THÍCH :

MẠCH: Mạch máu hay mạch nước. Đây chỉ cho mạch nước, tức đường đi ngầm dưới đất, cung cấp nước ngọt cho nhân loại. Trong trái đất dù nơi rừng sâu hay đồng nội, chỗ nào cũng có mạch nước ngầm.

U MINH: Tối tăm, mờ mịt. Ví dụ: nơi u minh, rừng u minh.

TROÀN: là truyền. Ví dụ: Lịnh trên troàn dạy cho mọi người được biết.

CHƠN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.171 Tập 1/3).

TRÒ KHỈ: Pháp ngữ gọi là Singerie (trò nỡm). Ý chỉ cho việc gì không nên, không thành công, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Kinh sách đạo Phật có chép câu chuyện ngụ ngôn như sau:

“Xưa, ở khu rừng nọ, có đàn khỉ độ 500 con. Hôm nọ, chúng rủ nhau đến cây cổ thụ bên bờ giếng cư ngụ. Tối lại chúng thấy dưới giếng nước có mặt trăng nằm tận đáy. Một con khỉ hốt hoảng kêu ầm lên:

“-Ôi ! Chết rồi anh em ơi ! Hôm nay mặt trăng bị chết, nó rơi xuống đáy giếng đây nầy ! Chúng ta hãy mau tìm cách vớt nó lên, kẻo thiên hạ bị tối tăm, khổ sở lắm ! Chúng xôn xao nhảy nhót, cuống quít với nhau, chưa biết phải làm thế nào ? Bỗng nghe con khỉ chúa nói lớn:

“-Tất cả anh em hãy yên lòng, tôi đã có cách rồi. Việc nầy chẳng khó chi, miễn là các anh em nghe theo tôi. Phần tôi nắm lấy cành cây rồi một anh bám lấy đuôi tôi, và cứ thế lần lượt cứ bám đuôi nhau hết cả đàn. Thế là chúng ta sẽ xuống tận đáy giếng để vớt trăng lên.

“Cả đàn khỉ nghe nói reo mừng đều cho đó là diệu kế, bèn làm đúng như lời khỉ chúa. Khi chúng nối nhau gần đến nơi, vì nặng quá nên cành cây bị gãy lìa, cả lũ khỉ đều rơi xuống giếng. Chúng lúng túng không có lối lên mà cũng chẳng có ai ở đó cứu vớt; kết cuộc cả đàn khỉ đều bị chết nơi đáy giếng.

“Lúc ấy có vị thần ở trên cây trông thấy liền ngâm bài kệ:

“Một con ngu dại đã xong,

Thương thay ! Cả lũ đều không biết gì.

Trăng còn vằng vặc trên kia,

Dắt nhau xuống giếng làm chi cực lòng”.

Ở đây, ý nói những người tu hành sai chơn lý, đã tốn công mà không kết quả, chỉ làm trò cười cho thiên hạ, thật đáng tiếc ! Đáng thương hại !

KINH LUÂN: Công việc kéo tơ. (Kinh là sắp từ mối tơ và chia ra; Luân là so từ sợi tơ mà hợp lại). Nghĩa rộng là sắp đặt và sửa sang chánh trị theo qui củ và có kế hoạch…Song chữ kinh luân ở đây là chỉ cho Kinh Kệ của Phật.

DIÊM ĐÌNH: Triều đình của Diêm La Vương nơi phân xử tội phước các linh hồn sau khi bỏ xác (chết) lại thế gian.

LIÊN MIÊN: Liền liền, không dứt.

TĂNG CHÚNG: Phạn ngữ là Samgha. Tăng là tiếng đọc tắt, nói cho đủ là Tăng già (samgha). Tức là một số đông nhà sư (Tỳ-kheo) hòa hợp nhau thành một đoàn thể, sống với tinh thần lục hòa. Chúng là chữ Hán, dịch nghĩa là đông người (chúng tăng). Vậy chúng tăng là hai tiếng: Phạn và Hán đồng nghĩa, ghép lại dùng để gọi chư Tỳ-kheo ở một ngôi chùa hay một Giáo hội đạo Phật.

THẦN TÚ: (Xem lại chú thích nơi câu 296 trên).

TỪ BI: (Xem lại chú thích tại tr.40 Tập 1/3).

NHƠN ÁI: (Xem lại chú thích nơi câu 281 trên).

CHÁNH VĂN

325. Xá với phướn là trò kỳ-quái,

Làm trai-đàn che miệng thế-gian.

Kẻ vinh-hoa phú-quí giàu sang,

328. Mướn tăng-chúng đặng làm chữ hiếu.

Thương bá-gia vì không rõ hiểu,

Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn.

Thấy lạc-lầm Đây động lòng son,

332. Khuyên bổn-đạo hãy nên tỉnh-ngộ.

Ở dương-thế tạo nhiều cảnh khổ,

Xuống huỳnh-tuyền Địa-Ngục khảo hình.

Tuy lưới Trời thưa rộng thinh-thinh,

336. Chớ chẳng lọt những người hung-ác.

Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,

Quỉ Vô-Thường dắt xuống Diêm-Đình.

Sổ sách kia tội phước đinh-ninh,

340. Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ.

LƯỢC GIẢI (từ câu 325 tới câu 340) :

-Bởi nhận thấy một số tăng chúng thời nay, đáng lẽ họ phải gắng sức trau giồi trí tuệ để khuyên dạy bá tánh tự lo khử ác tùng thiện, hiếu thuận từ hòa hầu hồi hướng công đức cho Cửu huyền Thất tổ được siêu thăng. Đằng nầy họ lại bày vẽ những cuộc trai đàn với các nghi thức rườm rà, đượm màu mê tín. Việc đó khiến cho những kẻ giàu sang hiểu lầm: hễ có tiền của nhiều mang đến cho chúng tăng cầu siêu giùm là vẹn tròn hiếu nghĩa, khỏi cần phải tu hành, tác phước làm chi cho cực.

-Đức Thầy thấy sự lầm lạc như thế mà động lòng thương, nên Ngài kêu gọi khắp thiện tín mau tỉnh ngộ trở về với chơn lý:“Mình làm chữ hiếu mới hay, Chớ muớn người ngoài cầu nguyện khó siêu”(Sám Giảng, Q.3). Và phải tin sâu nơi luật nhân quả, hễ làm lành hưởng phước, tạo ác mang tai, chẳng hề sai chạy. Xưa, Đức Phật từng bảo:“Cầu phước chẳng qua trai giới bố thí; Cầu thọ chẳng qua giới sát, phóng sanh; cầu huệ chẳng qua học rộng nghe nhiều, suy tư, tịnh ý; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn tư tưởng phải quấy, chớ không phải đem tài vật lễ mễ Phật Trời mà được”.

-Nhân loại ở thế gian nếu ai làm điều hung ác thì khi chết linh hồn bị nghiệp lực hút vào Địa ngục chịu sự hình phạt khốc liệt. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt dù một mảy lông (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu). Kiếp sống của con người cứ miệt mài con đường tội ác, một khi số vô thường đến thì trước công án của Diêm Vương, dù một điểm nhỏ cũng không cãi chối được:“Bán điểm nan mãn nguyệt cảnh minh, Bá kế thiên mưu đô thị thố”.( Đến lúc thác xuống âm ti dù nửa điểm tội cũng khó che dấu được, vì cái kiếng tại đài nguyệt cảnh chiếu rất rõ ràng. Ở đây có trăm điều mưu kế lầm lỗi đều hiện ra tất cả) (Trong Tỉnh Thế Ngộ Chơn).

-Bấy giờ Phán quan sẽ đem bản ghi chép tội phước hằng ngày ra và Diêm Vương sẽ xét xử kẻ tội phước; đâu đó thưởng phạt rất công minh.

CHÚ THÍCH :

XÁ VỚI PHƯỚN LÀ TRÒ KỲ QUÁI: Xá hạc, xá ngựa, lầu kho, phướn sớ là những đồ vật của mấy ông “nhưn bông, làm đám” tạo ra để đốt khi có người đem tiền của đến để nhờ làm lễ cầu siêu. Họ nói với tang chủ rằng:”Đốt đồ ấy cho người chết ở dưới âm phủ xài được và xá hạc, xá ngựa sẽ mang sớ đến Trời Phật”. Đó thật là điều rất giả dối lạ lùng, thế mà người ta vẫn tin. Sau đây là câu chuyện có liên quan đến vấn đề, do ông Võ Quang Lệ ở xã Hòa Hảo tường thuật:

Vào ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Mão (1939), tại An Hòa Tự làng Hòa Hảo, có cuộc trai đàn do ông Võ Quang Lệ là tang chủ. Ông đem tiền đến chùa, nhờ Sư trụ trì là Yết Ma Thường tổ chức lễ cầu siêu cho thân phụ ông nhân ngày lễ làm tuần bá nhựt.

Trong cuộc trai đàn ấy, dĩ nhiên là có tụng kinh, gõ mõ, có xá phướn lầu kho theo tục lệ của mấy thầy làm đám. Giờ cúng ngọ gần tới thì cũng chính nhằm dịp Đức Thầy vừa đến. Sau khi đi một vòng thăm “đại hùng bảo điện”, Đức Thầy bước vào hậu đường, trong khi Yết ma Thường cùng ông Lệ đang săm soi sửa chữa lại mấy xá hạt, xá ngựa, để chuẩn bị cho kịp giờ “đưa tiễn về Trời”.

Đã biết tin Đức Thầy bất thần ghé chùa và cũng biết ý Đức Thầy lúc nào cũng đả phá những điều dị đoan và lợi dụng, nên Yết ma Thường không vui. Ông muốn nhân dịp nầy “hạ uy tín” Đức Thầy để bù trừ điều Ngài không chấp nhận việc ông nầy“Làm chay đám tạo nhiều xá mã”(GMTK, Q.4) và “Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền” (Kệ Dân, Q.2); đồng thời cũng để thử xem oai linh của Đức Thầy, nên Yết ma Thường lén để dưới manh chiếu xếp lại, đặt trên chiếc trường kỷ đối diện ngay Ông, một quyển Kinh Phổ Môn, rồi chờ đợi.

Khi Đức Thầy đến, Yết ma Thường giả bộ niềm nở mời Ngài ngồi ngay trên chiếc ghế ấy. Đức Thầy với cử chỉ hòa hưỡn và tự nhiên, trả lời ông Yết Ma:

-Được, Ông cứ để tôi đứng đây nói chuyện. Đoạn, Ngài nhìn ngay ông Lệ đang ngồi trên chiếc trường kỷ bên kia với Yết ma Thường, ứng khẩu một bài thi tứ tuyệt:“Cho hay Đạo cả thiệt vì tiền,

Đạo cả không tiền, Đạo ngửa nghiêng.

Có bạc sợ chi miền Địa ngục,

Không tiền khó đến cảnh Tây Thiên”.

Nghe bài thi của Đức Thầy, ông Thường nóng mặt; còn ông Lệ như thoát cơn say. Khi Đức Thầy ra về, Yết ma Thường dở chiếu lấy quyển kinh lên, cho ông Lệ xem và cả hai đều gật gù nghĩ ngợi.

Mẩu chuyện nầy là một nhát búa đẽo mạnh vào những mắt cây cong, nó có hiệu năng khuyến cáo mọi người chừa bỏ các điều phi lý, chỉ thể hiện sự mê tín hoang đàng, chớ không đem lại một mảy may lợi ích.

TRAI ĐÀN: Đàn làm chay. Là những tăng chúng hội hiệp tại một ngôi chùa nào đó để làm lễ cầu siêu cho các vong hồn trong thân nhân của chư thiện tín, do họ đem tiền của, vật thực đến nhờ các sư tổ chức giùm để họ lễ bái cầu nguyện.

NHƠN NGHĨA: (Xem lại chú thích tại tr. 275 Tập 1/3)

LÒNG SON: (Xem lại chú thích tại tr.239 Tập 1/3).

TỈNH NGỘ: (Xem lại chú thích nơi câu 93 trên).

HUỲNH TUYỀN:(Xem lại chú thích tại tr.94Tập 1/3).

ĐỊA NGỤC KHẢO HÌNH: Sự hành phạt tra khảo nơi Địa ngục. Do sự tội ác nặng hay nhẹ của mỗi cá nhân mà khi chết linh hồn bị đọa vào cảnh giới Địa ngục, họ cảm thấy mình bị sự trừng phạt, mỗi nơi mỗi khác.

Có ngục tội nhân bị kéo lưỡi dài ra cho trâu cày; hoặc có nơi quỉ sứ móc trái tim của tội nhơn cho quỉ dạ xoa ăn; có nơi quỉ sứ đun sôi vạc dầu mà nấu thân thể kẻ có tội; có nơi đốt cột đồng cho đỏ, rồi bắt kẻ có tội ôm vào; có nơi người ta thổi cho lửa bay gộp lại, áp vào kẻ có tội. Có ngục toàn là giá lạnh, hoặc có ngục toàn là phân người và nước tiểu; có nơi bay tới những cây gai toàn bằng sắt ghim vào mình người tội, hoặc có nơi gươm giáo đâm vào tội nhơn; có nơi bị gậy gộc đánh vào bụng, vào lưng liên tiếp. Hoặc có ngục hình, hành bằng cách đốt cháy tay chơn tội nhơn; hoặc có nơi tội nhơn bị rắn sắt quấn chung quanh mình, hoặc chó sắt đeo tội nhơn mà cắn xé.v.v…

QUỈ VÔ THƯỜNG: Quỉ bắt người tới số phải chết; cũng gọi như chữ tử thần. Vì cái chết làm cho con người phải mất đi tất cả (số vô thường đã đến) nên người ta quá ghê sợ mà gọi nó là Quỉ Vô Thường hay là Tử Thần.

CHÁNH VĂN

341. Tìm Cực-Lạc, Đây rành đường ngõ,

Hãy mau-mau tu tỉnh mới mầu.

Tận thế-gian còn có bao lâu,

344. Mà chẳng chịu làm tròn nhơn-đạo.

Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,

Mở lòng nhơn tiếp rước mới là.

Làm hiền-lành hơn tụng hơ-hà,

348. Hãy tưởng Phật hay hơn ó-ré.

Đã chánh Đạo thêm còn sức khoẻ,

Đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn.

Vẹn mười ơn mới đạo làm con,

352. Lúc sanh sống chớ nên phụ-bạc.

LƯỢC GIẢI (từ câu 341 tới câu 352):

-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ chỉ cho biết: nếu ai muốn vãng sanh Cực lạc thì nơi đây Ngài vạch sẵn đường lối, tức là Pháp Môn Tịnh Độ. Đại ý Ngài dạy: hành giả cần có đủ Tín, Nguyện và chuyên tâm niệm Phật, làm lành:“Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi rán niệm chớ quên không đợi gì thời khắc”(Niệm Phật, tr.212 SGTVTB 2004). Nếu ai nhứt tâm trì chí như vậy, quyết đặng vãng sanh Cực Lạc, như Ngài đã viết trong Quyển 5, Khuyến Thiện:

“Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ,

Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.

Nếu như ai cố chí làm lành,

Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc.

Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,

Dầu Tiên, Phàm, ma quỉ, súc sanh.

Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,

Được cứu cánh về nơi an dưỡng.

Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng,

Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi”.

Vậy chúng sanh nào muốn được kết quả như trên, phải mau thức tỉnh tu hành. Lại nữa, ngày tận diệt gần kề, thế mà chúng dân chẳng chịu tu tròn Nhân Đạo. Bởi phần Nhân Đạo có làm tròn mới được sống còn trong ngày Thượng ngươn Thánh đức và như thế cũng gọi là trả xong nợ thế, vẹn đáp tứ ân:“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn.(Cho ông Cò Tàu Hảo).

-Ngoài ra còn phải rộng lòng thương những người nghèo khổ, tàn tật để tùy phương giúp đỡ:“Nếu đã xả thân tầm đạo đức, Mở lòng bố thí ngộ thần ca(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện). Bởi điểm trọng yếu của người tu Phật là bên ngoài lo làm lành lánh dữ, tác phước thiện duyên, bên trong thì chuyên tâm niệm Phật và tảo trừ vô minh phiền não để kiến diện Phật tâm (Phước Huệ song tu ). Chính đó là chánh Đạo, là chơn lý tuyệt vời. Bằng ai mảng lo tụng kinh gõ mõ, ó ré theo hình tướng (không cần thấu đạt nghĩa lý) thì mong gì đạt đạo:

“Kinh Thích Đạo, Kinh xem chẳng tụng,

Việc thinh âm sắc tướng chẳng dùng.

Đạo tại tâm, tâm Đạo xuất tùng,

Tùng tâm Đạo mới là Phật Đạo”.

(Kim Cổ Kỳ Quan của Ô.Ba Thới)

-Thêm nữa, người tu có hành đúng theo chánh Đạo mới bảo tồn được sức khỏe, hầu làm tròn bổn phận người con, đối với công ơn trời biển của cha mẹ. Nghĩa là phải ghi nhớ mười điều ân vào thâm tâm để sớm lo đền đáp: Lúc cha mẹ còn sanh tiền thì lo cung cấp từ miếng ăn, thức mặc, cho đến chỗ được chu toàn. Vâng lời dạy bảo của cha mẹ và hằng khuyên cha mẹ làm việc phước nhân, tránh điều tội lỗi. Còn khi cha mẹ quá vãng thì rán tu cầu cho linh hồn được siêu sanh cõi thọ, thoát đọa trầm luân. Đó là vẹn tròn Đạo làm con.

CHÚ THÍCH :

CỰC LẠC: (Xem lại chú thích nơi câu 28 trên)

TU TỈNH: Thức tỉnh và trau sửa thân tâm cho được trọn lành, trọn sáng.

TẬN THẾ GIAN: (Xem lại chú thích nơi câu 25 trên)

NHƠN ĐẠO: (Xem lại chú thích tại tr. 152 Tập 1/3).

TỤNG HƠ HÀ: Cách tụng kinh như la lối lớn tiếng, có giọng điệu ca kệ.

MƯỜI ƠN: Những công ơn của người con thọ nơi cha mẹ. Trong “Phụ Mẫu Báo Hiếu Trọng Ân Kinh”, Phật có giảng mười điều ơn, tạm lược như sau:

1- Thập ngoạt hoài thai ân: Ơn mười tháng cưu mang.

2- Lâm sản thọ khổ ân: Ơn sanh đẻ chịu khổ.

3- Sanh tử vong ưu ân: Ơn sanh được đứa con, mừng mà quên lo rầu.

4- Yến khổ thổ cam ân: Ơn uống đắng nhổ ngọt.

5- Hồi can tựu thấp ân: Ơn nhường chỗ khô nằm chỗ ướt.

6- Nhũ bộ dưỡng dục ân: Ơn bú mớm và nuôi nấng.

7- Tẩy trạc bất tịnh ân: Ơn rửa ráy mọi thứ dơ bẩn.

8- Viễn hành ức niệm ân: Ơn con đi xa thì cha mẹ nhớ tưởng.

9- Vị tạo ác nghiệp ân: Ơn vì con mà cha mẹ nhiều khi làm điều chẳng lành.

10-Cứu cánh lân mẫn ân: Ơn cha mẹ thương con không có cái thương nào bằng.

Bởi công ơn của cha mẹ lớn lao như thế, nên cổ nhân từng bảo:“Lên non mới biết non cao, Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”. Và trong kinh “Tâm Địa Quán”, Phật dạy:“ Ân từ phụ cao như núi chúa; Ân bi mẫu sâu tợ đại dương”. Đức Thầy hiện nay cũng khuyên:

“Ở ăn cho vẹn mười ơn,

Cảnh tình hiền đức gặp cơn khải hoàn”.

(Để Chơn Đất Bắc)

ĐẠO LÀM CON: Bổn phận làm con phải vẹn tròn hiếu thảo với cha mẹ. Bởi hạnh hiếu là đứng đầu các hạnh. Cổ nhân từng nói:

“Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Sách “Liên Tông Bửu Giám” cũng bảo:“Hiếu dưỡng bách hạnh vi tiên; Hiếu tâm tức thị Phật tâm; Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Dục đắc Đạo đồng chư Phật, tiên tu hiếu dưỡng nhị thân”.(Điều hiếu dưỡng là đứng đầu trăm hạnh, tâm hiếu thảo tức là tâm Phật; hạnh hiếu đâu chẳng là hạnh của chư Phật. Vậy muốn đắc Đạo cũng như chư Phật, trước hết khá nên hiếu dưỡng song thân). Kinh Đạt Ma cũng có thi rằng:

“Làm con khá trả đặng ơn sâu,

Muôn việc trần gian hiếu đứng đầu.

Chín tháng cưu mang nhiều khó nhọc,

Ba năm nhũ bộ cũng hèn lâu.

Tu hành trước hết tròn Nhân Đạo,

Ra thế mới mong tránh bể dâu,

Ba vạn sáu ngàn là dễ mấy,

Ngày qua tháng lại bóng thiều thâu”.

Tóm lại, Đạo làm con là hiếu hạnh mà hiếu hạnh tức là Phật hạnh, và nó đứng đầu các hạnh. Đức Thầy cũng bảo:“Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên”(Hiếu Nghĩa Vi Tiên).

PHỤ BẠC: Bội bạc ân nghĩa. Không nhớ đến công ơn của cha mẹ, nỡ lòng cư xử bất hiếu. Đức Thầy thường thống trách hạng người phụ bạc (trong GMTK, Q.4):

“Ham công danh quên chữ sanh thành,

Mến phú quí quên câu dưỡng dục”.

CHÁNH VĂN

353. Nếu làm đám được về Cực-Lạc,

Thì giàu-sang được trọn hai bề.

Ỷ tước-quyền làm ác ê-hề,

356. Khi bỏ xác nhiều tiền lo-lót.

Kinh với sám tụng nghe thảnh-thót,

Lũ nhưn-bông tập luyện đã rành.

Đẩu với đờn, kèn, trống, nhịp sanh,

360. Làm ăn-rập đặng đòi cao giá.

Tâm trần-tục còn phân nhơn ngã,

Thì làm sao thoát khỏi luân-hồi.

Những giấy-tiền vàng-bạc cũng thôi,

364. Chớ có đốt tốn tiền vô lý.

Xưa Thần-Tú bày điều tà-mị,

Mà dắt-dìu bá-tánh đời Đường.

Thấy chúng-sanh lầm lạc đáng thương,

368. Cõi Âm-Phủ đâu ăn của hối.

LƯỢC GIẢI (từ câu 353 tới câu 368) :

-Giả sử có kẻ mướn người cầu siêu mà linh hồn kẻ chết được về Cực Lạc thì tu quá dễ dàng vậy sao? Và kẻ quyền thế bình nhựt cứ tha hồ lường gạt dân chúng, rồi đến khi chết con cháu tung tiền ra mướn các thầy nhưn bông làm hiếu sự cho mình, thế thì họ “bắt cá hai tay”đều được cả sao ? Như vậy, còn gì là chơn lý ?

Người xưa từng bảo:“ Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, bất tu bất đắc”. Và người tu có “xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo” mới mong thành quả và cứu thoát Cửu huyền (Nhứt nhơn thành Đạo, Cửu huyền thăng).

-Còn các món: đẩu đờn, kèn trống, chuông mõ, tụng tán v.v…do mấy thầy nhưn bông bày ra để đi làm đám, lòng còn đầy tham, sân, si, nhân, ngã, cộng với sự lừa người, dối Phật, họ đã tự trói mình vào luân hồi sanh tử, mong gì cầu siêu cho ai được.

-Lại còn những giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, vốn xuất phát từ đời Đường bên Trung Hoa. Đương thời phái Thần Tú chẳng những không cấm lại còn mặc nhận cho các môn đồ chứa chấp và hiệp nhau lừa bịp bá tánh, rồi lưu truyền mãi đến ngày nay.

-Đức Giáo Chủ nhìn thấy chúng dân bị lầm lạc mê tín, Ngài động lòng từ bi giác tỉnh mọi người, nên nhận rõ: Ở thế gian còn phải tôn trọng lẽ công bằng thì chốn âm phủ có lý nào còn dùng hối lộ hay sao? Thế nên trong Tám Điều Răn Cấm, Đức Thầy có dạy:“ Điều thứ sáu: Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn tật”.

CHÚ THÍCH :

NHƯN BÔNG: Là những người dọn sắc diện như nhà tu, nhưng chỉ chuyên đi làm đám, cầu siêu và tụng kinh mướn cho người ta, làm hoen ố Đạo Phật.

TÂM TRẦN TỤC: Nghĩa cũng như tâm trần cấu. Tức là tâm nhiễm ô trần trược. Vì các phiền não mê tình đã kết cấu từ vô thỉ, khiến tâm càng ngày càng thêm ô trược . Đây chỉ cho tâm của mỗi chúng sanh.

PHÂN NHƠN NGÃ: Tức là tâm phân biệt nhân ngã. Có nghĩa lòng phân biệt người – ta, và của người – của ta trong chỗ hơn thua cao thấp, xấu tốt. Sự phân biệt ấy như sau:

Nhơn: Vọng tâm phân biệt người với ta khác nhau, muốn người lúc nào cũng phải theo cái ta muốn và phải lệ thuộc, phải kém thiếu hơn ta mọi việc.

Ngã: Phân biệt rằng ta quí trọng hơn người, đáng sống hơn người và mỗi việc cao sang sung sướng chi đều phải chiếm trên, hưởng trước hơn người.

Của Người: Phân biệt thấy người có món chi tốt đẹp quí báu, đều muốn lấy về làm của mình, dù người không bằng lòng hay không hợp lý. Trái lại, của ấy xấu kém hơn của mình thì tìm đủ cách chê bai hất hủi.

Của Ta: Phân biệt cái gì của ta đều là quí, là phải hơn của người gấp bội và lo bảo thủ không để hở. Rủi cái của ta mất đi thì sầu não, tìm kiếm và nghi ngờ đủ thứ. Nhiều khi vì chuyện nhỏ của ta mà nỡ hại sanh mạng hay tài sản của người.

Tóm lại, vì cái vọng tâm phân biệt nhơn ngã, khiến con người tham đắm danh, lợi, tình…để bồi bổ cho giả thân mà phải luân hồi mãi mãi. Đức Thầy từng khuyên (trong GM TK, Q.4):

“Chữ nhân ngã cũng là quá gắt,

Ta chớ nên phân biệt với người”.

LUÂN HỒI: (Xem lại chú thích tại tr. 36 Tập 1/3 )

NHỮNG GIẤY TIỀN VÀNG BẠC CŨNG THÔI, CHỚ CÓ ĐỐT TỐN TIỀN VÔ LÝ: Từ lâu dân ta có tục lệ dùng giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo và xá phướn lầu kho để đốt cho người chết mang theo hoặc gởi xuống âm phủ. Mê tín rằng làm như vậy là người chết xài được, chớ họ có biết đâu những sự vật ấy là do Vương Dư và Vương Luân đời Đường (Trung Hoa) chế ra để phỉnh gạt người đời mà trục lợi.

Sách “Trực Ngôn Cảnh Giáo” có chép: Vương Luân là miêu duệ (con cháu đời sau) của Vương Dư, lập mưu với người bạn để tiêu thụ số giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo do y làm ra còn ứ đọng quá nhiều.

Người bạn của Luân giả đau rồi chết, thân nhân liệm xác vào quan tài đem chôn. Luân bèn đem giấy tiền, vàng bạc đến đốt để cầu xin chuộc mạng. Người bạn của Luân từ từ sống lại. Mọi người tưởng thật đều tin theo và càng đốt giấy tiền vàng bạc nhiều hơn trước, khiến Vương Luân trở nên giàu to.

Sự mê tín nhảm nhí ấy từ nước Tàu truyền lần sang nước ta. Bấy giờ nhà nhà đều quen lệ nầy nên Đức Thầy cảnh tỉnh:

“Vàng bạc bởi tay khách trú làm,

Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.

Giấy quần giấy áo không nên đốt,

Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm”.

(Hai Mươi Chín Tháng Chạp)

THẦN TÚ: (Xem lại chú thích nơi câu 296 trên).

TÀ MỊ: (Xem chú thích chữ ma-mị nơi câu 249 trên).

ĐỜI ĐƯỜNG: Tức nhà Đường (618-906) bên Tàu. Vị vua sáng lập nhà Đường là Lý Uyên, kế truyền được 20 đời và trị vì được 289 năm.

CÕI ÂM PHỦ: Cũng gọi là cõi âm cung hay âm ty, nơi Diêm Vương ngự để thưởng công phạt tội những linh hồn người chết. Cõi âm phủ đối với cõi dương gian:“Dương gian âm phủ đôi đàng cách xa”.(Cổ thi).

CỦA HỐI: Của hối lộ. Tức là của lo lót, đút nhét, dâng của một cách kín đáo cho kẻ có quyền thế, để nhờ cậy che chở hoặc ban ân huệ. Ví dụ: Quan ăn hối lộ.

CHÁNH VĂN

369. Đúc Phật lớn chùa cao bối-rối,

Mà làm cho Phật-Giáo suy đồi.

Tu Vô-Vi chớ cúng chè xôi,

Phật chẳng muốn chúng-sanh lo lót.

Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,

Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài.

Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,

376. Cúng với lạy khó trừ cho đặng.

Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,

Không cầu siêu Phật bỏ hay sao ?

Lập trai đàn chạy-chọt lao xao,

380. Bôi lem mặt làm tuồng hát Phật.

Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,

Vậy hãy mau bỏ bớt dị-đoan.

Rán giữ-gìn luân-lý tam cang,

384. Tròn đức-hạnh mới là báu-quí.

LƯỢC GIẢI (từ câu 369 tới câu 384) :

-Bởi nhận thấy có số người tu Phật, mãi đua theo hình tướng, tạo chùa, đúc tượng, cúng kiếng chè xôi…khiến cho người đời chán chê xa lánh và Đạo Phật do đó càng lúc càng suy yếu. Đức Thầy kêu gọi họ hãy tu theo Chánh pháp vô vi mới đúng chân lý. Vì rằng Phật chẳng hề dùng các món: chè xôi, bánh trái, hoặc tiền của. Chỉ vì chúng tăng làm sai chơn lý mới bày ra cúng kiếng nầy nọ để thọ hưởng vật thực đó mà thôi.

-Ở đời có lắm kẻ gian tham, bỏn sẻn, ỷ mình giàu có, chẳng thương xót một ai, cứ đem tiền của vật thực đến chùa mướn người cầu siêu, lễ bái. Họ tin lầm rằng làm như vậy sẽ trừ hết tôi lỗi, khỏi cần phải tu. Họ có ngờ đâu:

“Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,

Chớ nào dụng hương, đăng, trà, quả”.

(Giác GMTK, Q.4)

Do đó, Đức Thầy hằng cảnh tỉnh:“…Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng:Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi Ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng:Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ – tr. 457 SGTVTB 2004).

-Xét như trên, chư Phật lúc nào cũng tiếp độ những người tu hành chân chất, dù kẻ đó là bần hàn hạ tiện. Còn những cuộc trai đàn hát Phật, là trò mị dối, mê tín dị đoan, làm sai lạc chân truyền của Đạo Phật quá nhiều. Cho nên Đức Thầy kêu gọi các môn đồ trong Phật giáo từ đây hãy chấm dứt tệ đoan ấy để làm cho tròn bổn phận thực tại:“Rán tu Nhân Đạo cho tròn mới hay”(Sấm Giảng, Q.1). Ấy là bổn phận từ trong gia đình (giữa cha con, chồng vợ, huynh đệ) đến ngoài xã hội, đâu đó đều đối xử được vẹn toàn tốt đẹp. Đồng thời lo trau giồi hạnh nết, phát triển lòng nhơn và gội rửa tâm trí cho được sạch trong để tiến lên đường giải thoát, chính đó mới là điều cao quí.

CHÚ THÍCH :

SUY ĐỒI: Đồi bại, đổ nát. Ví dụ: Phong hoá suy đồi hay Phật giáo suy đồi. Đức Thầy có câu:

“Lòng quảng ái xót thương nhân chủng,

Buổi lố lăng Phật giáo suy đồi”.

(Khuyến Thiện, Q.5)

VÔ VI: (Xem lại chú thích nơi câu 290 trên).

TRAI ĐÀN: (Xem lại chú thích nơi câu 326 trên)

LÀM TUỒNG HÁT PHẬT: Lối hát y như hát bộ (bội), cũng mang râu đội mão, vẽ mặt.v.v…Những tuồng tích theo sử liệu Phật giáo, do tăng chúng và các ông nhưn bông đóng trò. Trong những cuộc làm chay ở các chùa, thường bày hát như vậy, nên gọi là Hát Phật.

DỊ ĐOAN: (Xem lại chú thích nơi câu 78 trên).

LUÂN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.270 Tập 1/3).

TAM CANG: Cũng gọi là tam cương, tức là ba giềng mối quan trọng của Đạo làm người: 1-Quân thần cang; 2-Phụ tử cang; 3-Phu thê cang. Việc ăn ở, đối xử đâu phải ra đấy, như: vua tôi đối nhau phải có lòng trung chánh, cha con đối nhau phải có hiếu từ và chồng vợ đối nhau phải ân nghĩa song toàn. Đức Thầy có câu:

“Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng,

Tam cang trung trực người rằng ngu si”.

(Để Chơn Đất Bắc)

ĐỨC HẠNH: Đức là tâm lành; hạnh là nết tốt. Người vẹn tròn đức hạnh là bên trong đầy lòng nhân ái, khoan hòa; bên ngoài mọi cử chỉ nói làm đều biểu hiện hạnh nết tốt lành với mọi người từ trong gia đình đến ngoài xã hội.

“Những người tích đức tu nhân,

Ít khi gặp phải tai ương khổ nàn”.

(Ca dao)

Đức Thầy cũng khuyên:

“Chốn Phật đường rán trau đức hạnh,

Phải bền lòng mới rảnh trần ai”

(Sa Đéc)

CHÁNH VĂN

385. Nay gần đến long phi xà vĩ,

Cảnh gian-nan bá-tánh hầu kề.

Thấy chúng sanh còn hỡi say mê,

388 Khùng chỉ rõ đường tà nẻo chánh.

Ta là kẻ vô hình hữu ảnh,

Ẩn xác phàm gìn đạoThích-Ca.

Làm gian ác là quỉ là ma,

392. Làm chơn chánh là Tiên là Phật.

Hiếm những kẻ không nhà không đất,

Mà sang giàu chẳng xót thương giùm.

Có lỡ-lầm chưởi mắng um-sùm,

396. Thêm đánh đập khác nào con vật.

Ăn không hết lo dành lo cất,

Đem bạc trăm cúng Phật làm chi ?

Phật Tây-Phương vốn tánh từ-bi,

400. Đâu túng thiếu mà quơ mà tởi.

LƯỢC GIẢI (từ câu 383 tới câu 400) :

-Đoạn nầy Đức Thầy tiên tri, nay sắp đến hai năm thìn, tỵ, cảnh gian lao chiến nạn sẽ đến với chúng sanh không còn xa lắm. Điều nầy Ông Sư Vãi Bán Khoai đã nói:“Rồng bay xao xuyến nào yên, Rắn bò giáp giới đảo điên dương trần”. Ông Ba Thới cũng bảo:“Rắn lộn rồng nhơn dân sanh giặc”. Và trong Quyển Nhứt, Đức Thầy còn cho biết: “Mèo kêu bá tánh lao xao,

Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê”.

Điều nầy đã ứng nghiệm vào hai năm (1940-1941), giai đoạn đầu của cuộc Đệ nhị thế chiến.

-Đức Giáo Chủ nhìn thấy chúng sanh mãi đắm mê trong cảnh đời ảo mộng, đầy gian lao tội lỗi, nên Ngài phân tách rõ hai nẻo chánh tà cho bá tánh nhận thức. Công cuộc chuyển kiếp độ đời Ngài không hề phô trương hình tướng Phật Tiên, mà chơn linh Ngài chỉ ẩn nương vào xác phàm, để hoằng truyền Phật Pháp. Vậy ai muốn biết đâu tà đâu chánh, chẳng phải xem hình thức mà phải căn cứ vào hành động, hễ ai hành động chơn chánh thiện lương là Tiên Phật, còn tạo việc gian ác tức quỉ ma.

-Ngài hằng kêu gọi kẻ giàu sang nên bỏ tánh kiêu căng ỷ thị, nhiếc xài đánh đập tôi tớ mà hãy mở lòng thương xót, bố thí cho kẻ khốn cùng đó là điều chánh lý, đáng làm. Bằng ai mãi tham lam ky cỏm, rồi mang tiền của đến chùa cúng Phật, thật chẳng có ích chi. Bởi lẽ chư Phật lúc nào cũng đầy lòng từ ái, hằng rộng độ khắp vạn dân, đâu có túng thiếu, cũng chẳng hề xài tiền bạc của thế gian mà chúng Tăng lại tởi khuyên như thế.

CHÚ THÍCH :

LONG PHI XÀVĨ: Rồng bay đuôi rắn. Ý chỉ năm thìn đã qua và đến cuối năm tỵ.

SAY MÊ: Cũng gọi là mê sa, tức say đắm mê nhiễm một cách mù quáng, không thức tỉnh rời rứt ra. Đức Thầy nói (trong GMTK, Q.4):

“Thương lê dân còn mảng say mê,

Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng”.

VÔ HÌNH HỮU ẢNH: Không có hình tướng, nhưng có bóng (Chơn linh hay Pháp thân). Ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:“Phật Trời hữu ảnh vô hình, Thánh Thần cũng vậy mới là oai linh”. Đức Thầy cũng cho biết:

“Tuy là hữu ảnh vô hình,

Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai”.

(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

ẨN XÁC PHÀM: Dấu kín Chơn linh trong xác thể phàm tục. Ý nói Đức Thầy chuyển kiếp độ đời, cũng mang xác thể như bao nhiêu người phàm tục khác, nhưng tâm hồn siêu việt hơn người thường.

THÍCH CA: Phạn ngữ là Sakya. Họ của Phật. Tàu dịch là Năng nhơn, nghĩa là người có năng lực từ bi rộng lớn. Kinh “Di Đà Sớ Sao” nói:“Năng giả thiện quyền phương tiện khúc trực cơ nghi, Nhơn giả trí đức hồng ân phổ triêm vạn loại. Thị đại từ lợi vật dã”. (Chữ Năng là hay dùng pháp phương tiện quyền xảo tùy theo cho thích hợp các căn cơ để hóa độ; chữ Nhơn là lấy trí đức ân từ rộng lớn bủa khắp muôn loài. Thật là đại từ đại bi, tế nhơn, lợi vật của Phật vậy).

TỪ BI: (Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 1/3)

QUƠ TỞI: Quơ là lấy, vơ vét, quơ quào. Tởi là tải, quyên góp. Ví dụ: Tởi tiền cất chùa, đúc tượng…Đức Thầy từng nói:

“Bị Tăng chúng quá ham chùa ngói,

Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng.

Phật nào ham tượng cốt phết vàng,

Mà Tăng tạo hao tiền bá tánh”.

(GMTK, Q.4)

CHÁNH VĂN

401. Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi,

Hãy giúp cho kẻ đói mới nhằm.

Đến loạn-ly khổ hạnh khỏi lâm,

404. Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự.

Chẳng làm phước để làm hung dữ,

Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ.

Phật Tây-Phương có lẽ hiểu dư,

408. Dụng tâm ý chớ không dụng vật.

Muốn bổn-đạo tánh tình chơn-chất,

Rèn lòng hiền thương xót lẫn nhau.

Kể từ rày vàng lộn với thau,

412. Phật, Tiên, Thánh cùng nhau xuống thế.

Cứu bá-tánh không cần lễ mễ,

Để dắt-dìu đạo lý rành đường.

Nước Nam-Việt nhằm cõi Trung-Ương,

416. Sau sẽ có Phật Tiên tại thế.

LƯỢC GIẢI (từ câu 401 tới câu 416) :

-Đoạn nầy Đức Thầy kêu gọi bá tánh, muốn tạo phước nhân, hãy trợ giúp cho kẻ nghèo đói mới đúng lý, đã thoát qua các tai nạn khổ ách, lại còn được phước đức nhiều hơn người sắm chuông đúc tượng.

-Ngài hằng thống trách hạng người chẳng chịu tu thân hành thiện, mãi làm điều hung ác rồi mang tiền, vật đến chùa cúng bái, cho rằng làm như vậy sẽ trừ được tội lỗi. Nào ngờ mỗi hành động, hoặc tâm niệm nhỏ nhặt nào của chúng sanh, chư Phật đều thông suốt cả và các Ngài luôn tiếp độ những ai trở về với Đạo bằng tấm lòng thành thật. Còn những kẻ tuy đem lễ vật đến chùa cúng Phật rất nhiều, song chỉ để cầu phước và chẳng thật ý tu hành, thì các Ngài không hề chấp nhận.

-Đức Thầy hằng mong mọi người đều rèn luyện tâm tánh cho được chơn thật hiền lương, để biết:“…thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo-đức..”.(Tám Điều Răn Cấm/Điều thứ tám – tr.214 SGTVTB 2004).Trong thế gian hiện giờ, kẻ chân giả, xấu tốt, còn đang lẫn lộn. Chư vị Phật Tiên, lâm phàm độ chúng, chẳng vì lợi lộc, mà chỉ vì muốn vạch rõ con đường đạo lý, để bá tánh nương theo đó mà tu hành thoát khổ.

-Bởi cơ luân chuyển Việt Nam sẽ nhằm trung tâm điểm của quả địa cầu:“Cõi trung ương luân chuyển phương Nam, Mở hội thánh chọn người trung hiếu”(Diệu Pháp Quang Minh) nên sau nầy và nơi đây sẽ có: Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc? (Không Buồn Ngủ) và:

“Long Hoa Tiên Phật đáo Ta bà,

Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”.

(Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ Ở Bạc Liêu)

CHÚ THÍCH :

LOẠN LY: Rối loạn và tản mác, lộn xộn. Ví dụ: gặp lúc loạn ly, phân vân khổ sở. Đức Thầy bảo:“ Đời cùng ly loạn khắp chư bang”(Lộ Chút Cơ Huyền).

KHỎI LÂM: Khỏi là thoát qua được. Lâm là gặp phải, vướng nhằm. Khỏi lâm là khỏi vướng phải. Trong Sấm Giảng Q.1, Đức Thầy có câu:

“Đến sau khổ hạnh khỏi lâm,

Nhờ công tu niệm âm thầm quá hay”.

DỤNG TÂM Ý CHỚ KHÔNG DỤNG VẬT: Câu nầy ý dạy, ai thành tâm thật ý cải hối tội lỗi thì Phật trời sẽ ứng chứng cho, chớ không phải dùng lễ vật cúng tế cho nhiều mà được. Đức Thầy hằng khuyên:

“Tới với Ta chớ đem đồ cúng,

Chỉ đem theo hai chữ thành lòng”(GMTK,Q.4).

CHƠN CHẤT: Thật thà chất phác. Đức Thầy (trong Tám Điều Răn Cấm/Điều thứ nhì) có dạy:“..phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất”.

VÀNG LỘN VỚI THAU: Ý nói chân giả, tốt xấu còn lộn xộn chưa phân biệt. Đây chỉ cho hiện thời: Tiên, Phàm, Ma, Phật đang ở chung lộn trong cõi thế gian, rồi đây sẽ có ngày:

“Nấu lọc rành mới biết vàng thau,

Ai thật tánh ai người giả đạo” (Sa Đéc)

LỄ MỄ: Lễ lộc. Vật thực để cúng tế (Soạn giả) – Nhiều: đầy lễ mễ thức ăn; một cách khó nhọc: mang lễ mễ (Hiệu đính).

ĐẠO LÝ: (Xem lại chú thích tại tr. 129-131 Tập 1/3)

NAM VIỆT: (Xem lại chú thích nơi câu 3 trên).

TRUNG ƯƠNG: Ở giữa, chỗ chính giữa. Đức Thầy từng nói trong bài Trao Lời Cùng Ông Táo:

“Ngày vâng chỉ đáo lai trần thế,

Cõi Trung ương nhằm nước Việt Nam”.

CHÁNH VĂN

417. Khuyên sư vãi bớt dùng của thế,

Gắng công tu đặng có xem đời.

Tu thật tâm thì được thảnh-thơi,

420. Tu giả-dối thì lao thì lý,

Khùng khuyên hết kẻ ngu người trí,

Rán tĩnh tâm suy nghĩ Đạo-mầu.

Chuyện huyền-cơ bí-hiểm cao sâu,

424. Hãy nghiệm xét hai đường tà chánh.

Các chư Phật không khi nào rảnh,

Tâm từ-bi vẫn nhớ chúng-sanh.

Các chư Thần tuần vãng năm canh,

428. Về Thượng-Giái tâu qua Thượng-Đế.

Sổ tội ác thì vô số kể,

Còn làm nhơn thì quá ít-oi.

Hội công-đồng xem xét hẳn-hòi,

432. Sai chư tướng xuống răn trần-thế.

LƯỢC GIẢI (từ câu 417 tới câu 432) :

-Đức Giáo Chủ hằng khuyên các sư vãi bớt hưởng dụng tiền vật của thập phương và cố gắng trau sửa thân tâm cho được toàn thiện, hầu sau nầy đặng xem cảnh đời biến đổi. Nếu ai thành lòng tu niệm sẽ được giải thoát an vui, bằng tu dối thế, phải gánh chịu vô vàn lao khổ.

-Ngài kêu gọi khắp mọi người hãy mau thức tỉnh, dốc hết tâm trí suy nghiệm lẽ diệu mầu trong Đạo pháp, để xác định được hai đường tà chánh, thì sự tu mới khỏi bị lầm lạc.

-Lòng từ bi của chư Phật lúc nào cũng thương xót chúng sanh, hằng tùy phương cứu độ. Các bậc Thần Thánh ngày đêm luôn tuần du xem xét điều tội phước của nhân gian để tấu trình về Thượng Đế.

Xét ra thấy điều tội ác của chúng sanh quá nhiều, còn việc nhơn hiền quá ít, nên các Ngài hội công đồng phân xử, quyết định cho chư tướng xuống trần, răn phạt kẻ hung ác.

CHÚ THÍCH :

GẮNG CÔNG: Cố công, đem hết tâm lực làm một việc gì. Ví dụ: Gắng công học tập, gắng công hành Đạo. Đức Thầy bảo trong Giác Mê Tâm Kệ, Q.4:

“Gắng công tu xem nhiều phép lạ”.

Và trong Khuyến Thiện, Q.5:

“Gắng công trì niệm sớm khuya”.

TU THẬT TÂM: Thật lòng tu sửa, không dối trá.

THẢNH THƠI: Rảnh rang, thung dung, không bị ràng buộc lo nghĩ. Ví dụ: Cảnh sống thảnh thơi, và: “Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi, Nằm trâu thổi sáo vui đời Thuấn Nghiêu”(Ca dao). Đức Thầy hằng dạy:

“Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh,

Đây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh”

(Kệ Dân, Q.2)

TU GIẢ DỐI: Không thành thật tu hành, giả dạng mang sắc áo nhà tu, nhưng không quyết lòng tu sửa, chỉ ẩn dương nương Phật, lòng luôn mưu tính lợi dụng bá tánh.

TỈNH TÂM: (Xem lại chú thích nơi câu 20 trên).

ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr. 280 Tập 1/3).

HUYỀN CƠ:(Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 1/3 )

BÍ HIỂM: Bí mật sâu kín.

NGHIỆM XÉT: Ngẫm nghĩ, suy xét kỹ lưỡng.

TỪ BI: (Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 1/3).

TUẦN VÃNG: Đi qua lại để xem xét. Ví dụ: Vua phái các khâm sai đi tuần vãng các tỉnh, huyện…

NĂM CANH: Theo giờ giấc thời xưa, một đêm có 5 canh, mỗi canh là 2 tiếng đồng hồ: Từ 8 giờ tới 10 giờ là canh một, từ 10 giờ tới 12 giờ là canh hai, từ 12 giờ (giữa đêm) tới 2 giờ sáng là canh ba, từ 2 giờ sáng tới 4 giờ sáng là canh tư, từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng là canh năm.. Ông Ba Thới có câu:

“Đêm năm canh thổn thức chẳng an,

Ngày sáu khắc sầu riêng đoạn đoạn”.

THƯỢNG ĐẾ: Vua cõi Trời. Chỉ cho Ngọc Hoàng Thượng Đế.

VÔ SỐ: Nhiều lắm, không thể đếm hết.

CÔNG ĐỒNG: Cùng chung nhau, toàn thể. Có tánh cách một hội nghị mở rộng:“Công đồng hoạch định san hà, Nước ai nấy ở nhà nhà tự do( Đi Khuyến Nông Về).

HẲN HÒI: Cũng gọi là hẳn hoi. Có nghĩa tiêm tất đường hoàng, có quy định chắc chắn. Ví dụ: Làm việc hẳn hòi.

CHÁNH VĂN

433. Đau nhiều chứng dị-kỳ khó kể,

Sắp từ nay lao-khổ đến cùng.

Kẻ dương gian khó nỗi thung-dung,

436. Người bạo ác không toàn tánh mạng.

Đường đạo-lý chớ nên chán-nản,

Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm.

Phật Tây-Phương thiệt quá xa-xăm,

440. Phải tìm kiếm ở trong não trí.

Sau đến việc sơn băng kiệt thủy,

Khùng thảm thương bá-tánh quá chừng.

Nhìn xem trần nước mắt rưng-rưng,

444. Cảnh áo-não kể sao cho xiết.

Ta dạy-dỗ là vì tình thiệt,

Cho bá-gia rõ biết người Khùng.

Thấy dương-trần làm dữ làm hung,

448. Nên khuyên nhủ cho người lương-thiện.

LƯỢC GIẢI (từ câu 433 tới câu 448) :

-Đoạn giảng trên ý cho biết, bởi chúng sanh quá gian ác, nên Thượng Đế răn phạt, từ đây dân chúng vướng phải nhiều bịnh tật kỳ lạ, nếu kẻ nào còn tiếp tục gây tạo việc tội ác, tất tự chuốc lấy mọi điều thống khổ và khó bảo tồn thân mạng.

-Trên đường tu học Đạo pháp, hành giả không nên nản lòng (bán đồ nhi phế) mà “Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh”(Diệu Pháp Quang Minh). Và ai muốn gặp Phật chẳng cần phải tìm xa xôi bên ngoài, mỗi người nên dùng trí sáng suốt tìm lại Phật tâm của mình. Bởi Đức Phật xưa từng bảo:“Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai”, Đức Thầy nay cũng nhắc lại:“Các chúng sanh đều có như Ta”(Khuyến Thiện, Q.5). Vậy, nhà tu vừa nương theo giáo pháp, vừa dùng trí lực của mình phá tan màn vô minh, tức Phật tánh hiện bày, chứng thành Đạo quả.

-Đức Thầy cũng cho biết đến lúc biến đổi cuộc đời, sẽ có cảnh hãi hùng thảm khốc đưa đến cho nhân loại. Vì lòng quá thương xót sanh linh cứ lăn sả vào con đường tội ác, nên Ngài mới truyền dạy lời chân thật cho bá tánh rõ, hầu sớm cải dữ về lành.

CHÚ THÍCH :

DỊ KỲ: Lạ lùng, khác thường.

THUNG DUNG: Thảnh thơi, thong thả.

CHÁN NẢN: Ngã lòng thối chí, không thiết đến nữa. Ví dụ: Trên đường tu học vẫn tiến hành, không hề chán nản, quyết định sẽ thành công. Đức Thầy hằng khuyên:“Chớ nản chí đường tu bỏ líp”.(Cho Ông Tham Tá Ngà).

TẦM PHẬT TRONG TÂM: (Xem chú thích “Phật nọ tức tâm” tại tr. 159 Tập 1/3 và nơi câu 283 trên ).

XA XĂM: Rất xa, xa lắm, cũng có nghĩa như chữ xa khơi. Ví dụ: Ngàn dặm xa xăm.

NÃO TRÍ: Trí óc sáng suốt. Đức Thầy từng dạy: “Nghe sơ lời Lão cạn bày, Tìm trong não óc gặp ngày bình an” (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi).

SƠN BĂNG THỦY KIỆT: Cũng gọi là thủy kiệt sơn băng. Có nghĩa núi bị vỡ (lở), nước bị hết (khô cạn). Điềm báo tin quốc gia sắp bị tai nạn tức nước mất nhà tan, dân chúng gặp hồi đói đau khổ sở.

Truyện Đông Châu Liệt Quốc có chép:

Một hôm Vua nhà Châu (U Vương) đang thiết triều tại Kỳ Sơn có quan Thủ Thần vào tâu:

– Chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lượt.

U Vương mỉm cười nói:

-Núi lở, đất động là lẽ thường, nhà ngươi tâu với Trẫm làm gì ?

Quan Thái sử Bá Dương trở ra cầm tay quan Đại phu Triệu Thúc Đái than rằng:

-Thuở trước sông Ỷ, sông Lạc cạn, nhà Hạ mất; sông Hà cạn nhà Thương hư. Nay cùng một lúc ba con sông đều động cả, ấy là Trời muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh sự tai biến.

Sau vài hôm có tin núi Kỳ Sơn lở, đè chết dân chúng rất nhiều. Quan Thái Sử đoán rằng:

-Nếu vua biết răn mình thì chừng 10 năm nữa loạn mới đến, bằng không thì mau hơn.

Chữ “Sơn băng thủy kiệt” ở đây là chỉ cho cảnh:

“Nay tận diệt lập đời trở lại,

Khắp lê thứ biến vi thương hải,

Dùng phép mầu lập lại Thượng ngươn”.

(Kệ Dân, Q.2)

ÁO NÃO: Sầu thảm, buồn bực. Đức Thầy có câu:“Áo não thương đời đa đói khổ, U buồn trăm họ vẽ vài câu”(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện).

LƯƠNG THIỆN: Người hiền lành tốt đẹp, không vô tình hay cố ý gây thiệt hại cho một chúng sanh nào khác. Đức Thầy từng nói trong bài “Không Buồn Ngủ”:

“Phật từ bi đặng chữ thanh cao,

Người lương thiện hưởng muôn điều hạnh phúc”.

CHÁNH VĂN

449. Chữ Lục-Tự trì tâm bất viễn,

Thì lâm nguy có kẻ cứu mình.

Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,

452. Mà truyền-bá đặng nhiều phước-đức.

Trong bá-tánh từ nay buồn bực,

Khùng yêu dân chỉ rõ Đạo mầu.

Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,

456. Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp.

Việc biến chuyển Thiên-Cơ rất gấp,

Khuyên chúng-sanh hãy rán tu hành.

Cầu linh-hồn cho được vãng-sanh,

460. Đây chỉ rõ đường đi nước bước.

Hãy tưởng Phật đừng làm bạo ngược,

Ta phần hồn dạo khắp thế-gian.

Vào xác-trần nước mắt chứa-chan,

464. Khắp lê-thứ nghe lời thì ít .

LƯỢC GIẢI (từ câu 449 tới câu 464) :

-Đoạn nầy Đức Giáo Chủ khuyên: nếu ai chuyên tâm trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, không để phút nào gián đoạn, thì lúc gặp tai nạn nguy hiểm sẽ được Phật Trời gia hộ, hoặc có người cứu thoát.

Cách đây (1975) khoảng 40 năm, báo chí có đăng câu chuyện ba anh Sĩ quan nọ, cùng đi trên chiếc phi cơ, rủi bị hư máy rớt xuống biển. Có điều lạ là phi cơ bị hư nhưng không chìm liền và ba anh chẳng bị thương tích gì cả. Phi cơ khác tới cứu, vớt ba anh lên, tức thời chiếc phi cơ hư chìm lút xuống nước. Sau hỏi ra được biết ba người ấy đã tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và lúc nguy ngập đó chỉ còn biết niệm Phật chờ chết, không ngờ được thoát nạn.

Trường hợp nầy, suốt thời gian binh lửa tại đất nước Việt Nam, có rất nhiều người niệm Phật được hưởng ân huệ của Phật Thần. Nghĩa là nhờ sự chí tâm niệm Phật mà các người ấy đã bao lần thoát chết trước làn gió đạn mưa bom. Ông Sư Vãi Bán Khoai từng bảo:

“Niệm Phật có Phật vãng lai,

Lâm cơn nạn tám Phật sai cứu mình”.

-Đức Thầy hiện nay cũng từng nhắc nhở:

“Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt,

Thì nạn tai cũng thoát như không”

(Sa Đéc)

Ngài cũng hằng kêu gọi người nào có lòng nhơn, nên in hoặc chép lời kệ giảng để truyền bá sâu rộng trong quần chúng, sau nầy sẽ được nhiều phước lợi:

“Ai làm phước in ra mà thí,

Thì được nhiều hạnh phúc sau nầy”

(GMTK, Q.4)

Vì cơ trời chuyển xoay quá gấp nên Đức Thầy giục thúc bá gia hãy mau tu tiến trên đường Đạo do Ngài đã chỉ vạch sẵn và rán hành trì Pháp Môn Niệm Phật để lúc lâm chung được vãng sanh về Cực Lạc.

-Đồng thời mỗi người hãy tự diệt bỏ những hành động ngang tàng hung ác, giữ tư tưởng, ngôn ngữ cho thuần chánh và luôn luôn tưởng Phật nhớ Phật. Tuy hiện giờ Đức Thầy nơi xa nhưng lúc nào Ngài cũng dùng hóa thân dạo khắp trần gian để rộng độ chúng sanh:“Tuy là hữu ảnh vô hình, Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai”.(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi). Ngài nhìn thấy số người nghe Kệ Giảng quá ít, phần đông là mắt lấp tai ngơ, nên lòng Ngài ngập tràn nỗi buồn thương, chứa chan dòng lệ.

CHÚ THÍCH :

CHỮ LỤC TỰ: Sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật.

TRÌ TÂM: Giữ gìn lòng mình cho thuần nhứt một niệm Phật, không hề để một vọng tưởng nào khác xen tạp.

BẤT VIỄN: Chẳng lìa xa. Ý nói tâm không để tiếng niệm Phật vắng lâu mà phải niệm nối liền như dây xích, khoen nầy mắc liền khoen khác.

LÂM NGUY: Gặp lúc nguy hiểm nghèo ngặt.

LÒNG NHƠN: (Xem chú thích chữ “nhơn ái” tại câu 281 trên).

TRUYỀN BÁ: Gieo rải khắp nơi. Ý nói đem giáo lý pháp mầu phổ biến rộng ra. Thuở xưa Đức Phật từng bảo: “Các con muốn đền ơn Ta ư ? Thì Giáo pháp của Ta đó ! Hãy gắng mà học đi, hãy cố mà hành đi, và hãy quyết mà truyền đi. Mọi sự cúng dường tán Phật, không bằng đem giáo pháp của Ta mà quảng bá”.

Nay Đức Thầy cũng thường khuyến tấn:

“Nên cố gắng trau thân gìn đạo,

Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành”.

(Khuyến Thiện, Q.5)

PHƯỚC ĐỨC: Cũng gọi là phúc đức. Làm những việc có ích lợi cho mọi người gọi là phước, lòng nhơn ái từ thiện đối với vạn loại chúng sanh gọi là đức. Người có phước đức luôn có lòng Từ, Bi, Hỉ, Xả và tận tâm giúp đỡ muôn loài những điều phúc lợi. Đức Thầy có câu:“Phước đức quí hơn bạc vàng”(K/Thiện, Q.5) Và:“”Ai nhiều phước đức được vào cõi Tiên”(Sám Giảng, Q.3).

ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr. 280 Tập 1/3).

TƯỞNG NIỆM: Tưởng nhớ. Tưởng Phật, nhớ Phật. Đây ý bảo phải luôn tưởng nhớ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”.

CANH THÂU: (Xem lại chú thích tại tr.189 Tập 1/3)

LINH HỒN: (Xem lại chú thích tại tr.59 Tập 1/3)

VÃNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.209 Tập 1/3)

BẠO NGƯỢC: Tàn bạo ngang ngược.

CHỨA CHAN: Cũng đọc là chan chứa. Có nghĩa dẫy đầy linh láng. Bài “Mượn Cây Đuốc Huệ” có câu:

“Nghĩ cuộc đời mà chan chứa nỗi hao mòn,

Xem cảnh thế luống xót xa niềm chích mát”.

CHÁNH VĂN

465. Chốn sơn-lãnh bây giờ mù-mịt,

Cho nên dân dạy chẳng nghe lời.

Kể từ nay nói chuyện chiều mơi,

468. Chớ chẳng nói dông dài khó hiểu.

Cờ đã thất còn chờ nước chiếu,

Mà còn ăn con chốt làm chi.

Ai là người quân-tử tu mi ?

472. Phải sớm xử thân mình cho vẹn.

Chừng lập Hội khỏi thùa khỏi thẹn,

Với Phật-Tiên cũng chẳng xa chi.

Lời cao-siêu khuyên hãy gắn ghi,

476. Ta ra sức dắt-dìu bá-tánh.

NAM-MÔ TAM-GIÁO QUI NGUƠN,

PHỔ-ĐỘ CHÚNG-SANH A-DI-ĐÀ PHẬT

LƯỢC GIẢI (từ câu 465 tới câu 476) :

-Bởi nhìn lên các đỉnh núi miền Thất Sơn, vẫn còn mờ mịt những cây lẫn đá, chưa thấy gì gọi là quí báu, nên dân chúng chẳng chịu nghe lời giáo khuyên. Đức Giáo Chủ cho biết, từ đây Ngài sẽ nói những chuyện gần bên, trước mắt cho chúng sanh dễ hiểu, chớ không nói dài dòng hay ẩn dấu điều chi.

-Cuộc cờ của đất nước sắp tới hồi chiếu bí mà trong bá tánh mãi còn đắm say quyền tước vị danh, để rồi mai đây phải ôm sầu nuốt hận. Cho nên Đức Thầy từng kêu gọi (trong bài Thiên Lý Ca):

“Cả kêu kìa hỡi là ai,

Quan trường rời rứt mặt mày chùi lau.

Lui chơn ra khỏi cho mau,

Tầm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan”.

-Vậy ai là người nam nhi quân tử hãy sớm tu thân lập đức, ngôn hạnh song toàn, hiếu trung gồm đủ và diệt trừ các nghiệp nhân tội ác. Có thế, mới không tủi hổ trong ngày Long Hoa đại hội và được kiến diện Phật Tiên, chung hưởng cảnh đời Thượng ngươn Thánh đức.

-Trước khi dừng bút, Đức Thầy nhủ khuyên mỗi người hãy ghi nhớ những lời cao sâu, mầu nhiệm trong đây hầu sớm hôm trau giồi đạo hạnh. Riêng Ngài lúc nào cũng dốc hết tâm lực để “Dìu nhơn sanh khỏi chốn mê lầm, Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới”(Tặng Bác Sĩ Cao Triều Lợi).

-Chót hết Ngài dạy: Khi xem hết quyển Kệ Dân nầy, mỗi người đều tâm nguyện với Đức Phật A Di Đà cùng chư Phật, Thánh, Tiên đồng từ bi tế độ khắp chúng sanh, sớm thoát mê về giác.

CHÚ THÍCH :

SƠN LÃNH: Cũng viết là sơn lĩnh. Có nghĩa: chót núi hay đỉnh núi. Ý chỉ cảnh rừng núi miền Thất Sơn.

CỜ ĐÃ THẤT CÒN CHỜ NƯỚC CHIẾU, MÀ CÒN ĂN CON CHỐT LÀM CHI ?: Trong bàn cờ tướng, một bên đã thất, chỉ còn nước chiếu nữa là biết ăn thua, thế mà người trong cuộc lại lo ăn con chốt làm chi, cho luống công vô ích; bởi nó không phải là con cờ quan trọng. Ý nói cuộc thế sắp đến hồi biến hoại, cơ tạo hóa sẽ chọn lọc hiền còn, dữ mất, tại sao bá tánh chẳng sớm lo trau thân lập hạnh, lại mãi chạy theo danh lợi ảo huyền. Vì những quyền lợi cao sang ấy không thể cứu sống được mình; trái lại, nó thường kéo mình vào khổ nạn đau thương !

-Đây còn có nghĩa chỉ người Pháp sắp bị mất quyền ở đất nước Việt Nam mà kẻ gian nịnh còn bám theo chúng để mưu cầu quyền lợi nhỏ nhen, nhơ xấu, nên Đức Thầy giác tỉnh họ (trong SấmGiảng Q.1):

“Đừng ham làm chức nắc nia,

Ngày sau như khóa không chìa dân ôi !”

QUÂN TỬ: Người có phẩm hạnh cao khiết, lòng nhân ái rộng lớn và chí đức, tài năng siêu xuất hơn kẻ thường. Thánh nhân từng bảo:“Quân tử ái nhân dĩ đức” (Người Quân tử lấy Đạo đức mà thương người). Đức Thầy từng nói:

“Chí Quân tử lòng nhơn vạn đại,

Dốc làm sao rõ mặt tang bồng”.

(Diệu Pháp Quang Minh)

Vậy ai muốn trở thành bậc “Nam nhi Quân tử”, phải tự lo tu sửa tánh tình, ngôn hạnh, đến xử sự đều đứng đắn tốt đẹp. Cho nên người quân tử lúc nào cũng chỉ cầu ở nơi mình:“Quân tử cầu chư kỷ”.

Thuở xưa Ngụy Văn Hầu hỏi Hồ Quyển Tử rằng:

-Cha hiền có đủ nhờ cậy chăng ?

Hồ Quyển thưa:

-Không đủ ?

– Con hiền có đủ nhờ cậy không ?

– Không đủ.

– Anh hiền có đủ nhờ cậy không ?

– Không đủ.

– Em hiền có đủ nhờ cậy không ?

– Không đủ.

– Bầy tôi hiền có đủ nhờ cậy không ?

– Không đủ.

Văn Hầu đổi sắc mặt, gắt: Quả nhân hỏi nhà ngươi năm điều, mà điều nào ngươi cũng cho là không đủ, tại cớ làm sao ?

Hồ Quyển thưa:

– Cha hiền không ai hơn Vua Nghiêu mà con là Đan Chu phải bị đuổi. Con hiền không ai hơn Vua Thuấn mà cha là Cổ Tẩu thật ngoan ngạnh, độc ác. Anh hiền không ai hơn Vua Thuấn mà em là Tượng rất ngạo mạn. Em hiền không ai hơn Chu Công mà Quản Thúc bị giết. Bầy tôi hiền không ai hơn ông Thang, ông Vũ mà Vua Kiệt vua Trụ mất nước…Mong nhờ người không như ý, cậy người không được bền lâu. Nhà vua muốn cho nước được bền trị thì phải cậy ở mình trước, hơn là mong nhờ người khác.(Dẫn theo Cổ học Tinh hoa).

Chuyện trên đây là mặt xử sự trong đời, muốn được thành công còn phải do nơi sức mình là trước nhất. Đến như người muốn tiến xa trên đường đạo hạnh thì trước phải cần tu thân xử kỷ, sau mới được sự tiếp độ của Phật Tiên.

TU MI: (Xem lại chú thích nơi câu 111 trên).

VỚI PHẬT TIÊN CŨNG CHẲNG XA CHI: Bởi tâm tánh của Phật Tiên và chúng sanh đồng một bản thể (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh). Tất cả đều có từ vô thỉ, song vì các Ngài sớm giác ngộ và tiến hóa, nên trở thành Tiên Phật. Còn chúng ta mãi đắm mê trần tục, tạo nhiều nghiệp nhân, tội lỗi, nên bị luân hồi sanh tử, từ vô lượng kiếp, nay vẫn còn làm chúng sanh. Nếu giờ đây ta biết giác ngộ tu hành, diệt sạch lòng phàm phu vọng tưởng, tức được trở thành Tiên Phật như các Ngài:“Phật Tiên Thánh muôn loài vạn vật, Cũng ở trong quả đất dựng gầy”(Thu Đã Cuối)

Xưa, Đức Lục Tổ đã bảo:“Chư Thiện tri thức, phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ đề. Niệm trước mê muội tức là phàm phu, niệm sau giác ngộ tức là Phật. Niệm trước dính cảnh tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh tức là Bồ đề”.

CAO SIÊU: Quá cao, vượt trên mức thường. Ví dụ: Ý nghĩa cao siêu. Đức Thầy từng nói:

“Chuyện cao siêu Phật pháp còn dài,

Khó gặp chữ không không mà có”.(Sa Đéc)

GẮN GHI: (Xem lại chú thích tại tr. 174 Tập 1/3)

NAM MÔ: (Xem lại chú thích tại tr. 81 Tập 1/3)

TAM GIÁO: Ba Tôn Giáo lớn:Thích (Phật), Khổng ( Thánh), Lão (Tiên). Đức Thầy có câu:

“Trong Tam giáo ân cần mở Đạo,

Trường ngoại bang phục đáo như xưa

(Thiên Lý Ca)

QUI NGUƠN: Cũng gọi là qui nguyên. Có nghĩa hiệp về một gốc. Đức Thầy bảo trong bài “Đến Làng Nhơn Nghĩa”:“Dưới trên hòa thuận chọn đường quy nguyên”.

PHỔ ĐỘ: Cứu độ khắp cả, tế độ các giới chúng sanh thoát khỏi cảnh mê đồ thống khổ. Đức Thầy từng cho biết:

“Oai thần đem Đạo huyền thâm,

Nhiệm mầu phổ độ âm thầm ai hay”

 

                                                                   CHÚ GIẢI QUYỂN BA

SÁM  GIẢNG

XUẤT XỨ – VĂN THỂ

Đây là Quyển Thứ Ba, trích trong Phần thứ nhứt THI VĂN GIÁO LÝ TOÀN BỘ, do Đức Thầy sáng tác vào cuối mùa Thu năm Kỷ Mão (1939) lúc Ngài còn ở Tổ Đình Thánh địa Hòa Hảo.

Ngài viết theo điệu văn vần, thể lục bát, loại thuyết giáo, dài 612 câu. Khởi đầu bằng câu:“Ngồi trên đảnh núi liên đài.” Và chấm dứt bởi câu:“Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan”.

NỘI DUNG :

Sám Giảng Quyển Ba, phần nhiều Đức Thầy dạy các phương cách tu tròn Nhân Đạo vẹn đáp Tứ Ân để trả xong nợ thế…Ngài khuyên các môn đồ trong Tam Giáo nên bãi bỏ những nghi lễ thờ cúng rườm rà đượm màu mê tín; thức tỉnh các thầy lễ, nhưn bông, phù thủy sớm quay về với vô vi chánh Đạo. Ngài còn kêu gọi hạng thanh niên nam nữ đang tập tành những thói hư tật xấu, do nền văn minh vật chất của Âu Tây cám dỗ, sớm trở về với nếp sống thuần phong mỹ tục của nước nhà.

BỐ CỤC :

Sám Giảng Quyển Ba gồm có 3 phần chánh và 41 tiểu đoạn:

I – Phần Nhứt, là đoạn khai đề. Đức Thầy cho biết trước khi lâm phàm có thời gian Ngài tu thân tầm Đạo tại Lan Thiên, là một vị trí trên đỉnh núi Tà Lơn. Từ câu 1:“Ngồi trên đảnh núi Liên đài” tới câu 10:“Bồng Lai một cõi hữu danh chữ đề”.

II – Phần Nhì, cũng là phần chánh đề, Ngài tiếp tục báo tin những tai nạn binh đao nước lửa sắp xảy đến cho nhân loại. Cơ chọn lọc hiền còn dữ mất qua hai Đại hội: Long Hoa và Long vân. Sau đó, người hiền đức sẽ sum hiệp trong cảnh huy hoàng an lạc của đời Thượng ngươn Thánh đức. Ngài còn khuyên dạy mọi người nên tu tròn Nhơn Đạo, giác tỉnh những kẻ hành nghề Đông Tây y, các phù thủy lên cốt, lên đồng, các Thầy lễ, thầy cúng hãy bãi bỏ những tập tục dị đoan, mê tín và bài trừ các tệ đoan xã hội để lo gìn giữ thuần phong mỹ tục của nước nhà. Từ câu 11:“Kể từ Tiên cảnh ta về” tới câu 596:“ Đất khô nảy mục rõ lòng hiếu nhi”.

III – Phần Ba, cũng là đoạn kết đề. Ngài dạy: là người tu hành, dù ai có nhạo chê phỉ báng ta cũng kiên tâm nhẫn nhục. Đức Phật Thầy thương xót chúng sanh như tình mẹ thương con, mong sao tất cả đều ghi nhớ lời dạy của các Ngài để lo tu thân hành Đạo hầu sau nầy được diện kiến Phật Tiên và chứng thành Đạo quả. Từ câu 597:“Mặc ai nhạo báng khinh khi” tới câu 612:“Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan”.

CHỦ ĐÍCH :

Đức Thầy cảnh tỉnh các giới tu hành trong Tam Giáo đã sai lệch chân truyền nên sớm trở về chân lý của Đạo và Ngài cũng giáo huấn phần nhiều về Nhân Đạo.

Chú giải từ câu 001 – 208 (Quyển III)

CHÁNH VĂN

1.              Ngồi trên đảnh núi liên đài,

         Tu hành tầm Đạo một mai cứu đời.

                  Lan-thiên một cõi xa chơi,

4.      Non cao đảnh thượng thảnh-thơi vô cùng.

                  Hiu hiu gió thổi lạnh-lùng,

         Phất-phơ liễu yếu lạnh-lùng tòng mai.

                  Mùa xuân hứng cảnh lầu đài,

8.      Lúc còn xác thịt thi tài hùng-anh.

                  Tứ vi mây phủ nhiễu đoanh,

10.    Bồng-Lai một cõi hữu danh chữ đề.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 01 tới câu 10) :

         -Mở đề cho quyển “Sấm Giảng” Đức Giáo Chủ kể lại, trên đường tầm Đạo cứu đời, Ngài đã dừng chân tại “Lan Thiên”- một vị trí trên núi Tà Lơn – để trau giồi tâm trí cho đến khi thành quả.

         -Nhân một buổi nhàn du, Ngài nhẹ gót dạo quanh vùng Lan Thiên. Đây là một đỉnh núi cao vút, khiến tâm hồn Ngài lâng lâng, giao hòa cùng kiểng vật. Bỗng từ đâu cơn gió nhẹ đưa về, làm những cành liễu thướt tha, uốn lượn, màn sương thấm lạnh cả tòng mai, hoa kiểng. Hồi tưởng, cũng một mùa Xuân như hiện giờ, khi còn mang nhục thể, Ngài quyết tâm tầm Đạo cứu đời; và sau cuộc thi tài tại hội quần Tiên, Ngài được tuyển làm bậc Tiên Trưởng.

         -Kế nhìn ra xa, thấy bốn bề mây phủ lớp lớp như kết tụi màn che, rồi Ngài gật gù cảm nhận: Đây thật là một cảnh thanh thoát, đúng với danh tiếng “Non Bồng”.

 

CHÚ THÍCH :

         SẤM GIẢNG:(Xem Giới Thiệu Phần Chú Giải Sấm Giảng Giáo Lý, tr. 28 Tập 1/3).

         ĐẢNH: Cũng đọc là đỉnh. Có nghĩa: Chót vót, đỉnh đầu. Đỉnh cao hơn hết trong một ngọn núi.

         LIÊN ĐÀI: Đài sen. Đây chỉ cho một vồ đá cao nhất ở núi Tà Lơn, nơi Ông Cử Đa tu đắc Đạo.

         TẦM ĐẠO: Tìm kiếm Đạo lý. Tìm Đạo ở đây có nghĩa: cố tu hành cho đạt thông Đạo pháp (đắc Đạo). Đức Thầy có câu:“Bác ái xả thân tầm Đạo chánh”(Luận Việc Tu Hành).

         MỘT MAI: Mai sau hay sau nầy. Đức Thầy có câu:“Một mai dạo được Tây Đông”(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa).

         LAN THIÊN: Là một trong nhiều vị trí trên núi Tà Lơn, như Long Thoàn (Long Thuyền), Tứ Giao Điện…

         PHẤT PHƠ: Cũng gọi là phấp phơ: tức lá liễu bị gió đưa qua đưa lại.

         LIỄU YẾU: Loại cây cành mềm, lá nhỏ, cánh dài buông rũ xuống thướt tha. Truyện Kiều có câu:“Lơ thơ tơ liễu buông mành”.

         TÒNG: Cũng gọi là tùng (thông).Tùng có hai loại :     1- Loại cây thấp người ta trồng làm kiểng.

         2- Loại cây cao, ruột chắc, bốn mùa lá nó vẫn xanh, không thay đổi. Nghĩa bóng: chỉ người có sức chịu đựng và hay che chở kẻ yếu kém.

         Đức Thầy từng viết:

                 “Chốn rừng tòng ngồi chịu nắng sương,

                 Tìm Đạo lý hiến cho trần thế”.(GMTK, Q.4)

         Hoặc là:

                 “Chừng nào Thầy lại gia trung,

                 Thì trong bổn đạo bóng tùng phủ che”.

                                  (Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)

         MAI: Cây mai, loại kiểng có hoa vàng hoặc trắng, đỏ…Hoa vàng thường trổ vào mùa Xuân; hoa trắng, đỏ hay trổ theo bốn mùa (tứ quí).

         HÙNG ANH: Hùng là vua các loài thú; anh là vua các loài hoa. Anh hùng là chỉ cho bậc tài giỏi xuất chúng, có chí khí hơn người. Ví dụ: Anh hùng hào kiệt. Đức Thầy có câu:“ Đứng anh hùng dựng nên thời thế”.(Nang Thơ Cẩm Tú)

         TỨ VI: Bốn phía chung quanh, bao vòng.

         NHIỄU ĐOANH: Mây nhiều có tia nhỏ buông phủ xuống, kết quanh núi Tà Lơn, nhìn như một bức tranh.

         BỒNG LAI: (Xem lại chú thích tại tr.138 Tập 1/3)

 

                                   CHÁNH VĂN

11. Kể từ Tiên cảnh Ta về,

         Non Bồng Ta ở dựa kề mấy năm.

                  Dạo chơi tầm bực tri-âm,

         Nay vì thương chúng trần-gian phản hồi.

                  Nghĩ mình trong sạch đã rồi,

16. Đào tiên tạm thực về ngồi cõi xa.

                  Phong-trần tâm đã rời ra,

         Ngọc-Thanh là hiệu ai mà dám tranh.

                  Ngày ra chơi chốn rừng xanh,

20. Tối về kinh kệ cửi canh mặc người.

                  Xuống trần lỡ khóc lỡ cười,

         Ham vui đào mận vuông tròn chẳng xong.

                  Chừng nào sấu nọ hoá long,

24. Trần-gian mới rõ tấm lòng Thần-Tiên.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 11 đến câu 24) :

         -Sau khi được chứng quả Tiên Trưởng, Ngài từ cõi Tiên trở về, an trú tại Lan Thiên một thời gian, rồi Ngài ngao du các nơi để tìm kẻ đồng tâm hạp chí…Nay vì lòng thương xót chúng dân, nên Ngài trở lại cảnh trần khai nguồn Đại Đạo.

         -Ngài hồi tưởng lúc còn ở non tiên, hưởng cảnh thanh nhàn tịch mịch, lòng chẳng còn vướng bận trần ai. Nay nhìn thấy lê dân mãi đắm say dục lạc, gây nghiệp trần mê, chẳng lo gìn tròn bổn phận của người hướng thiện. Ngài còn cho biết: đến lúc Sứ Mạng của Ngài hoàn thành thì khắp bá tánh, mới rõ được lòng Từ bi của chư Phật Thánh Tiên.

 

CHÚ THÍCH:

         TRI ÂM: (Xem lại chú thích tại tr.260 Tập 1/3).

         PHẢN HỒI: Trở lại.

         ĐÀO TIÊN: Đào trồng ở cõi Tiên; tương truyền người được ăn vào sẽ sống lâu và thành Tiên. Ở đây ý nói ông Cử Đa khi đắc Đạo được thưởng đào tiên.

         PHONG TRẦN: Phong là gió; trần là bụi, ý chỉ cõi đời đầy gió bụi, gian lao vất vả. Truyện Kiều có câu:“ Đã đày vào kiếp phong trần”. Cung Oán cũng nói:“Phong trần đến cả sơn khê, Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy”. Đức Thầy nay từng giác tỉnh:

                 “Gây ra lắm nợ phong trần,

             Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

                                       (Cho Ông Cò Tàu Hảo)

         NGỌC THANH: Đạo hiệu một trong ba ông Đệ tử lớn (ông tớ) của Đức Phật Thầy Tây An.(Xem lại chú thích tại tr.  98-103 Tập 1/3).

         CỬI CANH: Cũng đọc là canh cửi, việc quay sợi dệt vải. Ca dao có câu:“Gái thì giữ việc trong nhà, Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa”, nghĩa rộng là chỉ cho sự lo tính làm ăn tranh danh, đoạt lợi,

         ĐÀO MẬN: Đào và mận là hai loại cây có hoa đẹp, trái ngon. Chữ đào mận ở đây Đức Thầy muốn nói đến sự ăn chơi trụy lạc ham vui tình ái của người đời, do thành ngữ “Bẻ mận hái đào”, Ngài thường cảnh giác:

                 “Ham vui đào mận chẳng xong rồi,

                  Trung hiếu giữ gìn phận con tôi”.

                                           (Để Chơn Đất Bắc)

         CHỪNG NÀO SẤU NỌ HÓA LONG: Sấu trở thành rồng. Ý chỉ cho công việc đến lúc thành công (việc tu hành cũng thế). Đức Thầy có câu:“Thần Tiên hiệp mặt thì cù hóa long”(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ).

         TRẦN GIAN: Trần là bụi; gian là khoảng giữa cõi đời. Trần gian là nơi con người phàm tục ở đầy gian lao khổ nhọc. Đức Thầy bảo:“Trần gian khói lửa với đao binh”(Tỉnh Bạn Trần Gian). Đây chỉ cho mọi người trong thế gian.

         THẦN TIÊN: Thần gồm có 3 bực: 1. Phật Thần hay Tiên Thần, chỉ hạng người tu gần chứng quả Phật. 2. Thánh Thần là những người trung quân ái quốc, sau khi lâm chung được chứng đắc. 3. Quỉ Thần là hạng thần còn ăn đồ cúng kiếng, như thần A Tu La (tà thần). Tiên, Phạn ngữ: Rishi. Cũng gọi là Tiên nhơn, tức là những người tu hành ở non núi. Không còn bận việc đời, thảnh thơi, ngoài cảnh tục, nhưng còn một vài vi tế phiền não ràng buộc chưa tròn vẹn lục thông, có thể duy trì mạng sống ngàn muôn tuổi. Còn hạng tiên mà người ta dịch ra ở chữ chư thiên (Phạn: Deva) là những người ở thế gian có nhiều phước đức, khi thác được hóa sanh, lên các cõi trời dục giới, sắc giới hoặc vô sắc giới. Những hạng tiên nầy đều được thân tướng đẹp đẽ sáng láng. Như Hoàng hậu Ma Da, sau khi sanh Thái tử Sĩ Đạt Ta bảy ngày thì được thác sanh về cõi Đao Lợi Thiên, tức từng Trời thứ nhì ở cõi dục giới. Đức Thầy có câu:

                 “Đức Hoàng Hậu đến ngày thứ bảy,

                 Dứt nợ trần nên vội qui Tiên”.(K/Thiện, Q.5)

 

                                        CHÁNH VĂN

25.            Thương đời ta mượn bút nghiên,

         Thở-than ít tiếng giải phiền lòng son.

                  Bắt đầu cha nọ lạc con,

28.    Thân Nầy thương chúng hao mòn từ đây.

                  Minh-Hoàng chưa ngự đài mây,

         Gẫm trong thế-sự còn đầy gian-truân.

                  Đò đưa cứu kẻ trầm-luân,

32.    Đặng chờ vận đến mới mừng chúa tôi.

                  Thảm-thương thế sự lắm ôi,

         Dẫy-đầy thê-thảm lắm hồi mê ly.

                  Dạo chơi Lục-Tỉnh một khi,

36.    Rước đưa người tục tu-trì xa khơi.

                  No chiều rồi lại đói mơi,

         Dương-trần sắp vướng bịnh Trời từ đây.

                  Khuyên trần sớm liệu bắp khoai,

40.    Cháo rau đỡ dạ tháng ngày cho qua.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 25 đến câu 40):

         -Vì lòng quá thương xót sanh linh, Đức Thầy dùng bút mực, sáng tác Sấm Kinh để thức tỉnh bá gia, sớm hồi tâm hướng thiện. Từ ngày Chúa-tôi Thầy-tớ cách xa, trong dân chúng phải chịu mòn hao dần dần.

         -Bởi hiện giờ Đức Minh Vương chưa an ngự tại Nam thành, khắp bá tánh còn phải truân chuyên thảm khổ, nên con thuyền Đại Đạo của Đức Thầy luôn rước đưa chúng sanh ra khỏi luân hồi sanh tử. Nếu ai biết nương về nẻo Đạo, sau nầy sẽ gặp Đức Thánh Vương và an hưởng muôn điều vinh hạnh, cùng giải thoát an vui.

         -Nhận thấy bá tánh sắp lâm cảnh sầu thảm, nên Đức Thầy cỡi thuyền dạo khắp sáu tỉnh miền Nam để khuyên bá tánh sớm tu hành xa rời bể khổ.

         -Sự nghèo đói tới tấp bên lưng, thêm nhiều chứng bịnh ngặt nghèo kỳ lạ, do luật Trời quyết định trừng phạt kẻ tà gian. Đức Thầy kêu gọi nếu ai muốn thoát khỏi tai vạ ấy, phải sớm “Cần kiệm sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất”.( Điều răn cấm thứ nhì) và “Làm nhơn ái ắt tiêu bịnh tật”.(Kệ Dân, Q.2), chắc chắn sẽ được hạnh phúc vui tươi.

 

CHÚ THÍCH :

         BÚT NGHIÊN: Bút là cây viết, nghiên là đồ dùng để mài mực đặng viết (thời xưa). Ý chỉ cho sự học hành hoặc sự nghiệp văn chương. Cổ thơ có câu:“Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung”. Đức Thầy cũng từng nói:“Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố trần”.(Viếng Làng Phú An)

         LÒNG SON: (Xem lại chú thích tại tr. 239 Tập 1/3).

         MINH HOÀNG: Vị vua sáng suốt. Nghĩa như chữ Minh Vương. Đây chỉ cho vị cầm đầu đất nước, rất mực nhân từ, sáng suốt. Đức Thầy từng viết:“Thương Minh Vương bắt chước Thuấn Nghiêu, Lòng hiền đức nào ai có biết”.(Kệ Dân, Q.2)

         ĐÀI  MÂY: Do chữ vân đài, đài cao đến tận mây để trông thấy được xa. Ở đây Đức Thầy ám chỉ đến đài của đấng Minh Vương ngự, Ngài  dạy (Sấm Giảng, Q.3):

                 “Bớ dân chớ có say mê,

          Trung lương chánh trực dựa kề đài mây”.

         THẾ SỰ: Mọi sự việc trong đời.

         GIAN TRUÂN: Gian nan khổ sở, gặp nhiều chướng ngại không được hanh thông:“Đã nhiều lưu lạc, đã nhiều gian truân”(Truyện Kiều).

         TRẦM LUÂN: (Xem lại chú thích nơi câu 167 trên).

         VẬN ĐẾN: Gặp vận, thời cơ tốt xoay chuyển đến. Đức Thầy có câu:

                 “Ngóng trông chờ vận thời đưa đến,

                 Đặng chung cùng một tiệc quỳnh tương”.

                                             (Nang Thơ Cẩm Tú)

         THÊ THẢM: Buồn rầu đau xót.

         MÊ LY: Say mê đắm đuối theo một việc gì, gần như không còn biết đến mọi sự vật bên ngoài. Đây chỉ cho sự mê luyến cõi hồng trần.

         LỤC TỈNH: (Xem lại chú thích tại tr.91&261 Tập 1/3).

         TU TRÌ: (Xem lại chú thích tại tr.84 Tập 1/3).

         XA KHƠI: Xa mé bờ, giữa khoảng trời nước mênh mông. Đức Thầy có câu:

                 “Con thuyền Bát Nhã xa khơi,

               Dầu cho sóng gió rã rời cũng cam”(Cảm Tác).

         BỊNH TRỜI: Bịnh ói ỉa, ban trái…do Trời sai quỉ thần răn phạt những chúng sanh hung ác, ai mắc phải không tài nào chữa trị. Đức Thầy thường cho biết:“Tam Thiên lục bá khắp tràng hại dân”.(Thiên Lý Ca) và:“Trời mở cửa quỉ Vương xuống thế”(GMTK, Q.4), hoặc là:

                 “Hội công đồng xem xét hẳn hòi,

                   Sai chư tướng xuống răn trần thế.

                   Đau nhiều chứng dị kỳ khó kể,

                   Sắp từ nay lao khổ đến cùng”(Kệ Dân, Q.2).

 

                                   CHÁNH VĂN

41.            Nhắn cùng bổn đạo gần xa,

         Tu hành trì chí mới là liễu mai.

                  Nguyện cầu qua khỏi nạn tai,

44.    Đặng coi Tiên-Thánh lầu-đài quốc-vương.

                  Niệm Phật nào đợi mùi hương,

         Miễn tâm thành-kính tòa-chương cũng gần. 

                  Lao-xao bể Bắc non Tần,

48.    Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.

                  Tranh phân cho rõ tài ba,

         Cùng nhau giành-giựt mới là thây phơi.

                  Khổ-lao đà sắp đến nơi,

52.    Thế-gian bớt miệng kêu mời cõi âm.

                  Dầu cho có ở xa-xăm,

         Cũng là rán tới viếng thăm dương-trần.

                  Ngũ-Hành cùng các chư Thần,

56.    Từ đây sắp đến xuống gần chúng-sanh.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 41 đến câu 56):

         -Đức Thầy nhắn nhủ khắp bổn đạo trên bước tu hành cần  kiên tâm bền chí mới mong kết quả. Hằng ngày thường cầu nguyện cho vạn dân vượt qua các tai nạn, hầu sau nầy đặng thấy đền vàng điện ngọc và:“Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc”.(Không Buồn Ngủ).

         -Còn sự niệm Phật không luận có đèn nhang hay thời khắc, mà lúc nào cũng vẫn trì niệm:“Nằm, đi, đứng hay ngồi chẳng chấp”.(Kệ Dân, Q.2), và phải thành tâm khẩn thiết, đừng để một vọng tưởng nào xen tạp, tất được dựa kề Phật Thánh.

         -Đức Thầy còn cho biết thêm: Vì quá tham của báu, nên sau nầy vạn quốc sẽ mở cuộc chiến tranh tại biển Bắc (Vịnh Bắc Việt) non Tần (Thất Sơn), diễn nên cảnh núi xương sông máu, vô cùng thảm khốc:

                 “Sấm vang thì lộ bảng vàng,

             Chư nhu thế giới khắp tràng đến thi.

                   Chữ thi gần chữ sầu bi,

               Bị ham của báu ly kỳ máu rơi”(Thiên Lý Ca).

         -Những tai nạn khổ đau về bịnh tật, sẽ xảy đến với chúng sanh không còn xa lắm, nên Đức Thầy khuyên mọi người: Từ đây chẳng nên kêu réo Thần Thánh hay Ngũ hành mà sai khiến, hoặc trù rủa một ai. Bởi vì các vị ấy, tuy ở cõi siêu hình xa cách, nhưng nay vì có lịnh Trời sai xuống trần gian, để răn phạt những kẻ vi phạm khẩu nghiệp, hoặc các tội ác khác. Nếu những ai trù rủa hoặc mời mọc đến, tức tự chuốc lấy bịnh khổ cho gia đình thân tộc.

 

CHÚ THÍCH :

         TRÌ CHÍ: (Xem lại chú thích nơi câu 116 Q.2 Tập nầy).

         LIỄU MAI: (Xem chú thích chữ tòng mai nơi câu 6 trên). Chữ liễu mai ở đây có nghĩa là thấu đạt cơ huyền của Đạo pháp, hoặc chỉ cho sự tu hành khi được kết quả.

         LẦU ĐÀI QUỐC VƯƠNG: Đền đài lầu các của đất nước Việt Nam sau nầy.

         TÒA CHƯƠNGTòa là chỗ ngồi hay ngai vị tôn nghiêm, chương là một loại ngọc quí, là chỗ an tọa của vị vua hay Đức Ngọc Đế. Đây chỉ cho ngôi vị quí báu. Đức Thầy có nói:

                 “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,

                Thì sẽ được tòa chương dựa kế” (GMTK, Q.4)

         BỂ BẮC: Biển Bắc chỉ từ Vịnh Bắc Việt đi xuống hướng Nam (tức Biển Đông, thuộc Thái Bình Dương).

         NON TẦN: Chỉ miền Bảy Núi (xem lại chú thích tại tr.241 Tập 1/3).

         QUÂN PHIÊN: Chỉ cho quân đội của ngoại bang.

         CÕI ÂM: Cõi siêu hình, cõi của các thần linh (A Tu La) ở. Đức Thầy có câu trong “Nang Thơ Cẩm Tú”:

                 “Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,

                   Chờ mãn phước ra tay bẻ họng”.

 

                                       CHÁNH VĂN

57.            Chuông kia treo sợi chỉ mành,

         Chẳng lo thân phận lo giành bướm ong.

                  Hiếu-trung hãy liệu cho xong,

60.    Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về.

                  Bây giờ kẻ Sở người Tề,

         Hiền-lương đến Hội cũng kề với nhau.

                  Phật Trời chẳng luận nghèo giàu,

64.    Ai nhiều phước đức được vào cõi Tiên

                  Hữu phần thì cũng hữu duyên,

         Sửa tâm hiền đức cõi Tiên cũng gần.

                  Ta mang mình thịt xác trần,

68.    Ra tay dắt chúng được gần Bồng-Lai.

                  Mai sau nhiều cuộc đất cày,

         Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa.

                  Lập rồi cái Hội Long-Hoa,

72.    Đặng coi hiền-đức được là bao nhiêu.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 57 đến câu 72) :

         -Đoạn nầy Đức Thầy cho biết: Cuộc đời quá mỏng manh, ví như chỉ mành treo chuông, chẳng biết ngày nào đây nó phải rụng nát. Thế mà chúng sanh chẳng sớm tu thân lập hạnh, cứ mãi lo ăn chơi trụy lạc. Cho nên, Ngài kêu gọi vạn dân hãy vẹn gìn trung hiếu để sau nầy được kiến diện đấng Thánh vương đời Ngươn thượng:

                 “Lo bổn phận thảo ngay trọn vẹn,

                 Chừng lập đời khỏi thẹn tấm thân”.

                                           (Vọng Bắc Hòa Nam)

         -Tuy ngày nay Chúa-tôi, Thầy-tớ còn xa cách, nhưng nếu ai biết cư xử đúng lẽ nhơn hiền, sau nầy cũng được hiệp hòa:“Hiền lành chừng đó sum vầy, Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi”.(Sám Giảng, Q.3)

         -Lòng Phật Trời lúc nào cũng bình đẳng trong việc tiếp độ chúng sanh, không luận sang hèn hay lớn nhỏ, nếu ai có nhiều phước đức, tất được vào dự hội quần Tiên:“Phước nhiều Tiên cảnh lên rày, Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê”.(K/Thiện, Q.5).

          -Sống giữa thời mạt pháp, chúng ta may mắn sanh được thân người, lại hữu duyên gặp đặng Phật pháp (Nhơn thân nan đắc, kim dĩ đắc; Phật pháp nan văn, kim dĩ văn). Đã hữu phần mà lại hữu duyên, thật có chi quí báu cho bằng:“Rày mừng gặp đặng lúc ban ân, Duyên trước ngày nay mới có phần”(Cho Ông Hương Bộ Thạnh). Chúng ta chỉ cần lo làm lành lánh dữ, trau giồi tâm đức, sẽ được Đức Thầy dùng thuyền từ đưa đến nơi siêu thoát.

         -Ngài còn tiên tri sau nầy, sẽ có cuộc chiến tranh tàn khốc, nào cảnh bom cày đạn xéo, khiến vườn ruộng tan hoang, lầu đài hư đổ, nào cảnh chạy giặc:

                 “Cha nọ bồng con vợ khóc òa,

                   Tan nát xóm giềng khổ dữ a !

                   Nhà không người ở, ôi ! nói trước,

                   Nếu chẳng tin lời gặp thiết tha”.

                                  (Để Chơn Đất Bắc)

         Và đến ngày hội Long Hoa, chư Phật Tiên sẽ chọn lọc những người hiền đức được sống còn để kiến tạo cảnh đời Thượng ngươn an lạc:

                  “Hội Long Hoa chọn kẻ tu mi,

         Người hiền đức đặng phò chơn chúa”.(Kệ Dân, Q.2).

 

CHÚ THÍCH :

         THÂN PHẬN: Địa vị và phận sự của một con người. Đức Thầy từng dạy trong “Sám Giảng Q.3”:

                 “Ta là thân phận làm tôi,

               Phải đền phải đáp cho rồi mới hay”.

         BƯỚM ONG: (Xem lại chú thích tại tr.214 Tập 1/3).

         HIẾU TRUNG: (Xem chú thích chữ “Thảo cha ngay chúa” tại tr.166 Tập 1/3).

         KẺ SỞ NGƯỜI TỀ: Sở là tên một nước ở Trung Hoa vào thời Xuân Thu, tại vùng Trung Hồ Bắc-Hồ Nam bây giờ. Tề cũng là một nước trước kia do Châu Võ Vương cắt phong cho Thái Công Lữ Vọng, sau đến thời Chiến Quốc Xuân Thu chia làm 7 nước: Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở, Tần. Hai nước Sở và Tề, tuy thuộc địa phận Trung Hoa nhưng cách nhau rất xa. Ở đây Đức Thầy muốn nói: Những người hiền lương tuy hiện giờ còn xa cách, nhưng sau nầy cũng được hội hiệp:“Tuy ngày nay xa cách Sở Tề, Sau Thầy tớ gặp nhau Phật cảnh”(Sa Đéc).

         HỮU PHẦN: Có phần, được phần may mắn.

         HỮU DUYÊN: Có căn duyên (tiền duyên), trái với vô duyên. Gặp gỡ nhau mà hợp ý với nhau gọi là có tiền duyên. Tục ngữ thường nói:“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”(Có duyên ngàn dặm cũng gần, Không duyên dầu gặp mấy lần cũng xa). Về việc Đạo thì những ai có căn duyên với Phật pháp, khi gặp Phật hoặc giáo lý của Ngài liền kính tin hành thiện. Bằng vô duyên thì dầu Phật đứng trước mặt hay ở sát bên, cũng không hề tin nghe. Khế Kinh đã bảo:“Thuốc không trị được bịnh tới số, còn Phật chỉ độ những ai có duyên lành”(Dược y bất tử bịnh, Phật hóa hữu duyên nhơn). Đức Thầy thường cho biết:

                  “Duyên lành rõ được Khùng Điên,

         Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần”.

                                     (Viếng Làng Mỹ Hội Đông)

         HIỀN ĐỨCHiền là người có trí năng, hay làm việc thiện, đức là có lòng nhân ái, hiếu đạo, khoan hòa. Người hiền đức là người gồm đủ: Trí, Nhân, Hiếu, Nghĩa. Đức Thầy có câu:

                 “Chim tìm cây mới gọi chim khôn,

                 Người hiền đức mới là người trí”(Kệ Dân, Q.2)

         HỘI LONG HOA: Hội tuyển chọn người hiền lành, đạo đức, do pháp mầu của Phật lập ra. (Xem thêm chú giải tại tr.45-47 Tập 1/3). 

                                        CHÁNH VĂN

73.            Gian-tà hồn xác cũng tiêu,

         Thảm-thương bá-tánh chín chiều ruột đau.

                  Mặc ai tranh luận thấp cao,

76.    Thương trong lê thứ xáo-xào từ đây.

                  Chinh chinh bóng xế về tây,

         Đoái nhìn trần-thế xác thây ê-hề.

                  Thương trần Ta cũng rán thề,

80.    Đặng cho bá-tánh liệu bề tu thân.

                  Tu hành chẳng được đức ân,

         Thì Ta chẳng phải xác thân người đời.

                  Phật truyền Ta dạy mấy lời,

84.    Đặng cho trần-thế thức thời tu-thân.

                  Nào là luân lý Tứ-Ân,

         Phải lo đền-đáp xác thân mới còn.

                  Ai mà sửa đặng vuông tròn,

88.    Long-Vân đến hội lầu son dựa kề.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 73 đến câu 88) :

         -Căn cứ vào lý Tam ngươn thì cơ chọn lọc sẽ chấm dứt thời Hạ ngươn hạ để chuyển sang Thượng ngươn thượng. Lúc đó chỉ còn tồn tại hạng người tốt đẹp thiện lương; còn những kẻ gian tà xảo quyệt đều bị tiêu diệt cả hồn lẫn xác. Đức Thầy nhận biết tình cảnh thê thảm ấy mà xót thương cho bá tánh, dầu tiếng đời có bàn luận mỉa mai cũng mặc. Ngài luôn để tâm thương lo khắp dân chúng từ đây sẽ gặp cảnh chiến tranh loạn lạc.

         -Cuộc thế sắp đến ngày tàn cỗi, nhơn sanh phải chịu cảnh chết chóc dẫy đầy, muốn cứu nguy bá tánh chỉ còn có cách giác tỉnh họ quay đầu hướng thiện. Cho nên Ngài thệ quả quyết với chúng sanh: Nếu có một ai chuyên tâm hành Đạo mà không được thụ hưởng đức ân thì Ngài chẳng phải là con người trong vũ trụ. Xưa kia, Đức Phật cũng từng thệ trước đại chúng: “Hữu nhứt chúng sanh bất thành Phật quả, Ngã thệ bất thành Phật”.(Nếu có một chúng sanh nào tu hành mà không thành Phật thì Ta thệ không thành Phật). Và nay chư Phật đã sắc lịnh cho Đức Thầy khuyên dạy nhơn sanh được hiểu thời cơ, để họ sớm lo trau thân gìn Đạo.

         -Trên bước đường tu hành, trước nhứt là phải cư xử, cho tròn Đạo làm người, đền đáp “Tứ đại Trọng ân”.Nếu ai“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”(Cho Ông Cò Tàu Hảo) thì ngày Hội Long Vân tới đây xác thể sẽ còn nguyên vẹn, để chung hưởng cảnh đền vàng điện ngọc, của đời Thượng ngươn Thánh đức.:

                 “Mấy người còn được xác thân,

                 Thì là đài ngọc các lân dựa kề”(Sấm Giảng, Q.3)

 

CHÚ THÍCH :

         GIAN TÀ HỒN XÁC CŨNG TIÊU: Cơ chọn lọc cuối thời Hạ ngươn hạ chuyển sang Thượng ngươn thượng, những kẻ tà gian hung ác đều bị luật đào thải diệt vong cả hồn lẫn xác. Bởi căn duyên và cách ăn ở của họ không hợp với thời Thánh đức ấy, nên phải bị:

               “…Hãm giam hồn xác chốn lao tù,

                  Làm bùn làm đất làm cây đá,

                  Trơ trọi giữa trời vạn kiếp tu”.

                          (HĐ: Không rõ xuất xứ)

         Cuộc đọa lạc ấy diễn tiến qua các thời kỳ:

         1-Nhứt đạo, linh hồn cư thủy: Trước hết linh hồn bị tiêu ra làm nước (hồn xác cũng tiêu). Khi đọa làm nước, vừa chịu cho người rửa giặt đồ dơ bẩn, vừa giúp cho bá tánh tắm và đỡ khát để trả nghiệp lần lần.

         2-Nhị đạo, linh hồn cư thổ: Khi mãn thời kỳ làm nước, linh hồn chuyển sang làm đất, chịu cho người đời trồng tỉa, đi đứng hoặc xây cất nhà cửa, dinh thự…

         3-Tam đạo, linh hồn cư kim thạch: Từ đất, linh hồn tiến lên làm cát, đá, sắt, chì…Để xác minh điều nầy, xưa Đức Phật chỉ tay vào bức tường mà nói:“Tường, bích, ngõa, lịch giai hữu Phật tánh”(Vách, phên, ngói, đá đều có Phật tánh như nhau).

         4-Tứ đạo, linh hồn cư thảo mộc: Từ sắt đá, linh hồn tiến lên: lúa, rau, cây, cỏ, giúp nhơn loại nhờ nhỏi, sanh sống.

         5-Ngũ đạo, linh hồn cư sanh vật: Từ cây cỏ linh hồn tiến lên các loài động vật (thú)…Bằng chứng là các loại tro rơm, cỏ mục bỏ nơi ẩm thấp hay ngoài đồng nội, khi mưa xuống sanh ra các loài côn trùng, cá…hoặc từ rễ cây gáo vàng hóa thành lươn, lịch…    

         6-Lục đạo, linh hồn cư nhân thể: Từ sanh vật linh hồn tiến lên làm thân con người. Theo luật tuần hườn của lý tam ngươn, đến đây đáo lại thời Hạ ngươn Hạ, bởi căn tánh và nghiệp cảm của số linh hồn nói trên chỉ sống hợp với thời kỳ nầy mà thôi; chớ không thể sống hợp với thời Trung ngươn hay Thượng ngươn được, nếu họ không chịu tiến hóa.

         (Ban HĐ: Rất tiếc Soạn giả đã quá cố nên không thể hỏi gốc của tài liệu nầy).

         CHÍN CHIỀU RUỘT ĐAU: Đau xót tột độ và nhiều bề. Bởi lòng từ bi của Phật đối với chúng sanh như tình mẹ thương con (Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử). Nay Đức Thầy thấy chúng sanh lâm vào cảnh khổ mà Ngài thương yêu đau xót như thế. Ngài từng dạy:“Phải nhớ rằng: ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ, thì ta cũng phải khổ vì họ vậy”.(Bát Chánh Đạo/Chánh Tinh Tấn), và:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”(Sa Đéc).

         Khi xưa, Đức Văn Thù Sư Lợi đến thăm bịnh Ngài Duy Ma Cật và hỏi:

         – Bệnh của cư sĩ nhơn đâu mà sanh, sanh đã bao lâu, phải thế nào mới mạnh được ?

         Ngài Duy Ma Cật đáp:

         – Bịnh tôi từ ái mà sanh. Vì tất cả chúng sanh bịnh, nên tôi bịnh. Nếu tất cả chúng sanh không bịnh thì bịnh tôi lành. Vì sao ? Bởi Bồ Tát vì chúng sanh mà vào đường sanh tử, hễ có sanh tử thì có bịnh, nếu chúng sanh khỏi bịnh thì Bồ Tát không có bịnh. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một người con, hễ người con bịnh thì cha mẹ cũng bịnh, nếu bịnh của con lành, cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng thế ! Đối với tất cả chúng sanh, thương mến như con, nên chúng sanh bịnh, Bồ Tát cũng bịnh, chúng sanh lành, Bồ Tát cũng lành. – Ngài lại hỏi bịnh ấy nhơn đâu mà sanh ? – Bồ Tát có bịnh là do lòng đại bi.

         Ngày nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng từng nói:

                 “Xuống Bạc Liêu chưa bao nhiêu độ,

                   Bỗng ruột tầm quằn quặn rứt đau.

                   Phần thương dân phổi héo, gan xào,

                   Ngồi, đi, đứng, nằm lăn lóc mãi”.

                                     (Gởi Bác sĩ Cao Triều Lợi -Bạc Liêu)

         XÁO XÀO: (Xem lại chú thích tại tr.124 Tập 1/3).

         TU THÂN : Sửa mình. Sửa bỏ những điều tội lỗi xấu xa: sát sanh, đạo tặc, tà dâm…và làm những điều lương thiện, tốt lành. Sách Đại Học dạy:“Tự Thiên tử dĩ chí u thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn”.(từ Vua quan cho đến thứ dân, ai nấy phải lấy sự sửa mình làm gốc). Đức Thầy hằng dạy:

                 “Tu thân thiện tín rán chuyên cần,

                  Lục tự Di Đà giữ Tứ ân”.(Nhẫn Đợi Thời Cơ)

         ĐỨC ÂN: Người biết làm lành, làm phải, có lòng tốt, thương người, mến vật và ăn ở đúng theo đạo lý, thì được hưởng mọi điều phước huệ do Trời Phật ban cho. Đức Thầy đã cho biết:

         “Nhờ ơn Trời ban bố đức ân,

           Xem chung cuộc Phong Thần tại thế”.(GMTK, Q.4)

         THỨC THỜI: Hiểu rõ thời thế.

         LUÂN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.270 Tập 1/3).

         TỨ ÂN: Bốn điều ơn. Theo Kinh xưa, bốn ơn là: Ân Phụ Mẫu, Ân Quân Vương, Ân Tam bảo và Ân Chúng sanh. Nay vì muốn cho sự giáo hóa chúng sanh được thích hợp với trào lưu hiện đại, nên Tứ Ân theo Đức Thầy dạy có thay đổi một ít chữ như sau: Ân Tổ Tiên Cha Mẹ, Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo, Ân Đồng Bào và Nhơn Loại. Kinh Phật có câu:“Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ”.(Trên đáp bốn ân nặng, dưới giúp ba đường khổ)(HĐ: Theo Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam thì nghĩa của “tứ trọng ân” trong câu kinh nầy là: Ân Phật, Ân Thầy Tổ, Ân Cha, Ân Mẹ). Đức Thầy nay luôn nhắc nhở:

                  “Một câu quân lý tứ ân,

         Ta đừng phai lợt Phong thần bảng ghi”.

                                      (Để Chơn Đất Bắc)

         LONG VÂN: (Xem chú thích tại tr.93 Tập 1/3).

         LẦU SON: Lầu đỏ, do chữ “Lầu son các tía”. Đây chỉ cho lầu đài quí báu sau nầy, do Phật Trời ban thưởng cho những người xong tròn đạo lý, vẹn đáp tứ ân:

                 “Chừng Bảy Núi lầu son lộ vẻ,

                   Thì người già hóa trẻ dân ôi !”

                          (Đáp lời Ông Lương Văn Tốt)

 

                                     CHÁNH VĂN

 89.           Thương đời văn-vật say mê,

         Làm điều gian-ác thảm-thê sau nầy.

                 Kể từ hầu hạ bên Thầy,

92.    Vào ra chầu-chực đài mây cũng gần.

                  Tuy là nương dựa non Tần,

         Ngày sau thế cuộc xoay vần về Nam.

                 Qua sông nhờ được cầu Lam,

96.    Tu hành nào đợi chùa am làm gì.

                  Bây giờ bạc lộn với chì,

         Nữa sau lọc lại vít tì cũng chê.

                  Bớ dân chớ có say mê,

100.  Trung-lương chánh-trực dựa kề đài mây.

                 Mảng lo gây gổ tối ngày,

         Chẳng lo rèn đúc trí tài hiền-lương.

                  Thân Nầy ăn tuyết nằm sương,

104.  Chẳng than chẳng thở vì thương thế-trần.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 89 đến câu 104) :

         -Đức Thầy thảm thương cho người đời quá đam mê văn minh vật chất, gây nghiệp tà gian hung ác, mà phải gặt lấy quả đau khổ sau nầy. Ngài hồi tưởng lúc theo Thầy tu học Đạo pháp tại đỉnh núi Tà Lơn. Núi nầy tuy hiện giờ nằm trên địa phận nước Miên, nhưng sau nầy thời thế sẽ xoay chuyển trở thành của nước Việt Nam.

         -Ngài dùng điển ngữ Cầu Lam, ý dạy người muốn tu hành giải thoát, không luận phải tìm nơi chùa miễu am cốc mà bất cứ nơi nào, dù ở quán xá hay thôn dã, miễn ai có căn duyên và nhiệt tâm hành đạo là được.

         -Giờ đây số người thật giả, tà chánh còn đang lẫn lộn, song đến một ngày kia sự chọn lọc rất rõ ràng, dù còn vi phạm một lỗi nhỏ cũng không xài được:“Nấu lọc rành mới biết vàng thau, Ai thật tánh ai người giả Đạo”(Sa Đéc). Ngài còn kêu gọi dân chúng, chẳng nên đua theo làn sóng văn vật của Âu Tây, làm điều dua nịnh, cần giữ lòng ngay chánh, trọn nghĩa quốc dân, để ngày kia được hưởng mọi sự an nhàn nơi Tiên cảnh.

         -Ngài thấy trong lê thứ mãi lo giành giựt xâu xé lẫn nhau, chẳng chịu sớm hồi tâm hướng thiện, trau giồi trí đức. Phần Ngài trên đường châu du độ thế dầu phải lắm gian lao vất vả cũng chẳng hề than thở:“Thân ta dầu lắm đoạn trường, Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài”(Cảm Tác).

 

CHÚ THÍCH :

         VĂN VẬT: Sản vật của văn hóa, gồm có lễ vật và chế độ. Đây chỉ cho văn minh về vật chất, trái với văn minh tinh thần. Đức Thầy cho biết trong bài “Diệu pháp Quang Minh”:

                 “Bởi vì đời văn vật cạnh tranh,

                   Nên cấu xé cùng nhau thảm não”.

         ĐÀI MÂY: (Xem lại chú thích nơi câu 29 trên).

         NON TẦN: Ở đây chỉ núi Tà Lơn, nơi ông Cử Đa (Ngọc Thanh) tu đắc Đạo. Vì theo cơ giảng thì Tần ám chỉ cho nước Miên, mà núi Tà Lơn nằm trên địa phận nước Miên, nên gọi là non Tần.

         CẦU LAM: Do chữ “Lam Kiều”, cây cầu bắc ngang dòng sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Hoa). Do điển tích Bùi Hàng gặp Vân Anh và sau thành Tiên:

         Đời Đường (Trung Hoa) có anh Bùi Hàng, trên đường đáp thuyền đi Tương Hán, bất ngờ được cùng đi chung thuyền với nàng Vân Kiều, người đẹp vào hàng quốc sắc. Hàng nhờ người hầu gái của Vân Kiều đưa thư hộ, nên được tiếp chuyện với Vân Kiều và được nàng tặng cho bài thơ:

                 “Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sinh,

                   Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh.

                   Lam Kiều tiện thị Thần Tiên quật,

                   Hà tất khi khu thượng Ngọc Kinh”.

                 (Uống rượu quỳnh tương trăm cảm sinh,

                   Huyền sương giả thuốc thấy Vân Anh.

                   Lam Kiều vốn thiệt nơi Tiên ở,

                   Hà tất băng đường đến Ngọc Kinh).

         Sau Bùi Hàng y như lời dặn trong thơ đến Lam Kiều, Hàng dừng chân nơi quán trọ bên vệ đường của một bà lão để giải khát. Con gái của bà lão bưng nước ra, Hàng trông thấy rất xinh đẹp bèn hỏi tên, rõ ra là Vân Anh, em ruột của Vân Kiều. Hàng xin bà lão cho cưới nàng làm vợ. Lão bà bảo Hàng tìm được cối chày bằng ngọc đem lại, bà sẽ gả Vân Anh cho, khỏi cần vàng bạc chi hết. Nhờ lòng nhiệt thành, Hàng được thần tiên giúp đỡ và cưới được Vân Anh.

         Lão bà liền chỉ cho Hàng về cách công phu tu tập và bảo Hàng dùng cối chày đó tán thuốc Tiên trọn ba tháng. Khi làm thuốc xong, cả ba người cùng uống, họ đều được thành Tiên hết.

         Do điển tích trên đây mà các Kinh sách xưa nay cùng các nhà văn, thường dùng từ ngữ Cầu Lam, hoặc Lam Kiều, để chỉ con đường đưa đến cảnh Tiên. Cổ thi có câu:“Trăm năm thề chẳng lòng phàm, Sông ngân đưa bạn, cầu Lam rước người”. Đức Thầy nay cũng bảo:

                 “Lam Kiều hữu lộ vắng hoe,

            Ngục môn không cửa mà hè nhau đi”.

                                                 (Để Chơn Đất Bắc)

         TRUNG LƯƠNG: Trung nghĩa và lương thiện. Xưa, Đường thế Dân (Trung Hoa) xây đắp lăng của vợ (Hoàng Hậu) đẹp hơn lăng của mẹ (Hoàng Thái Hậu). Hôm nọ, vua Đường và Thừa tướng Huỳnh Trung viếng mộ, Vua có ý khoe lăng vợ mình đẹp hơn hết, Huỳnh Trung tâu:

         -Theo mắt của hạ thần, xem thấy lăng của Hoàng Thái Hậu sáng sủa hơn lăng của Hoàng Hậu. Nghe qua vua Đường hiểu ý…liền truyền lịnh hạ bớt vẻ đẹp lăng của vợ và cho xây lăng của mẹ cao tốt hơn trước. Sau đó, vua Đường vời Huỳnh Trung đến khen:

         -Khanh thật là người tôi trung thần của Trẩm !

         Huỳnh Trung liền tâu:

         -Xin Bệ hạ ban cho thần hai chữ: lương thần, chớ đừng gọi là trung thần.

         Ý muốn nói trung thần như Tỷ Cang, vì can vua Trụ bằng lời khẳng khái nên bị chết; chẳng những không được việc mà còn làm đất nước mất một tôi trung. Còn Huỳnh Trung biết dùng lời nhu hòa khéo léo can vua, chẳng những được vua Đường nghe theo lại còn ban khen nữa, nên gọi là tôi trung lương hay là lương thần. Vì thế, ngày nay Đức Thầy thường nói:“Tiết trung lương nghĩa khí rạng ngần” và:“Chữ anh tài của đấng trung lương” (Nang Thơ Cẩm Tú).

         ĂN TUYẾT NẰM SƯƠNG: Vốn là một thành ngữ có nghĩa: sự ăn ngủ giữa trời đầy sương tuyết lạnh lẽo. Ý chỉ cho sự khó khăn vất vả của người đi đường:“Quản bao tháng đợi năm chờ, Những người ăn tuyết nằm sương xót thầm”(Truyện Kiều).

         Ở đây, ý toàn câu: Vì lòng từ bi nên bước đường dạy Đạo cứu dân của Đức Thầy, chẳng quản sự gian lao khổ khó.

 

                                       CHÁNH VĂN

105.          Theo Thầy giảng dạy nhiều lần,

         Dương-gian nào biết thế-trần nào hay.

                  Cầu cho dân khỏi nạn tai,

108.  Qua nơi khổ-não mặc ai chê cười.

                  Bạc đâu dám sánh vàng mười,

         U-mê mà lại chê cười Thần Tiên

                  Giã-từ sơn-lãnh lâm-tuyền,

112.  Về đây hội hiệp sạ duyên tớ Thầy.

                  Ở rừng bạn với cáo-cầy,

         Bây giờ xuống thế cáo-cầy lìa xa.

                  Thiên-cơ biến đổi can qua,

116.  Gẫm trong thế-giới còn đôi ba phần.

                  Mau mau kíp kíp chuyên cần,

         Chúng sanh còn có lập thân hội này.

                  Tuần-huờn Thiên-Địa đổi xây,

120.  Cảm thương trần-hạ lòng Đây chẳng sờn.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 105 đến câu 120) :

         -Đoạn nầy ý nói ông Cử Đa đã nhiều lần theo Đức Phật Thầy châu du độ chúng, thế mà dương trần nào ai hay biết. Ngài hằng nguyện cầu cho khắp chúng dân, sớm thoát qua tai khổ, dầu ai có cười chê cũng mặc (Cần xem lại chú thích “Ba Tớ Một Thầy” tại tr.98-103 Tập 1/3).

         -Giá trị của bạc không thể so với vàng, cũng như kẻ phàm nhân làm sao thấu hiểu hành trạng của Phật Thánh, thế bảo làm sao mà họ chẳng cười cho được. Lão Tử đã nói: “Bực Thượng sĩ nghe Đạo thì siêng sắng mà làm theo, bực Trung sĩ nghe Đạo thì dường như còn như mất (nửa tin nửa ngờ, khi làm khi bỏ), bực Hạ sĩ khi nghe Đạo thì cười lớn. Nếu họ chẳng cười thì không đủ gọi là Đạo”. (Thượng sĩ văn Đạo cần nhi hành chi, Trung sĩ văn Đạo nhược tồn nhược vong, Hạ sĩ văn Đạo đại tiếu chi. Bất tiếu bất dĩ vi Đạo). Bởi Đạo rất cao thâm, bực hạ căn không thể hiểu nổi, họ cho là huyễn hoặc nên mới chê cười.

         -Nhớ lại lúc còn hành Đạo nơi rừng núi, Đức Cử thường dạy dỗ các loài cầm tnú. Nay Ngài từ giã cảnh vật ấy để trở lại trần gian cùng với Đức Phật Thầy lo giác tỉnh quần sanh.

         -Máy trời đã xoay chuyển, cả thế giới sắp diễn ra cuộc chiến tranh tàn khốc, từ đây đến ngày kết cuộc trong nhân vật phải chịu hao hớt, mười phần chỉ còn hai ba mà thôi:“Nhơn vật mười phần hao bảy tám, Thần Tiên thấy vậy cũng châu mày”(Giảng xưa của Đức Phật Thầy). Thế nên Đức Thầy kêu gọi khắp chúng sanh phải gấp rút tu hành, bởi lẽ:

         “Có một hội nầy lập lấy thân,

          Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,

          Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.

                                           (Để Chơn Đất Bắc)

         Ngài nhìn luật xoay vòng của Trời đất mà thảm thương cho bá tánh, nên quyết tâm cứu độ, dầu gặp bao nghịch cảnh cũng chẳng hề nao núng.

CHÚ THÍCH :

         VÀNG MƯỜI: Vàng thiệt, vàng y. Ý nói giá trị cao quí hơn hết:“Vàng mười, bạc bảy, thau ba”.(Ca dao)

         SƠN LÃNH LÂM TUYỀN: Núi non rừng suối.

         SẠ DUYÊN: Sạ là chữ Sự đọc trại (tiếng địa phương). Vậy Sạ duyên tức là Sự duyên. Có nghĩa duyên do sự việc.

         CÁO CẦY: Loại thú rừng, cùng một loại với chồn, thường ở hang, biết leo; tức là loại chồn thường hay bắt cá. Có nhiều thứ cầy như: cầy hương, cầy bạc má, cầy bông lao (có khi người ta gọi chó là cầy).

         Ở đây ý nói người đã giác ngộ, lúc nào cũng đầy lòng vị tha từ ái đối với vạn loại chúng sanh. Cho nên trong lúc Đức Thầy ở nơi rừng núi, Ngài cũng có dạy dỗ các loài thú:

                 “Chốn non xanh dạy dỗ cáo cầy,

                Xuống trần thế ra tay dắt chúng”(GMTK, Q.4).

         CAN QUA: Can là cái mộc (thứ binh khí dùng để đỡ mũi gươm, giáo, tên…), Qua là cái giáo. Can qua là tiếng nói chung để chỉ cho các loại binh khí, tức là nói đến sự chiến tranh. Đức Thầy có câu:“Vọng cầu thế giới dứt can qua” và:“Can qua binh lửa sát sanh linh”(Mong Chờ).

         CHUYÊN CẦN: Chăm chỉ và siêng năng, gắng gổ.

         TUẦN HUỜN THIÊN ĐỊA: Định luật xoay vòng của trời đất, do câu:“Thiên địa tuần huờn châu nhi phục thỉ”(Luật trời đất xoay giáp vòng thì trở lại chỗ khởi đầu).

 

                                      CHÁNH VĂN

121.          Cũng còn kẻ ghét người hờn,

         Vì không rõ hiểu sạ duơn của Thầy.

                  Hổ-lang ác-thú muôn bầy,

124.  Lớp bay lớp chạy sau nầy đa-đoan.

                  Ai mà ăn ở nghinh-ngang,

         Đón đường nó bắt xé tan xác hồn

                  Chữ rằng họa phước vô môn,

128.  Đáo đầu cũng phải xác hồn tiêu tan.

                  Khuyên người hữu phước giàu sang,

         Mau mau làm phước làm doan cho rồi.

                  Để sau khó đứng khôn ngồi,

132.  Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.

                  Ai mà ăn ở ngược xuôi,

         Bị nơi rắn rít chẳng vui đâu là.

                  Rắn to tên gọi mãng-xà,

136   Trên rừng nó xuống nó tha dương-trần.

                  Ai mà tu tỉnh chuyên cần,

         Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho.

                  Thương đời hết dạ cần lo,

140.  Chẳng lo niệm Phật nhỏ to làm gì ? 

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 121 đến câu 140):

         -Vì lòng từ bi, Đức Giáo Chủ lâm trần khai Đạo, nhưng cũng có số người hờn ghét, vì họ chưa rõ hết duyên do. Ngài cũng tiên báo cho mọi người được biết, đến ngày cùng cuối của buổi Hạ ngươn, sẽ có cuộc chọn lọc bằng cách: có các loài thú dữ, như hùm, beo, lang, sói…tràn xuống khắp dân gian, tàn sát người hung dữ.

         -Xưa nay, Phật Thánh từng dạy: những việc họa hay phúc đều do chính mình tạo nhân, rồi tự mình rước quả, chớ không phải từ đâu đưa lại. Hễ gieo gió thì gặt bão, dù sự việc rất nhỏ, như: món ăn, thức uống…cũng đều do tiền nghiệp của mình mà nên cả (nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định). Qua cuộc chọn lọc, kẻ ngang tàng bạo ngược đều bị tiêu tan cả hồn lẫn xác.

         -Đức Thầy kêu gọi hạng người giàu có, nên mở lòng bố thí để gieo duyên lành về sau, sẽ được hưởng nhiều phúc huệ cao quí hơn. Bằng ai mãi thương nhà tiếc của:“Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân”(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)

         -Còn hạng ăn ở ngược xuôi, hành động tráo trở, chẳng tôn trọng lẽ công bằng đạo lý thì sau nầy, sẽ bị các loài rắn rít to lớn, từ trên rừng núi tràn xuống sát hại, khó mà bảo tồn tánh mạng.

         -Còn những ai biết thức tỉnh tu hành, chuyên cần tinh tấn, hành động theo con đường ngay chánh, tất được chư Thánh Thần gia hộ cho bình yên. Vì lòng từ bi, Đức Thầy dốc hết tâm lực vào công việc khuyến dạy nhân sinh: sao chẳng sớm lo niệm Phật làm lành, lại cứ lo toa rập chê bai làm chi cho mang khẩu nghiệp?

 

CHÚ THÍCH:

         ĐA ĐOAN: Nhiều việc, rất nhiều.

         NGHINH NGANG: Cũng gọi là nghênh ngang. Có nghĩa: ngang tàng bướng bỉnh, không kiêng nể ai. Đức Thầy từng khuyên:

                 “Nghinh ngang hổn ẩu phải chừa,

             Bà con nội ngoại dạ thưa mới là”(Sám Giảng, Q.3)

         HỌA PHƯỚC VÔ MÔN: Do câu:“Họa phước vô môn, duy nhơn tự triệu. Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”(Họa, phước không có cửa, chỉ do con người tự rước lấy mà thôi. Còn sự báo ứng của việc lành hay dữ cũng như bóng theo hình).

         Thêm nữa kẻ cầm đuốc đi gió ngược, sẽ bị lửa táp phỏng tay, ngửa mặt phun nước miếng lên trời, nước ấy sẽ rớt xuống mặt mình. Kẻ làm ác cũng thế, lúc đối đầu chỉ rước họa hại vào thân.

         ĐÁO ĐẦU: Cũng gọi là đối đầu (Xem lại chú thích nơi tr. 123 Tập 1/3).

         HỮU PHƯỚC GIÀU SANG: Người có phước nên được giàu sang phú quí. Theo “Luật nhân quả” những người hiện giờ được giàu có uy quyền là do thời gian trước hoặc tiền kiếp họ đã tạo nhân từ thiện, bố thí. Đức Thầy hằng khuyên họ:

                 “Ngày nay tốt phước sang giàu,

               Xin thương kẻ khó giúp hào một khi”.

                     (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)

         LÀM PHƯỚC LÀM DOAN: (Xem lại chú thích tại tr. 256 Tập 1/3).

         NÀO NGUÔI: Chẳng nguôi, chẳng vơi được. Ý nói cơn sầu thảm kéo dài mãi không lúc nào cùng cạn.

         NGƯỢC XUÔINgược là nghịch, không thuận, đảo dưới lên trên, xuôi là thuận chiều. Ngược xuôi là khi thuận khi nghịch không thuần nhứt. Đây ý chỉ hạng người xảo quyệt không chơn chánh, lòng dạ dời đổi, ăn nói ngược xuôi.

         MÃNG XÀ: Rắn lớn. Vào năm 1939, Đức Thầy có dắt Đức Ông (thân sinh phần xác của Ngài) đi viếng núi Tà Lơn. Khi đến một khu rừng nọ, chính Đức Ông thấy hình như ba cây súc lớn nằm dài, lá cây rụng khuất cả. Đức Ông nói:

         -Người ta đốn cây ở đây làm sao đem xuống núi ?

         Đức Thầy đáp:

         -Đâu phải cây, rắn đó ! Nói rồi Ngài liền nhảy lên, dùng chân dậm ít cái rồi nhảy xuống, bỗng đâu ba khúc ấy động đậy, cong lên, lá cây đổ ồ xuống bày ra ba thân con rắn thật lớn, bề tròn độ hai người ôm không giáp. Vảy to, lớn hơn dĩa bàn, mình nó dài lắm, đầu đuôi khuất đâu chẳng thấy. Đức Ông hoảng sợ, chạy lùi lại rất xa. Đức Thầy chạy theo kêu Đức Ông dừng lại và nói:

         -Không sao đâu ! Nhưng đến thời tận diệt có cả bầy rắn như thế nầy, chúng bò lội khắp nơi cắn nuốt những người hung tàn bạo ngược (Dẫn theo lời ông Nguyễn Hữu Truyền, do Đức Ông kể lại cho ông Truyền nghe). Điều nầy trong Sấm Giảng Q.1, Đức Thầy thường nhắc:

“Ngày sau sẽ thấy thú cầm chỉn ghê.

Hùm beo Tây tượng bộn bề,

     Lại thêm ác thú mãng xà, rít to.

Bá gia ai biết thì lo,

Gác tai gièm siểm đôi co ích gì”.

         HẾT DẠ: Hết lòng, dốc hết tâm trí để lo một việc gì.

 

                                    CHÁNH VĂN

141.          Tu là: tâm trí nhu mì,

         Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong.

                  Tu cầu cứu vớt Tổ-Tông,

144.  Với cho bá-tánh máu hồng bớt rơi.

                  Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi,

         Quốc-vương thủy-thổ chiều mơi phản-hồi.

                  Tu đền nợ thế cho rồi,

148.  Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.

                  Người tu phải lánh hơi men,

         Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình.

                  Tu là sửa trọn ân tình,

152.  Tào-khang chồng vợ bố-kình đừng phai.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 141 đến câu 152):

         -Đoạn nầy Đức Thầy khuyên dạy người tu cần phải lo trau giồi tâm trí, sửa tánh răn lòng cho được hiền hòa chin chắn; hết lòng tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ để được vẹn tròn câu hiếu thảo. Ngoài ra còn phải tu cầu cho Tổ Tông dòng họ được siêu thoát và khắp vạn dân khỏi bị chết chóc vì nạn đao binh.

         -Đối với cha mẹ còn sanh tiền thì cầu cho được an nhàn phúc thọ, đất nước sớm phục hồi nền tự chủ. Điều quan trọng là phải trả xong nợ thế, tức lo đền đáp bốn ân. Đồng thời rán ngăn ngừa mười điều ác để diệt trừ nghiệp báo, sanh tử luân hồi. Ai hành trì được như thế, tức đặng siêu thoát về Cực lạc mà an tọa trên tòa sen.

         -Bước tu hành cần phải lánh xa hai điều tệ hại : rượu và sắc dục, vì nếu chè rượu say sưa thì sanh nhiều tội lỗi; còn đắm mê sắc lịch ắt phải đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi. Bởi nguyên nhân của sanh tử là do lòng ái dục (Hải trung sanh tử, ái dục đệ nhất). Riêng phần nhân Đạo trong gia đình, việc đối xử giữa chồng vợ, phải thuận hòa ân nghĩa, không nên vì hoàn cảnh sang hèn mà đổi thay tình ý.

 

CHÚ THÍCH :

         TÂM TRÍ: (Xem lại chú thích tại tr.154-155 Tập 1/3).

         NHU MÌ: (Xem lại chú thích tại tr.89 Tập 1/3).

         TỔ TÔNG: Ông bà dòng họ, cũng chỉ chung như chữ “Cửu Huyền Thất Tổ”. Toàn câu ý nói người quyết chí tu hành cho đến khi đắc đạo thì độ được Ông Bà dòng họ siêu thoát. Cổ nhân từng bảo:“Nhứt nhơn thành đạo, cửu huyền thăng”(Một người tu đắc đạo, độ được Ông Bà cha mẹ lần lượt siêu thăng). Đức Thầy cũng từng dạy trong bài “Cho Ông Cò Tàu Hảo”:

                 “Ngày nào đắc được lục thông,

                  Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.

         QUỐC VƯƠNG THỦY THỔ: Đất nước vua chúa. Chỉ cho đất nước Việt Nam.

         PHẢN HỒI: Hồi phục trở lại. Ý toàn câu dạy tu cầu cho đất nước của mình sớm được thanh bình và lấy lại chủ quyền. Đức Thầy có viết:“Ấy mới mong quốc vận phản hồi”(Gọi Đoàn).

         NỢ THẾ: Nợ đời, tức những gì ta đã thọ, đã gây tạo. Nợ thế có hai phần:

         a)- Ân nợ: tức là nợ Tứ Ân. Con người có được xác thân là nhờ Tổ tiên cha mẹ, có nơi ăn chốn ở là nhờ Đất nước, biết được lẽ đạo mầu, phải trái là nhờ Tam Bảo, có đủ vật liệu cần dùng là nhờ Đồng bào Nhân loại. Đó là bốn ân lớn mà ai ai cũng phải thọ và phải lo đền trả. Đức Thầy hằng khuyên:“Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn”(Vọng Bắc Hoà Nam) và “Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”(Cho Ông Cò Tàu Hảo).

         b)- Nghiệp nợ: Nợ do tam nghiệp, thập ác gây nên, khiến chúng sanh mãi luân chuyển báo đền. Kinh  nói:“Sở dĩ có luân hồi là do ba nghiệp: thân, khẩu, ý gây nên, nó cứ tiếp nối nhau luôn tạo thành sức mạnh, lôi kéo chúng sanh; sau khi mạng chung phải đầu thai vào một thân xác khác để đền trả tiền nghiệp và lòng khát ái của mình”. Cho nên Đức Thầy dạy:“Muốn làm tròn nhân Đạo, phải giữ vẹn Tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam nghiệp và chừa Thập ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ”(Luận Về Tam Nghiệp – tr. 186 SGTVTB 2004). Vì thế Ngài cực lực khuyên bảo:

                 “Nợ thế âu toan tròn nợ thế,

               Đường tu sớm liệu vẹn đường tu”(Tỉnh Giấc Mơ).

         TÒA SEN: Chỗ ngồi bằng sen, nơi Phật ngự. Bởi sen là thứ hoa có đặc tánh trong sạch, không ô nhiễm, nên chư Phật dùng nó làm chỗ an tọa. Ý chỉ người tu khi đắc đạo thì được ngồi tòa sen báu bên cõi Tây Phương Cực Lạc. Đức Thầy có câu:“Tây phương Cực lạc khùng ngồi tòa sen”(Dặn Dò Bổn Đạo) hay là:“Quyết làm tôi Phật gởi thân liên đài”(Khuyến Thiện, Q.5).

         HƠI MEN: Hơi rượu. Ý chỉ sự uống rượu. Người tu cần phải xa lánh, bởi Kinh Phật từng nói:“Ninh ẩm dương đồng, thân vô phạm tửu”(Thà uống nước đồng sôi, răn dè chớ uống rượu). Hoặc là:“Rượu là gốc buông lung, muốn khỏi đường ác đừng uống. Thà bỏ trăm nghìn thân, trọn không uống rượu nầy”.

         SẮC LỊCH: Sắc đẹp. Một trong tứ đổ tường, cũng là một trong năm điều ham muốn (ngũ dục).(Ngũ dục là muốn sắc đẹp, muốn tài của, muốn danh tiếng, muốn ăn uống, muốn ngủ nghỉ.) Biết bao tấm gương nhơ nhớp vì đắm say sắc lịch. Chính nó đã gây nên những cuộc đổ nước nghiêng thành, đảo lộn luân thường đạo lý lắm người bị nó nhận chìm trong hố sâu tội lỗi. Cổ nhân từng bảo:“Sắc bất ba đào dị nịch nhân”(Sắc đẹp tuy không phải sóng gió nhưng dễ nhận chìm được người). Trong Tỉnh Thế Ngộ Chơn cũng dạy:

                 “Sắc tác hậu tự tiền thế đại,

                 Tán tinh hao khí, khổ linh hồn”.

         (Nữ sắc tuy dùng nối truyền đời trước, nhưng cũng bởi sắc làm cho con người tán tinh, hao khí và linh hồn bị sa đọa).

         ÂN TÌNH: Ân huệ và tình nghĩa thân yêu. Ví dụ: Ân tình vẹn vẻ đôi đường.

         TÀO KHANG: Cũng gọi là Tao khang. Tào là tấm (bã rượu) khang là cám gạo. Ý nói người vợ cưới hồi còn nghèo khổ. Do điển tích:

         Vua Quang Võ, có người chị gái là Hồ Dương Công chúa sớm góa chồng. Vua có ý định gả cho quan Thượng thư là Tống Hoằng nhưng Hoằng đã có vợ. Vua bèn vời Tống Hoằng đến ướm thử:

         – Trẩm nghe thiên hạ thường nói sang đổi bạn, giàu đổi vợ, có chăng ? (Ngạn ngữ: Quới dịch giao, phú dịch thê, hữu chư ?).

         Tống Hoằng tâu:

         – Thần nghe: Người bạn lúc hàn vi không nên phụ, người vợ cưới lúc nghèo hèn, không nên bỏ (Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tào khang chi thê bất khả hạ đường).

         Vua Quang Võ nghe qua biết ý Tống Hoằng không tham giàu phụ khó, nên không ép nữa.

         Do điển tích trên đây, văn chương thường dùng thành ngữ “tào khang” để nói vợ chồng lấy nhau từ thuở hàn vi, vẫn giữ tình nghĩa mặn nồng cho đến khi già chết mới trọn Đạo:“Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác”(Không Buồn Ngủ).

         BỐ KÌNH: (Xem lại chú thích tại tr.75-76 Tập 1/3).

 

                                    CHÁNH VĂN

153.          Tu cầu Đức Phật Như-Lai,

         Cứu dân qua khỏi nạn tai buổi nầy.

                  Chữ tu chớ khá trễ chầy,

156.  Phải trau phải sửa nghe Thầy dạy khuyên.

                 Ra đời xưng hiệu Khùng Điên,

         Nào ai có rõ Thần Tiên là gì.

                 Tu không cần lạy cần quì,

160.  Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau.

                 Trí hiền tâm đức chùi lau,

         Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.

                  Vinh-hoa phú-quí chẳng màng, 

164.  Ra oai ra lực cỡi thoàn xa chơi.

                  Con sông dòng nước chiều mơi,

         Dốc lòng trả nợ nước đời cho xong.

                  Chừng nào bổn-đạo hiểu thông,

168.  Thiên-cơ đạo lý để lòng mới thôi.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 153 đến câu 168) :

         -Đức Thầy dạy tín đồ hằng cầu nguyện với Đức Như Lai, cứu độ bá tánh đồng thoát qua tai nạn hiện thời. Còn việc tu hành không nên chần chờ giải đãi, lúc nào cũng phải chuyên cần trau sửa và thường xem Kệ Giảng để thực hành theo cho kỳ được.

         -Bởi người Pháp kềm kẹp dân ta đủ cách, hễ có một ai được sự uy tín trong quần chúng thì họ bắt bớ tù đày. Lại có số người giả tu thường xưng hô lớn lối để lừa bịp những ai nhẹ dạ mê tín theo. Cộng với hạng thường ỷ mình là khôn lanh, hay phỉ báng Phật Trời, nên Đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên để vừa đối lại hai hạng người nói trên và vừa phương tiện giáo hóa chúng sanh.

         -Ngài dạy: Sự tu không phải chỉ trong hai thời lễ bái suông, mà bất cứ ở đâu hay phút nào cũng luôn trau giồi, gội rửa những gì xấu xa tội lỗi mới mau kết quả. Vậy mỗi người tự dùng trí sáng của mình chiếu phá lớp vô minh vọng hoặc và các tư tưởng tà khúc, tất được:“Kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”(Cho Ông Cò Tàu Hảo).

         -Trên đường khai hóa nhân sanh, Đức Thầy chẳng màng đến danh lợi và dầu dòng đời có lắm thăng trầm Ngài cũng quyết:“Xông thuyền Bát Nhã lướt vào một phen”(Tự Thán) để đền xong nợ thế, vẹn đáp Tứ Ân. Ngài luôn phổ hóa Đạo mầu cho đến khi nào khắp bổn đạo thấu hiểu và gắn ghi những lời thiên cơ đạo lý nơi lòng, hầu sớm hôm lo tu thân lập hạnh thì Ngài mới dừng thoàn an nghỉ:“Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng Lai, Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão” (Sa Đéc). 

CHÚ THÍCH :

         NHƯ LAI: Phạn ngữ: Tathâgatha, Tàu dịch là Như Lai. Vốn là một trong 10 danh hiệu của Phật: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên Nhơn Sư, Phật). Có nghĩa: sừng sựng vậy, không từ đâu mà lại, cũng không từ đâu mà đi, nương theo đạo chơn như mà thành bực chánh giác, đó là chơn thân của Như Lai. Nương theo Đạo chơn như đến ba cõi để giáo hóa chúng sanh gọi là ứng thân của Như Lai. Kinh Kim Cang có câu:“Như Lai vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ; cố danh Như Lai”(Như Lai chẳng từ chỗ nào mà lại và cũng không từ nơi nào mà đi; nhưng đâu đâu cũng có, nên gọi là Như Lai). Như Lai ở đây chỉ cho Đức Phật Thích Ca. Đức Thầy có viết:

                 “Nam mô Thích Ca Như Lai,

       Ta Bà Giáo Chủ xin Ngài chứng minh”(Kh/Thiện Q.5).

         TRỄ CHẦY: Chậm lụt giải đãi, không tinh tấn chuyên cần. Đức Thầy hằng giục thúc:

                 “Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,

                 Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.

                                                     (Để Chơn Đất Bắc)

         KHÙNG ĐIÊN: Danh xưng của Đức Giáo Chủ. Sở dĩ Ngài tá hiệu Khùng Điên là có nhiều dụng ý:

         a)- Đánh lạc hướng người Pháp, khiến họ bớt nghi ngờ, khó khăn, để Ngài tiện bề giáo hóa chúng sanh.

         b)- Đối trị hạng người thường cho mình là khôn ngoan, nhưng họ chỉ dùng cái khôn ngoan ấy gạt gẫm dân chúng để thủ lợi.

         c)- Đối trị các tà thuyết, vì số người nầy ra đời thường hay xưng hô là Phật Thánh, để lừa dối người nhẹ dạ mê tín, nhưng hành động của họ không giống Phật Thánh chút nào.

         Còn phần Đức Thầy tuy xưng hiệu Điên Khùng, nhưng Ngài cảm hóa nhân sanh với lòng từ bi, xả kỷ lợi tha, với giáo lý chơn chánh của Phật Đà:“Khùng huyền cơ Khùng đạo Thích Ca”và:“ Điên như Ta, Điên giống Tiên rồng, Điên gỡ ách xích xiềng thế tục”(Diệu Pháp Quang Minh).

         THẦN TIÊN: (Xem lại chú thích nơi câu 24 trên).

         TRÍ HIỀN: Trí sáng suốt hiền lành, có diệu năng đoạn trừ những phiền não mê hoặc.

         TÂM ĐỨC: Lòng trong sạch, bình đẳng từ bi, không duyên theo ngoại cảnh, thường ban phúc lạc cho toàn thể chúng sanh mà tâm hằng thanh tịnh làu làu, không hề bị nhiễm ô trần trược.

         THAU RA VÀNG: Thau là loại đồng pha kẽm, sắc vàng nhợt. Vàng là loại kim quí, sắc vàng ánh. Hễ vàng thau pha lộn thì vàng mất giá trị, bằng lọc hết thau ra, còn lại vàng y (ròng). Ý nói tâm của mỗi người từ vô thỉ bị phiền não, vọng tưởng xen tạp nên gọi là chúng sanh. Nếu nay biết giác ngộ tu hành, đoạn trừ hết vô minh vọng hoặc thì còn lại là chơn tâm hay Phật tánh.

         CỠI THOÀN: Ngồi trên thuyền (ghe). Lúc Đức Thầy mới ra đời, có chèo thuyền dạo lục châu để thức tỉnh nhân sanh. Đây còn có nghĩa: Ngài dùng trí tuệ siêu mầu (Thoàn Bát Nhã) viết ra Kinh Giảng giác tỉnh kẻ còn mê sớm hồi tâm hướng thiện, như Ngài thường cho biết:“Con thuyền Bát Nhã xa khơi”(Cảm Tác). Hay là:

                 “Thuyền Bát Nhã ta cầm tay lái,

                 Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.

                                    (Diệu Pháp Quang Minh)

         DÒNG NƯỚC CHIỀU MƠI: Ý nói nước dưới sông có lúc lớn, lúc ròng, khi chảy lên, khi chảy xuống, không ngừng nghỉ. Chiều ở chỗ nầy, mai ở chỗ khác. Nghĩa bóng là chỉ cuộc thăng trầm suy thạnh của dòng đời cứ thay đổi theo thời gian. Thế thì bước đường truyền giáo của Đức Thầy cũng rày đây mai đó.

         NỢ NƯỚC ĐỜI: Nợ nước và nợ đời, có nghĩa như chữ nợ thế. Đây ý nói trước cảnh “Quốc phá gia vong”, Đức Thầy có bổn phận đền nợ Quốc dân và nghiệp nguyện cứu độ chúng sanh:“Nợ cùng bách tính hỡi còn vương”(Tặng Bác sĩ Cao Triều Lợi).

         THIÊN CƠ: (Xem lại chú thích tại tr. 64 Tập 1/3).

         ĐẠO LÝ: (Xem lại chú thích tại tr. 128-131 Tập 1/3).

 

                                     CHÁNH VĂN

169.          Chữ vinh chữ nhục mấy hồi,

         Đến khi thất vận làm mồi yêu tinh.

                  Tu rèn tâm trí cho minh,

172.  Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau.

                  Hiểu rồi những việc lao-đao,

         Ở cùng cô bác làm sao cho tròn.

                  Kính yêu nào phải hao mòn,

176.  Ở cho phải nghĩa lòng son mới vừa.

                  Nghinh-ngang hỗn-ẩu phải chừa,

         Bà con nội ngoại dạ thưa mới là.

                  Xóm diềng phải ở thật-thà,

180.  Dầu không quen biết cũng là như quen.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 169 đến câu 180):

         -Cuộc thạnh suy, vinh nhục của dòng đời, thay đổi rất mau lẹ, không thể lường trước được. Lúc vinh hiển, nếu con người chẳng giác tỉnh tu hành, đến khi thất thời ắt của cải và thân xác phải làm mồi cho kẻ hung tàn giặc cướp. Cốt yếu của sự tu là hành giả phải rèn luyện tâm trí cho được thanh tịnh sáng suốt, tuy có tốn nhiều công phu, nhưng đến khi kiến tánh thành Phật thì thỏa lòng biết mấy !

         -Khi đã hiểu rõ sự lao khổ sắp tới, Đức Thầy dạy nhà tu nên đối xử tốt đẹp với chòm xóm cô bác, ăn ở đúng theo Đạo nghĩa, biết lễ phép kính nhường và thương mến giúp đỡ mọi người.

         -Cần chừa bỏ những lời ngang tang hỗn láo, đối với bà con nội ngoại phải lễ độ khiêm cung, với thôn xóm luôn vui vẻ trong việc giao tiếp, đâu đó đều được hòa hài chơn thật.

 

CHÚ THÍCH :

         THẤT VẬN: Lỡ vận, hết thời: “Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than”.(Ca dao)

         CHO MINH: Cho được sáng suốt.

         TÁNH KIA THÀNH KIẾNG: Ý nói tâm tánh của mỗi chúng sanh từ khi bị vô minh ô nhiễm trở nên mờ ám. Nay giác ngộ tu hành, cố diệt trừ phiền não và trau giồi cho được trong sáng như mảnh gương, tất sẽ soi các sự vật một cách rõ ràng và chứng thành Đạo quả. Trong Khế Kinh có lời kệ:

                 “Phật, Tiên, Kinh, Luật tại lòng ta,

                   Trong nhà có báu kiếm đâu xa.

                   Cầm xem cho kỹ hồi sanh nhựt,

                   Tánh mình trong sạch Phật là Ta”.

         Đức Thầy nay cũng từng bảo trong “GMTK, Q.4”:

                 “Tâm sáng suốt như Đài nguyệt kiếng,

                   Tánh trong như nước bích mùa Xuân”.

         PHỈ TÌNH: Thỏa lòng. Ý nói sự tu hành tuy rất dày công cực nhọc, nhưng đến khi kết quả viên mãn là thỏa lòng, mãn nguyện. Đức Thầy nói:

                 “Hết khổ lao thì đến vui cười,

           Chừng đó mới phỉ tình nguyện ước”.(GMTK, Q.4).

         LAO ĐAO: Lận đận khó khăn, tai nạn khổ sở. Ví dụ: Kiếp sống lao đao, thời vận lao đao.

         PHẢI NGHĨA: Đúng với Đạo nghĩa, hợp với lẽ phải.

         LÒNG SON: (Xem lại chú thích tại tr. 239 Tập 1/3).

         NGHINH NGANG: (Xem lại chú thích nơi câu 125 trên).

         HỖN ẨU: Hỗn và vô lễ, lầm lộn, không có thứ tự. Ẩu là đánh lộn lẫn nhau. Chữ hỗn ẩu ở đây chỉ cho sự phạm thượng, vô lễ không biết nhường nhịn ai.

         XÓM DIỀNG: Hàng xóm lân cận với nhau:“Cơm ăn chẳng hết thì treo. Việc làm chẳng hết thì kêu láng diềng”(Tục ngữ).

         THẬT THÀ: Chơn chất hiền lành, không giả dối. Ví dụ: Ăn nói thật thà, tánh tình thật thà.

 

                                   CHÁNH VĂN

181.          Ở cho cha mẹ ngợi khen,

         Gặp người lâm nạn đua chen giúp giùm.

                  Xác thân là cái gông cùm,

184.  Nếu làm chẳng trọn thú hùm xé thây.

                  Cho rồi nhơn-nghĩa mới hay,

         Lễ-nghi phong-hóa đổi thay làm gì ?

                  Từ đây biến đổi dị-kỳ,

188.  Dương-thế chuyện gì cũng có chuyển lay.

                  Rèn tâm cho được thẳng ngay,

         Khỏi nơi tà quỉ một mai thấy đời.

                  Cũng là người ở trong Trời,

192.  Cớ sao ăn ở nhiều lời ngổn-ngang.

                  Hung hăng ỷ của giàu- sang,

194.  Chẳng kiêng Trời Phật mê-man ỷ tiền.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 181 đến câu 194) :

         -Bổn phận làm con biết ăn ở đúng theo đạo nghĩa, sẽ được cha mẹ vui lòng mà khen thưởng, và mỗi khi gặp người mắc nạn nên hăng hái tìm cách giúp đỡ. Vì xác thể con người thường bị ý dục ràng buộc như tù ngục. Nếu những ai đối xử không trọn đạo, sẽ bị luật Trời trừng phạt bằng cách có thú dữ phân thây.

         -Đức Thầy kêu gọi bá tánh, cần cư xử đúng Đạo làm người. Những qui tắc và phong tục của Tổ tiên đã giáo hóa, ta có bổn phận gìn giữ và thiệt thi, không nên học đòi thói mới của Âu Tây mà thay đổi khác đi. Bởi thời Hạ ngươn sắp mãn để chuyển sang Thượng ngươn nên mỗi sự vật trong thế giới đều thay đổi; cuộc đổi xấu ra tốt rất nhiệm mầu kỳ bí, không ngờ trước được.

         -Vậy ai là người thức thời nên tu rèn tâm trí cho được ngay chánh sáng mầu để sau nầy kiến diện cảnh Thượng ngươn Thánh đức. Ta nên xét, cũng là một con người trong nhân loại, nhưng tại sao người ta biết tiến lên quả vị Phật Tiên, còn mình lại ăn ở ác hung và khi dể Phật Trời làm chi cho mang tội khổ. Đức Thầy hằng cảnh giác trong bài “Không Buồn Ngủ”:

“Giàu sang lắm kẻ vô nghì,

Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa nhân.

         Chẳng kiêng chẳng nể Phật Thần,

             Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang”.

 

CHÚ THÍCH :

         GÔNG CÙM: Gông là đồ làm bằng tre hay bằng gỗ. Cùm cũng gọi là còng, vật làm bằng hai miếng ván ghép lại, có lổ vừa để giữ chân tay tội nhơn, thời nay người ta làm còng bằng sắt, có ổ khóa.

         NHƠN NGHĨA: (Xem lại chú thích tại tr.275 Tập 1/3).

         LỄ NGHI: Nghi thức và lễ nghĩa.

         PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa của một Quốc gia hay một dân tộc. Trong bài “Diệu pháp Quang Minh”, Đức Thầy có câu:

                 “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp,

                    Chấp bút Thần tả ít bổn Kinh”.

         BIẾN ĐỔI: Sự thay đổi ra khác, từ hình thức công dụng nầy ra hình thức công dụng khác. Ví dụ: Đời có nhiều biến đổi không ngờ.

         DỊ KỲ: (Xem lại chú thích tại tr. 179 Tập 1/3).

         MỘT MAI: (Xem lại chú thích nơi câu 2 trên).

         NGỔN NGANG: Bừa bãi, bộn bề, chỉ những người ăn nói ngang tàng, không chừng mực.

         HUNG HĂNG: Hung dữ bạo tợn.

         CHẲNG KIÊNG: Không kiêng dè vị nể ai. Chỉ cho người ngang tàng vô lễ.

         MÊ MAN: Mải mê, quá đắm say.

 

                                    CHÁNH VĂN

195.          Dạy rồi cái đạo tu hiền,

         Làm trai nhỏ tuổi tình duyên đang nồng.

                  Cũng đừng ghẹo gái có chồng,

         Cũng đừng phá-hoại chữ đồng gái trinh.

                  Ra đường chọc ghẹo gái xinh,

200.  Nữa sau mắc phải yêu-tinh hư mình.

                  Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,

         Vâng lời cha mẹ mà gìn gia-cang.

                 Nghiêm-đường chịu lịnh cho an,

204.  Loạn-luân cang-kỷ hổ mang tiếng đời.

                  Anh em đừng có đổi dời,

         Phụ-phàng dưa muối xe lơi nghĩa-tình.

                  Tuy là Trời đất rộng thinh,

208.  Có Thần xem xét phân minh cho người.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 195 đến câu 208) :

         -Sau khi chỉ dạy về phương thức làm lành lánh dữ, Đức Thầy khuyên răn trong hàng thiếu niên, lúc tuổi còn xuân, dầu dục tình đang hăng phát, cũng không nên phá hoại tiết trinh của vợ con người. Kẻ nào thấy gái đẹp hay chọc ghẹo, sau nầy bị lầm lạc yêu tinh, làm hư thân mất mạng.

         -Đối với gia đình thân tộc phải giữ vẹn nghĩa tình, mỗi việc chi đều đợi lịnh của cha mẹ, nhứt là những lời dạy bảo chánh đáng, đều triệt để vâng lời. Phải tôn trọng nền cương thường đạo lý, từ gia đình đến bà con nội ngoại trong thân tộc, chẳng nên hành động loạn luân, bất chánh mà bị tiếng đời cười chê, xã hội ruồng bỏ.

         -Việc đối xử giữa anh em cần biết kính thuận lẫn nhau, tình nghĩa luôn đậm đà thương mến, không nên vì hoàn cảnh riêng tư, hay sang hèn mà thay lòng phụ nghĩa. Tuy là trời đất mênh mông, nhưng lời nói riêng của mỗi người trong thế gian, Trời nghe như sấm nổ, còn lòng tính quấy trong nhà kín, song mắt của Thần Thánh thấy rất rõ ràng.(Nhơn gian tư ngữ Thiên văn như lôi, Ám khuất khuy tâm Thần mục như điển – sách “Minh Tâm Bửu Giám”.)

 

CHÚ THÍCH :

         ĐẠO TU HIỀN: Con đường làm lành lánh dữ. Cũng có nghĩa: Bổn phận của người tu hiền.

         TÌNH DUYÊN: Cũng gọi là duyên tình. Tình ái ân của vợ chồng.

         NỒNG: Hăng quá, gắt quá, mùi làm nực mũi. Nghĩa bóng là rất mực đậm đà.

         CHỮ ĐỒNG GÁI TRINH: Sự trinh tiết của người con gái lúc chưa lấy chồng, chưa bị thất trinh.

         NGHĨA TÌNH: Cũng gọi là tình nghĩa: Tình cảm và ân nghĩa. Ý chỉ việc cư xử với nhau có ân nghĩa mực thước đứng đắn. Ví dụ: Tình nghĩa anh em còn hoài.

         GIA CANG: (Xem lại chú thích tại tr. 74 Tập 1/3).

         NGHIÊM ĐƯỜNG: Người cha. Người Việt Nam đang ở chế độ phụ quyền (người cha là gia trưởng).

         LOẠN LUÂN: Làm rối loạn luân thường đạo lý, lấy một người trong bà con, thân tộc mà phong tục và luật pháp nghiêm cấm, là bị tôi loạn luân.

         CANG KỶ: Cũng gọi là cương kỷ hay kỷ cương, có nghĩa: giềng mối trong luật lệ, tức là trật tự, ngăn nắp của gia đình, đoàn thể, xã hội, quốc gia. Ví dụ: Ăn ở phải có kỷ cương. Đức Thầy nói trong bài “Cảm Tác”:

                 “Có đâu như thể bây chừ,

              Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”.

         PHÂN MINH: Rõ ràng, rành mạch, rạch ròi. Ví dụ: Ăn ở phân minh, xử đoán phân minh.

Chú giải từ câu 209 – 408 (Quyền III)

CHÁNH VĂN

209.         Vô duyên chưa nói mà cười,

        Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên.

                Lớn lên phận gái cần-chuyên,

212. Làm ăn thì phải cho siêng mới là.

                Phải gìn dục-vọng lòng tà,

        Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân !

                Nghe lời cha mẹ cân phân,

216. Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi này.

                Tình duyên chẳng kíp thì chầy,

        Chớ đừng cải lịnh gió-mây ngoại-tình.

                Đi thưa về cũng phải trình,

220. Công, dung, ngôn, hạnh, thân mình phải trau.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu  209 đến câu 220) :

        -Đoạn giảng trên Đức Thầy dạy hàng nữ lưu, phải có tư cách đứng đắn, sự nói cười cần giữ đúng lời, đúng lúc; chẳng nên vừa nói vừa cười, ngả ngớn. Người con gái mới lớn lên, phải chăm chú siêng năng mọi công việc cho được thứ tự, vén khéo mới tròn bổn phận.

        -Thuở thanh xuân là lứa tuổi dậy thì, dầu dục tình có bộc phát cũng cố chế ngự, không nên chìu theo nó mà làm việc hư thân mất nết, điếm nhục tông môn. Lúc còn nương với cha mẹ, nên vâng lời cân nhắc dạy bảo; khi về nhà chồng phải biết tùy theo ý lịnh của chồng; chẳng may chồng qua đời trước, vợ phải lo nuôi dạy con cái, để xứng đáng là bậc hiền mẫu và được trọn tiết với chồng.

        -Cuộc tình duyên không sớm thì muộn cũng gặp, chẳng nên cãi lịnh cha mẹ, tự gây tạo việc trăng hoa bất chánh mà mang tội bất hiếu. Phận dâu con có lễ giáo, mỗi lúc đi hoặc về đều phải trình thưa cha mẹ; đồng thời lo rèn tập bốn đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

 

CHÚ THÍCH:

        VÔ DUYÊN: Cũng gọi là vô doan. Có nghĩa: trơ trẽn, tẻ lạt, không duyên dáng lễ độ…Ví dụ: ăn nói vô duyên. Ca dao có câu:“Vô duyên chưa nói mà cười, Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên”.

        DỤC VỌNG LÒNG TÀ: Lòng ham muốn thèm khát việc tà quấy, do tình dục sai khiến. Kẻ nào bị dục vọng sai khiến sẽ hư thân mất nết nên Đức Thầy bảo “đừng chìu theo nó.”

        CÂN PHÂN: Cân nhắc phân giải việc hư nên tốt xu. Ý chỉ lời cha mẹ dạy con.

        TAM TÙNG: (Xem lại chú thích tại tr. 74 Tập 1/3).

        GIÓ MÂY NGOẠI TÌNH: Do chữ “Sở vũ Tần vân” (mưa Sở mây Tần). Thành ngữ nầy người ta thường dùng để chỉ cho hạng trai gái tư tình bất chánh (không phải vợ chồng chính thức của mình). Đồng nghĩa với chữ “mây mưa”. Truyện Hoa Tiên có câu:“Lời đầu quyến luyến thanh tân, Rủ rê gió Sở mây Tần hỡi ai”.

        ĐI THƯA VỀ CŨNG PHẢI TRÌNH:Do câu:“Xuất tắc cáo, phản tắc diện”, là khuôn phép của hàng con dâu, khi ra đi hay lúc về nhà đều phải thưa trình với cha mẹ.

        CÔNG DUNG NGÔN HẠNH: Nghĩa của chữ “Tứ đức”, tức là bốn đức hạnh. Đó là bốn điều dạy nữ giới phải vẹn gìn theo khuôn thước của Đạo làm người.

        “Hãy xem xưa, những bực dâu hiền,

        Kiêm tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh”

                        (HĐ: Không rõ xuất xứ).

 

                                CHÁNH VĂN

221.         Công là phải sửa làm sao,

        Làm ăn các việc tầm-phào chẳng nên.

                Mình là gái mới lớn lên,

224. Đừng cho công việc hớ-hênh mới là.

                Chữ dung là phận đàn bà,

        Vóc hình tươi-tắn đứng đi dịu-dàng.

                Dầu cho mắc chữ nghèo-nàn,

228. Cũng là phải sửa phải sang mới mầu.

                Ngôn là lời nói mặc dầu,

        Cũng cho nghiêm-chỉnh mới hầu khôn-ngoan.

                Đừng dùng lời tiếng phang-ngang,

232. Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.

                Hạnh là đức tánh phải không ?

        Ở cùng chòm-xóm đừng cho mất lòng.

                Bốn điều nếu đã làm xong,

236. Cũng gìn chữ hiếu phục tòng song thân.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 221 đến câu 236)

        -Đoạn nầy, Đức Thầy dạy bổn phận của hàng phụ nữ cần phải trau giồi bốn đức tánh: Công, dung, ngôn, hạnh.

        -Trước nhứt là chữ “Công”: tức mọi sự nấu nướng vá may cho sắc sảo, khéo léo, cùng các việc làm lụng đều được thứ lớp và thu xếp gọn gàng, kỹ lưỡng, không nên để phào phẹt bừa bãi.

        -Thứ nhì là chữ “Dung”: nghĩa là phải giữ trang mạo đằm thắm, cử chỉ hòa hưỡn và mỗi lúc đi, đứng, nằm, ngồi phải dòm ngó trước sau một cách cẩn thận. Thân thể phải cho sạch sẽ, hình dáng đoan trang, ăn mặc giữ được chừng mực kín đáo, không được hở hang, cách điệu quá lẽ.

        -Thứ ba là chữ “Ngôn”: Mỗi khi thốt lời, người phụ nữ cần phải giữ lời nói cho được dịu dàng, lễ nghĩa, không nên dùng những tiếng thô lỗ láo xược, chưởi rủa, tục tằn, tất cha mẹ được vui lòng thỏa mãn.

        -Thứ tư là chữ “Hạnh”: tức phải giữ hạnh nết hiền hậu, tánh ý ôn hòa, hay tha thứ kẻ lầm lỗi, giúp đỡ người thiếu hụt. Chốn khuê phòng thường trau giồi giá gương trong sạch. Không xem những loại sách bất chánh, cũng không gần kẻ lả lơi, trây trúa, hỗn ẩu tham gian để ngừa hại đến danh thể. – Ở với cha mẹ đầy lòng hiếu thuận, với ông bà cô bác, anh chị thân quyến cũng giữ mực cung kính khiêm từ đáo để.

 

CHÚ THÍCH :

        CÔNG: Khéo léo đứng đắn.

        TẦM PHÀO: Cũng gọi là tầm phèo. Có nghĩa: bừa bãi không gọn gàng cẩn thận.

        HỚ HÊNH: Không cẩn thận chu đáo. Công việc hớ hênh là làm việc không kỹ lưỡng, vén khéo.

        DUNG: Hình sắc, dáng điệu.

        TƯƠI TẮN: Xinh xắn, đẹp đẽ. Ví dụ: gương mặt tươi tắn.

        DỊU DÀNG: Yểu điệu tha thướt, tướng đi của giới nữ.

        NGÔN: Lời nói. Đây, ý dạy nữ giới cẩn thận lời nói trong mọi việc đối xử; “Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” (Ca dao). Cổ Đức từng bảo:“Lập thân chi yếu, Ngôn hạnh thị tiên”(Cốt yếu của sự lập thân, ngôn hạnh là trước nhứt). Đức Thầy nay cũng dạy:“Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ”.(GMTK, Q.4)

        NGHIÊM CHỈNH: Nghiêm trang tề chỉnh, không lả lơi cười cợt. Ví dụ: Người ấy ăn nói nghiêm chỉnh.

        PHANG NGANG: Phang là cầm cây mà vụt mạnh vào ai, ngang là ương ngạnh, bất chấp lề lối. Tiếng phang ngang là lời nói ngang tàng, thiếu sự dịu dàng mềm mỏng và lễ độ.

        HẠNH: Tánh nết, cách cư xử:“Thương vì hạnh, trọng vì tài”(Truyện Kiều). Kinh Thơ dạy:“Chẳng giữ hạnh nhỏ có hại cho đức lớn”(Bất năng tế hạnh chung lụy đại đức).

        ĐỨC TÁNH: Tâm tánh tốt lành nhân ái. Đức Thầy có dạy:“Làm thế nào phát hiện được những đức tánh cao cả…”(Đáp lời Ký giả Hồn Quyên).

        BỐN ĐIỀU: Chỉ bốn đức tánh: Công, Dung, Ngôn, Hạnh đã kể qua.

        HIẾU: Lòng ân cần tôn kính, bảo dưỡng và vâng lời khuyên răn của cha mẹ. Kinh Minh Thánh dạy:“Hiếu tử chi sự thân: Cư tắc chí kỳ kính, dưỡng tắc chí kỳ lạc, bệnh tắc chí kỳ ưu, Tang tắc chí kỳ ai, tế tắc chí kỳ nghiêm. Cố bất ái kỳ thân, như ái tha nhân giả, vị chi bội đức”(Người con hiếu thờ cha mẹ: Lúc ở thì tôn kính rất mực, khi nuôi phải vui hết mực, khi bệnh phải lo lắng hết mực. Khi chịu tang phải buồn hết mực, khi tế thì nghiêm trang hết mực. Cho nên không yêu cha mẹ mà yêu người ngoài (khác) gọi là trái đức).

        Kinh Đạt Ma có lời khuyên:

                “Ngàn kinh muôn điển hiếu vi tiên,

                  Thảo thuận đời sau nhỏ giọt truyền.

                  Ở thế Đạo người làm vẹn vẻ,

                  Tu hành Tiên Phật sẽ nên duyên.

                  Ba năm nhũ bộ công lao nhọc,

                  Chín tháng cưu mang mấy đoạn phiền.

                  Nghĩa mẹ ơn cha hằng tạc nhớ,

                  Ngày qua bể ngạn mới là yên”.

        Đức Thầy nay cũng hằng dạy:“Hiếu hạnh gìn lòng chí ư Thiên”(Hai Mươi Chín Tháng Chạp). Và:

                Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,

                  Hành thiện tri Kinh thị sĩ hiền”.

                                 (Hiếu Nghĩa Vi Tiên)

        PHỤC TÒNG: Tùng phục, tuân theo. Vui lòng chịu sự dạy bảo của cha mẹ.

        SONG THÂN: Tiếng gọi chung Phụ thân và Mẫu thân, tức là cha mẹ.

 

                                   CHÁNH VĂN

237.         Dạy rồi những chuyện đức ân,

        Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào.

                Lỗi-lầm chớ có hùng-hào,

240. Đừng chưởi đừng rủa đừng cào đừng bươi.

                Đem lời hiền-đức tốt tươi,

        Đặng mà giáo-hóa vàng mười chẳng hơn.

                Cũng đừng gây gổ giận-hờn,

244. Cho con bắt chước sạ duơn mới là.

                Nam-Mô sáu chữ Di-Đà,

        Từ-bi tế-độ vậy mà chúng sanh.

                Xưa nay Sáu Chữ lạnh tanh,

248. Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi.

                Trì tâm thì quá ít-oi,

        Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào.

                Rạch tim đem để Nó vào,

252. Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 237 đến câu 252) :

        -Sau khi chỉ dạy về bổn phận làm con cháu, từ trong gia đình đối với ông bà, cha mẹ, đến cô bác láng diềng đều cư xử được vẹn vẻ, đức ân. Đức Thầy dạy qua trách nhiệm làm cha mẹ về cách phân xử và dạy bảo con cháu.

        -Mỗi khi con có vi phạm lỗi lầm, làm cha mẹ không nên ra tuồng giận dữ, la ó lớn tiếng hoặc đay nghiến chửi rủa, đánh đập tưng bừng, nên dùng những lời hiền hòa, tốt đẹp ra dạy dỗ chúng, nếu được vậy có chi quí báu cho bằng. Giữa chồng vợ chẳng nên mặt giận, mày hờn ấu đả lẫn nhau vì đó là duyên cớ làm cho con mình bắt chước.

        -Với Pháp môn Niệm Phật là phương cách tu giản tiện nhứt, chỉ có trì niệm sáu chữ: Nam Mô A Di Đà Phật mà được Đức Phật A Di Đà cứu độ vượt khỏi mọi tai nàn, và đặng phúc báo vãng sanh về cõi Cực Lạc:“Cứu khổ Nam mô vô lượng phước, Diệt nàn tu rị hữu thiên Kinh”(Tỉnh Bạn Trần Gian). Thế mà xưa nay, không mấy người chịu hành trì cho đúng cách.

        -Từ trước tới giờ, người niệm Phật chẳng phải là không có, song niệm cho được nhứt tâm bất loạn thì ít ai làm đặng, nên không thấy kết quả. Do đó, Đức Thầy kêu gọi mọi người nay hãy trì tâm niệm Phật cho đúng phương pháp thử coi. Nghĩa là phải niệm làm sao cho tiếng niệm nghe đều đều và hòa vào nhịp thở của con tim. Tuy không niệm ra tiếng mà tai vẫn nghe rõ, từng chữ một nơi tâm, không hề gián đoạn hoặc vọng tưởng xen vào. Nếu niệm Phật được như thế, tất khỏi cảnh máu đổ thịt rơi trong ngày chiến tranh, tận diệt:“Chữ lục tự trì tâm bất viễn, Thì lâm nguy có kẻ cứu mình”(Kệ Dân, Q.2).

 

CHÚ THÍCH :

        ĐỨC ÂN: (Xem lại chú thích nơi câu 81 trên).

        XỬ PHÂN: Cũng gọi là phân xử. Có nghĩa xử trí cho hợp lẽ. Ví dụ: Phân định việc phải quấy mỗi bên rất công bằng hợp lý.

        HÙNG HÀO: Mạnh mẽ và hào phóng. Đây chỉ cho sự nóng giận, làm dữ. Ví dụ: Ra vẻ hung hào giận dữ.

        HIỀN ĐỨC: (Xem lại chú thích nơi câu 66 trên).

        GIÁO HÓA: Dạy dỗ và mở mang (khai hóa). Dùng sự giáo dục mà cảm hóa mọi người. Ví dụ: Cảm hóa dân chúng, cảm hóa con cháu.

        VÀNG MƯỜI: (Xem lại chú thích nơi câu 109).

        SẠ DƯƠN: (Xem lại chú thích nơi câu 112).

        NAM MÔ: (Xem lại chú thích tại tr.81 Tập 1/3).

        SÁU CHỮ DI ĐÀ: Do chữ “Lục Tự Di Đà”, tức sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ý dạy tu Pháp Môn Tịnh Độ, hành giả luôn trì niệm danh hiệu Đức A Di Đà, sẽ được Ngài cứu độ vãng sanh Cực Lạc hoặc chứng Di Đà tự tánh. Đức Thầy từng dạy:“Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ, đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc”(Niệm Phật, tr.212 SGTVTB 2004).

        TẾ ĐỘ: Cứu giúp và đưa qua. Chư Phật cùng hàng Bồ Tát dùng pháp giáo và các phương tiện tế độ chúng sanh rời bờ mê, sang bến giác, khỏi bể khổ sanh tử, đến Cực Lạc Niết Bàn. Đức Thầy có câu:

                “Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,

                  Ra tay tế độ dắt lần về ngôi”(Bóng Hồng).

        NIỆM SÀNH: (Xem lại chú thích chữ “niệm Phật cho rành“ tại tr. 113 Tập 1/3).

        TRÌ TÂM: (Xem chú thích nơi câu 449 Q.2 Tập nầy).

        RẠCH TIM: Vạch tâm. Ý toàn câu dạy người niệm Phật phải đem tiếng niệm Phật để vào tâm và trì niệm mãi cho đến khi tâm và Phật tương ưng thì được thoát qua các tai nạn khổ ách. Như Đức Thầy từng dạy :“Rán tu đem được Phật vào trong tâm”(Sấm Giảng Q.1) và:“Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt, Thì nạn tai cũng thoát như không”(Sa Đéc). .

 

                               CHÁNH VĂN

253.         Để sau đến việc tả-tơi,

        Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành.

                Ngày nay chim đã gặp cành,

256. Chẳng lo đậu lại cho rành gió mưa.

                Tu hành nhiều kẻ chẳng ưa,

        Mặc ai gièm siểm sớm trưa chẳng màng.

                Gẫm trong thế-sự trần-hoàn,

260. Người hung người ác tà-gian cũng nhiều.

                Thương đời ta mới đánh liều,

        Mong người tu tỉnh ít nhiều cũng hay.

                Muốn tu còn đợi chiều mai,

264. Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư.

                Những người có của tiền dư,

        Hãy nên bố-thí dành tư làm gì.

                Sau đây nhiều chuyện ly-kỳ,

268. Kể sao cho xiết vậy thì dân ôi !

LƯỢC GIẢI (Từ câu 253 đến câu 268) :

        -Đoạn giảng trên Đức Thầy khuyên bá tánh, nếu không sớm lo làm lành niệm Phật để khi gặp khổ ách, dầu có muốn tu cũng chẳng kịp, bởi sự tu không phải chỉ một sớm một chiều mà thành công được. Sống giữa thời mạt pháp may mắn gặp chánh Đạo, nếu chúng sanh chẳng sớm nương theo, không khác nào loài chim gặp cành cây tốt lành, chẳng chịu đậu, ắt bị mưa bão làm nguy hại.

        -Ở thế gian nhiều kẻ không thích việc tu, còn dùng đủ tiếng gièm pha nhạo báng, song đối với người đã quyết tâm hành Đạo thì chẳng màng kể. Xét lại cõi đời không được mấy người hiền đức, phần đông là kẻ gian tà hung ác.

        -Vì lòng quá thương xót sanh linh, nên dù đời có nhiều bạc đãi, Đức Thầy cũng:“Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi”(Dặn Dò Bổn Đạo). Ngài mong sao mọi người đều thức tỉnh tu hành, dầu nhiều ít gì cũng có kết quả. Lại có số người cũng muốn tu, nhưng cứ mãi trù trừ lần lựa, nên Ngài khuyên họ càng sớm tu càng tốt.

        -Đối với những người giàu có, Ngài dạy nên mở lòng bố thí, giúp đỡ hạng cơ bần để gây phúc duyên về sau. Nếu ai mãi:“Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát lọan khó mà yên thân.”(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện). Bởi sau nầy có nhiều biến chuyển lạ lùng, không sao tả xiết, bao nhiêu của tiền vàng bạc đã dành giụm từ trước phải bị tiêu sạch:

                “Giàu sang như nước trên nguồn,

           Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ”(Sấm Giảng Q.1).

 

CHÚ THÍCH :

        TẢ TƠI: Cũng gọi là tơi tả. Có nghĩa rách nát, ten ben, lòng thòng nhiều miếng. Ý chỉ cảnh chiến tranh, chạy giặc khiến dân chúng phải đói rách tơi tả.

        GIÈM SIỂM: (Xem lại chú thích tại tr.179 Tập 1/3).

        TRẦN HOÀN: (Xem lại chú thích tại tr.82 Tập 1/3).

        TÀ GIAN: Tà vạy, gian xảo, không ngay thẳng, chánh đáng.

        TU TỈNH: (Xem chú thích nơi câu 342 Q.2 Tập nầy).

        BỐ THÍ: Phạn ngữ: Dâna, phiên âm là Đàn-na, dịch là Bố thí. Vốn là một trong Lục độ (sáu pháp Ba La Mật của chư Bồ Tát thường hành). Bố là bủa ra, rải ra, thí là cấp cho. Vậy, Bố thí là đem cái sở hữu của mình giúp cho kẻ khác. Đức Thầy từng kêu gọi:

                “Nếu đã xả thân tầm Đạo đức,

                  Mở lòng bố thí ngộ thần ca”.

                        (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)

        Bố thí có 3 cách:

        1/- Tài Thí: Là đem những cái gì thuộc về mình, như: tiền vải, lúa gạo, thuốc men ban cấp cho kẻ nghèo đói bệnh tật, hoặc góp công của vào các việc từ thiện khác.v.v…Đức Thầy hằng dạy:

                “Khá thương những kẻ bần cùng,

                   Tâm lành dư của hãy dùng vào đây”.

                        (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện) 

        2/- Pháp Thí: Là dùng lời lẽ, trí huệ giảng dạy Đạo lý hoặc ấn tống Kinh Giảng để người khác được xem nghe, tỉnh ngộ tu hành. Đức Thầy dạy:“… đi các nơi giảng giải Đạo Phật cho đại chúng nghe, hoặc giả mở trường dạy Đạo Phật”(VNPG Liên Hiệp Hội/ Ban HL và TB, tr. 513 SGTVTB 2004). Và về Kinh Giảng, Ngài cũng dạy rõ:“Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành”(Kh/Thiện, Q.5) Và:

             “Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,

         Mà truyền bá đặng nhiều phước đức”.(Kệ Dân, Q.2).

        3/- Vô Úy Thí: Là phương tiện giúp cho người khỏi cơn sợ hãi, bằng cách: dùng lời lẽ an ủi hoặc đem tánh mạng đỡ gạt hay bảo vệ cho người được an ổn…

        Bố thí lại còn chia làm hai phần:

        1)- Sự tướng Bố thí: Cũng gọi là “Trụ tướng bố thí”, tức là lúc đem tài vật thí ra cho người mà lòng còn phân biệt người là kẻ thọ thí, ta là kẻ bố thí, khởi tâm mong cầu tiếng khen và được phúc báo. Nhơn đó làm cho bản ngã càng tăng trưởng, sự tôn ti thêm nảy sanh, khiến cho sự bất bình đẳng một ngày một chất ngất, để rồi phải hưởng cái quả sai biệt nhỏ nhen.

        2)- Lý tánh Bố thí: Cũng gọi là “Vô trụ tướng Bố thí”. Tức là lúc thi hành công việc bố thí xét vì lòng từ bi, vì bổn phận mà làm, ngoài cảnh không chấp mắc, trong tâm chẳng nhiễm ô, không hề tham cầu phước báo; cũng không phân biệt nhơn ngã, tôn ti và chẳng trụ vào: Sắc, thinh, hương, vị, xúc pháp mà bố thí. Trong Kinh Kim Cang, Phật bảo: Bố thí không trụ tướng thì được phước đức chẳng thể so sánh, nghĩ lường được (Bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất ngã tư nghị).

        Đức Thầy nay cũng dạy:

        “Giúp đời đừng đợi trả ơn,

    Miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng”(Sám Giảng Q.3).

        LY KỲ: Lạ lùng kỳ dị. Chuyện rất ly kỳ.

 

                                 CHÁNH VĂN

269.         Tại sao chẳng cúng chè xôi,

        Bởi vì tận thế Phật thôi ăn chè.

                Cũng không có muốn hoa-hoè,

272. Lầu đài sơn phết cũng là chẳng ham.

                Ai chê khờ dại cũng cam,

        Chớ Tôi cũng chẳng có ham lầu đài.

                Chữ tu hãy rán miệt-mài,

276. Đừng kể vắn dài đừng nệ mau lâu.

                Giáo khuyên khắp hết đâu đâu,

        Bớt điều mị-dối mới hầu thấy Ta.

                Đừng theo lũ quỉ lũ ma,

280. Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen.

                Chết rồi cũng bớt cóc keng,

        Trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì.

                Đàn nhu thầy lễ cũng kỳ,

284. Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng ?

                Lại thêm đờn địch từng tưng,

        Đem con heo sống mà dưng làm gì ? 

                Chủ gia kẻ lạy người quì,

288. Làm chuyện dị-kỳ giả-dối hay không ? 

                Nếu không thì trả lời không,

290. Bằng mà có dối thì hòng sửa đi.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 269 đến câu 290) :

        -Từ trước đến giờ các chùa thường dùng chè xôi, bánh trái cúng Phật. Nay sắp đến ngày tận diệt, Đức Thầy khuyên bá gia không nên cúng như thế nữa bởi chư Phật không hề dùng bất cứ một thức ăn nào ở thế gian. Nếu ai quan niệm rằng chư Phật còn ăn uống và cúng có lễ vật mới được chứng minh thì rất sai lầm mê tín:“Chẳng ham cúng kiếng chè xôi, Phật Trời chẳng muốn điều tồi ấy đâu”.(Sấm Giảng Q.1). Ngài cũng dạy chư thiện tín lìa bỏ âm thinh sắc tướng để:“Làm vô vi Chánh Đạo mới mầu”.(Kệ Dân, Q.2), chớ Ngài đâu có muốn chùa lầu sơn phết mà bá tánh lo gây tạo rồi đổ thừa cho Phật.

        -Đức Thầy luôn noi gương Đức Phật, không ham nhà cao chùa lớn, tài sắc vị danh, dù người đời có chê là khờ dại Ngài cũng cam chịu. Trên đường tu mỗi người phải bền tâm kiên chí, không nên chán nản trước lộ trình xa thẳm hay công phu khó nhọc. Vì rằng:“Tuy xa mà tới mấy hồi”(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện). Và:“Hết khổ lao thì đến vui cười”(GMTK, Q.4).

        -Ngài khuyên khắp giới tu hành hãy diệt trừ những sự trạng tà mị, gian dối để thật tâm thành ý tu hành, mới mong gặp Thầy thấy Phật. Bỏ hẳn sự giết các sanh vật cúng tế quỉ thần, vì các hạng ăn đồ cúng kiếng của thế gian là tà thần, ma mị. Nếu ta tin tưởng, nó sẽ ăn quen và càng theo phá hại ta mãi.

        -Đến như trong gia đình có người từ trần, không nên rước thầy lễ, thầy cúng, bày ra trống đờn chuông mõ hay nhạc lễ rình rang. Về  việc báo hiếu, Đức Thầy có dạy:“Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành tâm cầu nguyện, chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu thuận nhơn nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện rồi im lặng đi chôn”(Cách Thờ phượng, hành lễ…/Tang Lễ, tr.203-204  SGTVTB 2004).

        -Còn việc tế thần hoặc làm tuần, làm đám không nên sát sanh hại vật hay đem thịt sống lên bàn thờ mà cúng. Vì các vật ấy người quá vãng chẳng hề dùng được, làm thế không những vô ích mà còn gây thêm nghiệp tội cho người chết. Do đó, Đức Thầy khuyên mọi người nên xét rõ các việc nói trên, nếu thấy là giả dối và mê tín thì hãy mau cải sửa đi !

 

CHÚ THÍCH :

        TẬN THẾ: (Xem lại chú thích nơi câu 25 Q.2 cùng Tập nầy).

        HOA HÒE: Lòe loẹt, rực rỡ màu săc. Ý chỉ những cái đẹp đẽ hào nhoáng bên ngoài, nhưng bên trong chẳng thật tốt. Đây chỉ về sắc tướng.

        CŨNG CAM: Cũng đành lòng, nhận chịu.

        MIỆT MÀI: Cũng gọi là mài miệt. Miệt là mải miết, cần cù chăm chú. Mài là cọ xát nhau. Nghĩa bóng là bền chí chuyên cần không lơ đễnh.

        MỊ DỐI: Nịnh hót, gian xảo dối trá.

        CÓC KENG: Là chỉ chung cho những thứ trống kèn, chiêng mõ, dùng để đánh lên trong khi tế lễ.

        TẾ XEN: Tế là làm lễ cúng theo nghi tiết; xen là chen vào giữa. Tế xen là làm cho buổi lễ rình rang thêm lên.

        ĐÀN NHU: Đàn nho. Chỉ việc tế lễ tang ma theo Nho giáo.

        PHỦ PHỤC: Lạy sụp xuống.

        BÌNH HƯNG: Bình là bằng; hưng là đứng dậy. Tiếng của học trò lễ xướng lên trong khi tế lễ.

        ĐỜN ĐỊCH: Cây đờn và ống tiêu. Ý chỉ chung mọi thứ đờn (đàn). Ví dụ: Đờn địch tối ngày.

        TỪNG TƯNG: Âm thanh nhạc điệu do người khảy đàn phát ra.

        ĐEM CON HEO SỐNG MÀ DƯNG LÀM GÌ: Theo cổ lệ từ trước, những cuộc tế Thần (Thành Hoàng Bổn Cảnh) trong các ngôi đình, người ta làm thịt heo rồi để sống nguyên con đem chong trước bàn thần mà tế, chẳng biết vị thần ấy có ăn được thịt sống hay không mà họ cứ nhắm mắt làm càn.

        Vào năm 1939, Đức Thầy có đến đình thần xã Hòa Hảo, thấy cuộc cúng tế như vậy, khi về nhà, gặp Đức Ông (thân sinh của Ngài) Ngài cười dài. Đức Ông liền hỏi:

        – Thầy Tư cười chuyện gì vậy ?

        Ngài đáp:

        – Ông Cả xuống dưới Đình mà coi. Ban Hội Tề đem chong con heo sống trước bàn thần rồi xúm nhau lạy. Ông thần đâu có đòi ăn thịt sống mà làm như vậy; còn các ông Hội Tề lạy biết chừng nào cho hết tội giết heo. Làm trò mị dối như vậy bảo làm sao chẳng cười cho được !

        – Vậy không nên cúng Thần sao ? Đức Ông hỏi lại.

        Đức Thầy đáp:

        – Nên cúng chớ ! Nhưng nên biết, ông thần đình là vị quan cựu thần trung quân ái quốc, được ghi vào sách sử. Vua mới sắc phong về đây, là chánh thần, mà chánh thần thì đâu còn ăn thịt sống, thịt chín gì nữa ! Từ nay ông Cả hãy ra lịnh cúng chay đi.

        Nhờ lời giác tỉnh của Đức Thầy mà từ ấy (1939) đến nay, Đình Thần xã Hòa Hảo và các xã lân cận như: Phú An, Hưng Nhơn.v.v…đều sửa đổi, bỏ hẳn tục lệ sát sanh và hát chầu, hằng năm chỉ tế thần bằng đồ chay. Nhưng phần đông các ngôi đình khác người ta còn mê tín, vẫn giữ y lệ cũ.

 

                                 CHÁNH VĂN

291.         Thương đời Ta luống sầu-bi,

        Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.

                Rung đùi ngâm chuyện trên trời,

        Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.

                Thấy đời Ta cũng héo von,

296. Học nho mà chẳng làm tròn nghĩa-nhơn.

                Khoe mình chẳng có ai hơn,

        Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo.

                Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,

300. Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha.

                Hốt thời cắc bảy cắc ba,

        Nó đòi năm cắc người ta hoảng hồn.

                Lành bay còn ác lại tồn,

304. Đến chừng lập Hội xác hồn lìa xa.

                Mấy anh thầy thuốc Lang-sa,

        Cũng là mổ mật người ta lấy tiền.

                Xin trong anh chị đừng phiền,

308. Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 291 đến câu 308) :

        -Vì thương đời nên lòng Đức Thầy quá xót xa, thấy nhiều người đã học đòi Nho Giáo mà chẳng thi hành nhơn nghĩa, chỉ lo viết thơ ngâm vịnh, nhạo báng thế gian hoặc tình duyên luyến ái.

        -Tự khoe mình tài học chẳng ai bằng, bát cơm, manh áo của họ đều nhờ nghề làm thuốc bắc, chẳng cần thiết đến việc hiền nhơn đạo nghĩa là gì. Hễ có bịnh nhơn đem tới, bất luận nghèo hay giàu họ đều thẳng tay đập đổ.

        -Bấy giờ, giá tiền của mỗi thang thuốc cao lắm là một cắc bảy, thế mà họ đòi tới năm cắc làm cho dân chúng phải rên xiết. Suốt đời họ chẳng làm một việc thiện, nên phúc lành đâu có, chỉ tồn lại các nghiệp tham ác mà thôi. Và những kẻ ấy, đến ngày lập Hội khó mong bảo tồn tánh mạng.

        -Đến như ngành Tây y lại còn thâm độc hơn nữa, một số người hành nghề ấy, chẳng những họ cắt cổ lột da lại còn vơ vét tiền bạc, tận xương tủy các bệnh nhân. Thói thường, hễ trung ngôn thì nghịch nhĩ, Đức Thầy khuyên các hạng làm thuốc nói trên, chẳng nên phiền Ngài, mà hãy xét kỹ lại, nên thi thố nhơn nghĩa hơn là tham chứa tiền tài. Bởi tiền bạc không cứu giúp được ta, khi nghiệp quả đã mùi:

        “Gẫm kim-tiền bội-bạc bất tài.

        Không làm cho ta được sống dai,

        Lại chẳng bước tiễn đưa một bước”(Kh/Thiện, Q.5)

 

CHÚ THÍCH :

        HÉO VON: Cũng viết là héo don hay héo hon. Có nghĩa khô héo, âu sầu tiều tụy. Ý nói lòng xót xa vô hạn. “Ruột tằm ngày một héo don”(Truyện Kiều).

        HỌC NHO: Cũng gọi là Nho học. Học thuật của Nho gia, học về giáo thuyết của Đức Khổng Tử.

        NGHĨA NHƠN: (Xem lại chú thích tại tr.275 Tập 1/3).

        THUỐC BẮC: Thuốc trị bịnh, phần nhiều bằng lá, vỏ, rễ, củ của các loại cây (gốc Trung Hoa) do các Đông y dùng điều trị bệnh nhơn. Ví dụ: Hốt thuốc bắc, thầy thuốc bắc.

        HIỀN NHƠN: Người có đức độ hiền lành, thuần hậu. Đức Thầy có câu:“Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn”(Sám Giảng, Q.3)

        CẮC BẢY CẮC BA: Tiền bấy giờ (1939) mười xu người ta kêu là một cắc (miền Bắc gọi là một hào). Giá mỗi thang thuốc bắc thời ấy chừng một cắc ba (13 xu), cao lắm là một cắc bảy (17 xu). Thế mà các thầy thuốc Đông y đòi ăn tới năm cắc (50 xu),  tiền lời của họ gấp  hai tiền vốn.

        THẦY THUỐC LANG SA: Chỉ cho các Bác sĩ, y tá trị bịnh bằng Âu dược (thuốc Tây).

        PHI ÂN: Chẳng phải, chẳng ân nghĩa gì hết.

 

                                CHÁNH VĂN

309.         Muốn sau được dựa Các-Lân,

        Hãy nên trau sửa hiền-nhân mới là.

                Những người quê dốt thật-thà,

312. Cũng nên tu niệm nhờ mà thân sau.

                Lập đời mới biết thấp cao,

        Bây giờ chưa biết ai thau ai chì.

                Đời xưa có Ngũ-Viên-Kỳ,

316. Đem tài học thuốc hiến thì cho dân.

                Người xưa còn chẳng cần thân,

        Miễn cho trong nước chúng dân được nhờ.

                Để tâm yên-lặng như tờ,

320. Nghĩ suy lời lẽ tỏ mờ thể nao.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 309 đến câu 320) :

        -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ khuyên: Nếu ai muốn sau nầy được gần đền vàng điện ngọc, thời hiện giờ hãy sớm sửa mình để trở thành hiền nhơn quân tử. Những người chơn chất làm ăn, tuy là quê dốt, song nếu biết niệm tưởng Phật Trời, tu thân hành đạo thì thời gian sau hoặc hậu kiếp được hưởng điều cao quí.

        -Hiện giờ kẻ dữ người lành, thật giả còn đang lẫn lộn, nhưng đến ngày lập lại Thượng ngươn, nhơn loại phải trải qua cuộc chọn lọc, chừng ấy sẽ rõ ai cao, ai thấp.

        -Xưa, thời Ngũ Đế có quí ông: Ngũ Tử, Hiên Viên và Kỳ Bá, đã dốc hết tâm trí kê cứu các phương thuốc điều trị bệnh nhân. Các Ngài chẳng màng đến sự lao tâm mệt xác, hay lợi lộc miễn sao cho toàn thể dân chúng được an lành.

        -Nay Đức Thầy khuyên mọi người, nên bình tâm suy nghĩ những lời chỉ dạy của Ngài cho thấu đạt nghĩa lý, thế nào là sáng tỏ vinh quang và thế nào là mê mờ u tối.

 

CHÚ THÍCH :

        CÁC LÂN: Các là gác lầu; lân là thềm bực. Ý chỉ cho đền vàng điện ngọc của vị Thánh Vương Việt Nam sau nầy.

        AI THAU AI CHÌ: Thau là loại đồng pha kẽm. Chì cũng đồ kim loại màu xám, chất dễ chảy hơn. Thau có giá trị cao hơn chì. Đây chỉ ngày lập đời sẽ có cuộc chọn lọc để biết rõ ai giả ai thật, hoặc ai cao ai thấp.

        NGŨ VIÊN KỲ: Sách “Nội Kinh Huỳnh Đế” có chép: Vào thời Ngũ Đế có ba ông: Ngũ Tử, Hiên Viên và Kỳ Bá đem hết trí năng nghiên cứu các thứ bịnh và thí nghiệm những loại thảo mộc, để tìm ra dược phẩm trị bịnh cứu dân, lòng các Ngài chẳng hề mong cầu lợi lạc. Đức Thầy nhắc chuyện nầy để chỉ cho sự giúp đời bất vụ lợi, của những bực đầy lòng vị tha bác ái và cũng khuyên mọi người noi gương từ thiện nói trên.

        THỂ NAO: Thế nào, hãy xét rõ công việc ấy coi ra sao (như thế nào).

 

                                 CHÁNH VĂN

321.         Luận xem thế sự thấp cao,

        Khuyên dân hãy bớt làm màu hiếu nhi.

                Bớt bỏ rình-rang một khi,

324. Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.

                Là lời truyền-giáo của Thầy,

        Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.

                Còn mình muốn đãi làng thôn,

328. Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.

                Gẫm trong thế sự nực cười,

        Chẳng lo cải sửa cho người tâm ngay.

                Mình làm chữ hiếu mới hay,

332. Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.

                Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,

        Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.

                Mục-Liên cứu mẹ bằng nay,

336. Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ-bi.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 321 đến câu 336) :

        -Sau khi luận việc cao thấp của sự đời, Đức Giáo Chủ khuyên bá tánh trong việc tang ma không nên bày vẽ linh đình mà hãy làm theo lời khuyên dạy của Ngài.

        -Nếu trong gia đình có ông bà hoặc cha mẹ từ trần, nên vọng bàn giữa trời cầu Phật, trên bàn chỉ được dùng ba món: bông hoa, nước lã và nhang. Khi cầu nguyện xong im lặng đi chôn. Còn đối với làng xóm hãy tùy nghi mà dùng lời lẽ giã ơn với mọi người, bởi “Tiếng chào cao hơn cỗ”. Nếu cần phải đãi đằng cơm nước thì Ngài dạy:“Những điều nào xét ra thấy giản tiện ít lãng phí cứ làm”.

        -Thẩm xét sự đời, Ngài cũng bắt buồn cười cho bá tánh, sao chẳng sớm tu sửa lòng mình cho được ngay chánh và hiếu sự phải tự mình thi hành mới đúng lẽ. Nhược bằng cứ bỏ tiền ra mướn các thầy đám tụng kinh cầu siêu, không bao giờ được kết quả.

        -Vậy muốn cho nghiệp tội của ông bà cha mẹ mau tiêu rỗi, con cháu cần sớm giác ngộ tu hành, mỗi sáng chiều hằng thành tâm cầu nguyện. Noi gương Đức Mục Kiền Liên rèn lòng từ bi, hiếu hạnh đi đến chỗ chứng đạo giải thoát. Đức Thầy từng khuyến tấn:

                “Rán tu đắc Đạo cứu Cửu Huyền,

                  Thoát chốn mê đồ đến cảnh Tiên.

                  Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo,

                  Cho ta hình vóc học cơ huyền”.

                                   (Giải Thoát Cửu Huyền)

 

CHÚ THÍCH :

        LÀM MÀU HIẾU NHI: Làm ra vẻ người con hiếu để che miệng thế gian, chớ không thật tâm lo.

        RÌNH RANG: Ồn ào rộn rịp, chưng diện rực rỡ có tính cách long trọng.

        ĐÁP NGÔN: Giã ơn bằng lời nói.

        THÀNH TÂM: Lòng chí thành chí thật. Cổ đức từng bảo:“Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai”.(Ý nói sức thành tâm khẩn thiết hướng về đâu, có thể chẻ núi phá vàng đến đó). Nên Đức Thầy hằng dạy:

                “Thứ bảy chánh niệm vậy thì,

          Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.

                                        (Dặn Dò Bổn Đạo)

        MỤC LIÊN CỨU MẸ: Mục Kiền Liên, vốn là một trong “Thập Đại Đệ Tử” của Đức Phật Thích Ca. Ngài là bậc thần thông đệ nhứt. Khi chứng quả A La Hán, Ngài dùng thiên nhãn nhìn thấy mẹ là bà Thanh Đề đang bị đọa tại ngục a-tỳ, chịu sự hình phạt đói khổ thảm thiết. Ngài dùng thần thông đem bát cơm đến dâng cho mẹ dùng. Nhưng khi vừa bưng lên, bỗng bát cơm hóa ra lửa bốc cháy, bà ăn không được nên bà rất hối hận tội lỗi của mình. Mục Kiền Liên trở về cầu Phật giúp cho phương cách cứu mẹ.

        Thấy lòng hiếu thảo của Mục Liên, Phật động từ tâm, dạy ông thiết lễ Vu Lan Bồn, để nhờ sự hồi hướng công đức của các Thánh Tăng cộng với sự hối hận của bà và oai lực của Đức Phật gia hộ, nên Ngài Mục Liên cứu mẹ ra khỏi ngục A Tỳ.

                              CHÁNH VĂN

337.         Ai ai hãy rán mà suy,

        Thương đời Ta tỏ chuyện ni rõ-ràng.

                Làm tuần trà rượu xình-xoàng,

340. Rồi thì chưởi-lộn mà an nỗi gì ?

                Dương-trần làm chuyện dị-kỳ,

        Tạo nhiều cảnh giả chơn thì chẳng theo.

                Của tiền chớ có bỏ theo,

344. Chết rồi tế-lễ bò heo làm gì ?

                Nếu ai biết chữ tu trì,

        Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.

                Không làm để ở lung-lăng,

348. Chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì.

                Ở cho biết nhượng biết tùy,

        Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.

                Đạo là vốn thiệt cái đàng,

352. Ta ra sức dọn cho toàn chúng-sanh.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 337 đến câu 352) :

        -Vì lòng thương đời Đức Thầy mới phân giải rõ ràng: từ trước những đám làm tuần, người ta thường bày ra tiệc lễ linh đình, say sưa rượu thịt. Đã say, đâu còn phân biệt phải quấy, nên giữa anh em tộc họ thường xảy ra cuộc chửi mắng, ấu đả lẫn nhau, như vậy đâu ích lợi và an ổn chút nào.

        -Ở đời, khi có việc xảy ra người ta ít chịu nhận xét cho chính xác để làm theo chân lý. Phần đông là họ cứ bày vẽ nhiều việc lạ lùng, toàn là giả dối. Cho nên Đức Thầy dạy hãy bỏ tục lệ đem tiền của theo cho người quá vãng, bởi kẻ chết đã sang qua cảnh giới khác thì tiền bạc và vật thực cõi nầy, chẳng xài được. Còn việc sát hại gà vịt, bò heo lại là vô lý và tai hại hơn nữa, vì làm thế người chết không dùng được mà còn mang thêm nghiệp quả.

        -Vậy ai là người biết giác ngộ tu hành, muốn báo hiếu cho đúng cách thì lúc cha mẹ còn sanh tiền, nên cung phụng các thức ăn, mặc, ở cho đầy đủ. Thường thấy nhiều người không biết bổn phận đối với cha mẹ, lại còn ăn nói nghinh ngang hỗn ẩu, thật là điều tội lỗi đáng trách !

        -Con người khôn ngoan đạo đức, lúc nào cũng vâng lời cha mẹ, việc cư xử trong gia đình, thân tộc đều biết nhân nhượng thuận hòa, khiến cha mẹ được hài lòng, Đức Thầy đã vạch rõ con đường đạo hạnh, chúng sanh nào muốn đạt đến chỗ vinh quang hạnh phúc, cứ nương theo đó tiến hành, ắt được toại nguyện.

 

CHÚ THÍCH :

        CHUYỆN NI: (Xem lại chú thích tại tr.277 Tập 1/3).

        XÌNH XOÀNG: Cũng gọi là xoàng xoàng. Có nghĩa chếch choáng, cháng váng (say rượu). Ví dụ: Mới ba ly đã xình xoàng.

        LÀM TUẦN: Lễ cầu nguyện (cầu siêu) và cúng người chết: cúng mỗi tuần (7 ngày hay một thất) một lần suốt trong 7 tuần đầu tiên, rồi sau đó cúng vào ngày thứ 100 (bá nhựt), cúng giáp năm và giáp hai năm (gọi là mãn tang hay mãn khó).

        DỊ KỲ: (Xem lại chú thích tại tr. 179 Tập 1/3).

        TẾ LỄ BÒ HEO: Từ trước những gia đình giàu sang, trong nhà có người chết, họ liệm vô quan tài, hoàn lại đó rồi giết bò heo cúng tế cả tuần mới đem chôn. Điều nầy xét ra thấy rất sai lầm, bởi làm thế, người chết đâu có ăn được, lại còn mang thêm nghiệp tội.

        Xưa, có một trưởng giả rất giàu có, thâm tín Tam Bảo, thường làm nhơn bố thí. Sau khi mạng chung, con cháu dùng hỏa táng, thu nhặt tro tàn đựng vào bình đặt lên bàn hương án. Chúng chuẩn bị gà heo cùng các thứ cao lương quí giá, cúng kiếng linh đình, rồi xúm nhau khóc kể thảm thiết.

        Nhờ nhân bố thí, hồn trưởng giả đó được sanh về cõi Trời làm vị Thiên đế, ông nhìn xuống thấy con cháu dại dột, vì thương cha mẹ làm việc vô ích. Muốn thức tỉnh con cháu, ông bèn hóa ra tên mục đồng, tay ôm bó cỏ, tay dắt trâu đến sân nhà tế lễ ấy. Đến nơi, vừa cột trâu, trâu ngã ra chết, mục đồng lấy cỏ đút vào mồm trâu bảo ăn, trâu không ăn được, nó giận dữ lấy roi đánh đập, quát tháo ầm ỹ. Mấy người con vị trưởng giả thấy vậy bảo:

        – Nầy chú bé kia ! Sao khờ khạo đến thế ? Trâu đã chết làm sao ăn được nữa mà phải hoài công la hét !

        Đứa bé đáp:

        – Trâu mới chết mồm miệng vẫn còn đây, còn có thể hy vọng hơn các người bày lễ linh đình trước bình tro tàn, rồi khóc kể có khôn gì ?

        Cả nhà Trưởng giả nghe trả lời ngạc nhiên tỉnh ngộ, hỏi:

        – Ồ thật rất thông minh. Ngươi là con nhà ai và ở đâu đến đây ?

        Đứa bé đáp:

        – Ta chính là Trưởng giả. Cha các ngươi đây !

        Nhờ phụng sự Phật pháp mà nay ta đã sanh Thiên, thấy các ngươi không nghe theo lời ta, lo tu hành, mãi đeo đắm tình thương quyến thuộc làm điều vô ích, lại gây thêm nghiệp sát hại, nên ta về đây giác tỉnh các ngươi. Nếu chẳng sớm cải hối, ta cùng các người đồng vương thêm nghiệp tội không nhỏ. Nói xong, Thiên Đế biến lên Thiên cung, con cháu đồng ăn năn tỉnh ngộ, bỏ việc sát sanh.

        Lúc Đức Phật còn trụ thế, Ngài thường dạy các môn đồ:“Nếu ai vì thân nhơn quá vãng mà tu tập các việc phước đức thì trong bảy phần, vong nhơn hưởng một, sáu phần kia người sống tự huởng. Trái lại, nếu vì người chết mà sát hại sanh vật cúng tế tạo nhiều nghiệp ác, ắt vong nhơn phải chịu họa lây”.

        Ngày nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng giác tỉnh:

                “Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên,

                  Ma lớn chay to phí lắm tiền.

                  Tưởng vậy xác thân đa hạnh phúc,

                  Nào hay hồn phách lắm oan khiên”.

                                (Tỉnh Bạn Trần Gian)

        TU TRÌ: (Xem lại chú thích tại tr.84 Tập 1/3).

        THIẾU GÌ: Thiếu chi, nhiều lắm.

        BIẾT NHƯỢNG BIẾT TÙY: Biết nhân nhượng, nhún nhường và vâng lời thuận thảo.

        ĐẠO: (Xem chú thích tại tr.128-130 Tập 1/3 ).

 

                                   CHÁNH VĂN

353.         Thôi thôi bớt miệng hùng-anh,

        Ở nơi cửa khẩu thiệt rành tiếng ni.

                Chưng bày quân-tử làm chi,

356. Của đồ hổ-bịt vậy thì xưng hô.

                Lũ đàng lũ điếm hồ-đồ,

        Anh-hùng quân-tử xưng hô rền trời.

                Gặp ai mắc nạn cười chơi,

360. Chớ không ra sức giúp đời điều chi.

                Hổ mình là bực tu mi,

        Chưa tròn bổn-phận mà ti tôn mình. 

                Kể từ thượng lộ đăng trình,

364. Vào Nam ra Bắc mặc tình bôn-phi.

                Khuyên răn trần-thế một khi,

366. Tuồng đời sắp hạ bằng ni rõ ràng.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 353 đến câu 366) :

        -Thường thấy số người miệng hay khoe khoang lớn lối, tự cho mình là tài giỏi, là anh hùng quân tử, nhưng hành động chẳng ra gì, nên Đức Thầy khuyên họ hãy bỏ bớt tánh xấu ấy đi !

        -Cũng có hạng chỉ biết rong chơi trụy lạc, ăn nói hàm hồ, cống cao tự đại, nhưng khi gặp người lâm nạn thì họ trơ mắt ra nhìn, chẳng hề có chút lương tâm ra tay giúp đỡ, lại còn thỏa thích nhạo chê là khác. Là bực râu mày nam tử, với bổn phận không tròn, họ đã chẳng biết tủi thẹn, lại còn khoe khoang tự đắc.

        -Lúc Đức Thầy lên đường độ thế, từ miền Nam sang ra đất Bắc, Ngài hằng lui tới khai truyền chánh pháp, giáo hóa lê dân:“Chuyển miền Nam địa lung lay, Nam, Trung cùng Bắc một tay giáo đời”.(Để Chơn Đất Bắc). Ngài khuyến cáo cho bá tánh rõ, tuồng đời hiện tại sắp hết, để chuyển sang cuộc diện mới.

 

CHÚ THÍCH :

        QUÂN TỬ: (Xem lại chú thích nơi câu 471 Q.2 cùng Tập nầy).

        CỦA ĐỒ HỔ BỊT: Chỉ những hạng ăn ở lố lăng phách lối. Ví dụ: Thứ hổ bôn hổ bịt, chẳng ra gì.

        LŨ ĐÀNG LŨ ĐIẾM: Bọn người gian xảo ăn chơi phóng đãng (trà đình tửu điếm) Đức Thầy khuyên:“ Điếm đàng đĩ thõa chớ gần”(Sám Giảng, Q.3).

        HỒ ĐỒ: Hàm hồ, không hợp lý; lờ mờ, không rõ ràng gãy gọn. Ví dụ: ăn nói hồ đồ vô lý. “Chim khôn tránh bẫy tránh dò, Người khôn tránh tiếng hồ đồ mới khôn”(Ca dao).

        ANH HÙNG: Anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Nghĩa bóng: chỉ người hào kiệt xuất chúng, có tài làm việc to tát. Sách Vương Thông có nói:“Tự trị giả anh, tự thắng giả hùng”(Tự biết mình là anh, tự thắng mình là hùng). Nhưng toàn câu giảng trên là chỉ cho kẻ bất tài mà thường hay xưng hô lớn lối. Đó là anh hùng rơm:“Anh hùng gì, anh hùng rơm, Cho một bó lửa hết cơn anh hùng”(Ca dao).

        TU MI: (Xem lại chú thích nơi câu 111 Q.2  Tập nầy).

        BỔN PHẬN: Phận sự, phần việc của mình. Một phần nghĩa của chữ Đạo. Ví dụ: Bổn phận làm con, bổn phận làm công dân, làm cha mẹ.v.v…

        TI TÔN MÌNH: Tự hào, cho mình là tài giỏi, là cao quí hơn người.

        ĐĂNG TRÌNH: Lên đường, khởi hành (ra đi).

        BÔN PHI: Bôn là chạy, phi là bay. Nhưng chữ bôn phi ở đây có nghĩa là bôn ba, lui tới. Đức Thầy có câu:“Bôn phi lê thứ nhiều bề gian nan”(Để Chơn Đất Bắc).

 

                                   CHÁNH VĂN

367.         Dương-gian làm huyễn nói càn,

        Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.

                Hò reo giục trống nhiều câu,

        Sai đồng khiển quỉ nói lâu nực cười. 

                Ta khuyên hết thảy các người,

372. Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.

                Đừng hò đừng réo làm chi,

        Nghinh-ngang kêu múa có khi hại mình.

                Nghe không thì cũng mặc tình,

376. Nói cho rõ-rệt dân tin không là.

                Quan-Âm Nam-Hải Phổ-Đà,

        Cùng Thầy ra lịnh nên Ta giáo-truyền.

                Thánh Thần không phải thiếu tiền,

380. Mà kêu mà réo xuống trần mà sai.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 367 tới câu 380) :

        -Trong xã hội Việt Nam bấy giờ (1939), có nhiều phù thủy, đồng bóng, cô bà. Họ bày lắm điều huyễn hoặc để lừa bịp dân quê. Nếu ai có bịnh, rước họ đến thì nào: đờn kèn trống phách, bày binh bố trận, nào sai đồng khiển tướng, tróc quỉ trừ ma toàn là những việc mê tín giả dối, chỉ làm trò cười cho thiên hạ, nên Đức Thầy khuyên họ hãy bỏ dứt tệ trạng ấy đi.

        -Vì họ chữa trị bịnh nhơn khi thì đọc thần chú, kêu gọi danh tánh các bậc Thần Tiên mà sai khiến làm điều tà mị theo ý muốn, nên phải tội lộng ngôn, phạm thượng; hoặc cho sát sanh hại vật cúng tế quỉ ma, khiến chúng ăn quen mà quanh quẩn theo họ, phá hại xóm làng:“Đừng theo lũ quỉ lũ ma, Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”(Sám Giảng, Q.3).

        -Đức Giáo Chủ kêu gọi bá tánh hãy trở lại con đường chánh tín, dầu ai có nghe hay không tùy ý; chớ việc Ngài truyền dạy đây là do sắc lịnh của Đức Quan Âm và Phật Tổ, Phật Thầy. Còn các vị Thần Thánh đâu có thiếu nợ chúng sanh mà muốn sai khiến lúc nào cũng được.

CHÚ THÍCH :

        LÀM HUYỄN: Giả dối, nói làm không chân thật để đánh lừa thiên hạ.

        SAI ĐỒNG KHIỂN QUỈ: Đây là cách trị bệnh của các phù thủy (thầy pháp). Chúng cho người ngồi trùm khăn kín mặt lại, rồi đọc thần chú, khiến một lát thì đồng lên, xưng là cố hỉ thượng động hay thần quỉ chi đó. Đồng đòi ăn heo gà đủ thứ, phần nhiều là họ lên giả; thấy việc huyễn hoặc và mê tín, ai xem cũng nực cuời. Nhà thơ Trần Tế Xương đã diễn tả cảnh lên Đồng ấy trong một bài thơ:

                “Khen ai khéo vẽ cảnh lên đồng,

                  Một lúc lên luôn sáu bảy ông.

                  Xác quỉ, ông dùng cây kiếm gỗ,

                  Ra oai, bà giắt cái khăn hồng.

                  Cô giương tay ấn tan tành núi,

                  Cậu chỉ ngọn cờ cạn dốc sông.

                  Đồng giỏi, sao đồng không giúp nước ?

                  Hay là đồng sợ súng thần công ?”

        NAM HẢI PHỔ ĐÀ: theo truyền thuyết nơi biển Nam Hải có một hòn núi tên Phổ Đà, do chữ “Phổ Đà Sơn Thượng”, hay “Phổ Đà Đạt Đạo”. Đức Quan Thế Âm thường ngự tại đó.

 

                                  CHÁNH VĂN

381.         Nam-Mô Quan-Âm Như-Lai,

        Cầu xin chư Phật cứu nay dương-trần.

                Khuyên đừng chưởi Thánh mắng Thần,

384. Xưa nay thứ lỗi thế-trần chẳng kiêng.

                Lưỡng Thần ghi chép liên-miên,

        Nào tội nào phước dưới miền trần gian.

                Tâu qua Thượng-Đế Ngọc-Hoàng,

388. Dương trần hung ác đa đoan quá nhiều.

                Chúng-sanh ngang-ngược làm liều,

        Ngọc-Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi.

                Minh-Vương khó đứng khôn ngồi,

392. Thảm thương lê-thứ mắc hồi gian-truân.

                Trước đền mắt ngọc lụy rưng,

        Quí yêu bá-tánh biết chừng nào nguôi.

                Làm sao cho dạ được vui,

396. Cúi đầu lạy Phật cầu xin cứu trần. 

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 381 đến câu 396) :

        -Đoạn nầy Đức Thầy cầu nguyện với Đức Quan Âm Như Lai và chư Phật mười phương, cứu độ chúng sanh thoát qua khổ hải cùng khuyên bá tánh từ nay hãy bỏ hẳn sự kêu Thần Thánh mà nguyền rủa hoặc sai khiến. Bởi từ trước các Ngài đã tha thứ nên chúng dân chẳng kiêng sợ.

        -Tất cả hành động tội hay phước của mỗi chúng sanh ở cõi trần đều được hai vị thần ở hai bên ghi chép đầy đủ, để tấu trình về Thượng Đế. Xét ra, tội của chúng sanh dẫy đầy, còn điều phước thiện chẳng được bao nhiêu.

        -Bởi vì loài người quá ngang tàng, hung bạo, gây nhiều tội trạng, nên Ngọc Đế muốn xử tiêu cho rồi. Song nhờ Đức Minh Vương đầy lòng thương xót lê dân, lâm cơ tận diệt, nên Ngài rất lo lắng tìm phương cứu độ.

        -Ngài thân hành đến quì trước Linh Khứu để cầu xin Đức Phật Tổ nhủ lòng từ bi sắc truyền chư Phật lâm phàm khai đạo, cứu độ lê dân. Điều nầy trong Sấm Giảng Người Đời, Ngài Huệ Lựu nói rõ:

“Ngọc Hoàng cầm sổ nơi tay,

Quyết mà giũ bỏ đời nay hỗn hào.

Nam Tào kinh khủng khấu đầu,

Xin thương trần thế Đạo mầu truyền ban.

Ngọc Hoàng nghe nói rất mừng,

Sai người giá võ qua miền Lôi Âm.

Kế đó Phật Tổ giá lâm,

Tâu cùng Ngọc Đế thấp cao tỏ tường.

Minh Vương có tới Phật Đường,

Giáo khuyên dưới thế trung ương tu trì”.

 

CHÚ THÍCH :

        QUAN ÂM NHƯ LAI: Quan âm. Đọc cho đủ là Quan Thế Âm Bồ Tát, do Phạn ngữ  (scr.): Avalôkitêcvara. Lại cũng có tên là Quán Tự Tại hay Liên Hoa Thủ. Ngài là một vị Đại Bồ Tát  có lòng đại bi hay cứu khổ cứu nạn nên có danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, ở đâu cũng thờ Ngài và cũng niệm đến danh hiệu Ngài.

        Kinh chép: Lúc chưa xuất gia tu hành, Ngài là con đầu lòng của Vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Khi vua cha phát tâm tu hành theo Đức Bảo Tạng Như Lai và khuyên Ngài hết lòng kính tin, sùng bái Tam Bảo. Ngài vâng theo và phát lời thệ nguyện:“Tôi nguyện đem tất cả công đức mà tôi đã cúng dường Tam Bảo và các món thiện căn, tôi đã từng tu tập pháp mầu, xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Nguyện cứu độ tất cả chúng sanh nào khổ đau họa hoạn, khi niệm đến danh hiệu tôi, tôi sẽ dùng oai thần cứu độ thoát khổ và đặng an vui…Nếu chẳng đặng lời thề đó, tôi không thành Phật”.

        Vì vậy, trong thế gian, chỗ nào, lúc nào khi có sự khổ đau, chúng sanh niệm đến danh hiệu Ngài thì Bồ Tát sẽ rộng lòng từ mẫn, dùng pháp mầu cứu vớt chúng sanh đó. Hiện nay Bồ Tát Quán Thế Âm đứng hầu bên trái Đức Phật A Di Đà tại cảnh giới Tây phương Cực Lạc và hằng ngày thị hiện tiếp dẫn chúng sanh khắp mười phương về cõi ấy.

        -Nhưng danh từ “Quan Thế Âm Như lai” còn chỉ cho một Đức Phật thời quá khứ. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Sáu, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát có bạch với Đức Thích ca: “ Bạch Đức Thế Tôn ! Tôi còn nhớ vào thời quá khứ, cách đây hằng hà sa số kiếp, có một Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm Như Lai. Tôi nhờ Đức Phật đó mà phát tâm Bồ Đề, Ngài dạy tôi nương theo ba pháp: Nghe, Nghĩ, Tu mà vào chỗ chánh định”(Thế Tôn ! Ức niệm ngã tích vô số hằng hà sa kiếp, ư thời hữu Phật, xuất hiện ư thế, danh Quán Thế Âm, ngã ư bỉ Phật, phát Bồ Đề tâm, bỉ Phật giáo ngã tùng văn, tư, tu nhập Tam Ma Địa…). Và một đoạn khác, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát nói:“Bạch Đức Thế Tôn ! Bởi tôi cúng dường Thầy tôi là Đức Quán Thế Âm Như Lai, nên tôi nhờ Thầy truyền cho tôi pháp Như hoạn,Văn huân, Văn tư, Kim cang tam muội.

        (1.-Như Hoạn: như tuồng mị, là nói chỗ công phu lúc ban sơ, phải mượn lấy ảnh hưởng của hai cái nghe: Văn Huân và Văn Tu. 2.-Văn Huân: xông cái nghe; chữ nghe đây là chỉ cái tánh nghe thuộc về thể của bản giác, còn xông là xông ướp (huân tập), nghĩa là trau giồi, ý nói bên trong xông ướp cái thể bản giác. 3.-Văn Tu: Tu cái nghe, là quay ngược cái nghe trở vào trong thuộc về trí của bản giác. Còn tu là lấy cái công phu trở lại cái nghe mà tu tới bực viên thông. 4.-Kim Cang Tam Muội: Do nơi cái nghe đã tiến tu mà thành được một tánh đại định bèn chắc như kim cương.)

         Từ lực của tôi đồng với các Phật Như Lai, nên khiến thân tôi thành đặng 32 ứng thân, để tùy thuộc vào các quốc độ mà cứu khổ chúng sanh.” (Thế Tôn ! Do ngã cúng dường Quán Thế Âm Như Lai, mông bỉ Như Lai thọ ngã, Như Hoạn Văn Huân, Văn Tu, Kim Cang Tam Muội, dữ Phật Như Lai, đồng từ lực cố, binh ngã thân hành, tam thập nhị ứng, nhập như Quốc độ…).

        CHẲNG KIÊNG: (Xem lại chú thích nơi câu 194 trên).

        LƯỠNG THẦN: Hai vị thần ở hai bên vai vác là Tả mạng thần và Hữu mạng thần, có trách nhiệm ghi chép việc tội phước của mỗi người để tấu trình về Thượng Đế. Ngài Huệ Lựu đã nói:

            “Thường đêm hương đốt đừng không,

Thời là lại có lưỡng Thần chép biên.

       Chung niên nạp sổ thượng Thiên,

   Thiên đình tùy đó phước hiền ban cho”.

        Đức Thầy cũng bảo:

                “Trách lầm mang nghiệp vào thân,

           Chỉn e vai vác Thánh Thần chép biên”.(Cảm Tác).

 

                                 CHÁNH VĂN

397.         Lời khuyên xưa cũng một lần,

        Nay mượn xác trần xuống bút ra cơ.

                Khôn-ngoan nghe nói ngẩn-ngơ,

400. Ngu-si thì tưởng như thơ biếm đời.  

                Ở đâu cũng Phật cũng Trời,

        Tâm thành chí nguyện xem đời khó chi.

                Văn-Thù Bồ-Tát từ-bi,

404. Chèo thuyền Bát-Nhã cứu thì trần-gian.

                Gió đưa lướt sóng buồm loan,

        Rước người tu niệm xuê-xang phỉ tình.

                Ai mà Ta dạy chẳng gìn,

408. Thì sau đừng trách mất tình yêu-đương.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 397 đến câu 408) :

        -Trước kia Đức Giáo Chủ đã có lần khuyên dạy chúng sanh, hôm nay Ngài cũng chuyển kiếp viết ra cơ giảng, giác tỉnh người đời. Kẻ trí, khi nghe được Kệ Kinh của Ngài, lòng bắt bồi hồi suy nghĩ, còn người quá mê mờ thì họ cho đó cũng như các vần thơ nhạo đời mà thôi.

        -Ngài còn dạy rõ, ai muốn tu hành khỏi cần tìm đến núi cao, rừng thẳm hay chùa miễu am cốc mà bất cứ nơi nào, hễ có lòng thành khẩn, nguyện cầu và chí tâm hành đạo, tất được thấy cảnh:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”(Bài Không Buồn Ngủ). Bởi Đức Thầy hằng khuyên:“Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần, Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh” (Sa Đéc).

        -Giữa lúc thay đổi cõi Hạ ngươn sẽ có Đức Văn Thù Bồ Tát dùng trí lực siêu mầu tiếp độ những người hiền đức lên bờ giải thoát. Còn kẻ nào chẳng nghe lời dạy bảo thì sau đừng trách Phật Tiên thiếu lòng từ ái.

 

CHÚ THÍCH :

        Ở ĐÂU CŨNG PHẬT CŨNG TRỜI: Ý nói nơi nào cũng có Phật Trời không luận chùa am hay nhà cửa, hễ ai có lòng chí thành chí thiết trong việc công phu hành đạo thì Trời Phật cảm ứng mà cứu độ ngay. Đức Phật Thầy từng bảo:

“Đi đâu cho khó nhiều đàng,

Kìa non Bửu Tự, nọ ngàn Ma ha.

     Kiểng nào kiểng chẳng có hoa,

Non nào non chẳng có tòa thiên thai”.

        Đức Thầy cũng thường dạy:

              “Non nước tuy xa đâu cũng trời,

               Cũng Trời, cũng Phật, cũng an nơi”.

                        (Cho Ông Đỗ Văn Viễn)

        TÂM THÀNH: (Xem lại chú thích nơi câu 334 trên)

        CHÍ NGUYỆN: Ý muốn đã nuôi trong lòng và chí quyết thực hành cho kỳ được. Đức Thầy có khuyên:“Trên dưới một lòng chí nguyện tu”(Dụng Kinh Quyền).

        VĂN THÙ BỒ TÁT: Là tiếng gọi tắt chữ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Phạn ngữ: Mânjuri. Có nghĩa: Diệu Đức (đức sáng mầu nhiệm), Diệu Âm (âm thinh mầu nhiệm). Ngoài ra, các kinh điển còn chép tên Ngài là Diệu Thủ Bồ Tát, Phổ Thủ Bồ Tát…Tựu trung đều đề cập đến công hạnh lợi tha, giác chúng của Ngài, với trí tuệ siêu thắng bậc nhất.

        Ngài là một vị Cổ Phật, đã thành Phật từ vô số kiếp, song vì lòng bi mẫn Ngài mới tùy cơ ứng hóa, cứu độ chúng sanh.

        Hồi Đức Phật Thích Ca ra đời, Ngài ứng thân làm Tỳ kheo hầu cận Phật, Ngài đã biểu thị trí tuệ bậc nhứt, trong hàng Đệ tử của Phật, nên Ngài cũng được tôn danh là Pháp Vương Tử (con đấng Pháp Vương). Cho nên đa số các hình tượng thờ Ngài bây giờ, đều với thân tướng trang nghiêm, trên đầu có năm búi tóc biểu thị cho năm trí của Phật. (Năm trí: 1/- Pháp giới thể tánh trí. 2/- Đại viên cảnh trí. 3/- Bình đẳng tánh trí. 4/- Diệu Quan sát trí. 5/- Thành Sở tác trí). Tay cầm thanh gươm, thị hiện lợi khí của trí tuệ tròn đầy và ngồi trên lưng Sư Tử Xanh biểu thị cho sức mạnh của trí tuệ. Chính Ngài đã đem thần chú (Thủ Lăng Nghiêm do Phật truyền dạy) đến nhà Ma Đăng Già, giải thoát cho ông A Nan khỏi sa vào hố tội lỗi.

        Về lược sử của Đức Văn Thù, Kinh Pháp Hoa có chép: Về phương Đông có một nơi gọi là rặng núi Thanh Lương, từ xưa đến nay các vị Bồ Tát đều tập họp nơi đó. Trong số nầy có Văn Thù Bồ Tát và các quyến thuộc tới một vạn người, nhân đó Ngài Văn Thù thường đến thuyết Pháp hóa độ chúng sanh.

        Trong Văn khố Từ Bi Âm lại chép: Đức Văn Thù Bồ Tát lúc chưa thành đạo, Ngài là con thứ ba của Vua Vô Thánh Niệm tên là Vương Chúng Thái Tử.

        Lớn lên, Ngài nhờ Phụ Vương khuyên bảo nên phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và tăng chúng trong ba tháng. Và nhờ quan đại thần Bảo Hải (thân phụ của Bảo Tạng Như Lai) khuyên Thái Tử nên đem công đức ấy mà cầu các món trí tuệ, đồng thời nên hồi hướng về ngôi Phật quả, để hóa độ chúng sanh. Cõi của Ngài phải thanh tịnh trang nghiêm, thọ mạng lâu dài…Nếu không được như trên Ngài nguyện không thành Phật. Nguyện xong, Đức Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho Vương Chúng Thái Tử là Phật Đại Trượng Phu, trí tuệ sáng suốt nhiệm mầu. Phật cũng đặt pháp hiệu cho Ngài là Văn Thù Sư Lợi. Trải vô lượng kiếp sẽ thành Phật, hiệu Phổ Kiến Như Lai, ở thế giới Thanh Tịnh vô cấu bảo chỉ (Có chỗ chép là Phổ Hiến Như Lai hay Phổ Hiện Như Lai) .

        THUYỀN BÁT NHÃ: (Xem chú thích nơi câu 39 Q.2 Tập nầy).

        BUỒM LOAN: (Xem chú thích chữ “thuyền loan” tại tr.211-212 Tập 1/3).

        XUÊ XANG: Sung sướng, tốt đẹp.

        PHỈ TÌNH: (Xem lại chú thích nơi câu 172 trên)).

        YÊU ĐƯƠNG: Cũng gọi là yêu đang, có nghĩa: Tình yêu tự nhiên do huyết thống hay ái tình. Nhưng chữ yêu ở đây chỉ cho sự yêu thương của bậc thầy với đệ tử, của Phật đối với chúng sanh. Đức Thầy, trong bài Tình Yêu, có câu:

                “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,

                  Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sanh”.

Chú giải từ câu 409 – 612 (Quyển III)

CHÁNH VĂN

409.         Bàn-môn tài phép nào tường,

        Kêu Trời giậm Đất cũng thì dạ rân.

                Nói cho trần-thế liệu toan,

412. Chớ theo tả-đạo mà tan xác hồn.

                Nó làm nhiều phép nhiều môn,

        Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng-sanh.

                Thành binh sái đậu cũng rành,

416. Nếu tin thời mắc tan tành về sau.

                Bây giờ bất luận người nào,

        Không dùng của thế sắc màu cũng không.

                Nói cho bổn-đạo rõ lòng,

420. Ấy là chơn-chánh mới hòng vinh-vang.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 409 đến câu 420) :

        -Đoạn nầy Đức Thầy tiên tri: Sau đây sẽ có Bàn môn tả đạo ra đời. Nó có nhiều pháp lạ, uy quyền, một tiếng kêu trời, một cái giậm đất cũng đều ứng theo. Vậy bá tánh nên lo liệu trước để xa lánh, kẻo lầm lạc theo nó mà hồn xác tiêu tan.

        -Chúng dùng đủ phương cách gạt gẫm người đời, nào sái đậu thành binh, kêu mưa hú gió, nào bùa chú thuốc mê, tiên đoán thời cơ, thấu tỏ cả tâm lý vận mạng…khiến người dễ mê tín. Nếu ai theo chúng, chẳng đưa mình đi đến đâu, kết cuộc chỉ rước lấy tai hại.

        -Để thấu triệt đâu tà đâu chánh, Đức Thầy dặn dò: Bất cứ một ai, không ham sắc tài danh vị, lìa bỏ sắc tướng thinh âm và chẳng lợi dụng của bá tánh thập phương, đó là người hành đạo chơn chánh, kẻ nào nương theo tất được kết quả cao quý.

                                            CHÚ THÍCH :

        BÀN MÔN: Chỉ cho tà đạo (ngoại đạo), thường dùng yêu thuật lừa gạt hay sát hại sanh linh.

        LIỆU TOAN: Liệu lượng, toan tính, sửa soạn. Đức Thầy có câu;

                “Ai biết nghe thì sớm liệu toan,

             Để đến việc như người thất nghiệp”.(GMTK, Q.4).

        TẢ ĐẠO: (Xem lại chú thích nơi câu 77, Q.2 Tập nầy).

        THÀNH BINH SÁI ĐẬU: Phép cầm nắm đậu vãi ra biến hóa muôn ngàn binh tướng, sát hại sanh linh. Đây là phép thuật của bọn bàn môn tả đạo. Truyện Tam Quốc chép: Thời mạt Hớn có giặc Huỳnh Cân (mỗi người đều chít khăn vàng). Cầm đầu là ba anh em Trương Lương, Trương Giác, Trương Bửu. Mỗi khi ra trận, chúng hay dùng phép sái đậu thành binh để thắng đối phương. Sau bị Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi diệt trừ.

        Giữa thời mạt pháp nầy, cũng có lắm tà đạo ra đời nhiễu hại lê dân. Đức Thầy cùng chư Phật Thánh có trách nhiệm diệt trừ:

                “Thương tưởng người mê Lão xuống trần,

                  Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh Cân”.

                        (Đáp Lời Ông Nguyễn Kỳ Trân)

        SẮC MÀU CŨNG KHÔNG: Sắc là sự tướng, chỉ cho cái gì thấy được, cầm nắm sờ mó được kể cả sắc đẹp; màu là các sắc xanh, đỏ, trắng, vàng. “Cũng không” là chẳng dùng màu sắc và hình tướng. Ở đây ý nói nhà tu nào không còn dùng âm thinh sắc tướng mới là chân chánh. Tỉnh Thế Ngộ Chơn có câu:“Sắc tướng thinh âm chư ngoại giáo, chơn truyền cụ thất Đạo nan thành”. Đức Thầy cũng từng khuyên:“Hãy tìm kiếm cái không mới có”(Kệ Dân Q.2).

        Toàn câu có ý dạy: Ai hành theo chánh pháp vô vi mới đúng chơn lý và Chánh Đạo bằng ngược lại là lạc vào tà thuyết.

         VINH VANG: Tốt tươi thạnh vượng, rực rỡ vẻ vang.

                                    CHÁNH VĂN

 421.                Địa-Tiên tài phép đa đoan,

        Phi đao bửu kiếm mê-man mắt trần.

                Phật truyền thâu hết phép Thần,

424. Cứu an bá-tánh một lần nạn nguy.

                Phiên-binh bốn phía tứ vi,

        Kể sao cho xiết chuyện ni sau này.

                Lớp thì thú ác dẫy-đầy,

428. Lớp thì tranh đấu tối ngày chẳng thôi.

                Kẻ hung chừng đó làm mồi,

        Cho bầy ác-thú đền bồi tội xưa.

                Bây giờ còn mãi lọc-lừa,

432. Chẳng lo kiếm chỗ đụt mưa sau nầy.

                Hiền lành chừng đó sum-vầy,

        Quân-thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.

                Đến đó Ta mới mừng cười,

436. Nhìn xem Ngọc-Đế giữa Trời định phân

                Thiên-Hoàng mở cửa Các-Lân,

        Địa-Hoàng cũng mở mấy từng ngục-môn.

                Mười cửa xem thấy ghê hồn,

440. Cho trần coi thử có mà hay không.

                Nhơn-Hoàng cũng lấy lẽ công,

        Cũng đồng trừng-trị kẻ lòng tà-gian.

                Ấy là đến lúc xuê-xang,

444. Tam-Hoàng trở lại là đời Thượng-nguơn

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 421 đến câu 444) :

        -Đoạn giảng trên cho biết, sau nầy phái Địa Tiên dùng đủ tài hay phép lạ trưng bày để lòe mắt trần thế, khiến kẻ nhẹ dạ tưởng là Phật Tiên nên tin theo, không ngờ bị bọn chúng lợi dụng. Song đến ngày kết cuộc nhờ chư Phật dùng thần thông thâu hết tà thuật để cứu nguy bá tánh.

        -Trước khi ấy còn có tai nạn chiến tranh do quân xâm lược kéo đến bao vây, họ tranh giành giết chóc lẫn nhau, suốt cả ngày đêm thật là rùng rợn. Lại thêm các loài hổ lang ác thú, từ miền rừng núi tràn xuống sát hại sanh linh.

        -Những kẻ bấy lâu ăn ở hung bạo, gây nhân độc ác, giờ đây phải chịu cho các loài thú dữ phân thây để đền tội. Thế mà hiện giờ bá tánh mãi còn nghi ngờ lần lựa, chẳng sớm tìm Đạo tu hành hầu sau nầy được thoát qua nạn khổ.

        -Sau cuộc chiến loạn hãi hùng ấy, nhiều người hiền đức được sống còn, giữa Chúa tôi Thầy tớ đồng chung hưởng cảnh thanh bình vui đẹp, lại còn được xem sự định phân, thưởng phạt của Đức Ngọc Đế.

        – Bấy giờ, Vua Trời sẽ mở cửa đền vàng cho mọi người được thấy:

                “Lưu ly hổ-phách mấy tòa đài-cung.

                 Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực,

                 Quân cùng Thần náo- nức vui tươi”.

                                    (Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)

        Còn Diêm Vương cũng mở rộng mười cửa ngục, tất cả sự trừng phạt tội nhân được phô diễn rõ ràng trước mặt quần chúng, để khách trần thử xem có thật hay không ?

        -Riêng phần Đức Minh Vương (Nhơn Hoàng) cũng dùng lý công bằng mà “Xử những kẻ hung hăng tồi tệ, Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”(GMTK, Q.4). Chính giờ phút ấy là bắt đầu của đời Thượng Ngươn Thánh Đức.

                                            CHÚ THÍCH :

        ĐỊA TIÊN: Số người tu theo bàn môn tả đạo, luyện bùa chú, phép thuật, được một vài thần thông linh thính. Hoặc chỉ cho những người có bộ óc sáng kiến, chế tạo các vũ khí tàn hại sanh linh.

        PHI ĐAO BỬU KIẾM: Dao bay kiếm báu, một trong nhiều phép của tả đạo thường dùng; họ đọc thần chú rồi phóng đao hoặc kiếm bay đi giết người trong nháy mắt, dù là ở xa ngàn dặm. Ý chỉ kẻ tà đạo hay khoe tài để gạt người mê tín.

        PHIÊN BINH: Chỉ cho quân xâm lược, từ các nước khác kéo đến xâm lấn nước ta. Đức Thầy nói (phần trên, Q.3):

“Lao xao bể Bắc non Tần,

Quân phiên tham báu xa gần cũng qua.

Tranh phân cho rõ tài ba,

Cùng nhau giành giựt mới là thây phơi”

        QUÂN THẦN CỘNG LẠC: Vua tôi cùng hiệp mặt vui vầy. Trong bài Nang Thơ Cẩm Tú, Đức Thầy có câu:

“Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,

Muôn năm cộng lạc Chúa hiền tôi trung”.

        THIÊN HOÀNG: Ông Vua cai quản cõi Trời.

        CÁC LÂN: (Xem lại chú thích nơi câu 309 trên).

        ĐỊA HOÀNG: Diêm La Vương, vị Vua cai quản cõi Địa ngục.

        NGỤC MÔN: Cửa ngục. Chỉ nơi nhốt các tội nhơn hung ác (Xem chú thích chữ “Địa ngục” tại tr. 94, Tập 1/3).

        NHƠN HOÀNG: Vua cõi người, chỉ cho vị Thánh Vương đời Thượng ngươn sắp tới. Ngài Huệ Lựu (Phật Thầy) đã nói:

                “Minh Vương xuất thế ngôi cao,

            Lập đời Thượng cổ anh hào hiền lương”.

        Đức Thầy cũng bảo trong “Kệ Dân, Q.2”:

                “Đức Minh Vương ngự chốn Nam Thành,

                  Đặng phân xử những người bội nghĩa”.

        XUÊ XANG: (Xem chú thích nơi câu 406 trên).

        TAM HOÀNG: Chỉ cho ba vị Vua: Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhơn Hoàng vừa giải trên (khác nghĩa với chữ Tam Hoàng trong thời thượng cổ bên Trung Hoa).

                                  CHÁNH VĂN

445.         Khuyên dân lòng chớ có sờn,

                Rán tu thì được xem đờn trên mây.

                Người hung chết đất chật thây,

448. Nhìn xem bắt thảm ngày rày cho dân.

                     Mấy người còn được xác thân,   

        Thì là Đài-Ngọc Các-Lân mới kề.

                Bây giờ kẻ nhún người trề,

452. Chê Ta rằng dại rằng khờ cũng cam.

                Dương-trần bỏ bớt tánh tham,

        Đừng chơi cờ-bạc đừng làm ác-gian.

                Để sau coi Hội coi hàng,

456. Coi Tiên coi Phật mới ngoan bớ trần.

                Điếm-đàng đĩ-thõa chớ gần,

        Để sau xem thấy non Tần xôn-xao.

                Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,

460. Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 445 đến câu 460) :

        -Đức Giáo Chủ khuyên trong dân chúng, chớ nên sờn lòng nao núng trước nghịch cảnh, thử thách, cứ cố gắng tu hành mãi, hầu sau nầy thấy được cảnh:“Chín từng mây nhạc thổi tiêu thiều”(Kệ Dân, Q.2).

        Lức đó, những kẻ hung ác phải chịu thảm sát, thây nằm chật đất:“Cảnh sông máu núi xương tha thiết”(GMTK, Q.4). Trước tình cảnh ấy ai trông vào cũng bắt thương tâm.

        -Sau cuộc tuyển chọn đó, người nào còn sống nguyên xác thể, vào được đền vàng điện ngọc chầu mừng Chúa Thánh. Còn hiện giờ, dầu người đời có chê Đức Thầy là khờ dại, Ngài cũng cam chịu.

        -Ngài hằng khuyên bá tánh nên diệt trừ lòng tham lam ích kỷ, bỏ hẳn cờ bạc và những hành động gian tà, bạo ác. Đồng thời lo trau giồi đức hạnh, để sau nầy được dự các Hội lành và kiến diện Phật Tiên tại miền Bảy Núi.

        -Nhứt là hãy tránh xa những chỗ ăn chơi trụy lạc, hành động hư thân mất nết. Mỗi người an phận với cảnh nghèo, để gìn tròn đạo hạnh, bền tâm kiên chí niệm Phật làm lành, ắt ngày kia được hưởng cảnh an nhàn tự tại.

 CHÚ THÍCH :

        TÁNH THAM: (Xem lại chú thích tại tr.206 Tập 1/3).

        ÁC GIAN: (Xem chú thích nơi câu 264 Q.2 Tập nầy).

        COI HỘI COI HÀNG: Xem các hội lớn. Theo cơ giảng thì sau nầy có nhiều cuộc hội tại miền Thất Sơn như:

        -Hội do các nước tranh giành châu báu:

               “Theo ta đến chốn Tiên bang,

           Đặng coi các nước hội hàng Năm non”.(Thiên Lý Ca)

        -Hội Tiên Phật tuyển chọn người hiền:

                “Long Hoa Tiên Phật đáo Ta bà,

                  Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”.

                                (Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)

          -Hoặc là:

                “Ai mà sửa đặng vuông tròn,

            Long Vân đến hội lầu son dựa kề”(Sám Giảng Q.3)

        Và:

                “Muốn xem được hội Long Đình,

         Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn”(Để Chơn Đất Bắc)    ĐIẾM ĐÀNG: Kẻ gian xảo hay lường gạt người. Những kẻ chơi bời, ăn mặc diêm dúa. Ví dụ: dân cờ bạc đàng điếm.

        ĐĨ THÕA: Gái điếm: chơi bời đĩ thõa.

        NON TẦN: (Xem chú thích tại tr.241, Tập 1/3).

        XÔN XAO: Cũng gọi nhôn nhao. Có nghĩa ồn ào rộn rịp:“Thiên hạ lao xao giữa cõi trần”(Cổ thi).

        BỀN LÒNG NIỆM PHẬT: Ý dạy người tu môn Tịnh độ (niệm Phật) phải có chí bền, cứ trì niệm mãi cho đến khi diệt sạch vọng trần. Hoặc:

                “Mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc,

                  Hưởng công niệm Phật rất yên lành”.

                                (Cho Cô Năm Võ Thị Hợi)

        Không vì hoàn cảnh khó khăn hay thời gian dài dặc mà đổi thay, thối chuyển. Ngài Huệ Lựu (Phật Thầy) có viết:

                “Bền lòng niệm Phật ân cần,

            Gắng công tu niệm cũng bằng bạc muôn”.

        Đức Thầy nay cũng dạy:

                “Nhớ lời dạy dỗ ca ngâm,

               Di Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn”.

                        (Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)

        THANH NHÀN: Cũng gọi là nhàn thanh. Có nghĩa: thảnh thơi nhàn nhã. Đức Thầy, trong bài Hoài Cổ, có câu :

                “Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,

               Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao”.

                                 CHÁNH VĂN

461.         Đừng quen thói cũ làm càn,

        Trộm gà cắp vịt xóm làng ghét vơ.

                Khi xưa Ta cũng làm thơ,

464. Mà đời trần-hạ làm ngơ ít nhìn.

                Dạy cho trần- thế phỉ tình,

        Đàng Tiên cõi tục phân minh hai đường.

                        Bây giờ hát-bộ là thường,

468. Để sau Phật hát tỏ tường cho xem.

                 Cải-lương tuồng ấy cũ mèm,

        Tốn tiền buồn ngủ lại thèm đồ ăn.

                Nhảy lui nhảy tới lăng-xăng,

472. Làm tuồng mèo mả thêm nhăng cho đời.

                         Hạ-nguơn lòng dạ đổi dời,

474. Bây giờ khổ-não đến đời là đây.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 462 đến câu 474) :

        -Đoạn nầy Đức Thầy kêu gọi bá tánh hãy dứt bỏ những thói xấu xa từ trước, như: tham gian, trộm cắp,…làm cho thôn xóm chán ghét. Tiền kiếp Ngài cũng có lần viết Kệ Giảng, khuyến hóa nhân sanh, nhưng không được mấy người để ý.

        -Ngày nay Đức Thầy dạy thật nhiều, để cho dân chúng rõ đâu là đường về Tiên cảnh, siêu thoát an vui và đâu là đọa lạc trần mê sanh tử, hầu chọn một lối đi tốt lành an tịnh. Ngài cũng khuyên mọi người, không nên bỏ thời giờ xem hát xướng hãy lo tu hành đi, rồi sau nầy Trời Phật sẽ giúp cho xem cuộc diễn biến của tuồng đời rất ly kỳ.

        -Đến như các đoàn cải lương hiện giờ, họ cũng diễn đi diễn lại những tuồng tích cũ mèm, xem chẳng bổ ích chi, lại còn tốn tiền. Phần nhiều họ phô diễn các tuồng tích, tình tứ lã lơi, khêu gợi lòng ái dục, khiến con người quên hết nền nếp gia phong, rồi gây thêm nghiệp tội mà giờ đây đành chịu khổ.

                                             CHÚ THÍCH :

        PHỈ TÌNH: (Xem chú thích nơi câu 172 trên.).

        ĐÀNG TIÊN CÕI TỤC: Đàng Tiên là con đường siêu thoát về cõi Tiên; Cõi Tục là cảnh thế gian (phàm tục) chúng sanh đang ở. Ý nói Đức Thầy dùng lời Kệ Giảng phân giải rõ ràng về đường lối, cách thức làm thế nào được về cảnh Tiên hưởng sự tiêu diêu khoái lạc, và hành động ra sao mà phải vào cuộc phàm tục, chịu muôn ngàn khổ não.

        PHÂN MINH: (Xem chú thích nơi câu 208 trên)

        HÁT BỘ: Cũng gọi là hát bội. Một lối hát tuồng có sân khấu và tranh cảnh, màn trướng (thời xưa không có màn ảnh). Đào kép dùng điệu bộ nhứt định cho từng trường hợp, để diễn tả các cảnh vui buồn. Cách hóa trang, cũng nhứt định cho mỗi vai: Trung, Nịnh, Hiền, Hung, lời đặt để theo ba điệu: Nam, Khách và Nói lối.

        CẢI LƯƠNG: Là hát cải lương. Một lối hát trên sân khấu như hát bội, nhưng tuồng tích có cả xưa và nay cũng được phân màn, phân cảnh như lối hát Âu Châu. Lời hát đặt theo các điệu ca, lý, Nam Bắc, Tây, Tàu; nhạc đệm phần nhiều là nhạc Âu tây. Ngày xưa, Ngài Huệ Lựu đã khuyên:

“Đừng ham hát bộ cải lương,

Để sau coi hát của Vương Minh Hoàng.

Cải lương là thói điếm đàng,

Hát bộ giễu xóm, giễu làng xưa nay”.

        MÈO MẢ: Do thành ngữ “Mèo mả gà đồng” ý chỉ cho hạng đàn ông, đàn bà hoặc trai gái tư tình với nhau; hẹn hò gặp gỡ nhau nơi nầy, nơi nọ, trái với phong tục lễ giáo. Như mèo đực mèo cái nhảy nhau ngoài gò mả, gà trống đạp gà mái ngoài đồng; gà đồng còn có ý nghĩa loài ếch: chúng thường bắt cặp nhau ở chỗ có nước lắp xắp. Đức Thầy có câu:

                “Xưa nay mèo mả lung lăng,

          Làm cho quên mất Đạo hằng Thánh nhơn”. 

                                 (Đáp Lời Ô. Lương Văn Tốt)

                                  CHÁNH VĂN

                Rán nghe lời dạy của Thầy,

476. Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra.

                Tây-Phương Thầy lại quá xa,

        Nên Ta mới nói cạn lời dân nghe.

                Đừng ham lên ngựa xuống xe,

480. Ăn xài phí của lụa the làm gì.

                Xuống trần Ta dạy cố lỳ,

        Cốt cho trần-thế nghe thì mới thôi .

                Ngày nay xe lết xe lôi,

484. Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.

                Là năm Rồng, Rắn, Ngựa, Dê,

        Chúng-sanh thế-giới ê-hề thây phơi.

                Trạng-Trình truyền sấm mấy lời,

488. Ngày nay dân-chúng vậy thời rán tri.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 475 đến câu 488) :

        -Đức Giáo Chủ khuyên mọi nguời hãy sớm tu hành theo lời dạy bảo của Ngài, kẻo để việc khổ tới nơi rồi tu chẳng kịp và lúc ấy dầu muốn gặp Ngài cũng không thể được. Vì Ngài đã ở quá xa bên cõi Tây phương, tâm hồn của kẻ hung ác làm sao giao cảm với Phật được.

        -Do đó, Ngài dùng đủ lời khuyên dạy: bá tánh chẳng nên ham danh lợi, giàu sang, ăn xài phung phí. Bởi sự sang cả ấy chẳng được bao lâu thì cảnh khổ cũng kề đến.

        -Ngài lâm phàm độ thế, chẳng nệ công lao nhọc, dốc một lòng truyền Đạo mãi mãi cho đến khi nào chúng sanh hướng thiện, Ngài mới an nghỉ.

        -Đức Thầy còn cho biết về thế cuộc từ đây sắp đến, sẽ diễn biến đúng y theo lời Sấm của Cụ Trạng Trình thời nhà Lê, vậy bá tánh hãy rán tìm hiểu. Như trường hợp cuộc Đệ nhị thế chiến vào năm Rồng (Canh Thìn – 1940), chúng sanh phải chịu cảnh chết chóc thê thảm, dẫn đến năm Ất Dậu (1945) chiến cuộc mới chấm dứt, thế giới tạm hòa bình:

                “Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,

                  Can qua xứ xứ khởi đao binh.

                  Mã đề dương cước anh hùng tân,

                 Thân Dậu niên lai kiến thái bình”(Giảng Xưa).

        Việc nầy hồi năm Kỷ Mão (1939), Đức Thầy cũng đã tiên tri trong một đoạn giảng:

“Mèo kêu bá tánh lao xao,

Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.

Con ngựa lại đá con dê,

Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.

Khỉ kia cũng bị xáo xào,

       Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng”

                                     (Sấm Giảng Q.1)
                                            CHÚ THÍCH :

        TÂY PHƯƠNG: (Xem chú thích nơi câu 279 Q.2 Tập nầy).

        LÊN NGỰA XUỐNG XE: (Xem chú thích nơi câu 143,Q.2 Tập nầy).

        LỜI TRUYỀN SẤM: Lời sấm ký của cụ Trạng Trình.

        TRẠNG TRÌNH: Cụ Trạng họ Nguyễn, húy Bỉnh Khiêm, tự Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, đời sau gọi Ngài là Tuyết Giang phu tử.

        Cụ sinh năm Tân Hợi (1491), đời vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ 22, tại làng Cổ Am (Trung An), huyện Vĩnh Lạc (nay là Vĩnh Hảo), tỉnh Hải Dương, Bắc phần Việt Nam.

        Thân sinh là ông Văn Đình, sau được nhà Mạc truy tặng chức Thái Bảo Nghiêm Quận Công. Thân mẫu là con gái quan Hộ Bộ Thượng thư Nhữ văn Lâu; sau Bà được truy phong là Từ Thục Phu nhân.

        Thuở nhỏ Ông thông minh khác thường. Mới bốn tuổi ông được song thân tận tình chỉ dạy truyền khẩu, những nghĩa lý trong Tứ Thơ, Ngũ Kinh cùng các kinh truyện khác. Lớn lên, Ông theo học với quan Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng, người làng Hội Trào, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Bỉnh Khiêm học rất giỏi và nổi tiếng về văn thơ.

        Một hôm Lương Đắc Bằng đau nặng, biết không thể sống được, bèn trao cho Bỉnh Khiêm một quyển sách tên là Thái Ất Thần Kinh, quyển sách nầy trước kia do người Tàu tặng cho Ông khi Ông đi sứ sang Trung Quốc. Nguyễn Bỉnh Khiêm cố công nghiên cứu sách ấy, chẳng bao lâu Ông thông suốt những huyền vi của Trời Đất. Từ đó, Ông nổi tiếng về khoa Lý số.

        Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, trong nước loạn lạc, Ông không chịu xuất chính. Nhưng nhà Mạc buộc các sĩ phu phải ra ứng thí để triều đình tuyển chọn hiền tài  giúp nước. Nhân có mẹ già cần đủ y thực cung phụng, và nhiều bạn hết sức khuyên giải, Ông mới miễn cưỡng lai Kinh ứng thí. Lúc 44 tuổi Ông đỗ Giải Nguyên kỳ thi Hương. Năm sau thi Đình, Ông đỗ Trạng Nguyên, nhằm niên hiệu Đại chính, đời vua Mạc Đăng Doanh.

        Ông được nhà Mạc phong chức Lại Bộ Tả Thị Lang kiêm Đông Các Đại Học sĩ. Làm quan được 8 năm, Ông có dâng sớ hạch tội và xin Vua nghiêm trị bọn lộng thần; nhưng thấy không hiệu quả Ông bèn từ quan (1542, đời Mạc Phúc Hải) về trí sĩ. Khi về làng, Ông lập một cái am để tu dưỡng, đặt tên là “Bạch Vân Am”, lấy hiệu là Bạch Vân Cư sĩ. Ông cũng có dựng lên một cái nhà nghỉ mát bên sông Tuyết Giang, đặt tên là Trung Tâm Quán. Do đó về sau môn đệ của Ông tôn xưng là Tuyết Giang Phu tử.

        Tuy về trí sĩ nhưng nhà Mạc vẫn tôn trọng Ông vô cùng. Có công việc gì khó giải quyết, họ đều đến hỏi Ông. Sau hai năm trí sĩ, nhà Mạc lại phong cho Ông chức Trình Nguyên Hầu, rồi lại thăng chức Lại Bộ Thượng thư, tước Trình Quốc Công, nên người đời mới gọi Ông là Trạng Trình.

        Là một bậc túc nho, thông kim bác cổ, một sĩ phu tài danh lỗi lạc, cũng là một nghệ sĩ có tâm hồn phóng khoáng với những cảm hứng chân thành và cũng là một nhà lý số chân chính, Ông thường dùng thi ca để truyền bá tư tưởng và đạo đức, vừa có tánh cách giáo dục người đời và vừa tiên tri thời cuộc sắp đến. Về Hán văn, Ông có viết một tác phẩm nhan đề là “Bạch Vân Am Tập”, gồm có cả ngàn bài thơ vịnh cảnh, tả tình. Về thơ Nôm có tập “Bạch Vân Quốc Ngữ Thi”. Trong tập nầy, những bài thơ thường không có đề mục nhất định, có những bài tả cảnh, tả tình, tán thưởng cuộc đời nhàn hạ, hoặc nói về nhơn tình thế thái. Hiện nay chỉ còn lối 500 bài chữ Hán và 100 bài chữ Nôm, cùng một ít bài Sấm ký.

        Chẳng những toàn nước Việt Nam mà đến người Trung Hoa cũng phục tài tiên tri của Ông, nên có lời ca tụng:“An Nam lý học hữu Trình truyền”.(Nước Việt Nam có ông Trạng Trình là bậc tinh thông về khoa Lý học). 

        Vì thế, từ vua tôi nhà Mạc đến Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn đều một lòng tôn kính, và thường tới lui thăm viếng, để nhờ ông đoán việc mai hậu.

        Sử chép: Khi Trạng Trình lâm trọng bịnh, Mạc Mậu Hợp biết ông là người thông suốt việc quá khứ vị lai, bèn sai con đến thăm và hỏi hậu vận nhà Mạc. Ông bảo:“Nếu sau nầy có biến, nên rút về mạn Cao Bằng. Chỗ nầy tuy nhỏ, nhưng cũng dung thân được vài đời”. Nhà Mạc nhớ lời Ông, quả nhiên về sau, nhà Lê Trung Hưng đánh bại nhà Mạc, con cháu nhà Mạc thất thế chạy lên chiếm cứ mạn Cao Bằng Lạng Sơn, yên thân ở đây và truyền được hai đời Vua nữa, trước sau được 70 năm nhà Mạc mới dứt.

        Lại có truyện: Nguyễn Kim chết, người rể là Trịnh Kiểm chiếm giữ binh quyền, giết em vợ là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng là em ruột sợ vạ lây, liền cho người đến vấn kế Ông. Ông dắt ra chỉ đàn kiến đang bò ở hòn non bộ, cười nói:“Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”(Một dãi Hoành Sơn, có thể yên thân muôn đời). Nguyễn Hoàng hiểu ý, rồi nhờ chị là Ngọc Bảo Công Chúa năn nỉ với anh rể là Trịnh Kiểm xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Nhờ đó, mà Nguyễn Hoàng được cơ hội xây dựng sự nghiệp lâu dài, ứng vào lời tiên tri của Ông.

        Trạng Trình còn tiên tri việc người Pháp (thằng Tây) bị mất quyền tại Việt Nam, từ ngày, tháng, năm không sai một mảy:

“Đầu xuân gà gáy hăm tư,

Thầy tăng mãn hạn hoa trư tuyệt kỳ”.

        Đầu xuân chỉ cho tháng giêng, gà gáy là năm Ất Dậu (1945), hăm tư là đêm 24 sáng 25, Thầy tăng nói lái lại là thằng Tây. Vậy hiểu chung là chỉ cho người Pháp bị mất quyền tại Việt Nam vào đêm 24 rạng 25 tháng Giêng năm Ất Dậu (nhằm ngày 09/03/1945) do Nhựt đảo chánh Pháp.

        Đó là các việc đã qua, còn những việc đang và sắp đến, cũng xin trích dẫn ra đây một vài đoạn để mọi người thử nghiệm xét:

                “Dục thức Thánh Nhân xứ,

                  Đa xuất ứng Bảo Giang”

                                —

                “Hoà thôn đa khuyển phệ,

                  Mục giả giục nhân canh.

                  Bắc hữu kim thành tráng,

                  Nam tạc ngọc bích thành.

                  Phân phân tùng bách khởi,

                  Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh.

                  Bảo Giang Thiên Tử xuất,

                  Bất chiến tự nhiên thành”.

                                —

                “ Phá điền Thiên Tử xuất,

                  Bất chiến tự nhiên thành”.

                                —

                “Cửu cửu càn khôn dĩ định,

                  Thanh minh thời tiết hoa tàn.

                  Trực đáo Dương Chi đầu Mã Vĩ,

                  Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.

                                —

                “Canh niên tàn phá

                 Tuất Hợi phục sinh

                 Nhị ngũ như bình”.

        -Cụ Trạng Trình mất vào ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585) đời vua Mạc Mậu Hợp, niên hiệu Duyên Hành năm thứ 5, tức năm thứ 8 niên hiệu Quang Hưng vua Thế Tôn nhà Lê, hưởng thọ 95 tuổi.

                                     CHÁNH VĂN

489.               Hiền nhơn bổn phận tu mi.

           Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền-cơ.

                Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,

492. Chúng-sanh còn đợi còn chờ chuyện chi.

                Trên Trời xuất hiện Tử-Vi,

        Quang-minh sáng-suốt vậy thì dân ôi 

                Thương dân khó đứng khôn ngồi,

496. Xót-xa dạ Ngọc bồi-hồi tâm Trung.

                Gió dông thì cội cây rung,

        Phương xa có giặc thung-dung đặng nào ?

                Trời tây chúng nó hùng-hào,

500. Đem lòng gây-gổ máu đào mới tuôn.

                Cầu Trời cho chúng qua truông,

502. Thế-gian yên-lặng hát tuồng khải ca.

 

LƯỢC GIẢI (từ câu 489 đến câu 502) :

        -Đoạn nầy Đức Thầy cho biết, bổn phận nam nhi, cần tu sửa thân tâm cho được hiền lương nhơn ái và hãy sớm thức tỉnh suy tầm lẽ huyền cơ Đạo lý. Cuộc thế hiện nay chẳng khác ngọn đèn bị hết dầu, chỉ còn gượng chớp một vài tia sáng, rồi cũng tắt mất, thế mà chúng sanh cứ mãi chần chờ, chẳng chịu sớm tìm lối thoát.

        Bấy giờ vì sao Tử Vi đã xuất hiện trên nền Trời và chiếu sáng để báo tin thời đen tối sắp hết, vị Thánh Quân sẽ trổ mặt, kiến lập cuộc đời mới. Giữa thời gian thay đổi ấy, nhơn loại phải chung chịu cảnh đau thương tang tóc, nên lòng Đức Thầy thương xót khôn cùng.

        -Trời giông bão, cả cây cối đều bị vật ngã xác xơ, cũng như chiến tranh thế giới bùng nổ thì sớm muộn gì nước ta cũng bị vạ lây. Đức Thầy muốn chỉ rõ cuộc đổ máu hiện giờ, là do lòng tham ác từ dân Âu châu tạo ra rồi lan diễn khắp Á châu. Do đó, Đức Giáo Chủ hằng cầu nguyện cho vạn dân, sớm vượt qua khổ nạn, hầu toại hưởng cảnh thái bình an lạc.

 CHÚ THÍCH :

        TU MI (Xem chú thích nơi câu 111 Q.2 Tập nầy).

        HUYỀN CƠ: (Xem chú thích tại tr.40 Tập 1/3)

        TỬ VI: Theo khoa tướng số thì Tử Vi là một vì sao chánh trong việc coi bói. Còn theo sách Thiên văn Tàu thì Tử Vi là vì sao của bậc Minh Quân (Bắc Cực Tử Vi Đại Đế). Đây chỉ cho vì sao Đức Thánh Vương của Việt Nam sau nầy.

        DẠ NGỌC: Lòng trong trắng quí báu như châu ngọc. Chỉ cho lòng dạ của bậc cao cả, đã lóng sạch phàm tâm. Đức Thầy có câu:

                “Nhắc ra thì dạ ngọc đớn đau,

              Không nhắc đến biết đâu dân sửa”.(GMTK, Q.4)

        BỒI HỒI: (Xem chú thích tại tr.126 Tập 1/3)

        TÂM TRUNG: Trong lòng.

        TRỜI TÂY: Cũng gọi là trời Âu. Chỉ cho vùng trời Âu châu, bởi dân Âu châu gây nên cuộc Đệ nhị Thế chiến. Đức Thầy đã nói trong bài “Nang Thơ Cẩm Tú”:

                “Cuộc lung tung rối rắm trời Âu,

                  Nên còn ngại bước đường trở gót”.

        QUA TRUÔNG: Truông là vùng đất hoang, cây cỏ rậm rạp như rừng (truông mây), nghĩa bóng là chỉ cho tai nạn khó khăn; qua truông là thoát qua tai nạn khổ sở. Đức Thầy có câu:“Núi truông qua đặng rán lần dò”.(Thiên Lý Ca).

        KHẢI CA: (Xem chú thích nơi câu 54 Q.2).

                                        CHÁNH VĂN

                Tây-Phương tuy ở cõi xa,

504. Thành tâm thì có Phật mà đáo lai.

                Ước-mong dân khỏi nạn tai,

        Dắt-dìu Tiên-cảnh Bồng-Lai nhiều người.

                Xem trần khó nỗi vui cười,

508. Lo giàu lo lợi chẳng rồi bớ dân.  

                Mẹ cha là kẻ trọng ân,

        Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu già.

                Giường linh đơm quảy mới là,

512. Có chi cúng nấy vậy mà dân ôi ! 

                Ta là thân phận làm tôi,

        Phải đền phải đáp cho rồi mới hay.

                Mặc ai tranh luận đấu tài,

516. Khuyên dân nên hãy miệt-mài chữ Tu.

 LƯỢC GIẢI (Từ câu 503 đến câu 516) :

        -Tuy chư Phật ngự từ bên cõi Tây phương xa thẳm, song nếu có một ai biết hối lỗi và thành tâm tưởng nhớ, tất Phật Ngài sẽ cảm ứng ngay và dùng thần lực đến gia hộ cho hành giả đó. Đức Thầy cũng hằng mong mỏi cho vạn dân được thoát qua tai nạn cùng dìu nhau đến cảnh Tiên Phật, hầu chung hưởng cảnh an nhàn siêu thoát. Ngài nhìn khắp cõi trần thấy trong bá tánh khổ nhiều vui ít, thế mà họ mãi chạy theo vật chất tiền tài, rốt cuộc đâu chẳng rồi đâu, chỉ thấy nghiệp khổ càng thêm chồng chất.

        -Đức Thầy luôn kêu gọi mỗi người hãy nhớ đến công ơn sâu dầy của cha mẹ, để sớm lo báo đáp. Lúc cha mẹ già yếu, phận làm con phải hết lòng hiếu dưỡng, chăm sóc từ miếng ăn, thức mặc, chí đến lúc ngủ nghỉ ốm đau, nhứt nhứt đều làm cho cha mẹ vui lòng. Chẳng may Ông bà, Cha mẹ từ trần, ta không đợi đến ngày giỗ mới làm mâm cao cổ đầy cúng tế, mà ngay như mỗi bữa ăn dầu dĩa dưa, hạt muối cũng nên, miễn là biết thành lòng tưởng nhớ và nguyện vái “Cửu Huyền Thất Tổ” về thọ dụng với mình là được.“Tưởng sự vong như thể sự tồn”, đó là đúng cách của người con báo hiếu.

        -Cho nên sống trong một gia đình hay một quốc gia, bổn phận làm tôi con, phải lo đền đáp cho tròn câu hiếu nghĩa. Mặc cho người đời luận tranh cao thấp, phần ta cứ mãi đắp bồi công đức để được viên thành Đạo quả.

 CHÚ THÍCH :

        BỒNG LAI: (Xem chú thích tại tr.138 Tập 1/3).

        TRỌNG ÂN: Ân nặng, ý nói công ơn của cha mẹ sanh con và nuôi dưỡng cho đến lúc lớn khôn rất sâu nặng lớn lao. Đây là một trong “Tứ đại trọng ân”. Ca dao có câu:“Gươm vàng rớt xuống hồ tây, Công cha cũng trọng, ân Thầy cũng sâu”. Hoặc là:“Công cha nặng lắm ai ơi ! Nghĩa mẹ bằng Trời chín tháng cưu mang”.

        Đức Thầy cũng dạy:

                “Sách có chữ thâm ân dục báo,

                Phận làm người hiếu thảo noi gương”(Sa Đéc).

        DƯỠNG NUÔI BÁO HIẾU: Phận làm con phải biết tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ, để báo đáp công ơn. Bởi:“Hiếu là cái cực điểm của sự lành, còn bất hiếu là cái cực điểm của sự ác”(Nhẫn Nhục Kinh).Và trong Kinh Báo Hiếu, Phật có dạy:“Con nuôi cha mẹ dùng cam lồ đặng làm vừa miệng, tấu mọi tiếng thiên nhạc để làm vui tai, dâng áo tốt, đồ báu làm đẹp thân thể, một vai cõng mẹ, một vai cõng cha, đi khắp bốn biển. Đó là hạnh hiếu lớn, không gì hơn nữa”. Nhưng Phật còn dạy rằng:“ Đó chưa phải là đủ. Nếu cha mẹ ngang trái tối tăm, chẳng thờ Tam Bảo, hung ngược tàn ác làm các nghiệp dữ; con phải can gián, khiến cha mẹ phát lòng tin, qui y chánh Đạo, thường hành lục độ, từ, bi, hỉ, xả, đối diện bậc tri thức, thường hay cung kính, vâng nghe giáo pháp, niệm Phật tu hành, nguyện thoát luân hồi, vãng sanh lạc thổ. Nếu y theo đó mà hành hiếu, mới có thể gọi là báo ân”.

        Đức Thầy nay cũng khuyên:

“Bần cùng cũng sớm liệu toan,

Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu.

Mộ khan thần tỉnh cần triêu,

Khỏi cơn hoạn nạn Lam Kiều được lên”.

                      (Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện)

        GIƯỜNG LINH: Cũng gọi là giường thờ, do chữ “linh sàng”, tức là bàn thờ Ông Bà. Nghi thức thờ Ông Bà thời xưa, người ta để giữa, trước mặt một cái bàn cao, có lư hương, chưn đèn, lư…còn phía sau là cái giường nhỏ, thấp, có trải chiếu gối dựa, trầu thuốc đầy đủ, ý tưởng như Ông Bà có ở (nghỉ) thiệt trên đó.

        ĐƠM QUẢY: Cũng gọi là quảy đơm. Có nghĩa đem các thức ăn (cổ) lên giường linh cúng Ông Bà cha mẹ. Ví dụ: giỗ quảy hay đơm quảy. Đức Thầy có dạy:“ Đến ngày đơm quảy có chi cúng nấy” và “Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy đều nguyện vái Cửu Huyển, Thất Tổ, ông bà cha mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu thảo”(Sự Cúng Lạy Của Người Cư Sĩ Tại Gia, tr.212 SGTVTB 2004).

                                   CHÁNH VĂN

        517.         Giảng này ra cuối mùa thu,

           Dạy ăn dạy ở chữ Tu vuông tròn.

                     Học theo mối đạo làm con,

520.   Luận xem học mới mấy đon đời nầy.

         Văn-minh sửa mặt sửa mày,

          Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.

                   Dọn xem hình vóc lả-lơi,

524.   Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.

       Trong tâm nhớ những điều tà,

          Lời ăn tiếng nói thiệt là quá lanh.

       Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,

528.   Chẳng trau hiền-đức học-hành làm chi? 

       Khôn-ngoan thời những chuyện gì,

          Cũng là lừa dối vậy thì dân quê.

       Người xưa nó lại khinh chê,

532.  Ông cha hủ-bại u-mê hơn mình.

 LƯỢC GIẢI (từ câu 517 đến câu 532) :

        -Đức Thầy viết quyển Sấm Giảng nầy vào khoảng tháng chín (cuối muà Thu) năm Kỷ Mão (1939). Ngài chỉ dạy bá tánh về cách ăn ở đối xử cho đúng với ý nghĩa chữ tu, nhứt là bổn phận làm con đối với cha mẹ cần được vẹn toàn câu hiếu nghĩa. Kế đó Ngài bàn đến hạng người đua đòi theo nếp sống mới của Âu Tây.

        -Bởi quá say mê nền văn minh vật chất nên phần đông các thanh niên nam nữ lo trau hình sửa dạng, ăn mặc lả lơi, nói năng toàn những việc bướm ong dục lạc.

        -Tâm tư của họ chất chứa điều xằng xiên tà khúc, lo điêu luyện ngôn ngữ khôn lanh xảo quyệt, ỷ vào tài học thức, tự cho mình là hay giỏi, chẳng màng đến việc hiền đức là gì.

        -Thường thấy họ đem mớ học thức, gian ngoan ấy để lừa bịp dân quê, chớ không giúp ích cho đời được điều chi, trở lại chê đùa khinh dể Ông cha mình, còn cổ hủ mê tối:          
       “Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa.

         Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,

         Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.

                        (Trao Lời Cùng Ông Táo)

                                                CHÚ THÍCH :

        VUÔNG TRÒN: Trọn vẹn hoàn toàn:“Ai mà sửa đạng vuông tròn, Long Vân đến hội lầu son dựa kề”.(Sám Giảng Q.3).

        ĐẠO LÀM CON: Bổn phận làm con đối với cha mẹ phải vẹn tròn câu hiếu thảo. Đức Thầy có dạy:“Con thì ăn ở nhu mì, Học theo luân lý kính vì mẹ cha”. Và “…Lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế ta còn phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân”.(Tứ Ân/Ân Tổ Tiên Cha Mẹ, tr.181 SGTVTB 2004)

        MẤY ĐON: Đon là đó (Đại danh từ, tức tiếng để gọi người trang lứa, với ý là tránh tiếng “anh” và “mầy” do chữ “dis done”?). Vậy mấy đon là mấy người đó. Ý chỉ cho số người chạy theo nền văn vật của Âu Tây.

        LẢ LƠI: Đùa cợt hở hang, ăn mặc và cách đối xử không trang nghiêm đứng đắn.

        VĂN MINH: (Xem chú thích tại tr.209 Tập 1/3).

        NGUYỆT HOA: Cũng gọi là hoa nguyệt. Có ý nghĩa trăng và hoa. Chỉ cho việc trai gái tư tình với nhau. Cách ăn nói hay đùa mây cợt gió của hạng người hư thân mất nết.

        HIỀN ĐỨC: (Xem chú thích nơi câu 66 trên).

        HỦ BẠI: Thối nát, quá xưa (cổ hủ) kém văn minh.

        : Tối tăm mờ ám.

                        CHÁNH VĂN

533.         Tự-do trai gái kết tình,

        Với lo trau-sửa cho mình đẹp tươi.

                Gái trai đến tuổi đôi mươi,

536. Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả-lơi.

                So hình sửa sắc chiều mơi,

        Đặng làm những chuyện trái đời vô liêm.

                Cớ sao chê cổ trọng kim,

540. Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.

                Thấy đời trần-hạ thon-von,

        Ai nuôi cho lớn mà còn khinh-khi.

                Ông cha thuở trước ngu-si,

544. Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.

                Học hay lợi dụng tiền tài,

        Lên quan xuống huyện ăn-xài lả-lê.

                Gặp ai đói rách cười chê,

548. Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.

                Chẳng lo rèn trí lập thân,

550. Để làm xảo-trá khổ thân sau nầy.

 LƯỢC GIẢI (Từ câu 533 đến câu 550) :

        -Đoạn nầy cho biết thời nay, trai gái mới lớn lên đã biết tô điểm son phấn, sửa sắc chuốt mày và tự cấu kết tình duyên với nhau, chớ chẳng đợi lịnh của cha mẹ. Khi đến tuổi đôi mươi lại càng không kiêng nể ai nữa, mặc tình nói cười suồng sã.

        -Sớm chiều lo chưng diện hở hang, sửa mình nhắm vóc, để hành động toàn những việc trái ngược với mỹ tục thuần phong, chê đùa nền luân thường đạo nghĩa cổ truyền, phụ rãy tổ tiên nòi giống. Đức Thầy thường cảnh tỉnh hạng người ấy trong bài “Gìn Tục Cổ”:

                “Cũng dòng dân Việt cũng màu da,

                  Sao lại chê bai thói tục nhà.

                  Phong hóa lễ nghi trề nhún bỏ,

                  Gia nghiêm nghĩa tiết choán Nam gia”.

        -Nhận xét cõi trần sắp đến hồi nguy khổ, thế mà người đời chẳng nghĩ đến công ơn cha mẹ, buông lời khinh chê vô lễ. Tuy Tổ tiên ta trước kia có kém văn minh tiến bộ, nhưng tánh tình rất trung thực hiền hòa hơn con người thời nay.

        -Bây giờ người ta hay dùng tài học thức, khôn xảo, xu phụng hạng quan quyền, lợi dụng tiền bạc của dân quê, để tiêu xài phung phí. Gặp ai nghèo đói tật nguyền, họ lại nhạo chê khinh rẻ, mở miệng thì xưng hô lớn lối, chửi thề thô tục. Thế nên, Đức Thầy kêu gọi hạng người nói trên, hãy lo nuôi chí lập thân, tu rèn trí đức :

                “Khuyên bổn đạo lập thân nuôi chí,

                  Đặng chờ ngày yết kiến Phật Trời”.

                                        (GMTK, Q.4)

        Đừng hành động gian xảo mà sau nầy phải vương khổ lụy vào thân.

                                                CHÚ THÍCH :

        VÔ LIÊM: Không trong sạch ngay thẳng, mất hết tư cách, phẩm hạnh. Ví dụ: Kẻ vô liêm bất chánh.

        CHÊ CỔ TRỌNG KIM: Chê bỏ cái xưa, cũ, quí trọng yêu chuộng cái mới (tân thời). Đức Thầy từng than:“ Ôi ! đời yểm cựu nghinh tân, Rùng rùng xóa bỏ Phật Thần Thánh Tiên (Thu Đã Cuối).

        THON VON: Gian nan nguy hiểm, khổ sở cô đơn. “Bơ vơ đất khách thon von thế nầy”(Cổ thi).

        LỢI DỤNG: Thừa cơ mà vớ lấy để kiếm lợi riêng mình. Làm việc có lợi cho mình mà hại cho người khác. Đây chỉ cho hạng người làm quan xử kiện ăn tiền hết hai bên, hoặc theo bợ đỡ kẻ có quyền thế để lợi dụng.

        ĂN XÀI LÃ LÊ: Ăn xài phung phí, không biết tiết kiệm.

        RÈN TRÍ: Trau luyện, giồi mài trí tuệ cho được sáng suốt. Về phương cách tu rèn trí tuệ, Đức Thầy có dạy:“Người học Đạo muốn mở mang trí tuệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội).

        Muốn diệt cái vô minh trước phải điêu luyện cái tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy”(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ, tr.458-459 SGTVTB 2004).

        LẬP THÂN: Tự mình gây dựng tài trí và danh phận cho mình. Sách Thánh có câu “Lập thân hành Đạo dương danh ư hậu thế…”.Đức Thầy cũng bảo:“Một hội nầy rán lập thân danh” (Để Chơn Đất Bắc) và “Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.(Thu Đã Cuối).

        XẢO TRÁ: Giả dối, không thật lòng. Ví dụ: Ăn nói xảo trá, mưu mô xảo trá.

                            CHÁNH VĂN

                Giáo-viên các sở các thầy,

552.    Khuyên mau tỉnh ngộ tập rày lòng nhơn.

                Giúp đời đừng đợi trả ơn,

        Miễn tròn bổn-phận hay hơn bạc vàng.

                Đánh liều Ta cũng nói càn,

556.    Cứu dân bất luận giàu sang khó nghèo.

                Vinh-hoa như thể bọt-bèo,

        Hiền-lương bất luận khó nghèo cũng xinh.

         Nhắc năm Gia-Tĩnh triều Minh,

560.    Nàng Kiều vì hiếu bán mình chuộc cha.

        Tuy là lưu-lạc bôn-ba,

           Đến khi mãn hạn bạn xưa cũng nhìn.

        Ghét ưa Ta cũng mặc tình,

564.    Nghiệm kim suy cổ biện minh thế nào.

 LƯỢC GIẢI (từ câu 551 đến câu 564) :

        -Đoạn Giảng nầy Đức Thầy khuyên các giới: công viên, giáo chức trong khắp trường sở, hãy sớm thức tỉnh tu hành, rèn tập lòng nhơn ái, biết thương người mến vật hầu tận tâm giúp đỡ lẫn nhau. Trong lúc giúp ích cho đời, không nên mong cầu tiếng khen hay phước báo, cũng chẳng phân biệt ta là người ban phước còn người kia là kẻ thọ ơn, mà nên xét vì bổn phận phải làm:“Nếu thiệt người thì biết thương người”(GMTK, Q.4). Ai thi hành được như thế thì dầu cho vàng bạc cũng không sánh kịp.

        -Tuy lời khuyên của Đức Thầy không được bao người để ý, nhưng vì lòng từ bi, Ngài vẫn tiếp tục nói mãi. Nói với lòng bình đẳng, không phân biệt nghèo giàu hay già trẻ, trí ngu. Bởi lẽ:“Giàu sang nghèo khó cũng người, Nên ta thương hết dầu cười hay khen”(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện).

        -Ngài còn so sánh cho khách trần được rõ, cảnh vinh hoa phú quý khác nào bóng bọt, bèo trôi, lênh đênh theo dòng nước, chỉ một lượn sóng nhấp nhô cũng đủ làm tan rã. Còn người tuy nghèo khó, nhưng nếu biết tu nhơn tích đức, tất được quí báu và vững bền. Ngài nhắc lại chuyện Nàng Kiều, dù phải mười lăm năm phong trần mệnh bạc, nhụy rữa hoa tàn, song nhờ lòng hiếu thảo mà chàng Kim vẫn trông đợi kính yêu. Đó là Ngài dụng ý khuyên mọi người phải nhớ đến công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ và hiếu hạnh là cao hơn hết.

        -Đối với những lời khuyên dạy trong đây, dầu người đời có ghét hay ưa, Đức Thầy cũng không màng kể, chỉ ý thức cho mọi người nên nghiệm xét chuyện xưa, để thấu hiểu chuyện nay một cách tường tận, rồi sẽ nhận định lời giáo huấn của Ngài, xem có đúng lý và ích lợi cho đời không ?

                                             CHÚ THÍCH :

        TỈNH NGỘ: (Xem chú thích nơi câu 93 Q.2 Tập nầy).

        LÒNG NHƠN:(Xem chú thích chữ “nhơn ái” nơi câu 281 Q.2 Tập nầy).

        HIỀN LƯƠNG: Hiền lành tốt đẹp, biết thương người mến vật, không ưa đánh đập gây gổ. Đức Thầy có câu”

                “Phật từ bi độ tử độ sanh,

                Là độ kẻ hiền lương nhân ái”(Kệ Dân, Q.2).

        NÀNG KIỀU: Theo tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh” của cụ Nguyễn Du: Vào triều nhà Minh, vua Gia Tỉnh, tại Bắc Kinh (Trung Hoa) có nhà họ Vương, sanh đặng ba người con là: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan.

        Nhân tiết Thanh minh chị em dắt nhau đi tảo mộ, Kiều gặp Kim Trọng (một Nho sinh). Hai người vừa ý, rồi cùng nhau kết hẹn cuộc trăm năm. Nhưng chẳng may, cha nàng Kiều là Vương Ông lâm nạn. Vì lòng hiếu đễ, Kiều hy sinh tấm thân ngà ngọc tự bán mình để đổi lấy số vàng chuộc thân phụ khỏi nơi lao ngục. Trải qua 15 năm lưu lạc, mưa gió phũ phàng Kiều tủi thân mệnh bạc, bèn nhảy xuống sông Tiền Đường tự sát. Vì căn phần chưa mãn, nhờ Sư cô Giác Duyên cứu sống đem về chùa lo bề tu tỉnh. Thời gian sau, Kim Trọng tìm gặp lại, tuy đóa hoa trinh nữ đã phai màu song với lòng chung thỉ và sự hiếu đễ của Kiều, khiến Kim Trọng càng kính yêu nhìn nhận.

        Cụ Nguyễn Du đã nhận xét:

“Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,

Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.

Lấy tình thâm, trả nghĩa thâm,

Bán mình đã động hiếu tâm đến trời”.

        Ở đây Đức Giáo Chủ chỉ nhắc đến sự hiếu thảo của Nàng Kiều,“vì hiếu bỏ tình”, dám hy sinh hạnh phúc riêng mình để đền ơn cúc dục.

        BÔN BA: Vừa đi vừa chạy, gian nan vất vả:“Đi vừa một dặm xa xa, Bỗng đâu Ông Quán bôn ba theo cùng”(Lục Vân Tiên).

        NGHIỆM KIM SUY CỔ: Suy xét chuyện xưa, để biết chuyện nay. Sách Thánh có câu:“Suy cổ nghiệm kim sở dĩ bất hoặc. Dục tri vị lai tiên sát dĩ vãng”(Suy xưa nghiệm nay là nơi để cho chẳng lầm, cho nên muốn biết việc chưa tới, trước phải xét việc đã qua). Đức Thầy cũng từng dạy trong bài “Nang Thơ Cẩm Tú”:

                “Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,

                  Thông cơ đồ dựng nghiệp Thánh hiền”.

        BIỆN MINH: Vạch ra cho rõ ràng, phân biệt lẽ phải trái làm cho sáng tỏ câu chuyện. Đức Thầy bảo:“Suy cho tường rồi sẽ biện minh”(Sa Đéc).

                                 CHÁNH VĂN

565.         Bá-gia kẻ thấp người cao,

           Hiền-thần hiếu-nghĩa rán trau cho rồi.

           Giảng này chỉ các điều tồi,

568.    Khuyên dân hãy rán mà ngồi mà suy.

           Thân ta, Ta chẳng tiếc chi,

        Miễn cho bá- tánh nạn gì cũng qua.

        Luận xem những việc sâu xa,

572. Chúng-sanh tưởng Phật thì là hãy coi.

        Tháng ngày như thể đưa thoi,

        Nguyện cầu thế giới bớt ngòi chiến-tranh.

                Ngồi buồn dân gặp chiếu manh,

576. Ta cho bá-tánh bức tranh vô hình.

                Ai ai cũng rán xét mình,

        Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài.

                Cạn lời mà ý còn dài,

580. Hiến cho trần-hạ một bài ngụ-ngôn.

 LƯỢC GIẢI (từ câu 565 đến câu 580) :

        -Đức Thầy khuyên cả vạn dân hãy rán trau giồi tài năng đức hạnh, trung nghĩa vẹn toàn và hành xử “Tứ Đại Trọng Ân” để xứng đáng là một tôi con của gia đình Tổ quốc. Trong quyển Giảng nầy, Ngài đã vạch rõ các điều sai lầm tệ hại, vậy mỗi người nên suy tầm cho thấu hiểu lý mầu trong đó.

        -Riêng thân Ngài dù có mòn hao, gian khổ, cũng không màng tiếc, miễn sao khắp bá tánh được thoát qua các tai nạn là Ngài thỏa nguyện. Bao lời luận giải sâu xa trong đây, người nào biết tin tưởng Phật Trời, hãy rán xem coi tìm hiểu, để lo tu thân gìn Đạo.

        -Vả lại, ngày tháng trôi qua, mau chóng tợ thoi đưa. Cuộc Đệ nhị Thế chiến đang lan diễn khắp nơi, khiến chúng dân luống chịu lầm than, thống khổ. Vì lòng từ bi, Đức Thầy hằng cầu nguyện cho bá tánh và để cứu vãn tình thế, Ngài hưng truyền chánh pháp vô vi, kêu gọi toàn dân hướng thiện, diệt lần mầm sát hại để quả chiến tranh được bớt dần.

        -Nếu mỗi chúng sanh biết qui y đầu Phật thì hãy thực hành theo chánh pháp vô vi mà Ngài đã truyền dạy. Nghĩa là, mỗi hành giả hãy hướng về nội tâm mà tự kiểm soát lọc lừa, loại bỏ những tư tưởng tà vạy, những vọng tâm phiền não (tham, sân, si) tức tâm ta được yên tịnh trong lành, mà vào nơi an lạc, Niết bàn tự tánh.

        -Viết quyển Sấm Giảng đến đây, Đức Thầy sắp dừng bút, nhưng thiện ý giác đời của Ngài chưa mãn, và những lời giáo huấn trong đây còn có rất nhiều ngụ ý sâu mầu khó tả.

                                               CHÚ THÍCH :

        HIỀN THẦN: Tôi hiền, người tôi gồm đủ tài đức và trung trực đối với quốc gia dân tộc. Ví dụ: Hiền thần ra giúp nước. Đức Thầy có câu:“Hiền thần Nhơn Quí người đương ẩn mình”.(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi).

        HIẾU NGHĨA: (Xem chú thích nơi câu 204 Q.2 Tập nầy).

        NGỒI BUỒN DÂN GẶP CHIẾU MANH: Ngồi buồn là tiếng trong văn chương thường dùng khi mở đầu một câu chuyện có tánh cách tình cảm:“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ! Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”(Ca dao). Nghĩa toàn câu là chỉ cho cảnh đang buồn lại gặp sự may mắn. Ở đây ý nói dân chúng đang lâm cảnh khổ (buồn) lại may mắn gặp cơ cứu độ, tức là gặp Đức Thầy khai nguồn Đạo pháp tế độ quần sanh.

        VÔ HÌNH: Không có hình tướng sắc màu. Bức tranh vô hình là chỉ cho Đạo vô vi hay chánh pháp vô vi mà Đức Thầy đã truyền dạy, trong “Giác Mê Tâm Kệ”:

                “Đạo vô vi của Phật ân cần,

                  Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.

        Hoặc:

                “Huyền Pháp thâm trầm thơm bất tuyệt,

                  Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”

                                         (Cho Ô. Tham Tá Ngà)

        XÉT MÌNH: Tự kiểm xem xét coi mình đã làm gì: quấy hay phải, tội hay phước. Ý dạy mỗi người nên xem lại thân, khẩu, ý của mình mà dứt bỏ những gì xấu xa tội lỗi để sớm được trọn lành trọn sáng. Cổ nhân từng bảo:“Thẩm xét lòng mình, chẳng bày lỗi người, ở khắp chỗ đều tự nhiên thong thả, không bị ngăn ngại”. 

        Đức Lục Tổ cũng dạy:“Người tu theo chánh Đạo, muôn vật chẳng tổn thương, lỗi mình hay xét thấy, mới hiệp Đạo chơn thường”.

        BÀI NGỤ NGÔN: Những bài văn hay bài thơ, ngoài nghĩa đen còn có nhiều ngụ ý sâu xa khác. Như nói chuyện loài vật mà ngụ ý chỉ cho việc loài người. Điển hình như bài thơ “Ba con bò ở chung một chuồng”, bài “Cá thia thia”(Cổ thi) hoặc bài Vịnh “Con Beo Đá” của Đức Thầy, như sau:

                “Beo ơi, beo hỡi, là beo !

                  Gần cọp sao mi lại giống mèo ?

                  Ngóng cổ chờ ai đem thịt tới ?

                  Hay chờ gạt chó cướp đàn cheo ?”

        Ở đây, ngay trong quyển Sấm Giảng nầy, Đức Thầy cũng có ngụ ngôn rất nhiều đoạn, nên Ngài nhắc cho bá tánh hãy tìm hiểu những điều sâu xa ẩn dụ trong đó.

                                     CHÁNH VĂN

581.              Tới đây Ta giả làng thôn,

        Ngọc-Thanh lui gót phi bôn Nam-Kỳ.

                  Hiền thần sách sử nêu ghi,

584.    Miễu son tạc để tu-mi trung thần.

                  Thôi thôi cảnh khổ hầu gần,

           Ta khuyên dân-chúng ân-cần nhìn xem. 

                Ra đời dạy-dỗ anh em,

588.    Xem qua ít bận rán đem vào lòng.

                Người tu như thể bá-tòng,

           Ai ai cũng quí cũng trông cũng nhìn.

                Sửa trau là phận của mình,

592.    Xưa nay lời lẽ sử kinh rõ-ràng.

                Chừng nào ta gặp Hớn-Hoàng,

           Chúng-sanh mới hết phàn nàn số căn.

                      Mạnh-Tông xưa cũng khóc măng,

596.    Đất khô nẩy mụt rõ lòng hiếu nhi.

 LƯỢC GIẢI (từ câu 581 đến câu 596) :

        -Viết đến đây Đức Thầy có lời từ giã thôn xóm, đoạn rồi Ngài vân du khắp miền Nam nước Việt để tùy cơ giác tỉnh bá gia. Xưa nay những bậc“trung quân ái quốc” đều được sách sử ghi biên, miễu son thờ phượng:“Tử vì nước còn ghi linh miếu, Thác vì đời thanh sử danh bia”(Diệu Pháp Quang Minh)

        -Ngài cũng báo tin cho dân chúng biết cảnh khổ sẽ kề một bên, nên Ngài khuyên mỗi người hãy lo âu gắng gổ, tìm phương giải thoát. Khi xem đến lời chỉ dạy của Ngài, mỗi người cần ghi tạc vào thâm tâm, để sớm hôm lo trau thân gìn Đạo.

        -Nếu người nào tu hành thì sau nầy quí báu vô cùng, như loại tòng bá ai cũng yêu kính trông nhìn. Vậy bổn phận của mỗi người hãy tự mình lo tu sửa, xưa nay những lẽ Đạo đức trong các kinh sử, đều có dạy rất rõ ràng.

        Đức Thầy còn tiên tri sắp tới đây đất nước Việt Nam sẽ vô cùng vinh diệu, bởi nhờ có vị Thánh Vương ra đời đức tài gồm đủ. Ngài sẽ:“Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng”(Phỗng Đá Trả Lời), và đến đó toàn thể chúng sanh đều chung sống cảnh thanh bình an lạc, chẳng còn phải than thân trách phận. Vậy ai muốn hưởng hạnh phúc ấy thì ngay bây giờ, phải trau giồi hạnh hiếu, noi gương Mạnh Tông xưa kia để hành xong bổn phận.
                                                CHÚ THÍCH :

        PHI BÔN: (Xem lại chú thích nơi câu 364 trên).

        TRUNG THẦN: Người tôi trung nghĩa ngay thật đối với đất nước. Khi xưa, Ngài Huệ Lựu (Phật Thầy) đã dạy:“Luật Nam nghĩa lý hẳn hòi, Ơn cha nghĩa mẹ, sự vua trung thần”. Đức Thầy cũng nói:“Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ”(Diệu Pháp Quang Minh).

        ÂN CẦN: Cần cố, âu lo, gắng gổ. Ví dụ: Làm việc gì có ân cần gắng gổ mới mong kết quả.

        NGƯỜI TU NHƯ THỂ BÁ TÒNG: Bá tòng là cây trắc và cây tòng (tùng), người ta hay trồng làm kiểng. Sở dĩ Bá tòng được người đời mến trọng vì nó có bản sắc xanh biếc cả bốn mùa, nhứt là mùa Đông, mọi cây đều tàn cỗi mà riêng nó vẫn được sởn sơ. Vì thế, sách Ích Trí đem người quân tử ví với bá tòng như câu:“Bạch ngọc vi ư ô nê bất năng tham chấp kỳ sắc, Quân tử xứ ư trược địa bất năng nhiễm loạn kỳ tâm. Cố tòng bá khả dĩ nại tuyết sương, minh trí khả dĩ thiệp gian nguy”(Ngọc trắng vùi nơi bùn lầy mà sắc nó chẳng hề lem ố, người Quân tử ở nơi ô trược không nhiễm loạn cái tâm. Cho nên loại Tòng Bá có thể chịu đựng sương tuyết mà kẻ minh trí cũng có thể vượt lên trên chỗ gian nguy).

        Vì cái đặc tính không dời đổi của Tòng Bá mà Đức Thầy đem người tu để ví với nó, bởi người thật tu thì lúc nào hay ở đâu, lòng vẫn được liêm khiết trung hậu.

        SỬ KINH: Cũng gọi là kinh sử, tiếng gọi chung về sách sử và kinh điển.

        HỚN HOÀNG: Vua nhà Hớn. Theo cơ giảng cho biết thì Quốc hiệu nước Việt Nam sau nầy gọi là Hớn Bang hay Hớn Đàng và sẽ có vị Thánh Vương xuất hiện đem lại sự thái bình cực thịnh cho cả nhân loại. Như trong Giảng “Mười Một Hồi”, Ngài Huệ Lựu đã nói:

                “Nói cho già trẻ lo âu,

Minh Vương khôi phục Hớn Châu Phong Thần”.

        Hoặc là:

“Đại Nam xưng hiệu tiền Đường,

Nối ngôi nhà Hớn bốn phương phục tùng”.

        Và trong “Kim Cổ Kỳ Quan”, ông Ba Thới đã viết:

“Mười tám nước lai giáng hàng đầu,

Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn bang”.

        Đức Huỳnh Giáo Chủ nay cũng bảo:

                                 “Một tay tá quốc an bang,

Nước nhà vững đặt Hớn- đàng hiển vinh”

                        (Mượn Cây Đuốc Huệ)

        Và:

“Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,

Sum vầy một cuộc Hớn- đàng toại thay”.

                        (Để Chơn Đất Bắc)

        SỐ CĂN: (Xem chú thích tại tr.248 Tập 1/3).

        MẠNH TÔNG: Ông tên chữ là Cung Võ, người ở đất Giang Hạ, sống dưới triều Ngô, đời Tam Quốc (Trung Hoa).

        Cha mất sớm nên Mạnh Tông sống với mẹ già. Ông rất hiếu thảo với mẫu thân, sớm hôm phụng dưỡng chuyên cần, chẳng hề biếng trễ.

        Một hôm mẹ Ông mang bịnh nặng, nhiều danh y diệu dược được Mạnh Tông rước đến, nhưng đều không trị được căn bịnh hiểm nghèo của mẹ. Lòng Ông rối tợ tơ vò, một mặt lo thuốc thang, một mặt lo khẩn vái Phật Trời nhỏ phước cho mẹ Ông tai qua nạn khỏi. Trong lúc bịnh nặng mẹ kêu Ông đến bảo:“Mẹ thèm bát canh măng, nếu ăn được chắc bịnh mẹ chóng lành”. Nghe vậy, Ông vội vàng đi khắp nơi lùng kiếm măng, nhưng nhằm mùa đông trời giá lạnh, nên măng không có. Ông buồn bã than thầm:“Canh măng không có, chắc mẹ ta khó sống !” Lòng Ông vô cùng buồn bã đau đớn. Cuối cùng, Ông ngồi ôm gốc tre mà khóc !!!

        Lòng hiếu thảo cảm đến Trời đất, bỗng nhiên có mấy mụt măng nẻ đất mọc lên ngay chỗ nước mắt đã rơi. Mạnh Tông hết sức vui mừng, lạy tạ ơn Trời Phật và bẻ vội măng đem về nấu canh cho mẹ dùng, tự nhiên bệnh bà thuyên giảm và lần lần khỏi hẳn. Danh tiếng của Ông được mọi người kính nể và noi theo. Ông được liệt vào “Nhị Thập Tứ Hiếu” bên Trung Hoa.

        Về sau có một loại tre màu xám, được đặt tên là tre mạnh tông, tre có măng hình dáng trông rất đẹp và ăn ngon.

        Do sự tích nói trên, mới biết lòng hiếu thảo cảm động đến Trời Đất và trong sách Thánh đã bảo:“Hiếu từ giả bá hạnh chi tiên. Hiếu chí ư thiên tắc phong vũ thuận thời, hiếu chí ư địa tắc vạn vật hóa thạnh, hiếu chí ư nhơn tắc chúng phước lai trăn”.(Việc hiếu từ là trên hết các hạnh. Hiếu tột đến Trời thì gió mưa hòa thuận, hiếu động đến đất thì muôn vật hóa sanh, còn hiếu cảm đến người thì các phước đều đến).

        Nhà thơ Lý văn Phức cũng đã tán thán sự hiếu:

                “Cho hay hiếu động cao dày,

              Tình sâu nên khiến cỏ cây cũng tình”.

        Đây là tấm gương nhắc nhở mọi người nên có hiếu với cha mẹ.

        HIẾU NHI: Người con có hiếu.

                             CHÁNH VĂN

597.            Mặc ai nhạo báng khinh khi,

         Phần ta niệm chữ từ-bi độ đời. 

                  Muốn xem được Phật được Trời,

600.    Thì là phải rán nghe lời dạy răn.

                   Bá-gia cùng các chư tăng,

           Việc tu không đợi hương đăng làm gì.

                  Đời cùng tu gấp kịp thì,

604.    Đặng xem báu ngọc ly-kỳ Năm Non.

       Phật thương bổn-đạo như con,

           Muốn cho bổn-đạo lòng son ghi lời.

       Nữa sau đến việc biết đời,

608.    Bây giờ chưa thấy nó thời không tin.

        Tới đây cũng dứt giảng kinh,

           Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu.

        Nam-mô lòng sở nguyện-cầu,

612.   Chúc cho bá-tánh muôn sầu tiêu tan.

                       NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

                                (tam niệm)

 Cầu Phật-Tổ, Phật-Thầy, quan Thượng-Đẳng Đại-Thần, chư quan Cựu-Thần, chư vị Sơn-Thần, chư vị Năm Non Bảy Núi phổ-độ bá-tánh vạn dân tiêu tai tịnh sự giải-thoát mê-ly.

 LƯỢC GIẢI (từ câu 597 đến câu 612) :

        -Trên con đường khai hóa nhân sanh dầu cho người đời có nhạo chê phỉ báng, Đức Thầy vẫn không màng kể. Lúc nào Ngài cũng lấy lòng từ bi đối với vạn loại chúng sanh và hằng lo cứu độ. Ngài khuyên bá tánh: Ai muốn sau nầy được kiến diện Phật Trời, thì hiện giờ hãy nghe theo lời răn dạy của Ngài.

        -Ngài cũng kêu gọi khắp thiện tín, từ giới tại gia cư sĩ đến hàng tăng chúng xuất gia: Sự tu không phải đợi có đủ nghi thức nhang đèn, hay đến giờ ấn định, mới công phu bái sám, mà bất cứ lúc nào hay ở dâu cũng vẫn tu được cả:“Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu, Nằm, đi, đứng hay ngồi chẳng chấp”(Kệ Dân, Q.2). Và:“Chẳng có cần trà, quả, hương nồng, Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ”(GMTK, Q.4). Bởi đời Hạ ngươn sắp mãn để lập lại Thượng ngươn, chúng sanh cần tu gấp mới kịp thời kỳ và được thấy cảnh quí báu ở vùng “Năm Non Bảy Núi”:“Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi, Miền Bảy Núi mà sau báu quí”(Kệ Dân, Q.2).

        -Tình thương của chư Phật đối với chúng sanh và môn đồ cũng như tình cha mẹ đối với con (Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử), lúc nào Tổ Thầy cũng muốn tất cả môn đồ ghi nhớ lời Phật pháp vào thâm tâm để thực hành theo. Còn những lời cơ giảng đã tiên tri, vì chưa xảy đến nên bá tánh chẳng chịu tin nghe, nhưng sắp tới đây dân chúng sẽ thấy rõ mọi việc xảy ra không hề sai chạy.

        Trước khi chấm dứt Sấm Giảng Quyển Ba, Đức Giáo Chủ còn khuyên người tu nên xoay về bản tâm của mình mà trau sửa, diệt hết lòng xấu xa tà niệm, tất được sáng mầu, đạt thông Đạo pháp. Đây chính là pháp tu căn bản, bởi ngoài tâm không có Phật:“Phật tại tâm chớ có đâu xa, Mà tìm kiếm ở trên non núi”. (Kệ Dân, Q.2). Lòng Ngài cũng không ngớt nguyện cầu cho vạn dân được vượt qua mọi tai nạn sầu khổ và thoát mê về giác.

 CHÚ THÍCH :

        NHẠO BÁNG: Kiêu ngạo, nói xấu người khác. Ví dụ: Kẻ ngang tàng vô Đạo hay nhạo báng Thần Tiên. Đức Thầy có câu:

                “Mãi lo chế nhạo chống kình,

            Chẳng toan Đạo đức mà gìn thôn hương”.

                                        (Dặn Dò Bổn Đạo)

        TỪ BI: (Xem chú thích tại tr. 40 Tập 1/3).

        CHƯ TĂNG: (Xem  chú thích chữ tăng chúng  nơi câu 320 Q.2 Tập nầy).

        KỊP THÌ: Kịp thời, đúng lúc, đúng với thời gian đó. Ở đây Đức Thầy khuyên bá tánh hãy sớm lo tu hành cho kịp đến thời kỳ chuyển biến lập đời.

        BÁU NGỌC: Ngọc ngà châu báu, chỉ cho thất bảo (bảy báu): Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách. Đức Thầy có câu:“Nam thiên báu ngọc châu trân”( Để Chơn Đất Bắc). Và:

                “Phương Nam rạng ngọc chói lòa,

                  Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung”.

                                (Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)

        LY KỲ: (Xem chú thích nơi câu 267 trên).

        NĂM NON: (Xem lại chú thích nơi câu 271 Q.2 Tập nầy).

        LÒNG SON: (Xem chú thích tại tr.239 Tập 1/3).

        TÂM LINH: Cũng gọi là tâm thần, hay lòng trí lành, linh mẫn, tự có nơi mỗi người. Trước kia vì vô minh vọng tưởng nên tối tăm mờ ám, nếu nay biết tu sửa cho hết vô minh, tức tâm trí sẽ sáng suốt trở lại. Kinh Thiền Môn có nói:“Bậc Thánh tìm lòng chẳng tìm Phật, phàm phu kiếm Phật chẳng kiếm lòng. Người trí trau tâm chẳng giồi thân, kẻ ngu trau thân chẳng giồi tâm”. Và những câu:“Ngoài lòng tìm kiếm, trọn chẳng đặng Đạo, tự lòng xem xét, trong một giây phút, liền chứng quả Phật”.

        Đức Thầy cũng từng dạy:

        “Trau tâm luyện tánh cho minh,

        Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn”(K/thiện Q.5) .

Và:

        “Tâm linh mắt Thánh xem ba cõi,

        Tánh hiển tai thần lóng bốn phang”.

                                        (Tỉnh Bạn Trần Gian)

                            HẾT QUYỂN THƯỢNG

                                    TẬP 2/3

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn