CHÚ GIẢI QUYỂN NHÌ KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG
XUẤT XỨ – VĂN THỂ Đây là quyển Nhì mà Đức Giáo Chủ đã sáng tác vào ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939), lúc Ngài còn ở Tổ Đình Thánh Địa Hòa Hảo. Quyển Kệ nầy Ngài viết theo lối văn vần, thể thất ngôn, loại thuyết giáo, dài 476 câu. Khởi đầu bằng câu:“Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế” và chấm dứt bởi câu:“Ta ra sức dắt dìu bá tánh”. NỘI DUNG : Trong quyển “Kệ Dân của Người Khùng”, Đức Thầy vạch rõ máy huyền cơ cho dân chúng biết những tai ách sắp xảy ra: nào sưu thuế nặng nề, chiến tranh chết chóc; nào nghèo khổ đói cơm, thiếu thuốc. Để rồi Ngài kêu gọi bá tánh sớm tỉnh ngộ tu hành, tránh họa diệt vong của ngày tận thế. Đồng thời Ngài cải sửa những sự sai lầm do phái Thần Tú và số người tu lạc chân lý bày ra trong Đạo Phật, như âm thinh sắc tướng, mê tín dị đoan v.v…Ngài cũng khuyên mọi người hành đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Thích Ca tự nghìn xưa, hầu trực kiến Phật tâm, tỏ ngộ chân tánh hoặc chuyên tâm niệm Phật, làm lành để được vãng sanh về Cực Lạc, thoát cảnh luân hồi sanh tử. BỐ CỤC : Toàn quyển Nhì gồm có ba phần chánh và 37 tiểu đoạn. I.- Phần nhứt, tức các câu khai đề, Đức Thầy cho biết: Cuộc diện đất nước Việt Nam đang bị người Pháp đặt quyền thống trị, dân chúng phải gánh chịu biết bao tai nàn: nào chiến tranh, sưu cao thuế nặng, nào thiên tai địa ách, đói cơm thiếu thuốc.v.v…Từ câu 1 “Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế…” tới câu 8: “Mùa màng thất đói đau không thuốc…” II.- Phần hai, cũng là phần chánh đề: Ngài tiếp tục khuyên tu và thức tỉnh các người tu sai chân lý, nên cải sửa những nghi thức sai lầm, như: âm thinh sắc tướng hoặc mê tín dị đoan…Mỗi người hãy nương theo chánh pháp vô vi và tâm ấn của Đức Phật đã di truyền qua 33 vị Tổ…Từ câu 9: “Thương hại bấy lê dân đứt ruột…” tới câu 464:“Khắp lê thứ nghe lời thì ít…” III.- Phần ba, cũng là phần kết đề. Ngài đem bàn cờ tướng sắp bị chiếu bí để tỷ dụ cuộc đời sẽ đến ngày tàn cỗi, tại sao bá tánh chẳng hồi tâm tỉnh ngộ ? Nếu ai biết quày đầu hướng thiện cải hóa thân tâm, tức mình và Tiên Phật chỉ là một…Từ câu 465:“Chốn sơn lãnh bây giờ mù mịt”, tới câu 476:“Ta ra sức dắt dìu bá tánh”. (Phần các tiểu đoạn chúng tôi có lược giải từng đoạn, nên phần nầy xin miễn nhận xét). CHỦ ĐÍCH : Đức Giáo Chủ khuyên các hành giả, từ hạng Tăng Ni Phật tử đến cư sĩ tại gia, nên xóa bỏ những điểm sai lầm do số người tu lạc chân lý bày vẻ thêm. Và nên hành trì đúng theo tâm ấn của Đức Phật. “Khùng nói cho già trẻ làm tin, Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú”. |
Chú giải từ câu 001 – 204 (Quyển II)CHÁNH VĂN 1. Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế, Thấy dân mang sưu thuế mà thương. Chẳng qua là Nam-Việt vô vương,
Nên tai-ách xảy ra thảm-thiết.
Bạc không cánh đổi thay chẳng biết, Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn. Mới mấy năm sao quá hao-mòn, 8. Mùa-màng thất, đói đau không thuốc. LƯỢC GIẢI (Từ câu 01 tới câu 08) : -Đoạn nầy ý nói Đức Thầy dùng trí huệ nhìn lại cuộc sống của dân chúng, đang gặp cảnh sưu cao thuế nặng mà động mối từ tâm. Từ khi nước Việt Nam bị người Pháp đặt quyền thống trị, dân ta gánh chịu biết bao cảnh lầm than cơ cực. Bởi: “Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thật là thảm thương”.(Sấm Giảng, Q.1) -Nhận xét cuộc diện trong đời, sự giàu nghèo thay đổi rất mau chóng, bởi thiên tai địa ách cứ dồn dập mãi với đồng bào ta. Sự chuyển biến mới xảy ra chưa được bao năm mà tiền của hao hụt, đất vườn thay đổi, dân chúng nghèo đói, bệnh tật không sao kể xiết. CHÚ THÍCH: ĐOÁI NHÌN: Đoái là ngoảnh lại, tưởng nhớ đến. Nhìn là trông thấy. Nghĩa chung là nhìn lại, trông tưởng đến. “Chiều chiều mây phủ trời hồng, Đoái nhìn ngọn trúc, đau lòng thần hôn”.(Ca dao). Trong bài “Luận Vệc Tu hành”, Đức Thầy nói: “Đoái thấy người đời lòng bắt chán, Dương trần lầm lạc đáng ưu phiền”. CUỘC THẾ: Cũng đọc là cục thế. Có nghĩa cục diện trong đời hoặc tình trạng hay cảnh trạng trong đời. Đức Thầy có câu: “Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy”.(Sa Đéc) SƯU THUẾ: Cũng gọi là sâu thuế. Các công việc của nhà nước mà toàn dân phải làm gọi là sâu (sưu). Các sắc thuế mà mọi người dân phải đóng cho nhà nước gọi là thuế. Đây chỉ cho người Pháp cai trị nước ta, bắt dân ta phải làm sâu, đóng thuế rất nặng nề khổ nhọc. NAM VIỆT: Quốc hiệu nước Việt Nam vào thời nhà Triệu (206-111 TCN). Thời Nguyễn gọi Nam Việt là miền Nam nước Việt Nam, thời Pháp thuộc gọi là Nam Kỳ. VÔ VƯƠNG: Không có Vua. Ý chỉ dân tộc ta hiện tình bị mất chủ quyền (mất nước), dưới quyền thống trị của người Pháp. TAI ÁCH: Tai nạn khốn khổ. Ý nói cuộc tai nạn dồn dập tới, hết nạn nầy tới nạn kia không ngớt, “tai trời ách nước”. Đức Thầy có câu: “Ách trời nạn nước thình lình, Người hung cứ mãi chống kình với Ta”. (Dặn Dò Bổn Đạo) BẠC KHÔNG CÁNH ĐỔI THAY CHẲNG BIẾT: Tiền bạc của cải tuy không có cánh, nhưng sự tiêu xài từ tay người nầy, sang tay người khác rất lẹ. Đây ý nói thời nay sự nghèo giàu thay đổi rất mau chóng. Đức Thầy từng nói: “Chữ phù vân phú quí nay mai, Luân với chuyển dời qua đổi lại”. (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4) CHÁNH VĂN
9. Thương hại bấy lê-dân đứt ruột, Thảm vợ con đói rách đùm-đeo. Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo, 12. Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc. Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt, Máy Thiên-cơ mỗi phút mỗi thay. Nẻo thạnh suy như thể tên bay, 16. Đường vinh-nhục rủi may một lát. Ai phú-quí vào đài ra các, Ta Điên Khùng thương hết thế-trần. Khuyên chúng-sanh chẳng biết mấy lần, 20. Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo. LƯỢC GIẢI (từ câu 09 tới câu 20): -Thấy sanh linh lâm cơ đồ thán, lòng Đức Thầy quá thương xót. Kẻ nghèo lại gặp cảnh nghèo hơn: nào vợ đau con đói, mùa màng ngập lụt; nào vật giá gia tăng đắt đỏ, bởi ngoại bang muốn bao vây kinh tế dân ta. -Lại nữa, cơ luân chuyển mỗi phút mỗi xây không ngừng nghỉ, cuộc suy thạnh của con người đổi thay trong nháy mắt. Kẻ giàu sang họ đam mê theo sự ăn sung mặc sướng, chẳng chút để tâm đến những người nghèo khổ chung quanh. Lòng từ bi của đấng Giác ngộ lúc nào cũng thương khắp chúng sanh, nên đã nhiều lần giáo dân hướng thiện, nhưng chẳng được mấy người tỉnh ngộ tu hành. CHÚ THÍCH: ĐỨT RUỘT: Nghĩa của chữ “đoạn trường”. Ý nói tình từ bi của Phật đối với chúng sanh rất tha thiết, như tình mẹ thương con bị đứt từng đoạn ruột. Thuở xưa, ông Hứa Tinh Vương (Hứa Chơn Quân), bình sanh ưa thích săn bắn. Hôm nọ, ông vào rừng bắn con nai nhỏ bị tên, nai chưa chết mang tên chạy sâu vào rừng. Ông và tùy tùng rượt theo đến bên hố, thấy nai con bị tên nằm dưới đất, nai mẹ cắn cỏ nhai nhổ cho con, liếm chỗ mũi tên và sa nước mắt. Thấy đoàn người rượt đến, nai mẹ vì thương con không nỡ bỏ chạy, bỗng té xỉu bên nai con, thế là mẹ con đều bị bắt. Hứa Tinh Vương cho người mang về làm thịt hết, khi mổ ra thấy ruột của nai mẹ bị đứt từng đoạn, còn nai con tuy bị tên nhưng ruột vẫn còn nguyên. Hứa Tinh Vương thấy vậy động mối từ tâm liền đem cung tên bẻ bỏ hết, từ ấy ông chuyên tâm hành Đạo, sau đặng thành chánh quả. Xét ra tình mẹ thương con của loài vật còn như thế, huống chi loài người, lòng thương chúng sanh của Phật, của Thầy hẳn còn sâu đậm hơn nhiều. Đức Thầy từng nói: “Từ bi tình ấy đoạn trường, Kể qua tích cũ mà lường lòng đây”. (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi) TỈNH TÂM: Lòng thức tỉnh, sáng biết hết mê lầm. TÌM ĐẠO: Tìm hiểu đường lối giáo lý chơn chánh để tu hành theo. Đức Thầy từng kêu gọi: “Sớm thức tỉnh tâm tầm Đạo chánh, Sau nầy về Phật với ngôi Tiên”. (Luận Việc Tu hành) CHÁNH VĂN 21. Trai trung-liệt đáng trai hiền-thảo, Gái tiết-trinh mới gái Nam-trào. Lời Thánh Hiền để lại biết bao, 24. Sao trai gái chẳng coi mà sửa ? Đời tận thế mà còn lần-lựa, Chẳng chịu mau cải dữ về lành. Làm Phật-Nhi phải được lòng thành, 28. Thì mới đặng vãng-sanh Cực-Lạc. Tương với muối cháo rau đạm bạc, Nghèo lương hiền biết niệm Di-Đà. Mà mai sau thoát khỏi tinh ma, 32. Lại được thấy cảnh Tiên nhàn-hạ. LƯỢC GIẢI (Từ câu 21 tới câu 32): -Các bậc Hiền Thánh xưa kia đã truyền dạy biết bao lời lẽ, phận làm trai phải giữ tròn câu trung hiếu, còn gái thì giữ vẹn tiết trinh, mới xứng đáng công dân ưu tú của nước nhà và cũng chẳng hổ là con cháu của giống Tiên rồng. Cuộc đời Hạ ngươn sắp đến ngày tàn cỗi để lập lại Thượng ngươn, thế mà chúng sanh mãi trù trừ lần lựa, chẳng sớm lo cải ác tùng thiện: “Nếu để chờ sấm nổ vang thinh, E bá tánh ăn năn đã muộn”(Diệu Pháp Quang Minh). -Đã quy y theo Đạo và nguyện làm tôi con của chư Phật, thì phải thật tâm thành ý niệm Phật làm lành, sống cuộc đời đơn giản, đạm bạc rau tương để giữ tròn giới hạnh, tức được khỏi tà ma nhiễu loạn, kiến diện Tiên bang, sống cảnh đời an nhàn tự tại. Sau cùng được vãng sanh về Phật quốc, khỏi đường sanh tử luân hồi. CHÚ THÍCH: TRUNG LIỆT: Trung nghĩa với tiết liệt. Người dám liều chết để giữ tròn khí tiết của mình đối với Quốc dân. HIỀN THẢO: Biết ăn ở hiền lành, đúng với Đạo nghĩa gọi là hiền. Tôn kính và bảo dưỡng Ông bà Cha mẹ gọi là thảo. Những kẻ hiền thảo bao giờ cũng có lòng trung liệt, cũng như người trung liệt không bao giờ để mất hiếu thảo, như Tử Lộ, Nhạc Phi bên Trung Hoa và Ngài Nguyễn Trung Trực tại Việt Nam…Là người tín đồ PGHH thì hai việc Trung và Hiếu không thể nào để thiếu, vì đó là hai điều trong “Tứ Đại Trọng Ân”. Đức Giáo Chủ từng dạy: “Hiếu Trung hãy liệu cho xong, Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về”. (Sám Giảng, Q.3) TIẾT TRINH: Cũng đọc là trinh tiết, tức là lòng trong sạch của giới nữ, không thể yêu đương một người đàn ông nào không phải là chồng chính thức của mình: “Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”(Lục Vân Tiên). NAM TRÀO: Cũng đọc là Nam triều tức là triều đình nhà Nam. “Gái Nam Trào”, ý nói hiện nay người con gái nào giữ vẹn tiết trinh, mới xứng đáng là tôi dân của nước Việt Nam sau nầy. LỜI THÁNH HIỀN: Chỉ cho lời giáo huấn của Đức Khổng Tử và các bậc Thánh Triết Hiền Nhân thuộc môn đồ kế truyền Đạo lý của Ngài. Những lời lẽ ấy gồm trong Ngũ Kinh: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Tứ truyện (Tứ thơ: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.) Trong đó biết bao lời lẽ chỉ dạy con người tu tập theo để trở nên bậc Thánh Hiền như các Ngài. Trong “Nang Thơ Cẩm Tú”, Đức Thầy có nói: “Chữ Thánh Hiền mới được nôm na, Ta thỏa chí hô hào Trung nghĩa”. TẬN THẾ: Hết đời, tiêu diệt cõi đời cũ để lập lại cõi đời mới. Ví như miếng vườn cũ, cây trồng đã lâu năm, hiện giờ bị đốc (chạ) hết, nên phá bỏ để trồng lại. Một đoạn giảng khác trong Quyển 2, Đức Thầy đã nói: “Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu, Nay tận diệt lập đời trở lại”. LẦN LỰA: Trì hoãn mãi, tánh trù trừ giải đãi, hẹn lần hẹn lựa. Xưa, có một nhà Sư khuyên một người bạn là Trương Tố Lưu niệm Phật. Lưu nói:“Tôi có ba việc làm chưa xong: một là quan tài của ông thân còn ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa con trai chưa cưới vợ, ba là con gái út chưa gả chồng. Chờ 3 việc ấy xong tôi sẽ tu niệm. Cách ít tháng sau, Lưu bị bạo bịnh mà chết. Nhà Sư đến cầu siêu và điếu Lưu một bài thi: “Bạn tôi tên là Trương Tố Lưu, Khuyên ông niệm Phật hẹn ba điều. Ba điều chưa vẹn vô thường đến, Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau !” Đức Thầy cũng từng bảo: “Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, Lúc bắt hồn mắc việc cũng đi”.
Và “Hãy rán tu đặng mà chết, Chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu” (Tư Tưởng)
CẢI DỮ VỀ LÀNH: Nghĩa của chữ “cải ác tùng thiện”, tức cải sửa những điều hung dữ để trở về con đường lành, với công việc lành. Trong bài Quy Y, Đức Thầy dạy:“…Nay con nguyện cải hối ăn năn làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo”. PHẬT NHI: Cũng gọi là Phật tử, tức người đã quy y theo đạo Phật, đã tin Phật và nguyện làm tôi con của Đức Phật; từ đó chuyên tâm hành trì theo Pháp hạnh của Phật, nên sớm muộn gì cũng thành Phật, thế gọi là Phật nhi. Trong Kinh “Tứ Thập Nhị Chương”, Đức Phật có phán: “Những Phật tử tuy cách ta từ ngàn dặm mà thật tâm gìn giữ giới luật của ta, chắc chắn sẽ đắc đạo như ta. Còn những kẻ tuy ở gần bên ta, mà không trì hành giới luật của ta thì không xứng đáng là Phật tử và không thể đắc đạo”. Đức Thầy hiện nay cũng dạy: “Đem tâm hồi hướng gốc lành, Làm tôi Phật Tổ chí thành chí chơn”. (Cho Ông Cò Tàu Hảo) LÒNG THÀNH: Cũng gọi là thiềng lòng, tâm thành, thành tâm (xem chú thích tr.142 Tập 1/3). VÃNG SANH:(Xem chú thích tr.209 Tâp 1/3). CỰC LẠC: Đọc cho đủ là Cực Lạc Quốc, là cõi nước tột vui, tối diệu. Phạn ngữ: (Scr.) là Sukhavati, chỉ Quốc độ của Đức Phật A Di Đà, do công đức và nguyện lực của Ngài tạo nên. Căn cứ theo những quyển kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô lượng Thọ thì cách đây mười muôn ức cõi Phật, về hướng Tây có một thế giới, gọi là Cực Lạc (cũng gọi là An Dưỡng Quốc); cõi nầy từ đất cát đến cung điện toàn bằng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não). Hoa sen nơi đó có năm sắc; nước có tám công đức (1. Trừng thanh tức lặng trong, 2. Thanh lãnh tức man mát, 3. Cam mỹ tức ngon ngọt, 4. Khinh nhuyễn tức mềm nhẹ, 5. Nhuận trạch tức trơn bóng), 6. An hoà tức yên ổn hòa nhã, 7. Trừ cơ khát và 8. Nuôi dưõng các căn.); chim kêu thành tiếng pháp, cây báu diễn lời lành; y phục, nhà cửa và các thức ăn, uống đều tùy ý hiện ra. Nói tóm lại nơi ấy là một cõi hoàn toàn an vui, trong sạch, không có những nỗi khổ và ô trược như cõi Ta Bà của chúng ta đang ở. Trong Kinh Tiểu Bản Di Đà, Phật có phán với Ngài Xá Lợi Phất:“Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc ? Kỳ Quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thụ chi lạc, cố danh Cực lạc”.(Cõi ấy vì sao gọi là Cực Lạc ? Vì chúng sanh cõi ấy không có những sự khổ, chỉ huởng các sự vui; bởi thế nên gọi là Cực Lạc). Kẻ tu hành bất luận xuất gia hay tại gia, nếu ai có đủ tín, nguyện, và trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật một cách chí thành, chí thật thì khi lâm chung được Đức Phật A Di Đà tiếp rước, linh hồn được vãng sanh về cõi của Ngài, thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử. TƯƠNG VỚI MUỐI CHÁO RAU ĐẠM BẠC: Câu nầy ý khuyên người tu nên trường chay giới sát để thoát khỏi luân hồi quả báo. Đức Thầy từng dạy:“Tương dưa giữ phận cho tròn…”.(Thiên Lý Ca). Câu giảng nêu trên cũng còn có nghĩa bảo mỗi người nên sống một cách:“Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”(Luận Về Bát Chánh/Chánh Tư Duy); chẳng nên ăn xài phung phí, để có thì giờ trau thân gìn đạo, như Đức Giáo Chủ từng dạy: “Phận tu hành đạm bạc rau tương, Miễn cầu được an khương bốn bể”. (Nang Thơ Cẩm Tú) NIỆM DI ĐÀ: Trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, tức tu Pháp môn Tịnh Độ (Niệm Phật). Kinh A Di Đà, Phật nói:“Nếu có người thiện nam tín nữ nào, nghe ta giải về Phật A Di Đà mà trì niệm danh hiệu của Ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày…dẫn tới 7 ngày mà tâm không xao lãng, cứ chuyên cần như vậy; đối với hạng người ấy, các tội đều tiêu diệt, tức được nhiều căn lành phước đức nhân duyên và đến lúc lâm chung sẽ có Phật A Di Đà cùng chư Thánh hiện ra trước mắt mình, nên tâm không điên đảo, tức thời được vãng sanh về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà”. TINH MA: Tà ma quỉ quái. Nghĩa bóng là chỉ cho hạng hung tàn bạo ác. Một đoạn khác, Q.2, Đức Thầy bảo: “Lớp đau chết kể thôi vô số, Thêm tà ma yêu quái chật đường”. CHÁNH VĂN 33. Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ, Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời. Coi là coi được Phật được Trời, 36. Coi phép lạ của Tiên của Thánh Cuộc dương-thế ngày nay mỏng-mảnh, Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn. Phải xả thân tầm Bát-Nhã thoàn, 40. Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt. Đến chừng đó bốn phương có giặc, Khắp hoàn-cầu thiết thiết tha tha. Vậy sớm mau kiếm chữ Ma-Ha, 44. Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa. LƯỢC GIẢI ( từ câu 33 tới câu 44 ): -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết sau nầy trên vùng Thất sơn sẽ có nhiều việc quí báu lạ lùng:“Chừng bảy núi lầu son lộ vẻ, Thì người già hóa trẻ dân ôi !”(Đáp Lời Ông Lương Văn Tốt). Nếu ai sớm giác ngộ tu hành, trau sửa tâm tánh cho được thuần lương thanh khiết thì chẳng những đặng kiến diện Phật Tiên, còn được xem cảnh báu lạ sẽ diễn ra ở miền Bảy núi: “Mắt nhìn thấy Thần thông biến hóa, Đức Di Đà hiện chóa hào quang”. (Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ) -Vả lại, cuộc đời quá mong manh, sắp đến hồi biến hoại, cơ tuyển chọn hiền còn dữ mất, thế mà kẻ giàu sang chưa biết hồi tâm hướng thiện, lại còn khinh khi lấn áp dân nghèo. Đức Giáo Chủ kêu thúc mọi người sớm quay về chánh Đạo và trau giồi trí tuệ cho tinh minh. Về cách thức tu huệ, Ngài đã dạy:“Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội). Muốn diệt cái vô minh trước phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhứt của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành kiến cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy !”(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ – tr. 458-459 SGTVTB 2004). -Khi người ta đã đứng vững trên con thuyền Đại Đạo và đạt được trí huệ thì những tai nạn hãi hùng, các cuộc chiến tranh binh lửa khắp hoàn cầu sắp tới đây, không thể làm hại mình được, bởi chư Phật và Đức Thầy lúc nào cũng hộ trì cho những kẻ chân tu. CHÚ THÍCH: BẢY NÚI: (Xem chú thích tại tr. 106 Tập 1/3) TU TÂM DƯỠNG TÁNH: Trau sửa cái tâm và điều dưỡng cái tánh. Tâm và Tánh đồng một bản thể nhưng vì ứng dụng nên có hai tên. Vẫn biết tâm tánh của chúng sanh và chư Phật gốc cũng như nhau, nhưng vì tâm tánh của chúng sanh bị vô minh vọng hoặc nên nay cần phải tu dưỡng lại, chớ không phải tìm cầu cái tâm tánh nào khác. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật bảo ông A Nan:“Tất cả chúng sanh cùng mười phương chư Phật, đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh không hai. Bởi các ông bị vô minh vọng tưởng nên sanh ra mười phương hư không và thế giới nhiều như vi trần…Chẳng khác nào một điểm mây nhỏ sanh trong nền trời xanh. Nếu nay hết mây, tức ngộ được chân tánh thì mười phương hư không và thế giới đều tiêu diệt”. Vậy hành giả cần tu sửa cho sạch hết các vọng tâm phiền não và điều dưỡng cái tánh cho được hòa vào một bản thể giác ngộ với chư Phật, tất nhiên huệ nhựt hiện bày, dứt hết nghiệp sanh tử, tự tại giải thoát, như Đức Thầy đã dạy trong Quyển Khuyến Thiện: “Trau tâm luyện tánh cho minh, Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn”. Hoặc là: “Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành, Đừng cho ma nghiệp vọng tâm sanh. Quay về cội phúc đường chân đạo, Phật pháp thiền na dốc thực hành”. (Cho Cô Võ Thị Hợi) MỎNG MẢNH: Rất mỏng và yếu, dễ rách, dễ gãy bể. Ý chỉ cuộc đời sắp hư hoại: “Đời nầy mỏng tựa màng thưa”.(Sấm Giảng Q.1) XẢ THÂN: Dám liều thân, không kể thân mình. Do chữ “xả thân tìm Đạo”; xả bỏ lòng vị kỷ tham lam, dốc hết tâm lực để tìm đạt được Đạo. Đức Thầy từng dạy:“Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”(Bát Chánh/ Chánh Tư Duy). BÁT NHÃ THOÀN: Cũng đọc là thuyền bát nhã. Bát Nhã là phiên âm của Phạn ngữ (Scr.) Prajna, một danh từ đặc biệt trong Phật pháp, bao gồm nhiều ý nghĩa, dịch gọn là Trí huệ, là thanh tịnh sáng suốt. Bát nhã lại có 3 thứ: 1.- Thật tướng bát nhã: Cái linh trí sáng mầu, thường tồn bất biến của mỗi chúng sanh đều sẵn có (trí vô sư). 2.- Quán chiếu bát nhã: Cái trí sáng quán sát thấu suốt, phân biệt các pháp, người tu hành nhờ tịnh lự, tư duy mà mở thông. 3.- Văn tự bát nhã: Sự sáng suốt, thông hiểu lý nghĩa, mầu nhiệm cao sâu trong các kinh điển đạo Phật; nhà tu nhờ học rộng nghe nhiều, sưu tầm tra cứu mà thấu đạt. Sở dĩ gọi Bát Nhã là chiếc thuyền, là vì trí huệ có diệu năng đưa mình và độ chúng từ bờ mê sang bến giác. Chính nó là một trong sáu pháp “Ba-la-mật” của chư Bồ Tát thường hành. Đức Thầy từng bảo: “Thuyền bát nhã ta cầm tay lái, Quyết đưa người khỏi bến sông mê”. (Diệu Pháp Quang Minh) Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy:“Trí huệ (Bát nhã) là chiếc thuyền bền chắc, không một lượn sóng dục tình nào đánh đắm được, nó hay đưa người khỏi biển: sanh, lão, bịnh, tử. Là món thuốc thần diệu chữa lành các thứ bịnh thất tình lục dục.v.v…Là ngọn đuốc tột sáng, chiếu tan lớp vô minh vọng hoặc. Là lưỡi búa (kiếm) thật bén chặt đứt cội phiền não, tà kiến…” Đức Thầy hiện nay cũng bảo: “Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp, Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”. (Hiếu Nghĩa Vi Tiên) Bởi diệu năng của trí Bát nhã như thế, nên Ngài bảo:“Phải xả thân tầm Bát Nhã thoàn”.(Kệ Dân, Q.2) HOÀN CẦU: Khắp cả địa cầu, khắp cả thế giới.(Xem chú thích chữ Địa cầu tại tr.35 Tập 1/3) MA HA: Phiên âm của Phạn ngữ (Scr.) Mahâ, dịch nghĩa là rộng lớn. Sự rộng lớn ấy ví như hư không, không bờ bến, nó vẫn rỗng thông sáng tỏ, đồng với bản thể của đạo tâm. Cho nên khi nói đến Ma Ha tức là nói đến Đại Đạo. Vậy Đức Thầy dạy chúng ta:“…sớm kiếm chữ Ma Ha”, là bảo sớm tìm Đại Đạo, vì trong đó có đủ giáo lý diệu mầu giúp ta hườn nguyên phản bổn, tức trực kiến được bản thể chơn như tự tánh. Đức Thầy dạy: “Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp, Cho đời thấu tỏ Đạo ma ha” (Tối Mùng Một) CHÁNH VĂN 45. Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa, Vọng Cửu-Huyền sớm tối mới mầu. Chữ Nam-Mô dẹp được lòng sầu, 48. Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh. Ghét những đứa giàu-sang kiêu-hãnh, Thương những người đói-rách cơ-hàn. Cảnh phồn-hoa khó sánh lâm-san, 52. Sau sẽ có nhiều điều vinh-hạnh. LUỢC GIẢI (từ câu 45 tơí câu 52): Đoạn nầy dạy hai thời cúng lạy của mỗi tín đồ PGHH, cần phải thực hiện hằng ngày, chớ nên xao lãng, bởi:“Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu, Thì sẽ được toà chương dựa kế”(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). Còn sự niệm Phật tuy vỏn vẹn có sáu chữ Di Đà, nhưng nếu ai chuyên tâm tưởng niệm tất được nhiều lợi ích, như hiện tại sẽ khỏi tai nạn sầu khổ và tương lai đặng dự Hội Long Hoa, chầu mừng Phật Thánh. Vì ngày ấy sẽ có: “Phật, Thánh, Tiên, Đông Độ lướt sang, Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”. (Nang Thơ Cẩm Tú) -Những kẻ giàu sang thường cậy vào tiền của lên mặt khinh khi kẻ khác khiến ai trông vào cũng chán ghét. Còn hạng cơ bần nghèo túng ai nhìn tới cũng thương hại, đó là tâm trạng chung của xã hội loài người. Đức Giáo Chủ thường đề cập đến: “Người sao lại bỉ bàng tôm cá, Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng. Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng, Lại không đủ bữa rối nhăng đời người”. (Bóng Hồng) -Đức Thầy còn cho biết cảnh phồn hoa đô thị hiện giờ, tuy thấy đầy sự ăn sung mặc sướng, tiền bạc lụa là nhưng chẳng vinh hạnh bằng cảnh rừng núi tại vùng Thất sơn sau nầy. Bởi: “Rừng lâm cây đá thấy ngày nay, Mà ruột năm non có các đài. Chờ đợi con hiền noi tục cổ, Tới ngày thượng cổ điểu hòa mai”. (Đến Làng Nhơn Nghĩa) CHÚ THÍCH: TƯỞNG NHỚ PHẬT: tức là niệm Phật. Do chữ “Niệm Phật Ức Phật”. Ý nói người niệm Phật, lạy Phật cần phải thường xuyên và thiết tha thành khẩn, tưởng nhớ Phật như kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu cứu mới mong kết quả. Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:“Nhớ Phật, tưởng Phật thường xuyên thì lúc hiện tiền hoặc tương lai quyết định thấy Phật, thành Phật; chẳng cần phương tiện mà tự nhiên tâm địa khai thông”(Ức Phật, niệm Phật hiện tiền tương lai tất định kiến Phật, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai). Cho nên ngày nay Đức Thầy thường dạy tín đồ: “Đêm ngày tưởng Phật cho thường”(Sấm Giảng Q.1). VỌNG CỬU HUYỀN: Vọng bái Tổ Tiên Ông Bà cha mẹ. Ý chỉ sự thờ cúng “Cửu Huyền Thất Tổ” của người tín đồ PGHH, phải thường xuyên mỗi ngày hai thời, không nên quên lãng. Đức Thầy đã dạy; “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi, Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”. (Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa) CHỮ NAM MÔ DẸP ĐƯỢC LÒNG SẦU: Nam mô là phiên âm của Phạn ngữ (Namah); nhưng chữ “nam mô” ở đây là nói gồm đủ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ý dạy người trì niệm lục tự Di Đà sẽ tan hết tai nàn sầu khổ và kết quả cao quí: “Cứu khổ nam-mô vô lượng phước, Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh”. (Tỉnh Bạn Trần Gian) -Khi xưa Thái tử A Xà Thế nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa hạ ngục vua cha là Tần Bà Xa La và Mẫu hoàng Vi Đề Hy. Ở trong ngục thất quá sầu khổ, Hoàng hậu quì xuống hướng về Đức Phật, thành tâm khẩn nguyện nhờ Ngài ban vui cứu khổ. Cảm ứng đến Đức Thế Tôn, Ngài bèn dùng thần lực giúp cho bà thấy được cảnh giới Cực lạc và khuyên bà nên niệm Phật, để sau nầy được sanh vào cõi ấy. Bà Vi Đề Hy vâng lời Phật dạy chí tâm niệm Phật, ít hôm sau sự sầu khổ vơi dần, Thái tử A Xà Thế cũng hồi tâm cải hối, rước mẹ về xin lỗi và quay đầu hướng thiện (theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh). Vấn đề nầy, trong Giảng Mười Một Hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai có nói: “Niệm Phật vui thú thảnh thơi, Buồn rầu giải hết, mặc người cười chê”. Đức Thầy nay cũng cho biết:“Niệm chữ A Di dẹp lòng sầu”.(Muốn Rõ Đạo Mầu). NHÀ TIÊN CỬA THÁNH: Có hai nghĩa: 1.-Chỉ cho cõi đời Thượng ngươn Thánh đức. Chừng ấy cơ trời mở Hội Long Hoa, chọn lọc hiền còn, dữ mất. Lúc đó sẽ có:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”(Không Buồn Ngủ). Người nào biết làm lành lánh dữ, niệm Phật tưởng Kinh sẽ được dự vào hội ấy mà an hưởng cảnh: “Bồ đào rượu Thánh trà Tiên, Muôn năm cộng lạc Chúa hiền tôi trung”. (Nang Thơ Cẩm Tú) 2.- Chỉ cho nhà tu khi được đắc Đạo. Vì nếu ai chuyên trì Lục tự, dứt hết nghiệp nhân tội lỗi, không còn nhiễm ô trần tục, tức đặng trở về tâm hồn Tiên Thánh:“Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực Hiền”.(Luận Việc Tu hành). Thế nên Đức Thầy hằng kêu gọi: “Nhơn sanh tỉnh giấc tìm nhà Thánh Tiên”(Bóng Hồng) CƠ HÀN: Đói và lạnh. Chỉ cho cảnh nghèo khổ túng thiếu, không đủ cơm ăn áo mặc. PHỒN HOA:(Xem lại chú thích tại tr.211, Tập 1/3) LÂM SAN: Cũng đọc là lâm sơn, có nghĩa rừng và núi. Đây chỉ cho miền Thất sơn. Đức Thầy có câu: “Lâm san rày đã rời ra, Dạo trong lê thứ vậy mà xét soi”. (Vọng Bắc Hòa Nam) VINH HẠNH: Vẻ vang và may mắn. KIÊU HÃNH: Cậy mình lên mặt, làm cao, khinh khi kẻ khác. Ví dụ: Thấy người kiêu hãnh ai cũng ghét.
53. Cõi trần thế hết suy đến thạnh,
Hết lâm nguy đến lúc khải-hoàn.
Tuy tu hành chịu chữ nghèo-nàn, 56. Sau đắc đạo gặp điều cao-quí. Mặc bá-tánh đời nầy dị-nghị, Ta Điên Khùng mà tánh lương-hiền. Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền, 60. Mà dương-thế cứ theo biếm nhẻ. Sau lập Hội thì già hoá trẻ, Khắp hoàn-cầu đổi xác thay hồn. Đức Ngọc-Hoàng mở cửa thiên-môn, 64. Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh. LƯỢC GIẢI (từ câu 53 tới câu 64): -Thể theo định luật tuần hườn trong vũ trụ, hễ hết suy tới thạnh, qua hồi gian nguy, tới lúc an lạc thạnh hưng. Kẻ tu hành cũng thế, lúc đang hành đạo phải gặp nhiều gian lao cực khổ nhưng đến khi quả mãn công viên thì có chi quí báu cho bằng. -Thuở Đức Thầy mới khai Đạo, có lắm người chẳng tin nghe, lại còn bài bác, nhưng với lòng từ bi vì muốn cứu độ chúng sanh, chớ chẳng phải vì tiền bạc. Thế mà người đời không chịu xét kỹ, cứ theo nhạo chê phỉ báng. -Đức Thầy còn cho biết: tới ngày lập Hội sẽ có cuộc thay hồn đổi xác rất mầu nhiệm ký bí, nhiều người già yếu được trẻ đẹp trở lại và có nhiều người tu được đắc thành Phật, Tiên, Thánh. Đó là do phép huyền diệu của Trời Phật ban thưởng cho người có công tu. Còn những kẻ gian tà xảo quyệt, sẽ bị luật đào thải diệt vong: “Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu, Người tu niệm sống đời thượng cổ”. (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4) CHÚ THÍCH : HẾT SUY TỚI THẠNH: Suy là sa sút, kém yếu, suy bại. Thạnh là sáng sủa, phát đạt hưng thịnh. Đây là định luật xoay vần trong trời đất: hễ hết suy tới thạnh, hết vinh tới nhục. Đức Thầy có câu: “Hưng vong suy thạnh xưa nay, Cuộc đời vay trả, trả vay đổi dời”. (Viếng Làng Phú An) LÂM NGUY: Gặp lúc nguy hiểm nghèo ngặt. “Lâm nguy, may được giải nguy”(Lục Vân Tiên). KHẢI HOÀN: Khải là vui mừng; hoàn là trở lại. Khải hoàn là thắng trận vui mừng khi trở lại:“Vui khúc khải hoàn”. Đức Thầy có câu: “Dân được vui nhờ lúc khải hoàn”(GMTK, Q.4). ĐẮC ĐẠO: Được đạo, đạt đạo. Ý chỉ nhà tu đến khi thành đạo (diệt trừ hết hạt giống sanh tử, công viên quả mãn). Tùy theo công đức của mỗi người mà chứng đắc quả vị. DỊ NGHỊ: Bàn khác, có ý bác đi. Đây ý nói Đức Thầy ra đời khuyên người làm lành, làm phải mà có nhiều kẻ không chịu nghe, lại còn bài bác đủ cách. ĐỔI XÁC THAY HỒN: Thay đổi hồn nầy qua xác khác. Cuộc thay đổi nầy có nhiều cách: 1./ Những người tâm hồn chơn chánh hiền lương nhưng thể xác đã già nua yếu đuối nên đến ngày biến thiên sấm nổ, Trời Phật sẽ cho đổi qua xác khác, trẻ trung mạnh khỏe hơn, như trong Cửu Khúc của ông Ba Thới có nói: ‘Kẻ mất hồn người vía bay xa, Vía bay xa người ta còn lại. Phật đem hườn vía lại thủ thân”. Và trong Sấm Giảng 11 hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai cũng bảo: “Tu hành nhơn đức thì hơn, Thay hồn đổi xác nhờ ơn cửu trùng”. Đức Huỳnh Giáo Chủ nay đã cho biết: “Cổ ngữ hằng ghi thậm khổ đa, Tận diệt nhơn gian trực tiên khoa. Lão giả hậu qui nhơn ấu giả, Ly kỳ thiên định dĩ thiên-la”. (Lộ Chút Cơ Huyền) 2./ Sau ba tiếng sấm nổ mọi chúng sanh đều bất tỉnh, người nào hiền đức thì được chư Phật Thánh dùng linh dược cứu sống. Bấy giờ xác thể già xấu được đổi lại đẹp trẻ hơn trước. Hoặc những linh căn có tu hành đầy đủ công đức, nhưng đã bỏ xác từ trước nay được Phật dùng huyền diệu cho sống lại bằng cách “Liên hoa hóa thân”; như trường hợp Thái Ất Chơn nhơn dùng hoa sen tạo ra xác thể cho học trò là Na Tra. Trong Kim Cổ Kỳ Quan có câu: “Thương cho người sống ít, thác nhiều, Linh đơn Phật rưới mai chiều hóa tiên”. Đức Thầy cũng bảo: “Đến hội trăm quan còn hiện được, Thì ra xác thịt có cần đâu ?” (Cho Cô Hai Gương) 3./ Nguyên tâm tánh của mỗi chúng sanh trước kia đồng một bản thể với Phật Thánh song vì vọng niệm sai lầm, vô minh điên đảo mà thành ra chúng sanh và luân hồi sanh tử mãi mãi. Nên nay, hễ ai biết giác ngộ và y pháp tu hành đổi vọng tâm phiền não ra tánh Bồ Đề, sửa thân phàm phu ra thân Phật Thánh, tức chứng được Tam Thân bất hoại. (Tam thân gồm có: Thanh tịnh Pháp thân, Viên mãn Báo thân, Thiên bá ức Hóa thân). Bấy giờ chính mình tự thay hồn đổi xác cho mình rồi đấy. Trong Cửu Khúc, ông Ba Thới có câu: “Hết tục rồi lại hóa tiên, Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành”. Nay Đức Thầy đã dạy rõ trong bài Hoài Cổ: “Tính xong món nợ lần-khân, Thoát vòng cương tỏa pháp-thân nhẹ nhàng”. Nói tóm lại, trong ba cách thay hồn đổi xác vừa giải qua, tùy theo công năng tu tập cao thấp, sâu cạn của mỗi hành giả mà được thay đổi rất cân xứng. Và hành giả tu tập đến đó sẽ được: “Tiêu diêu Đạo đức luận bàn, Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao”(Hoài Cổ) ĐỨC NGỌC HOÀNG: Cũng gọi là Đức Ngọc Đế. Chỉ cho đấng Chủ tể thượng giới lẫn hạ giới. Theo Lão giáo thì quan niệm rằng: Đức Ngọc Hoàng (Thiên Hoàng,Thượng Đế) chưởng quản cõi trời và cõi chúng sanh. Luật thưởng phạt của Ngài rất công bằng, căn cứ vào định nghiệp nhân quả của mỗi chúng sanh mà phạt hay thưởng. Đức Thầy có cho biết: “Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên, Đức Ngọc Đế xử phân cho chúng”. (Diệu Pháp Quang Minh) Lúc ấy luật trời sẽ: “Xử những kẻ hung hăng tồi tệ, Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”. (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4) THIÊN MÔN: là Cửa Trời. Đức Thầy có câu:“Thiên Hoàng mở cửa các lân”(Sấm Giảng, Q.3).
65. Khuyên trai gái học theo Khổng-Mạnh, Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người. Xem truyện thơ chẳng biết hổ-ngươi, 68. Mà làm thói Điêu-Thuyền, Lữ-Bố. Sau kẻ ấy làm mồi mãnh-hổ, Cảnh Núi-Non nhiều thú dị-kỳ. Nó trọng ai hiền-đức nhu- mì, 72. Sát phạt kẻ bội cha phản chúa. LƯỢC GIẢI (từ câu 65 tới câu 72): -Theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân”, PGHH quan niệm rằng con người có vượt hơn người thường (siêu nhân) mới gọi là Phật Thánh. Cho nên Đức Thầy khuyên mọi người nên noi theo gương hạnh và lời chỉ giáo của các bậc Thánh Hiền (Khổng Mạnh) khi xưa để ăn ở đối xử cho tròn cái Đạo làm người. Đó là điều căn bản của mỗi tín đồ cần phải có. -Sách sử đã ghi lại biết bao câu chuyện tốt đẹp hoặc xấu xa, thế mà con người thời nay chẳng biết xét soi trau sửa, lại đua đòi những thói trăng hoa, vô liêm bất nghĩa, như Lữ Bố và Điêu Thuyền thuở nọ. -Đức Giáo Chủ còn cho biết, sau nầy đến thời kỳ thưởng phạt thì trên miền Bảy Núi sẽ có nhiều loài thú kỳ lạ trừng phạt kẻ bất trung bất nghĩa: “Hổ lang ác thú muôn bầy, Lớp bay lớp chạy sau nầy đa đoan. Ai mà ăn ở nghinh ngang, Đón đường nó bắt xé tan xác hồn”. -Còn những người biết tỉnh ngộ tu hành, vẹn tròn trung hiếu tiết nghĩa thì có Phật Tiên Thần Thánh gia hộ an toàn. CHÚ THÍCH : KHỔNG: là Đức Khổng Tử. Ngài sanh vào ngày 27 tháng 8 năm Canh Tuất (551 TCN), thời Xuân Thu, năm thứ 21 đời Châu Linh Vương, năm 22 thời Tương Công nước Lỗ, vào khoảng cuối đời Hồng Bàng ở nước Việt Nam ta. Quê Ngài ở làng Sương Bình, ấp Trâu, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, nước Lỗ (Trung Hoa). Cha Ngài là Thúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Trưng Tại (Nhan thị). Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người đời sau xưng tụng Ngài là Khổng Phu Tử. Xuất thân trong gia đình nghèo khó, mồ côi cha từ mới lên ba nên Ngài biết rất nhiều nghề, đảm đang tháo vác. Ngài có tầm vóc cao lớn hơn người, môi trâu, tai cọp, vai uyên (chim uyên), lưng rùa, miệng rộng; sơn đình giữa thì thấp còn bốn phía thì cao . Ngài rất thông minh, học rộng thấy xa và có nhiều đức tánh thiện mỹ. Lúc 50 tuổi, Ngài tầm ra chơn lý, bắt đầu hoạt động đạo nghĩa. Ngài làm quan nước Lỗ, từ chức Trung Đô Tể đến chức Nhiếp Chính Sự, hết lòng đem đạo đức dạy dân, xây dựng nên cảnh thanh bình trật tự thời đó. Nền Khổng Giáo từ độ ấy lan dần khắp nước Lỗ. Nhưng về sau, vua Lỗ mắc mỹ nhân kế của vua Tề Cảnh Công, đam mê nữ sắc, Ngài Khổng Tử bỏ nước Lỗ đi du thuyết. Ngài châu du qua nhiều nước, như: Tấn, Tề, Thái, Tống, Sở, Vệ.v.v…Nhiều nhà Vua nghe Ngài thuyết giảng đạo lý đều kính phục, nhưng ít ai chịu khó áp dụng theo. Trên con đường truyền Đạo, Ngài Khổng Tử đã gặp biết bao trở ngại, gian khổ: bị vây ở đất Khuông, bị mưu sát ở đất Tống, thầy trò lạc nhau ở đất Trịnh, bị cản trở ở đất Bồ, bị bao vây đến tuyệt lương ở đất Trần. Ngài nếm biết bao mùi vị đắng cay của dòng đời:“ Đời phong sương luống trải lắm gió mưa”(Cổ thi). -Năm Ngài 68 tuổi, Quí Khang Tử ở nước Lỗ thay mặt vua Ai Công mời Ngài về. Thế là sau 13 năm lưu lạc phong trần, Ngài mới trở về cố quốc. Ngài trở về Lỗ không phải dự Quốc chánh nữa mà là để truyền Đạo, bằng cách là mở trường dạy học trò, đồng thời Ngài khảo sát và san định kinh điển để lưu truyền dạy thế (Ngài khảo sát Kinh Lễ, Kinh Nhạc, san định Kinh Thi, Kinh Thư, khảo cứu Kinh Dịch, viết Kinh Xuân Thu, …). -Đến năm Nhâm Tuất, một hôm Ngài dậy sớm, đi tiêu dao trước cửa nhà, tay chống gậy mà hát: “Thái sơn kỳ đồi hồ ? Lương mộc kỳ hoại hồ ? Triết nhân kỳ nguy hồ ? (Núi Thái sơn có lẽ đổ chăng ? Cây lương mộc có lẽ nát chăng ? Người triết nhân có lẽ nguy chăng ?) Hát xong, Ngài ngồi dựa cửa. Lúc Tử Cống đến, Ngài hồi tưởng lời thân mẫu, kể lại: – “Ta vừa gặp kỳ lân què chân. Khi mới thọ thai ta, mẹ ta nói có con kỳ lân xuất hiện, đi vào nhà nhả tờ ngọc thơ. Mẹ ta lấy dây chỉ đỏ cột lên sừng nó làm dấu. Nay nó què chân, đoàn thợ săn bắt đem về, ta đoán nhiệm vụ ta sắp hết”. Từ đó, Ngài thọ bịnh và đến ngày thứ 7 thì mất, hôm ấy, vào ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, thọ 73 tuổi, nhằm đời vua Kinh Vương nhà Châu thứ 41. Phần mộ Ngài nằm ở làng Khổng Lâm, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông (Trung Hoa). Các môn đệ của Ngài gồm có: –Tứ Phối, cũng gọi là Tứ Thánh, đó là: 1- Phục Thánh: Nhan Hồi tự Tử Uyên. 2- Tòng Thánh: Tăng Sâm tự Tử Dư. 3- Thuật Thánh: Khổng Cấp tự Tử Tư. 4- Á Thánh: Mạnh Kha tự Mạnh Tử. –Thập nhị Triết (Mười hai nhà Hiền Triết). –Thất thập nhị Hiền (72 ông Hiền). –Tam thiên đồ đệ (3.000 học trò). Đạo của Đức Khổng Tử có nhiều danh xưng: Khổng giáo, Nho giáo hay Thánh giáo…Giáo thuyết gồm có: Ngũ Kinh và Tứ Truyện. (Ngũ Kinh là Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Thi, Kinh Thư và Kinh Xuân Thu. Tứ Truyện là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử). Tôn chỉ gồm 8 chữ:“Hiếu, Đễ, Trung, Thứ, Tu, Tề, Trị, Bình”. Mục đích là dạy người tu tròn Nhân Đạo để đạt đến bậc Thánh Triết, hiền nhân quân tử. MẠNH: là Ngài Mạnh Tử, tức Á Thánh. Ông tên thật là Mạnh Kha, sanh vào ngày mùng 2 tháng Tư năm thứ tư đời Liệt Vương nhà Châu (372 TCN) ở đất Châu, tỉnh Sơn Đông (Trung Hoa). Thân phụ là Khích Công Nghi, hiền mẫu là Cù thị, thuộc dòng Công tộc Mạnh Tôn. Ông mồ côi cha từ thuở bé, nhờ hiền mẫu thủ tiết, hết lòng chăm sóc dạy dỗ. Sợ con mình tập nhiễm theo nết xấu của những đứa trẻ ở chung quanh nên Bà phải dời nhà ba lần mới yên (có bài thơ kể như vầy): “Tích xưa Mẹ Thánh huấn nhi, Dọn nhằm chỗ ở dời đi ba lần. Có khi trẻ chẳng ân cần, Mình ngồi khung cửi cắt chân mà thề, Từ sau cứ học một bề, Phong làm Á Thánh thành nghề rất ngoan”. Lớn lên, ông học với Thầy Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Đức Khổng Tử. Chẳng bao lâu ông thấu đạt thâm ý của Đạo Thánh và có tài hùng biện, đi du thuyết qua các nước Tề, Tống, Đằng, Lương…để quảng bá Đạo Thánh hiền, nhưng các vua chúa thời Chiến Quốc mãi lo chiến tranh giành giựt, ít ai để ý đến việc Nhân nghĩa. Tuy nhiên, ông là người có công lớn trong nền Nho giáo, bởi tài hùng biện đanh thép của ông làm cho nền Thánh giáo được phát triển lan rộng. Khi trở về già, ông cùng các môn đệ ghi chép những lời của ông đã đối đáp với các nhà vua, hoặc các môn đồ, cùng những lời phê bình sự chênh lệch của các học thuyết khác, làm thành bộ sách gọi là Mạnh Tử, gồm có bảy thiên. Đây là một trong các bộ sách cốt yếu của Nho giáo, chẳng những có giá trị về tư tưởng mà còn cả về văn chương nữa, nên ông được người xưng tụng là Á Thánh. Mạnh Tử mất vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 26 đời Châu Noãn Vương (289 TCN), thọ được 83 tuổi. SÁCH THÁNH HIỀN: (Xem chú thích chữ Lời Thánh Hiền nơi câu 23 trên). ĐẠO LÀM NGƯỜI: Nghĩa của chữ “Nhân Đạo” tức mỗi người phải đối xử lẫn nhau cho được hài hòa tốt đẹp, nếp ăn thói ở đều biết tôn ti trật tự: Nam có Ngũ luân, Ngũ thường; Nữ có Tam tùng, Tứ đức. Trong bài “Luận Về Tam nghiệp”, Đức Thầy có dạy:“… Đạo của con người kêu bằng Đạo Nhân và nó cũng là một con đường, đi trúng thì sống, bước trật thì chết…”. HỔ NGƯƠI: Mắc cỡ, trông thấy mà thẹn:“Hổ ngươi cáo bịnh xin về đã lâu”.(Lục Vân Tiên) ĐIÊU THUYỀN LỮ BỐ: Điêu Thuyền là tên cô gái có nhan sắc tuyệt vời, con nuôi của Vương Doãn (quan Tư Đồ nhà Hán đời Tam Quốc bên Trung Hoa); còn Lữ Bố tự là Phụng Tiên, người ở đất Cửu Nguyên (Trung Hoa) cũng đời Tam Quốc. Lữ Bố là người võ dõng nhưng vô mưu và bất nghĩa. Lúc trước, Lữ Bố làm con nuôi của Đinh Nguyên, chống lại Đổng Trác, về sau lại giết Đinh Nguyên qua phò Đổng Trác (cũng làm con nuôi). Đổng Trác khi dụ được Lữ Bố liền mưu đồ đoạt ngôi nhà Hán. Quan Tư Đồ Vương Doãn muốn cứu nguy vua Hán bèn thiết lập Liên hoàn kế (mỹ nhân): Ông hứa gả Điêu Thuyền cho Lữ Bố nhưng lại đem Điêu Thuyền dâng cho Đổng Trác trước. Kết quả y như dự định của Vương Doãn, vì quá đắm say sắc đẹp của Điêu Thuyền mà Lữ Bố quên nghĩa cha con, giết chết Đổng Trác để giành lại Điêu Thuyền. Vậy, thói Điêu Thuyền Lữ Bố là thói vô nghĩa trăng hoa bất chánh, làm thương luân bại lý nước nhà. Thơ Lục Vân Tiên có câu:
“Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên,
Mà hòng đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi !” MÃNH HỔ: Cọp dữ. NHU MÌ: Mềm mỏng, chín chắn, ôn tồn ít nói. Đức Thầy từng dạy:
“Tu là tâm trí nhu mì,
Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong”. (Sấm Giảng, Q.3).
SÁT PHẠT: Đánh giết, chết chóc. Ví dụ: Sát phạt lẫn nhau. BỘI CHA PHẢN CHÚA: Quên ơn tổ tiên cha mẹ và phụ bạc nghĩa quốc dân. Chỉ cho người bất trung, bất hiếu. Đức Thầy thường thống trách hạng người ấy: “Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná, Hiếm bao người đặng cá quên nôm. Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm, Chẳng thèm kể cha hiền trông đợi”. (Diệu Pháp Quang Minh)
73. Đến chừng đó thiên-la lưới bủa, Mới biết rằng Trời Phật công-bằng. Nếu dương trần sớm biết ăn-năn, 76. Làm hiền-đức khỏi đường lao-lý. Học tả-đạo làm điều tà-mị, Theo dị-đoan cúng kiếng tinh-tà. Thì sau nầy gặp chuyện thiết-tha, 80. Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu. Thấy-bá tánh nghinh tân yểm cựu, Học ai mà ngang-ngược nhiều lời. Phụ mẹ cha khinh-dể Phật Trời. 84. Chẳng có kể công sanh dưỡng-dục. LƯỢC GIẢI (từ câu 73 tới câu 84): -Đoạn nầy cho biết đến ngày chấm dứt buổi Hạ ngươn, luật trời thưởng phạt rất công minh, không một ai thoát lọt, dù là một việc rất nhỏ. Nếu chúng sanh nào sớm biết cải hối, tìm về chánh Đạo lo tu bồi đức hạnh thì sau nầy được hưởng hạnh phúc, thoát khỏi vòng lao khổ. -Bằng ai cứ tiếp tục theo con đường tà Đạo, mê tín dị đoan, sát sanh hại vật để cúng tế tà quỉ, chạy theo bùa chú thính linh, âm thinh sắc tướng,…sẽ tự rước lấy mọi sự bi thảm. Chừng ấy, đừng trách Phật Tiên và Đức Thầy sao không mở lòng từ bi cứu độ ! -Đức Giáo Chủ cũng cho biết con người thời nay mãi đua đòi theo văn vật:“Rồi phụ phàng tục cổ nước nhà” và “Ham công danh quên chữ sanh thành, Mến phú quí quên câu dưỡng dục”.(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). Công sanh dưỡng của cha mẹ thật sánh tày non biển, thế mà họ chẳng màng kể, lại còn khinh khi Trời Phật, nhạo báng Thần Tiên, thật là điều quá mê mờ tội lỗi. CHÚ THÍCH : THIÊN LA: Lưới trời, do chữ“Thiên la địa võng”. Nghĩa rộng là luật trời hay luật nhân quả. Ý nói người làm lành hay dữ đều có kết quả không hề sai chạy. Sách Thánh có câu:“Thiên võng khôi khôi phân khúc trực, Thần linh hích hích định khuy vinh”.(Lưới Trời lồng lộng chia ngay vạy, Thần linh tỏ xét việc đầy vơi). Lão Tử cũng nói:“Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”.(Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt). Đức Thầy nay cũng bảo:“Cả trời Nam lưới bủa thiên la”.(Nang Thơ Cẩm Tú) hoặc là:“Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi”.(Khuyến Thiện, Q.5) ĂN NĂN: Nghĩa của chữ “Sám hối”, tức là ăn năn lỗi trước chừa bỏ lỗi sau. Kinh Trường A Hàm, Phật nói:“Ai biết ăn năn lỗi lầm thì người ấy được tiến hóa trong giáo pháp của ta”. Đức Thầy nay có câu: “Chữ tự hối nào ai có lạ, Là ăn năn cải sửa tâm lành”. (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4) LAO LÝ: Lo lắng, sầu khổ khó nhọc, lao lung, tù tội. TẢ ĐẠO: Cũng gọi là tà đạo hay ngoại đạo, tức là bất chánh, đường lối không chánh đáng, không đúng chơn lý, trái với chánh Đạo. Khi xưa, Phật có di chúc cho các Tỳ Kheo 6 loại ngoại đạo: 1.-“Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ Ma Ba Tuần vào trong Đạo pháp Ta, ở chùa cạo đầu mang áo Phật, xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời, ăn thịt uống rượu, làm dơ bẩn Đạo Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ nhứt. 2.- Còn có người dắt vợ con vào chùa học theo tà thuật, để truyền lại cho đệ tử, ăn thịt, uống rượu cũng đi làm chay tụng kinh cho người. Đó là loại ngoại đạo thứ nhì. 3.- Lại có những người trên không có Thầy truyền, dưới không có Thầy chứng, bị ma quỉ ám ảnh mê muội, trí hiểu biết bậy bạ lại cho là thông minh, chẳng có công tu, tự xưng là thành đạo. Bên ngoài làm giống theo Phật, nhưng trong tâm tính việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ ba. 4.- Lại có người làm theo việc hữu tình, học pháp hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đuổi quỉ sai thần, lừa dối bá tánh, ác kiến càng nhiều, nên chánh kiến càng tiêu. Đó là ngoại đạo thứ tư. 5.- Lại có người theo việc tốt xấu, học chiếm quẻ, bàn việc kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điều họa phúc, dối chúng gạt dân, tiêu diệt chánh pháp của Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ năm. 6.- Lại có người sửa soạn hình tướng, bụng trống lòng tự cao; không có tài năng mà tự cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ lại cho rằng mình đã chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình đã thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu, muối, trà, quả, tương, giấm; chấp theo tà tướng, dối gạt người thiếu trí. Chẳng cần xem Kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền. Không thọ trì giới luật, chẳng cần tìm sư học Đạo, dám đem cái thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng đi vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành, tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si. Đây là loại ngoại đạo thứ sáu. Sáu hạng trên đây gọi là Lục sư ngoại đạo, tức là bọn ma Ba Tuần, đến đời Mạt pháp nó xen vào nền Đạo của Ta để phá hoại chánh pháp”. TÀ MỊ: Dối trá, gian xảo, tà khúc. DỊ ĐOAN: Dị là lạ; đoan là manh mối. Chỉ cho các tà đạo hay bày ra những điều mị dối lạ lùng để gạt gẫm người đời. Đức Thầy thường khuyến giáo: “Giáo khuyên khắp hết đâu đâu, Bớt điều mị dối mới hầu thấy ta. Đừng theo lũ quỉ lũ ma, Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”. (Sám Giảng.Q.3) TINH TÀ: Tà ma quỉ quái. Những người mê tín dị đoan cho rằng: có thể dùng vật thực cúng tế Thần Thánh ma quỉ để cầu được hết bịnh. Đức Thầy bảo:“Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn hoặc”.(Thập ác/Ác sát sanh) Và:“Còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là tà thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta”.(Tám Điều Răn Cấm) THIẾT THA:(Xem lại chú thích tại tr.179 Tập1/3). NGHINH TÂN YỂM CỰU: Cũng gọi là yểm cựu nghinh tân. Có nghĩa chê dè cái cũ và đón tiếp cái mới. Ý nói người đời hay ham học đòi theo nếp sống mới, lối sống văn vật của Âu Tây, vội chê bai ruồng bỏ lễ nghi phong hóa của nước nhà. Đức Thầy từng than: “Ôi ! đời yểm cựu nghinh tân, Rùng rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên”. (Thu Đã Cuối) NGANG NGƯỢC: Ngang tàng ngược ngạo, vô nghĩa. Ví dụ: Ăn nói ngang ngược, tính khí ngang ngược. KHINH DỂ: Cũng đọc là khi dể, tức là coi thường rẻ rúng. CÔNG SANH DƯỠNG DỤC: Công ơn cha mẹ sanh con ra và nuôi con đến khôn lớn, nghĩa của chữ “Cúc dục”. Kinh Thi có câu:“Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao. Dục báo thâm ân hạo thiên võng cực”.(Cha mẹ sanh đẻ và nuôi ta khôn lớn, lòng thương cha mẹ dày công khó nhọc ! Muốn đáp ơn sâu như trời cao chẳng cùng). Lại có “Cửu tự cù lao” (chín chữ cù lao): Sinh (sanh đẻ), Cúc (nâng đỡ), Phủ (vuốt ve), Xúc (cho bú), Phục (săn sóc), Phúc (bảo vệ), Trưởng (nuôi cho lớn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom). Bởi công ơn cha mẹ sâu dày như vậy, nên Đức Thầy thường nhắc nhở: “Sách có chữ thâm ân dục báo, Phận làm người hiếu thảo noi gương”.(Sa Đéc) Hoặc là: “Lo bề cúc dục cội thung, Nghe lời thầy dạy việc chung của đời”. (Viếng Làng Mỹ Hội Đông) CHÁNH VĂN 85. Thương lê-thứ bày tường trong đục, Mặc ý ai nghe phải thì làm. Lời của người di-tịch Núi-Sam, 88. Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc. Cảnh Thiên-Trước thơm-tho nồng-nặc, Chẳng ở yên còn xuống phàm-trần. Ấy vì thương trăm họ vạn dân, 92. Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ. Giả Quê Dốt khuyên người tỉnh-ngộ, Giả Bán Buôn thức giấc người đời. Rằng ngày nay có Phật có Trời, 96. Kẻo dân-thứ nhiều người kiêu-ngạo. LƯỢC GIẢI (từ câu 85 tới câu 96) : -Vì lòng quá thương xót sanh linh, Đức Giáo Chủ phân bày mọi việc thật hư, chơn giả cho chúng sanh suy nghiệm, nếu ai thấy đây là lẽ phải thì sớm thực hành theo, bằng không cũng mặc. Ngài còn cho mọi người được biết, những lời lẽ trong quyển “Kệ Dân” nầy là của Đức Phật Thầy Tây An thuở xưa, chớ chẳng phải lời của ai đâu muốn lường gạt dân chúng. Bởi trước kia Đức Phật Thầy viên tịch tại chùa Tây An Núi Sam (Châu Đốc) vào ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856) nên nói đến người di tịch núi Sam thì ai cũng biết là muốn nói đến Đức Phật Thầy Tây An. -Song vì lòng từ bi, Ngài không nở an ngồi nơi xứ Phật, hưởng cảnh thanh nhàn tự tại, nên Ngài chuyển kiếp lại trần gian. Trong cuộc đi dạo Lục châu, Ngài chẳng nài gian khổ, hóa hiện đủ hạng người để thức tỉnh bá gia và cũng để cho chúng sanh hiểu rằng: hiện thời đã có Phật Tiên lâm phàm độ thế, hầu bỏ bớt tánh kiêu căng ngạo mạn. CHÚ THÍCH : BÀY TƯỜNG: Trình bày tường tận. Giải bày mọi sự việc rất rõ ràng. TRONG ĐỤC: Thanh khiết và dơ bẩn. Ý nói phân tách hai sự việc: sạch dơ cao thấp, hư nên, tốt xấu, tà chánh v.v… DI TỊCH: Di là dời đổi, tịch là cõi tịch tịnh an nhiên, không còn hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, tức là cõi Niết Bàn. Di tịch là một trong nhiều danh từ để chỉ cho nhà tu được chứng đắc đạo quả, khi mãn nguyện, bỏ xác vào cảnh Niết Bàn. Đồng với ý nghĩa nầy có nhiều từ như: Tịch diệt, nhập diệt, viên tịch hay di tịch v.v… NÚI SAM: (Xem lại chú thích tại tr.194 Tập 1/3). HUYỄN HOẶC: Huyễn là giả, hoặc là lầm. Huyễn hoặc là che mắt, đánh lừa làm mê loạn khiến người khác dễ lầm. CẢNH THIÊN TRƯỚC: Cũng đọc là Thiên Trúc, tức là xứ Ấn Độ, văn học Tàu gọi Ấn Độ là Thiên Trước. Bởi Ấn Độ là nơi Đức Phật đản sanh và cũng là nơi phát xuất Đạo Phật, cho nên gọi Thiên Trước là xứ Phật (Tây Thiên). Vậy, cảnh Thiên Trước là chỉ cho cảnh Phật, Đức Thầy có câu: “Bát Nhã chẳng đưa người tội ác, Thuyền từ nào rước lại Tây Thiên”. (Luận Việc Tu Hành) NỒNG NẶC: cũng đọc là nồng nực. Tức là mùi hương xông lên nồng nặc. Ý chỉ cảnh Phật thanh khiết toàn những hương sen ngào ngạt. VẠN DÂN: Muôn dân (con số cực nhiều). Ý chỉ chung tất cả mọi người. TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ. Hiểu rõ những điều sai lầm từ trước mà khởi lòng tự giác tu hành theo đạo lý. Đức Thầy từng kêu gọi: “Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ, Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”. (Đến Làng Nhơn Nghĩa) CHÁNH VĂN 97. Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão, Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng. Nếu trẻ già ai biết thì dùng, 100. Chẳng có ép có nài bá-tánh. Nghe Điên dạy sau này thơi-thảnh, Đây chỉ đường Cực-Lạc vãng-sanh. Đừng có ham lên mặt hùng-anh, 104. Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp. Theo đạo-lý nhứt tâm mới kịp, Ngày nay đà gặp dịp tu-hành. Niệm Di-Đà rán niệm cho rành, 108. Thì mới được sống coi Tiên-Thánh. LƯỢC GIẢI (Từ câu 97 tới câu 108) : -Đức Giáo Chủ khai sáng Đạo PGHH vào năm Kỷ Mão (1939). Lúc đầu có nhiều người không ưa, theo chế nhạo bươi móc đủ điều. Công việc khuyến tu của Ngài chẳng hề nài ép một ai:“Tu không tu cũng không mời thỉnh, Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê”(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). -Đối với những kẻ thường hay xưng hô lớn lối, khoe khoang tự đắc, Ngài luôn cảnh giác họ nếu còn quen tánh ấy e cho một ngày kia phải rơi vào Địa ngục mà chịu sự hành phạt khốc liệt, rất uổng cho một đời con người để phải sa đọa, thối hóa. -Vậy ai là người nhận được lời kệ giảng của Ngài, hãy sớm lo tu niệm, vì trong đây Ngài đã vạch sẵn con đường vãng sanh Lạc quốc. Tức là Ngài đã dạy chỉ pháp môn Tịnh Độ. Nếu ai nhứt tâm niệm Phật, làm lành đúng theo phương pháp của Ngài chỉ dạy, tức là niệm Phật được rành thì chẳng những sẽ kiến diện Phật Tiên trong ngày Long Hoa Hội mà còn được vãng sanh Phật quốc, dứt nẻo luân hồi. -Đối với chúng sanh thời Mạt pháp, đây là dịp may ít có:“Nếu để trễ chầy e chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”( Để Chơn Đất Bắc). CHÚ THÍCH: CỰC LẠC VÃNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.209 Tập 1/3). LÊN MẶT: Ra vẻ kiêu hãnh, tự đắc, có thái độ như người ở địa vị cao. HÙNG ANH: Cũng đọc là anh hùng, tức là bậc tài giỏi xuất chúng, nhưng chữ “lên mặt hùng anh” ở đây là chỉ cho những kẻ bất tài, lại hay xưng hô lớn lối, giả mạo ta đây:“Anh hùng giả danh, anh hùng rơm”(Tục Ngữ). ĐỊA NGỤC: (Xem lại chú thích tại tr.94 Tập 1/3) ĐẠO LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.128 Tập 1/3). NHỨT TÂM: Một lòng, dốc hết tâm trí vào một việc, không hề phân chia tư tưởng. Khi xưa, Đức Na Tiên nói với vua Di Lan Đà :“Nhà tu hành dùng sự nhứt tâm mà gom tư tưởng lại và dùng trí huệ mà cắt phiền não ái dục”. Bởi vậy, nhứt tâm là có tánh cách hiểu biết, mà có trí huệ là đoạn tuyệt và diệt sạch. Cho nên nói nhứt tâm là chủ của các đức hạnh, nhà tu trước hết phải nương mình trong sự nhứt tâm mới mong thấy được chơn lý. Ông Sư Vãi Bán Khoai đã dạy: “Ai mà giữ đặng nhứt tâm, Cũng như ngọc báu đã cầm trong tay”. Đức Thầy có câu: “Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành, Được cứu cánh về nơi an dưỡng”(Khuyền Thiện, Q.5) NIỆM DI ĐÀ RÁN NIỆM CHO RÀNH: (Xem lại chú thích tại tr.113 Tập 1/3). CHÁNH VĂN 109. Đức Minh-Chúa chẳng ai dám sánh, Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ. Bởi Võ-Vương đáng bực tu-mi, 112. Nay trở lại khác nào đời trước. Kẻ gian-ác bị gươm ba thước, Nơi pháp-tràng trị kẻ hung-đồ. Được thảnh-thơi nhờ chữ Nam-Mô, 116. Khuyên bổn-đạo rán mà trì-chí. LƯỢC GIẢI (từ câu 109 tới câu 116) : -Đoạn nầy Đức Thầy nhắc lại thời mạt Thương xưa kia, bởi Trụ Vương quá nhu nhược tàn ác, đắm say tửu sắc, làm những việc càn bậy, không còn xứng đáng trị vì thiên hạ nữa, nên cơ luân chuyển đổi lại nhà Châu. Lúc ấy có tiếng chim Phụng Hoàng gáy trên núi Kỳ Châu, đó là điềm lành báo hiệu sẽ có Thánh Chúa ra đời. -Bấy giờ Tây Châu nước Trung Hoa có cha con của Châu Võ Vương, vốn là người hiền đức, trị dân cả nước chẳng cần có đồ lao mà dân vẫn tuân theo răm rắp. Mọi hạnh phúc của Vua Quan toàn dân đều chung hưởng, xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ, nên cả 800 chư hầu đều mến đức theo về nhà Châu. So lại thời nay cũng thế, chánh sách trị dân quá tàn ác dã man, sanh linh đồ thán, nạn chiến tranh chết chóc liên tiếp xảy ra khắp hoàn cầu. Cho nên sẽ có vị Thánh Chúa ra đời. Ngài có đủ đức hạnh, lòng thương dân như sông dài biển rộng. Ngài sẽ đem lại cuộc hòa bình vĩnh cửu cho vạn quốc chư bang. Điều nầy, Đức Giáo Chủ từng cho biết:“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng, Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”(Không Buồn Ngủ). -Và trước khi ấy, những kẻ gian tà hung ác đều bị luật hình phân xử tại pháp trường. Còn những ai quyết tâm theo Đạo tu hành, kiên tâm trì chí, niệm Phật làm lành, tất được chung hưởng cảnh thanh bình an lạc tới đây. Đức Thầy đã cho biết trong Sám Giảng Q.3: “Hiền lành chừng đó sum vầy, Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi. Đến đó Ta mới mừng cười, Nhìn xem Ngọc Đế giữa Trời định phân. Thiên Hoàng mở cửa Các Lân, Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn. Mười cửa xem thấy ghê hồn, Cho trần coi thử có mà hay không . Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công, Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian. Ấy là đến lúc xuê-xang, Tam Hoàng trở lại là đời Thượng ngươn”. CHÚ THÍCH : MINH CHÚA: (Xem lại chú thích tại tr.79 Tập 1/3). MẠT THƯƠNG: Thời cùng cuối của nhà Thương bên Trung Hoa, tức là chỉ cho đời vua Trụ (1783-1122 TCN) (Xem thêm chú thích tại tr.172 Tập 1/3). PHỤNG GÁY NON KỲ: Non Kỳ là do chữ “Kỳ Sơn” tức là núi Kỳ Châu (Trung Hoa) vào cuối đời nhà Thương sắp chuyển sang nhà Châu, người ta nghe tiếng chịm phụng (phượng hoàng, linh điểu) gáy trên núi Kỳ Châu, báo điềm sắp có Thánh chúa ra đời. VÕ VƯƠNG: tức là Châu Võ Vương. Ông tên thật là Cơ Phát con thứ hai của Văn Vương đời nhà Châu. Khi Văn Vương lâm bịnh nặng kêu Cơ Phát lại dặn rằng:“Con hãy nhớ lời cha dạy: Thấy việc lành thì làm cho mau, xử việc phải chẳng nên lần lựa, tránh việc quấy đừng vương vấn. Ba điều ấy là sửa mình trị dân yêu nước”. Cơ Phát cúi lạy mà vâng lệnh. Khi Văn Vương qua đời, chư hầu và bá quan đồng tôn Cơ Phát lên nối ngôi nhà Châu, xưng là Châu Võ Vương, noi theo cha làm điều nhân đức, trị an một cõi, các trấn chư hầu đều phục. Võ Vương phong Tử Nha làm Thừa tướng và sau tôn lên hàng Thượng phụ. Khi Trụ Vương bạo ngược, 800 trấn chư hầu đồng phò Võ Vương hưng binh phạt Trụ. Võ Vương lập đàn bái tướng phong Tử Nha làm Nguyên soái điều khiển quân binh. Đạo binh nhân nghĩa đánh đâu thắng đó, tiến vào Trường An vây kín kinh đô, tướng nhà Thương tử trận gần hết. Trụ Vương túng thế phải ra trận, chúa tôi ấu đả trước ngọ môn. Võ Vương thấy vậy than rằng:“Bởi Thiên Tử vô đạo nên mới đến đỗi thế nầy, chúa tôi hỗn chiến với nhau còn chi là thể thống. Tuy bệ hạ bất chánh, mà phận mình là đạo tôi con, không lẽ quân thần mà giao chiến như vậy”. Lúc nầy, các chư hầu đồng rập nhau kéo đến đánh vua Trụ tưng bừng. Trụ Vương bại tẩu chạy về lầu Trích Tinh tự thiêu mà thác. Chư hầu đồng tôn Võ Vương lên ngôi Thiên Tử, đổi nhà Thương làm nhà Châu. Võ Vương noi chí hướng của Văn Vương mà trị vì, nên thiên hạ âu ca, nhà nhà an lạc. Võ Vương ở ngôi được 7 năm, hưởng thọ 93 tuổi. Nhà Châu trị dân được 874 năm mới dứt. TU MI: Râu và lông mày. Nghĩa rộng là chỉ cho bậc nam nhi (đàn ông): “Tu mi nam tử”. Đức Thầy có câu: “Hiền thần sách sử nêu ghi, Miễu son tạc để tu mi trung thần”(Sám Giảng, Q.3). GƯƠM BA THƯỚC: Gươm ngắn để xử trảm những người tử tội. PHÁP TRÀNG: Cũng đọc là pháp trường, tức là nơi hành hình những người bị kết án tử hình. HUNG ĐỒ: Bọn người làm việc hung tàn bạo ác. Đức Thầy cho biết: “Hung đồ với lũ dọc-ngang, Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu”(Thiên Lý Ca). NAM MÔ: (Xem lại chú thích tại tr.81 Tập 1/3 và nơi câu 47 trên).
CHÁNH VĂN
117. Xưa Tây-Bá thất-niên Dũ-Lý, Huống chi ta sao khỏi tiếng đời. Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi, 120. Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết. Ghét bạo chúa là xưa Trụ-Kiệt, Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu. Thương Minh-Vương bắt chước Thuấn-Nghiêu, 124. Lòng hiền đức nào ai có biết. LƯỢC GIẢI (từ câu 117 tới câu 124): -Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết Tây Bá Hầu (Văn Vương) xưa kia, được người đời tôn là Hiền Thánh, thế mà còn bị Trụ Vương bắt cầm tù tại Dũ Lý bảy năm. Huống chi công cuộc cứu đời của Ngài thời nay làm sao tránh khỏi sự kềm kẹp của kẻ cường quyền vô đạo và tiếng đời gièm pha biếm nhẻ. -Nhìn lại chúng sanh đang lăn lóc trong bể trần thống khổ, hết nạn nầy tới ách kia không dứt, chẳng khác nào thời Kiệt, Trụ xưa kia dân chúng phải buồn than khóc hận, dưới chế độ cay nghiệt của hai nhà vua ấy. Bởi Kiệt, Trụ quá nhu nhược nên kẻ bị chết thiêu, người thì mất mạng; cơ đồ sự nghiệp ông cha về tay người khác và còn lưu tiếng cho muôn đời phỉ nhổ. Nghĩ thương cho Đức Thánh Vương, là bậc thông minh hiền đức, noi gương Nghiêu, Thuấn tu thân lập hạnh, hầu:“Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng” cho nhân loại được hưởng nhờ. CHÚ THÍCH : TÂY BÁ: là Tây Bá Hầu. Tên thật ông là Cơ Xương, làm tôi vua Trụ (nhà Thương). Thuở ấy nước Trung Hoa chia làm 4 trấn chư hầu, mỗi trấn cai trị 200 nước nhỏ. Ông là người tài đức gồm đủ nên vua Trụ phong trấn giữ phương Tây (Tây Bá Hầu). Bấy giờ Trụ Vương sủng ái Đắc Kỷ, nghe lời nàng làm điều trái lẽ: giết chết Khương Hoàng Hậu, lại sợ cha vợ là Khương Hoàng Sở báo thù, nên nghe lời Bí Trọng triệu bốn trấn chư hầu về Kinh giết đi, để trừ hậu hoạn. Tây Bá được tin xủ quẻ biết đi chuyến nầy bị tù bảy năm. Khi vào đến Triều Ca, Bắc Bá Hầu vốn thuộc phe gian nịnh của Vu Hồn, Bí Trọng nên khỏi chết, còn Đông Bá Hầu và Nam Bá Hầu vì tánh cang cường, mắng Trụ Vương nên bị giết chết. Riêng Tây Bá Hầu, nhờ là người hiền đức và các quan hết lòng can gián mới được tha. Nhưng Trụ Vương chưa vừa ý, sai Vu Hồn Bí Trọng theo dò xét. Tây Bá trình thật câu chuyện chiếm quẻ, nên bị vua Trụ giam vào Dũ Lý. Thời gian ở Dũ Lý, ông dạy dân lễ nghĩa và làm sách dịch dạy bói quẻ, nên dân chúng xa gần đều mến đức. Ngồi tù gần 7 năm, có con trưởng nam của ông là Bá Ấp Khảo đem báu vật trong nước dâng vua Trụ để cứu cha. (Báu vật gồm: 1. Xe thất hương, không cần người đẩy, muốn đi đâu cũng được. 2. Nệm tình tửu, có công giải rượu. 3. Bạch viên là con vượn biết nhịp và ca rất hay.) Đắc Kỷ thấy Ấp Khảo đẹp trai nên sanh lòng tà dục, tâu vua cầm ông lại, lấy cớ học đờn để lả lơi trêu ghẹo. Song, Ấp Khảo lòng chánh trực, dùng lời can gián. Đắc Kỷ nổi giận tâu với vua Trụ: “Bá Ấp Khảo có tâm tà không thiệt ý dạy đờn…”Trụ Vương nghe theo, truyền giết Ấp Khảo và lấy thịt làm nhưn bánh bao, đem thử Tây Bá Hầu: “Nếu ông quả là bậc Thánh thì không bao giờ ăn thịt con, nên giết đi; bằng ăn thịt con, là người tầm thường, sẽ được tha về”. Lúc đó Tây Bá biết trước, nên thương trách Ấp Khảo, sao không nghe lời cha dặn, để đưa tới tình trạng nầy, rốt lại ông phải nén lòng ăn thịt con để được tha. Khi đó, có Tán Nghi Sanh là quan của Tây Bá, đem vàng bạc hối lộ cho Vu Hồn Bí Trọng cứu được ông. Về đến Tây Kỳ ông hết lòng dạy dỗ nhân dân, khiến trong nước mưa hòa gió thuận, nhà nhà đều an cư lạc nghiệp. Sau Văn Vương nghe tiếng Khương Thượng là bậc hiền tài, nên hai lần lên đến Bàn Khê rước ông về phong làm Thừa Tướng. Kế đó, vì Sùng Hầu Hổ quá tàn ác với lương dân nên Văn Vương cùng Khương Thượng cất quân sang đánh bắt được Hầu Hổ và giết đi. Khi yên giặc, Văn Vương bắt đầu thọ bệnh rồi mất, nhằm tháng 11, niên hiệu 20 Trụ Vương, thọ 97 tuổi. Quần thần tôn Cơ Phát, con thứ của Văn Vương, lên nối ngôi, hiệu là Võ Vương và tôn Tử Nha lên hàng Thượng Phụ, cùng trị quốc. BIỂN TRẦN: Trần là bụi. Ý nói cõi trần đầy bụi bặm nhớp nhơ đau khổ, sự đau khổ ấy không có ranh giới, mênh mông như bể cả. Đức Thầy có câu: “Bể trần sóng cuộn lao xao, Xông thuyền Bát nhã lướt vào một phen”(Tự Thán). BẠO CHÚA: Vua hung bạo tàn ác. TRỤ: (Xem lại chú thích tại tr.172 Tập 1/3) KIỆT: Đời vua chót hết (thứ 17) của nhà Hạ (2205-1786 TCN). Vua Kiệt tên thật là Lý Quí, tục gọi là Hạ Kiệt, một ông vua có uy vũ, nhưng rất bạo ngược. Lúc thế còn mạnh, vua Kiệt đem binh đánh họ Hữu Thị. Họ nầy thất thế phải dâng nàng Muội Hỷ để cầu hòa. Từ ngày được mỹ nhân, vua Kiệt đâm ra sủng ái Muội Hỷ bỏ bê việc triều chánh. Kiệt còn nghe lời Muội Hỷ xuất công quỹ xây thành Huỳnh Cung Diêu Đài (cung cẩn ngọc huỳnh, đài cẩn ngọc diêu), lập vườn để vui chơi. Tôi trung thần là Long Bàn, hết lời can gián, vua Kiệt đã chẳng nghe, lại sát hại ông, khiến nhân dân ta thán căm hờn. Sau có vua Thành Thang (vốn là Chư hầu của Kiệt), rước được bậc ẩn sĩ là ông Y Doãn ở đất Hữu Sằn về giúp. Thấy Y Doãn là bậc hiền tài, vua Thang đem dâng cho vua Kiệt, Kiệt lại không dùng. Ông Y Doãn trở về hợp với Chư hầu phò vua Thang đem quân vào đánh bắt được vua Kiệt, đày ra đất Nam Sào, nhà Hạ mất từ đó. THUẤN: là Đế Thuấn (2256-2195 TCN). Ông họ Diêu, tên thật là Trùng Hoa, là cháu 8 đời của vua Huỳnh Đế, ông là một trang hiếu tử đứng đầu trong “Nhị thập tứ hiếu” của Tàu. Nguyên mẹ ông mất sớm, cha là Cổ Tẩu tục huyền với bà vợ sau sanh ra Tượng.(Người đời thấy ông nghe lời vợ kế mà rắp tâm giết ông Thuấn, không xét được lẽ phải trái nên gọi là Cổ Tẩu, nghĩa là người mù mắt). Thuấn bị lời gièm pha của kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch là Tượng nên Cổ Tẩu không ưa ông Thuấn và định bụng giết đi; nhưng Thuấn lúc nào cũng hiếu với cha và thuận cùng em. Cổ Tẩu sai ông Thuấn lên Lịch sơn cày ruộng. Nơi nầy có tiếng là nhiều thú dữ nên cha ông muốn thú ăn thịt ông cho khuất mắt. Nhưng khi ông đến đó thì trời sai voi ra cày, chim chóc nhặt cỏ. Thấy không hại được, cha ông sai đi đánh cá ở hồ Lôi Trạch, nơi thường có sóng to, gió lớn, nhưng khi ông đến thì sóng lặng gió êm. Vua Nghiêu nghe tiếng đại hiếu của ông, bèn vời về gả con và truyền ngôi báu. Vua Thuấn đóng đô ở Đồ Bản (Ngũ Hương, Hà Đông, tỉnh Sơn Tây) đổi Quốc hiệu là Hữu Ngu. Khi lên ngôi, Vua Thuấn dùng bậc hiền tài để giúp nước. Sai con ông Cổn là Võ thay cha đi trị lụt; cử ông Tiết làm quan Tư Đồ, ông Hậu Tắc dạy dân cày cấy năm loại thóc; ông Cao Đàm làm quan Tư Pháp…Vua Thuấn còn đặt ra lệ tuần thú để xem xét quan lại và dân tình trong nước. Lập ra nhà dạy học Thường Tường. Nước Trung Hoa có trường học từ đời Đế Thuấn. Suốt 61 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam Phong mà thiên hạ thái bình, vạn dân an cư lạc nghiệp. Sau thấy con là Thương Quân kém tài, nên Vua Thuấn truyền ngôi cho ông Võ lập ra nhà Hạ. Đế Thuấn đi tuần thú phương Nam tới đất Thương Ngô thì băng hà. Ở ngôi 61 năm, thọ được 101 tuổi. NGHIÊU: là Đế Nghiêu (2357-2256TCN). Vốn là con của Đế Cốc, họ Y Kỳ, tên là Phòng Huân. Khi Đế Chí là huyền tôn của Hoàng Đế nhu nhược, thì các chư hầu đồng tôn Phòng Huân lên ngôi, đóng đô ở Bình Dương (nay thuộc Lâm Phần, Hà Đông, tỉnh Sơn Tây), lấy Quốc hiệu là Đào Đường. Vua chăm lo việc triều chính, đem nhân đức cai trị dân. Nhân vua Hùng Vương thứ nhứt, nước Văn Lang (Việt Nam ngày nay), có bắt được con Thần Qui ba chân, trên lưng có khắc chữ “Khoa Đẩu”, ghi từ khai thiên lập địa tới giờ. Vua Hùng liền sai sứ giả đem dâng cho vua Nghiêu.(Quốc Sử Diễn Ca có câu:“Thần Qui đem tiến Đào Đường, Bắc Nam từ đấy giao bang là đầu”).Vua Nghiêu sai ông Hy Hòa căn cứ theo đó mà lập ra qui lịch, cho dân biết thời tiết làm ruộng. Trong qui lịch ấy, người ta lấy sự tròn khuyết của mặt trăng mà phân thành tháng năm và thời tiết, nên gọi là âm lịch. Những ngày đầu năm gọi là Tết Nguyên đán và danh từ ba ngày xuân nhựt có từ đấy. Lịch ấy tính ra mỗi năm có 12 tháng (360 ngày), cứ 3, 4 năm thì có 1 năm nhuần gồm 13 tháng để điều chỉnh. Những người làm lịch sau nầy đều coi theo đó mà làm. Dân chúng sống thời vua Nghiêu rất sung sướng, nhà khỏi đóng cửa, tiền của rớt ngoài đường không ai lượm lấy…Khắp nước đều thanh bình an lạc nên giềng mối nước nhà được vững bền. Tuy vua Nghiêu có tới 11 người con, 9 trai 2 gái, nhưng vua xét không người nào có đủ tài đức nối ngôi. Cho nên khi nghe ông Thuấn là bậc đại hiếu, liền triệu về gả con và truyền ngôi. Vua Nghiêu trị vì được 101 năm. CHÁNH VĂN 125. Thương trần-thế kể sao cho xiết, Mượn xác-trần bút tả ít hàng. Kể rõ ràng những việc lầm-than, 128. Mặc làng xóm muốn nghe thì chép. Việc tu-tỉnh Khùng không có ép, Cho giấy vàng Điên chẳng có nài. Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài, 132. Cho bổn-đạo giải khuây niệm Phật. Việc xảy đến Đây truyền sự thật, Ấy là lời của Phật giáo-khuyên. Rán nghe lời của kẻ Khùng-Điên, 136. Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh. Bịnh ôn-dịch cũng đừng mời thỉnh, Cõi ngũ-hành chẳng khá réo-kêu. Hãy gìn lòng chớ khá dệt-thêu, 140. Nói xiên-xỏ cũng không no béo. LƯỢC GIẢI (từ câu 125 tới câu 140) : -Vì lòng quá thương xót chúng dân, nên Đức Thầy mượn bút mực viết ra Sấm Giảng. Ngài kể rõ cảnh thống khổ, nhơn sanh phải gánh chịu sắp tới đây. Mặc tình bá tánh, ai nhận thức được lời Kệ giảng thì chép lấy mà học hỏi tu hành. Chớ việc trau thân gìn Đạo, trị bịnh cho chúng sanh, Ngài không nài ép một ai. -Bởi lòng từ ái, Ngài chẳng ngại sự gian lao cực nhọc, miễn sao cho mọi người bớt thảm khổ, để lo làm lành niệm Phật. Còn những trạng huống sắp xảy ra tới đây, là do Đức Phật sắc lịnh cho Đức Thầy truyền ra cho người đời được biết, chớ chẳng phải tự Ngài bịa đặt hay nói ngoa một điều nào. -Ngài luôn kêu gọi bá tánh, từ đây nên kính trọng Phật, Tiên, Thần, Thánh và ngăn chừa khẩu nghiệp, không nên trù rủa con cháu, hoặc kêu Thần Thánh mà sai khiến. Nhứt là nên bỏ dứt những lời thêm thừa huyễn hoặc, nói xiên mắng xéo chòm xóm. Vì các lời ấy chẳng đem lại bổ ích gì mà chính mình phải mang lấy khẩu nghiệp, tự chuốc lấy họa hại. Như vào năm 1939, trong thời gian Đức Giáo Chủ truyền Đạo tại Tổ Đình PGHH, một hôm Ngài đang nói chuyện với khách bỗng dừng lại, đứng phắt dây, hướng mắt ra cửa, nói lớn: “Đem đi đâu vậy ! Đem về đi ! Mượn người ta bắt thì mang ơn người ta chớ !” Lúc ấy chẳng ai hiểu Đức Thầy muốn nói gì, đồng ngó theo ra cửa, thì thấy một bà lão, từ trên chiếc xe lôi đang bước xuống, trên tay bồng em bé độ bảy, tám tuổi đau oặt òa oặt oại đi vào. Bà lão vừa đặt đứa bé xuống bộ ván ngựa, thì Đức Thầy cũng vừa lập lại câu nói lúc nãy: -“Đem đi đâu vậy ! Đem về đi ! Mượn người ta bắt thì mang ơn người ta chớ !” Bà lão tỏ vẻ lo lắng, giọng trầm buồn bạch với Ngài: – Bạch Thầy ! Nhờ Thầy ra ơn từ bi cứu giúp giùm cháu tôi. Số là buổi chiều hôm qua dâu tôi là mẹ đứa nhỏ nầy, vì tức giận mà rủa nó nào “ôn dịch đại càn vật”, nào “ngũ hành bắt” đủ thứ…Một lát sau, nó phát bịnh tới giờ. Bằng một giọng rầu rầu tha thiết, bà nói tiếp: – Nó đau nặng quá Thầy, xin Thầy làm phước cứu giùm nó !. Thật vậy, đứa bé kia chỉ còn chút hơi thở yếu ớt mà thôi. Nên chi, dầu nói vậy, nhưng Đức Thầy trót đã“Vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa” nên Ngài phải:“…dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh, để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi…”, Ngài liền đi ngay lại bàn Phật sớt chung nước lã đem đưa bà lão, bảo cho đứa bé uống. Chẳng mấy chốc, đứa bé tỉnh lại như thường (trích dẫn theo Chuyện Bên Thầy). Do đó, Đức Thầy mới khuyên: “Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh, Cõi ngũ hành chớ khá réo kêu”. Và: “Chư Thánh Thần đâu có mất lòng, Mà kêu réo Đông Tây Nam Bắc” (Khuyến Thiện, Q.5) CHÚ THÍCH : BÚT TẢ: Bút là cây viết, đồ dùng để biên chép. Tả là chép ra, vẽ ra, bày tỏ vấn đề gì bằng giấy mực sách vở. LẦM THAN: (Xem lại chú thích tại tr.63 Tập 1/3). CHO GIẤY VÀNG: Lúc Đức Thầy mới khai Đạo có trị bịnh cho bá tánh bằng cách cho họ uống giấy vàng hoặc đốt để vô chén nước, hay xé nhỏ vò tròn mà uống; thế mà vẫn hết bịnh mau lẹ hơn uống thuốc thường, như Ngài từng dạy: “Có đeo bịnh tật vào thân, Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô. Thành lòng nước lã nên hồ, Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban”. (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi) CHẲNG NỆ VẮN DÀI: Không ngại sự cực khổ nhiều ít hay mau lâu. Sám Giảng, Q.3 có câu: “Chữ tu hãy rán miệt mài, Đừng kể vắn dài, đừng nệ mau lâu”. TRỌNG KỈNH: Trọng vọng và tôn kính. BỊNH ÔN DỊCH: Bệnh dịch tả, tức bịnh cảm gió ói ỉa, ai vướng vào bịnh nầy rất khó trị. Ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:“Chết mà chẳng thấy trối than, Là kêu ôn dịch nên mang khốn nghèo”. Đức Thầy bảo: “Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn, Chờ mãn phước ra tay bẻ họng”. (Nang Thơ Cẩm Tú) NGŨ HÀNH: Năm chất: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cũng gọi là năm vị thần xem xét và thưởng phạt việc tội phước của mọi người ở thế gian. Năm vị nầy có thể làm thiệt mạng những người hung ác, hoặc hết phước. Ông Sư Vãi có nói:“Chết mà còn nói còn cười, Là khi trong cõi Ngũ hành chẳng linh”.Và Ngài còn cho biết năm vị Ngũ Hành ấy là: “Năm vị con vua Ngọc Hoàng, Cho nên cõi thế coi mà năm cung. Đại Giang là Liễu Lục Cung, Coi về cõi nước chuyển luân cho trần. Đại Lâm là Mộc Tinh Quân, Coi trong thảo mộc vạn dân đều nhờ. Đại Địa là vị Thổ Quan, Coi về sở đất cho trần hạ đây. Vạn dân gia đạo an hòa, Hoặc là tử táng cũng là Thổ Quan. Hỏa Tinh là vị lửa hồng, Làm cho chín vật được trần độ thân. Kim Tinh là vật báu châu, Có diêm có mễ mà nuôi cõi trần. Năm vị vốn thiệt năm Thần, Chẳng thiếu nợ trần sao lại réo kêu ?” -Ngũ Hành còn chỉ cho năm vị Phật Vương, chưởng quản việc sản sanh vật chất để nuôi dưỡng vạn loại chúng sanh, gồm có: 1- Đông Phương Giáp Ất Mộc Thanh Đế Chí Công Vương Phật. 2- Tây Phương Canh Tân Kim Bạch Đế Lãng Công Vương Phật. 3- Nam Phương Bính Đinh Hỏa Xích Đế Bửu Công Vương Phật. 4- Bắc Phương Nhâm Quí Thủy Hắc Đế Hóa Công Vương Phật. 5- Trung Ương Mồ Kỷ Thổ Huỳnh Đế Đường Công Vương Phật. (Đức Phật Thầy Tây An khi xưa có truyền cho Đức Cố Quản cắm 5 cây thẻ quanh vùng Thất Sơn để bày trừ những cuộc trấn ếm của người Tàu, ý muốn ngăn chận các địa huyệt hiển linh của nước ta. Mỗi cây thẻ có đề theo ngũ hành là: 1- Tại làng Vĩnh Hanh, tỉnh Long Xuyên, phía trong Hang Tra, gọi là “Đông Phương Thanh Đế”. 2- Tại Ngã Bát, rạch Cái Dầu, làng Thạnh Mỹ Tây, Quận Châu Phú, Tỉnh Châu Đốc, gọi là “Bắc Phương Hắc Đế”. 3- Tại Bài Bài, trên bờ kinh Vĩnh Tế, xã Vĩnh Ngươn, Tỉnh Châu Đốc, gọi là “Tây Phương Bạch Đế”. 4- Tại Giồng Cát rừng Tràm, Hà Tiên, gọi là “Nam Phương Xích Đế”. 5- Tại phía trước núi Cấm, bên cạnh giếng nước mà Đức Phật Thầy cho đào khi trước, làng Tú Tề, Châu Đốc, gọi là Trung Ương Huỳnh Đế.) -Ông Sư Vãi cũng bảo: “Cõi trần mà đặng bình an, Nhờ đâu mà lại chê hàng Ngũ Vương. Hóa sanh vạn vật nuôi mình, Cũng là trong hội Ngũ Vương vậy mà”. DỆT THÊU: Nghĩa của chữ vọng ngữ. Ý nói đã dệt thành vải, còn thêu thêm hình nầy hình nọ cho nổi lên. Nên dệt thêu có nghĩa là đặt điều nói thêm. Đức Thầy từng bảo (trong quyển Khuyến Thiện): “Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu, Thương viện lẽ thấp cao bào chữa”. NÓI XIÊN NÓI XỎ: Nói xâm xỉ, châm chọc cách vách. Kích bác người nầy mà ám chỉ người khác. Mắng xiên mắng xéo người ta: “Có người nói xéo nói xiên, Chú muốn kiếm tiền nói gạt bá gia”(Sấm Giảng, Q.1). CHÁNH VĂN 141. Đời Nguơn-Hạ ngày nay mỏng-mẻo, Khuyên thế-trần hãy rán kiêng-dè. Mặc tình ai lên ngựa xuống xe, 144. Ta chẳng có ham nơi phú-quí.. Trong bổn-đạo từ nay kim-chỉ, Đói với nghèo sắp đến bây giờ. Vì thương đời nên Lão kể sơ, 148. Cho bá-tánh rõ lời châu ngọc. Nước Nam-Việt ai là thằng ngốc, Người đời nay như ốc mượn hồn. Chim tìm cây mới gọi chim khôn, 152. Người hiền-đức mới là người trí. LƯỢC GIẢI (từ câu 141 tới câu 152) : -Đoạn nầy ý nói cuộc đời Ngươn hạ sắp đến ngày biến hoại, nên Đức Thầy khuyên bá tánh, từ đây rán dè dặt trong việc xử thế, lo thi hành nhân nghĩa, tránh xa điều tội ác để khỏi vương mang khổ lụy sau nầy. -Mặc cho người đời sống cảnh giàu sang đài các, riêng phần Ngài đã“Xa nơi tranh đấu lợi danh, Giữ lòng thanh tịnh tánh lành trau tria”(Khuyến Thiện, Q.5). Và Ngài kêu gọi mọi người không nên xa hoa phung phí, mà phải lo ăn cần ở kiệm, vì cảnh nghèo đói sẽ kề bên lưng: “Nghèo với đói từ đây sẽ biết, Hàng ngoại bang bố thiết ta hoài”.(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). -Bởi lòng từ bi bác ái, Ngài mới phân bày cho chúng dân được rõ; tâm địa của con người thời nay, quá mê si tội ác (lòng lang dạ thú); họ thực hiện bao mánh khoé gian hùng, điêu xảo để lừa bịp thế gian. Cho nên Đức Giáo Chủ khuyên mọi người, phải khôn ngoan sáng suốt trong mọi vấn đề, và cần phải:“Chọn nơi nào Đạo Chánh phượng thờ. Thì mới được thân sau cao quí”(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). CHÚ THÍCH : NGƯƠN HẠ:(Xem lại chú thích tại tr.51 Tập 1/3) MỎNG MẺO: (Xem chú thích chữ mỏng mảnh nơi câu 37 trên) KIÊNG DÈ: Kiêng cữ, dè dặt kỹ lưỡng để tránh sự đụng chạm thất bại. LÊN NGỰA XUỐNG XE: Do thành ngữ “Lên xe xuống ngựa”, ý chỉ sự sang trọng sung sướng, ăn xài xa xí. Đức Thầy thường khuyên: “Đừng ham lên ngựa xuống xe, Ăn xài phí của lụa the làm gì”.(Sám Giảng, Q.3) PHÚ QUÍ: Giàu sang quyền quí, nơi sang trọng. Đức Thầy có câu (trong Luận Việc Tu Hành) : “Phú quí tạo đời thêm mệt xác, Tham danh phế Đạo chí đâu yên”. KIM CHỈ: (Xem lại chú thích tại tr.278 Tập 1/3) LỜI CHÂU NGỌC: Cũng gọi là “lời vàng tiếng ngọc”, tức những lời khuyên dạy quí báu như vàng ngọc, đáng ghi nhớ; vâng lời. Truyện Kiều có câu: “Nàng rằng: Vâng biết ý chàng, Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Trong bài Thiên Lý Ca, Đức Thầy bảo: “Lời châu ngọc khuyên ai để dạ, Nay gặp người quái lạ tỏ phân”. THẰNG NGỐC: Do chữ “ngốc tử”, có nghĩa người ngu, kẻ mê muội nhu nhược, không thấy xa hiểu rộng, chẳng hề nghĩ đến việc hư nên tốt xấu sau nầy. ỐC MƯỢN HỒN: Một loại động vật ở dưới nước hoặc sống trên bãi cát, hình giống con tôm, đầu có đủ râu, mắt, càng, que xem rất kỳ dị; mình nó như cục thịt tròn và mềm, không có vỏ cứng, phải chui vào vỏ ốc mà trốn các thủy tộc khác. Người ta thường lầm là ốc, nhưng ruột nó lại là thứ khác. Nghĩa bóng chỉ cho hai trường hợp: 1- Chỉ cho hạng người sống tạm bợ, bấp bênh chẳng có nhà cửa căn cứ. 2- Chỉ cho hạng “mặt người lòng thú”. Tuy thấy là con người, nhưng lòng dạ của họ vô cùng độc ác, gian xảo, thường lừa gạt ám hại kẻ hiền lương. Ông Sư Vãi Bán Khoai đã cho biết:“ Ác nhơn như ốc mượn hồn, Đừng thấy tu niệm ỷ khôn mà cười”. CHIM TÌM CÂY MỚI GỌI CHIM KHÔN, NGƯỜI HIỀN ĐỨC MỚI LÀ NGƯỜI TRÍ: Hai câu nầy ý dạy: chim khôn thì tìm nơi có cây cao kín đáo mà đậu tất được sống an lành, khỏi bị bẫy dò của người ám hại, hoặc giả trời sắp giông bão, những chim khôn tự sớm tìm các rừng cây ẩn núp để khỏi bị tai nạn. Còn người trí lúc nào cũng ăn ở hiền đức. Vì rằng: dù người có tài trí, uy dũng đến đâu mà thiếu đức thì chẳng thành công bền vững, như phe Hạng Võ chẳng hạn…Còn những người hiền đức luôn đặng vững bền và làm việc gì cũng được kết quả vẻ vang, như phía Hán Bái Công. Cho nên, về mặt đời, ta nên chọn nơi nào có đức hạnh, có đường lối chánh nghĩa mà nương theo mới được yên lành bền vững:“Chim khôn lánh bẫy, lánh dò, Người khôn lánh chốn hồ đồ mới khôn”.(Tục ngữ). Hoặc là:“Chim khôn lựa cây lành mà đậu , Tôi hiền lựa chúa Thánh mà thờ”. Về phương diện đạo đức thì người tu nên tìm con đường Chánh Đạo, có tôn chỉ, mục đích giải thoát mà qui y, mới gọi là người trí và sau nầy mới được liễu ngộ: “Chim khôn lựa cây lành mà đậu, Người khôn tìm chánh Đạo mà thờ. Đừng học theo những thứ bá vơ, Mới có thể gặp cơ tỏ ngộ”. (Thần Cơ Thật Luận của Thanh Sĩ) Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng ân cần dạy bảo: “Lựa cho phải kèo xưa danh mộc, Đừng để lầm thợ khéo sơn da. Thì sau nầy đến lúc phong ba, Giông gió lớn cột kèo khỏi gãy”. (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4) CHÁNH VĂN 153. Theo Phật-Giáo sau nầy cao-quí, Được nhìn xem Ngọc-Đế xử phân. Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân, 156. Cảnh phú quí nhờ ơn Phật-Tổ. Thấy bá-tánh nhiều điều tai-khổ, Khùng thương dân nên phải hết lời. Dạo Lục-Châu chẳng có nghỉ-ngơi, 160. Mà lê-thứ nào đâu có biết. Dạy Đạo chánh vì thương Nam-Việt, Ở Cao-Miên vì mến Tần-Hoàng. Trở về Nam đặng có sửa-sang, 164. Cho thiện-tín đuợc rành chơn-lý. LƯỢC GIẢI (từ câu 153 tới câu 164) : -Đức Giáo Chủ cho biết nếu ai sớm quy y Phật Pháp, tu thân hành đạo thì sau nầy được hưởng nhiều điều quí báu: Nào được xem luật Trời thưởng phạt, nào thụ hưởng cảnh quí báu, do Phật Tổ ban cho. Bởi chừng đó: “Phuơng Nam rạng ngọc chói lòa, Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung. Dành cho kẻ lòng trung chánh trực, Quân cùng thần náo nức vui tươi, Liên-hoa đua nở nụ cười, Rước tôi lương đống chào người chơn tu”. (Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ) -Thấy trong bá tánh đang gánh chịu biết bao tai khổ, nên Đức Thầy động lòng từ bi hết lời khuyên bảo. Ngài cũng đã vân du khắp sáu tỉnh miền Nam để tùy phương thức tỉnh, thế mà trong dân thứ có mấy ai được rõ. -Thời gian trước đây, có lúc Ngài dạy Đạo cứu dân ở đất Miên, bởi thấy vua tôi nước nầy sắp vương cảnh khổ. Nay vì quá thương dân tộc Việt Nam nên Ngài trở lại đất nước nầy khai truyền chánh Đạo, hầu giúp cho thiện nam tín nữ rõ thông đường lối tu hành. CHÚ THÍCH : PHẬT GIÁO: Giáo lý nhà Phật, là Đạo Phật, một nền Đạo lớn trên thế giới, phát khởi từ cõi Ấn Độ, do Đức Thích Ca Mâu Ni làm Giáo Chủ. Đạo Phật dạy người tự tỉnh, tự tu, tự ngộ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, tức là thành Phật, nhằm mục đích giải khổ cho cả nhân loại chúng sanh. Sau khi Đức Phật Thích Ca tịch diệt thì Tổ Tổ tương truyền và các nhà tu đắc đạo tiếp tục quảng bá Đạo Phật khắp dân gian. Đạo Phật có trên 800 triệu tín đồ, chiếm tỷ số 1/3 dân số thế giới (thống kê cũ). Đức Huỳnh Giáo Chủ được Đức Phật Tổ sắc chỉ lâm phàm xương minh Đạo Phật trong thời hiện đại: “Ngọc tòa Phật Tổ nấy sai Ta, Xuống cứu thế gian nẻo vạy tà. Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp, Cho đời thấu tỏ Đạo Ma ha. (Tối Mùng Một). NGỌC ĐẾ: (Xem chú thích nơi câu 63 trên) BỆ NGỌC: Bệ là chỗ để thờ, hoặc chỗ để Vua ngồi, nơi ấy là bực cao, xây toàn bằng ngọc ngà châu báu. Đức Giáo Chủ có bảo (trong bài Thiên Lý Ca): “Ai muốn gần bệ ngọc các lân, Thì phải rán lập thân nuôi chí”. CÁC LÂN: Các là gác, lầu, điện đền nội các, Lân là cửa, bực cửa; nói chung là điện đền lầu các. Ý chỉ chỗ cao sang quyền quí của Vua quan ở. Đức Thầy có câu:“Vào các ra đài tột bực giàu sang”(Sấm Giảng Q.1). TAI KHỔ: Tai nạn khổ sở. LỤC CHÂU: (Xem lại chú thích tại tr.91 Tập 1/3) ĐẠO CHÁNH: Đây chỉ Đạo Phật, có nghĩa con đường chơn chánh, đúng chơn lý, có diệu năng đưa người giải thoát trần lao. Xưa, Đức Phật có di chúc cho các hàng đệ tử:“Qua đời sau nơi nào có Bát Chánh Đạo là Đạo chánh, bằng ngược lại là Đạo tà”. Đức Thầy viết:“Bác ái xả thân tầm Đạo chánh Độ người lao khổ dạ không phiền (Luận Việc Tu Hành) CAO MIÊN: Cũng đọc là Cao Mên, tức là tên cũ của nước và dân tộc Cam Bốt, dịch âm chữ Khmer. Tên Cam-Bốt (Cambodge) thay cho tên “Cao Miên” (bị Quốc Hội nước ấy hủy bỏ). TẦN HOÀNG: Ám chỉ Vua nước Cao Miên. Trong Giảng 11 hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai có nói: “Tôi đâu mà có yên thân, Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần. Mến là mến Đức Hoàng Lân, Thương là thương lấy vạn dân khổ nàn”. Giờ đây Phật lại trở về Nam Việt: “Bấy lâu Phật ở nước Tần, Bây giờ Phật lại trở lần về Nam”. THIỆN TÍN: (Xem từ Thiện Nam, Tín Nữ tại tr.61 Tập 1/3). CHƠN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.171 Tập1/3) CHÁNH VĂN 165. Trong Sáu-Tỉnh nhiều điều tà-mị, Tu-hành mà vị-kỷ quá chừng. Thì làm sao thoát khỏi trầm-luân, 168. Khuyên bổn-đạo rán tầm nẻo chánh. Chừng lập Hội xác thân mới rảnh, Nếu không thời khó thấy Phật Trời. Khùng dạy dân chẳng dám nghỉ-ngơi, 172. Đi chẳng kể tấm thân già cả. Cảnh trần-thế mặc ai thong-thả, Chớ lòng ta chẳng đắm hồng-trần. Có thân thì rán giữ lấy thân, 176. Để đến việc ăn-năn chẳng kịp. Yêu những kẻ tâm đầu ý hiệp, Mến những ai biết kiếm Đạo-mầu. Cảnh Tây-Thiên báu ngọc đầy lầu, 180. Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng. LƯỢC GIẢI (từ câu 165 tới câu 180) : -Đức Thầy nhận thấy khắp sáu tỉnh miền Nam có lắm kẻ tu hành không đúng cách, lòng tham lam vị ngã chưa diệt trừ, chỉ lo tạo những điều mị dối, để lợi dụng lòng tin tưởng của bá tánh. Nếu hành đạo như thế thì càng tu càng chìm trong luân hồi lục đạo, mong gì được thành quả giải thoát. Như trong bài“Luận Việc Tu Hành”, Ngài có viết:“Trần gian đầy dẫy người làm dối, Đạo cả nào trông đến cửa thiền”. -Thế nên Đức Thầy hằng khuyên tín đồ từ đây hãy tìm con đường chơn chánh nương theo và cố gắng thực hành y chánh pháp, để được tự do giải thoát, có mặt trong ngày Long Hoa Hội. -Đức Thầy chẳng nệ tấm thân lao nhọc, luôn dạo khắp đó đây để tùy phương giáo hóa mặc cho đời đua chen theo việc ăn chơi sung sướng, riêng lòng Ngài đã rứt sạch nghiệp duyên trần cấu, chỉ còn lo kêu gọi chúng dân:“Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ, Đến tội rồi mới hối muộn màng”.(Khuyến Thiện Q.5) -Vậy ai là người đồng tâm hiệp chí, hãy sớm lo tu thân lập hạnh, để cùng thấu đạt lẽ diệu mầu của Đạo pháp. Kìa, nơi xứ Phật có biết bao nhiêu điều quí lạ: nào đền vàng điện ngọc, sen báu năm màu, nào chim kêu tiếng pháp, cây báu diễn lời lành; nhà cửa y phục, thức ăn, tiện nghi sử dụng, tất cả đều dành cho người chơn tu thọ hưởng. CHÚ THÍCH: SÁU TỈNH: Cũng gọi là Lục châu (Xem chú thích tại tr. 91 Tập 1/3). TÀ MỊ: Gian xảo ton hót để lợi dụng. Đây chỉ cho kẻ giả dạng mang lốt tu hành bên ngoài, nhưng trong lòng luôn tính việc mê dối, không thật tâm. Đức Thầy có câu:“Bớt điều mị dối mới hầu thấy Ta”(Sấm Giảng, Q.3). VỊ KỶ: (Xem lại chú thích tại tr.37 Tập 1/3). TRẦM LUÂN: Chìm đắm, lăn lộn mãi trong sáu nẻo luân hồi. Đức Thầy từng nói:“Trầm luân oan nghiệt càng gây thêm hoài”.(Thu Đã Cuối). NẺO CHÁNH: Nghĩa của chữ Chánh Đạo, tức là con đường ngay chánh. ĐẮM: Chìm lắng dưới đáy nước, mê mết say sưa: chìm đắm, say đắm. Chữ đắm ở đây là chỉ cho sự quá say mê dục lạc trong cõi hồng trần – lòng Đức Thầy đã giác ngộ giải thoát nên chẳng còn đắm hồng trần. Ngài luôn nhắc nhở: “Nếu mãi mê man mùi tục lụy, Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”. (Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ) ĂN NĂN: (Xem lại chú thích tại tr.65 Tập 1/3 và nơi câu 75 trên). TÂM ĐẦU Ý HIỆP: Vốn là một thành ngữ, có nghĩa lòng dạ và ý chí hiệp nhau giữa hai người hoặc nhiều người, những người đồng một chí hướng đạo đức với nhau. ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr.280 Tập 1/3) TÂY THIÊN: (Xem lại chú thích tại tr.138 Tập 1/3) AN DƯỠNG: là An Dưỡng Quốc của Đức Phật A Di Đà, cũng gọi là Cõi Cực lạc (Xem chú thích chữ Cực Lạc nơi câu 28 trên).
181. Kẻ hiền-đức sau nầy được hưởng, Phép Thần-Linh của Đức Di-Đà. Lại được thêm thoát khỏi Ta-Bà, 184. Khỏi luân chuyển trong vòng Lục Đạo. Đức Diêm-Chúa yêu người hiền thảo, Trọng những ai biết niệm Di-Đà. Lại được gần Bệ-Ngọc Long-Xa, 188. Coi chư quốc tranh-giành châu-báu. Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão, Gái bé thơ biết trọng tuổi già. Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà, 192. Thì được thấy Phật, Tiên, Thần, Thánh. LƯỢC GIẢI (từ câu 181 tới câu 192) : -Đoạn nầy ý nói những người hiền lương đức hạnh, sau nầy được Đức Phật A Di Đà dùng phép thần diệu cứu thoát mọi thống khổ nơi cõi Ta bà và tiếp dẫn linh hồn vãng sanh về Cực Lạc, hưởng quả an vui, chẳng còn bị luân hồi trong sáu nẻo. -Đức Diêm Chúa lúc nào cũng kính yêu những kẻ biết ăn ở hiền từ, hiếu thảo và chuyên niệm “Lục Tự Di Đà”. Các người ấy sau nầy chẳng những chầu mừng Đức Thánh Vương mà còn đặng xem cảnh vạn quốc giựt giành châu báu tại miền Thất Sơn, như Đức Thầy hằng khuyên (trong bài Thiên Lý Ca): “Hãy mau khuya sớm chuyên cần, Đặng xem chư quốc non Tần giành chia”. Hoặc là: “Phong trần dày dạn gió sương, Chư bang ham báu hùng cường đua tranh. Còn một cuộc chiếu manh giành xé, Khắp hoàn cầu ó ré một nơi. Dòm xem châu ngọc chiều mơi, Sao đời không sớm tách rời cõi mê”. (Để Chơn Đất Bắc) -Đức Thầy cũng từng khuyến dạy trong hàng thiếu niên nam nữ, từ đây đối với bậc già cả tuổi tác phải biết kính trọng lễ phép và sớm thức tỉnh tu hành, diệt trừ lòng tà quấy hầu sau nầy kiến diện Phật Tiên Thần Thánh. Bởi lúc ấy sẽ có:“Phật Thánh Tiên Đông độ lướt sang, Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”.(Nang Thơ Cẩm Tú) CHÚ THÍCH : PHÉP THẦN LINH: Pháp thần thông linh diệu. Nhà tu Phật khi trừ diệt sáu căn, không còn ô nhiễm sáu trần thì chứng đắc A La Hán, có đủ sáu phép thần thông (Nhân căn trần thanh tịnh, nhi đắc lục thông thị hiện giả dã). Còn khi chứng lên bực Bồ Tát và Như Lai thì pháp thần thông càng cao diệu hơn. ĐỨC A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích tại tr.136 Tập 1/3). TA BÀ: Cũng đọc là Sa-bà, Phạn ngữ (Scr.) là Saha, có nghĩa là kham nhẫn, đại nhẫn. Bởi chúng sanh ở cõi nầy ( tức cõi chúng ta đang ở) kham chịu mọi điều thống khổ. Kinh Bi Hoa có nói:“Vân hà danh ta bà ? Thị như chúng sanh nhẫn thọ tam độc. Cập như phiền não, cố danh nhẫn độ”.(Thế nào gọi là Ta bà ? Bởi thế giới nầy, chúng sanh mắc phải ba điều độc hại tức tham, sân, si và các phiền não mà không hề chán mỏi, nên gọi là cõi kham nhẫn). Cổ đức đã bảo: “Ta bà khổ, ta bà khổ, Ta bà chi khổ, thùy năng sổ”. Nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng luận giải ý nghĩa ấy trong hai câu giảng (trong quyển Khuyến Thiện): “Ta bà khổ, ta bà lắm khổ, Có bao người xét cho tột chỗ”. Lại nữa, trong cõi Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm” có 20 từng thế giới. Mỗi thế giới là một cõi Phật; cõi Ta bà ở về từng thứ 13, gồm có nhiều thế giới nhỏ. Trong mỗi thế giới nhỏ, có ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới; có bốn châu: -Đông, Thắng thần châu, -Tây, Ngưu hóa châu, -Nam, Thiệm bộ châu, -Bắc, cu lư châu; và, có 1 núi Tu Di, 2 nhựt, nguyệt. LUÂN CHUYỂN: Luân hồi chuyển kiếp. Ý nói chúng sanh ở kiếp nầy, nơi nầy chết đi, rồi đầu sanh qua kiếp khác, nơi khác. Cứ thế mà lăn lộn xoay vần mãi trong ba cõi sáu đường, không thoát ra được. Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:“Nhứt thiết chúng sanh từ vô thỉ dĩ lai, tánh tịnh minh thể, dụng chư vọng tưởng, thể tưởng bất chơn, cố hữu luân chuyển”.(Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sống chết trôi lăn đều do chỗ chẳng tỏ được cái chơn tâm thường trụ, thể tánh trong sạch, cứ dùng lầm theo vọng tưởng nên mới thành cái nghiệp sanh tử xoay vần mãi mãi).Trong Khuyến Thiện, Q.5) Đức Thầy có nói: “Chuyển luân trong nhơn vật các loài, Căn mờ ám làm điều dại dột”. LỤC ĐẠO: Sáu đường luân hồi, gồm có: 1- Thiên đạo (cõi trời), 2- Nhân đạo (cõi người), 3- A Tu La đạo (cõi thần), 4- Súc sanh đạo (loài thú), 5- Ngạ quỉ đạo (cảnh giới ngạ quỉ), 6- Địa ngục đạo (cảnh giới địa ngục). Trong Tỉnh thế Ngộ chơn có câu: “Lục đạo luân hồi vạn kiếp trầm, Tử tế tư lương sanh tử khổ”. (Sáu đường lăn lộn nhiều muôn kiếp, Phải rán lo lường tránh chỗ nguy). Đức Thầy cũng bảo: “Gây ra lắm nợ phong trần, Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”. (Cho Ông Cò Tàu Hảo) DIÊM CHÚA: Cũng gọi là Diêm Vương hay Diêm Ma Pháp Vương. Có nghĩa là cõi Thiên Ma, tức cõi âm, cõi Địa ngục. Bởi Ngài thường khuyến khích kẻ làm lành, trừng trị kẻ tà ác, cho nên có danh xưng là Pháp Vương. Cũng có tên là Bình Đẳng Vương, vì Ngài luôn lấy lòng bình đẳng, công bằng mà xử trị kẻ tội nhơn, không hề tư vị một ai. Đức Thầy từng cho biết: “Ngục môn đầy quỉ vô thường, Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng”. (Đến Làng Nhơn Nghĩa) HIỀN THẢO: (Xem lại chú thích nơi câu 21 trên) NIỆM A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích nơi câu 30 trên) BỆ NGỌC: (Xem lại chú thích nơi câu 155 trên) LONG XA: Xe rồng, tức xe của vua đi. CHƯ QUỐC: Cũng đọc là “vạn quốc’, hay “chư bang”, tức chỉ chung cho các nước khắp trong thế giới. Đức Thầy có câu (bài Hoài Cổ):“Trông ngày chư quốc, chư hầu tỉnh tâm”. CHÂU BÁU: Ngọc ngà, vàng bạc, kim cương… KÍNH THÀNH: Tôn kính lễ độ và thành thật. TRƯỞNG LÃO: Bậc già cả tuổi tác, các cụ bô lão. Đó là người đời, còn trong Đạo thì chữ Trưởng lão chỉ cho bậc tu hành giới hạnh tinh nghiêm, trí đức cao khiết. TỈNH TÂM: (Xem lại chú thích tại tr.259 Tập 1/3) LÒNG TÀ: Nghĩa của chữ “Tà tâm” tức lòng tà vạy, lòng nghĩ tưởng việc xằng xiêng tà khúc, mơ tính dục lạc. Đức Thầy có câu (GMTK, Q.4): “Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp, Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”. CHÁNH VĂN 193. Việc hung-dữ hãy nên xa lánh, Theo gương hiền trau sửa làm người. Sau tà-tinh ăn sống nuốt tươi, 196. Mà bá-tánh chẳng lo cải thiện. Miệng dương-thế hay bày nói huyễn, Sách Thánh Hiền ghét kẻ nhiều lời. Khuyên chúng-sanh niệm Phật coi đời, 200. Cõi Hạ-Giái rồng mây chơi giỡn. Ở chòm-xóm đừng cho nhơ-bợn, Rán giữ gìn phong-hóa nước nhà. Câu tam-tùng bọn gái nước ta, 204. Chữ hiếu-nghĩa trẻ trai cho vẹn. LƯỢC GIẢI (từ câu 193 tới câu 204) : -Đoạn nầy Đức Thầy khuyên mọi người nên xa lánh các việc tà ác, và noi theo những tấm gương tốt lành mà trau sửa tâm mình cho sớm được trọn lành trọn sáng. Bởi sau nầy có nhiều tai nạn hãi hùng xảy đến cho nhân loại: “Lớp đau chết kể thôi vô số, Thêm tà ma yêu quái chật đường. Chốn hồng trần nhiều nỗi thảm thương, Làm sao cứu những người hung ác”(Kệ Dân, Q.2). -Thế mà bá tánh cứ mãi chần chờ, chẳng sớm lo ăn năn hối cải, lại còn bày vẽ nhiều điều huyễn hoặc, che lấp đạo mầu. Các bậc Thánh Hiền thường răn trách hạng người ấy:“Bán cú phi ngôn, ngộ tổn bình sanh chi đức”(Chỉ nửa câu nói quấy cũng đủ làm giảm mất đức hạnh của mình). Đức Thầy còn khuyên dạy khắp chúng sanh chuyên tâm trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, để sau nầy được chứng kiến cảnh:“Trên cửa Phật mùi hương thơm bát ngát, Dưới Quân thần phụ tử khải hoàn ca (Bài Không Buồn Ngủ). -Giờ đây, mọi người cần diệt bỏ lòng tham gian nhơ xấu, đối với chòm xóm cần được hòa vui chân thật. Bảo vệ nền phong hóa tốt đẹp của nước nhà để hoàn thành nhân đạo; bổn phận Nam nhi phải vẹn tròn câu hiếu nghĩa, còn Nữ giới cần xử trọn đạo tam tùng. CHÚ THÍCH : GƯƠNG HIỀN: (Xem lại chú thích chữ treo gương thiện tại tr.275 Tập 1/3) TÀ TINH: (Xem lại chú thích tại tr.127 Tập 1/3) BÁ TÁNH: Cũng gọi là bách tính. Có nghĩa là trăm họ. Ý chỉ chung tất cả mọi người. CẢI THIỆN: Sửa đổi, thay đổi lại cho được hoàn thiện hơn, thí dụ: “Cải thiện mức sống của nhân dân”. Người tu thì cải thiện thân tâm cho được trọn lành trọn sáng. NÓI HUYỄN: Nói không đúng sự thật; có nói không, không nói có, đặt điều nói láo:“Thêm thừa huyễn hoặc”, làm lật ngược mọi vấn đề, khiến cho người khác hiểu lầm. Lời nói huyễn là nghĩa của chữ vọng ngữ, nên sách Thánh thường răn dè:“Ngôn bất trúng lý, bất như bất ngôn; nhất ngôn bất trúng, thiên ngôn vô dụng”(Nói chẳng trúng lẽ, chẳng bằng không nói cho xong; bởi vì nói một lời chẳng trúng thì ngàn lời đều không dùng được). Đức Thầy đã răn cấm lời nói ấy (trong Khuyến Thiện, Q.5): “Ác vọng ngữ thứ tư cũng cấm, Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều. Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu, Thương viện lẽ thấp cao bào chữa”. SÁCH THÁNH HIỀN:(Xem lại chú thích nơi câu 23 trên). NHIỀU LỜI: Nghĩa của từ (đa ngôn) và cũng thuộc phần Ác vọng ngữ. Đức Thầy đã giải:“Khoe khoang tự đắc xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị”(Luận về Tam nghiệp/Ác vọng ngữ). CHÚNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.40 Tập 1/3). HẠ GIÁI: Cảnh giới trần gian của chúng ta đang sống, đối với thượng giới (cõi trời). Đức Thầy có câu: “Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn, Khắp hạ giái truyền khai Đạo pháp”. (Diệu Pháp Quang Minh) RỒNG MÂY: Nghĩa của chữ “Long Vân” tức chỉ cho Hội Long Vân, hội vui mừng cao quí. Đức Thầy cho biết (bài Diệu Pháp Quang Minh): “Ai mà sửa đặng vuông tròn, Long Vân đến hội lầu son dựa kề”. NHƠ BỢN: Bòn chèn, xin xỏ, nhờ vả người khác. Đây chỉ cho sự tham gian lặt vặt trong chòm xóm, nên mang tiếng xấu xa, bị người đời chán ghét. PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa. Cách thức ăn ở, lễ nghi, đối xử và nền văn hóa của một Quốc gia hay một dân tộc. Đức Thầy có câu: “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp, Chấp bút thần tả ít bổn Kinh”.(Sám Giảng, Q.3) TAM TÙNG: Ba điều nên theo của hàng phụ nữ, hay là ba phận sự chánh thức của người đàn bà đối với gia đình. Theo Nho giáo:“Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử”. Đức Thầy từng dạy: “Nghe lời cha mẹ cân phân, Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy”. Tam Tùng gồm có: 1.- Tùng phụ: người con gái lúc chưa chồng, còn nương theo cha mẹ, tức thời kỳ đáp ơn. Bổn phận con gái phải siêng năng vén khéo mọi công việc bếp núc, thêu thùa, may vá. Đối với ông bà cha mẹ đầy lòng hiếu thảo, với cô bác chòm xóm lễ độ khiêm cung; hòa hảo với anh chị, thương yêu dạy bảo em cháu. Đối bên ngoài, mọi việc chi đều phải thưa hỏi và đợi lịnh của cha mẹ, tự mình không nên quyết định lấy, chỉ trừ những việc thường thức trong nhà. Phải bảo trọng thân danh của cha mẹ và phẩm hạnh của mình. Không xem những loại sách bất chánh, cũng không gần kẻ lả lơi, tham gian hỗn láo để ngừa hại đến danh thể. Bỏ hẳn thói biếng lười mê ngủ, mà phải thức khuya dậy sớm để vẹn tròn bốn đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. 2.- Tùng phu: Khi xuất giá theo chồng, nên biết tánh ý chồng để chìu theo. Chồng muốn làm việc đạo nghĩa chơn chánh nên nung đúc, còn muốn làm việc tà vạy, hư hèn thì khuyên ngăn. Phải sạch, khéo mọi công việc nội trợ, đừng để phiền đến chồng những việc quá nhỏ mọn. Các việc có tánh cách hệ trọng trong gia đình không nên giấu chồng. Lúc chồng đi vắng, nếu có bạn của chồng đến thăm, phải giữ lễ độ, nghiêm chỉnh chào hỏi; hãy cẩn thận mọi cử chỉ: nói năng, đi, đứng, nằm, ngồi đều phân biệt chủ khách rõ rệt. Không nên cười nói lả lơi suồng sã, khiến cho kẻ ngoài sanh nghi mà mang tiếng thất tiết. 3.- Tùng tử: Nếu gặp việc chẳng may, chồng chết sớm, vợ nên thủ tiết nuôi con cho đến khi nhắm mắt theo chồng; bằng không được cũng phải đợi mãn kỳ tang khó mới tái giá. Phải tận tâm dạy dỗ con cho được khôn ngoan ngay thảo, đạo đức đối xử và có nghề nghiệp chân chánh sanh sống; nhứt là phải nêu gương tốt lành cho con bắt chước. Được như thế, mới xứng đáng là bậc mẹ hiền; trọn tiết với chồng và cũng chẳng lỗi việc khói hương với Tổ Tiên cha mẹ. HIẾU NGHĨA: Hiếu hạnh và tiết nghĩa. Cũng giải là thích làm việc phải có ích lợi cho mọi người. Chữ “hiếu nghĩa” ở đây còn có nghĩa rộng là thi hành việc đạo nghĩa, tức đối xử cho tròn cái Đạo làm người. Như Đức Thầy từng dạy:“Hôm nay đã quy y đầu Phật tu niệm tại gia, ta hãy cố gắng vưng lời Thầy Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu nghĩa. Đức Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các môn nhơn đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa, có bốn điều ân, ta phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn”.(Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền – tr. 180 SGTVTB 2004). |
CHÁNH VĂN205. Ghét những kẻ có ăn bỏn-sẻn, Thương những người đói rách lương hiền. Muốn tu-hành thì phải cần-chuyên, 208. Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi, Kẻ phú-quí đừng vong cơm nguội. Sau đói lòng chẳng có mà dùng. Ta yêu đời than-thở chẳng cùng, 212. Mà bá-tánh chẳng theo học hỏi. A-Di-Đà nhìn xem khắp cõi, Đặng trông chờ mong-mỏi chúng-sanh. Hiện hào-quang ngũ sắc hiền lành, 216. Đặng tìm kiếm những người hiền-đức. LƯỢC GIẢI (từ câu 205 tới câu 216) : -Thói thường người giàu sang mà bón rít thì ai trông vào cũng chán ghét. Còn kẻ ăn ở hiền lành tốt đẹp, dù nghèo khó ai thấy cũng mến thương. Đức Giáo Chủ khuyên trong sanh chúng, nếu ai muốn tu hành thì lòng phải chuyên cần, tinh tấn, trong các thời lễ bái, niệm Phật tham thiền không nên chểnh mảng sơ sót, có thế mới mong kết quả.“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa, Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”(Kệ Dân, Q.2) -Ngài cũng kêu gọi những nhà giàu có, dư ăn, dư để đừng phụ bỏ cơm thừa mà nên dành cho kẻ nghèo đói, tàn tật. Vì sau nầy sẽ gặp tai nạn đói khổ:“Đói với nghèo sắp đến bây giờ”. Và:“Cảnh vinh hoa lại quá cheo leo, Nhà giàu có sau nhiều tai ách”(Kệ Dân, Q.2). Trong lúc nầy dù họ muốn có chén cơm nguội đỡ lòng, cũng chẳng biết tìm đâu ra. -Vì lòng quá thương xót chúng dân sắp lâm cơn đồ thán, nên Đức Thầy thở than khuyên dạy không ngừng, thế mà ít ai thức tỉnh tìm học Đạo mầu. -Đức Phật A Di Đà lúc nào cũng rất mong đợi chúng sanh, biết hồi tâm hướng thiện, niệm Phật làm lành. Tuy Ngài an tọa nơi Tây phương Cực Lạc, nhưng luôn dùng hào quang năm sắc soi rọi khắp cõi Ta bà, tìm thấy chúng sanh nào biết tu thân lập hạnh, chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Ngài thì Ngài ủng hộ và tiếp dẫn chúng sanh ấy được vãng sanh về cõi Cực Lạc. CHÚ THÍCH: BỎN SẺN: Hà tiện, rít róng, hẹp hòi với bà con chòm xóm trong việc tiền bạc. Ví dụ: người có tánh tham lam bỏn xẻn. LƯƠNG HIỀN: Tốt lành, người hiền lành tốt đẹp, chơn chất làm ăn. Đức Thầy có câu: “Kẻ lương hiền chờ giọt mưa ngâu, Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi”. (Trao Lời Cùng Ông Táo) CẦN CHUYÊN: Cũng viết là chuyên cần. Có nghĩa là siêng năng, chăm chú, không xao lãng. Ví dụ: cần chuyên tu học. Ở đây ý nói hai thời công phu lễ bái, niệm Phật, xem kinh, người tu hành phải chịu khó chuyên trì cho đầy đủ, đừng để lãng xao, sơ sót. Đức Thầy từng nhắc nhở trong bài “Dặn Dò Bổn Đạo”: “Sớm khuya bá tánh cần chuyên, Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề”. TƯỞNG NHỚ PHẬT CHỚ NÊN SÁI BUỔI: Câu nầy ý dạy sự niệm Phật, nhớ Phật trong hai thời cúng lạy, mỗi tín đồ phải thật hành cho đúng, như lời Đức Thầy dặn dò trong bài “Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa”: “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi, Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”. ĐỪNG VONG: Đừng quên, không nên bỏ, chẳng nên phụ bạc. CHẲNG CÙNG: Không dứt, không hết, còn hoài, nói chẳng cùng. A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích nơi câu 30 trên) MONG MỎI: Ao ước, mong muốn. HÀO QUANG: Hào là lông; quang là sáng. Nơi chơn mày của Phật có những sợi lông trắng phóng ra ánh sáng, nên gọi là hào quang. Đây là một trong 32 tướng hảo của Phật. Đức Thầy bảo: “Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa, Đức Di Đà hiện chóa hào quang”. (Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ) NGŨ SẮC: Năm màu sắc: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen. Đức Thầy có viết trong bài Nang Thơ Cẩm Tú:“Vừng mây lành ngũ sắc hào quang”. CHÁNH VĂN 217. Kẻ tâm-trí mau mau tỉnh-thức, Kiếm Đạo-mầu đặng có hưởng nhờ. Chốn hồng-trần nhiều cảnh nhuốc-nhơ, 220. Rán hiểu rõ huyền-cơ mà tránh. Chốn tửu-điếm ta nên xa lánh, Tứ-đổ-tường đừng có nhiễm vào. Người tránh xa mới gọi trí cao, 224. Sa bốn vách mang điều nhơ-nhuốc. Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc, Đức Di-Đà truyền mở Đạo lành. Bởi vì Ngài thương xót chúng-sanh, 228. Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy. Nên khổ-lao Khùng không có nại, Miễn cho đời hiểu đặng Đạo-mầu. Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu, 232. Thì hãy dẹp tánh tình ích-kỷ. LƯỢC GIẢI (từ câu 217 tới câu 232) : -Đức Thầy kêu gọi, ai là người hữu tâm hữu trí, nên sớm thức tỉnh tìm lẽ diệu mầu trong Đạo pháp mà thật hành theo, để sau nầy được hưởng điều cao quí. Cảnh trần đầy dẫy sự nhớp nhơ, mọi người nên khôn ngoan sáng suốt mà xa lánh. Nhứt là đừng để đắm nhiễm vào bốn vách: tửu, sắc, tài, khí. Vì nơi ấy làm cho con người phải hư thân mất nết, đọa lạc trần mê, xã hội chán chê ruồng bỏ. -Vậy ai là người tỉnh tâm tu niệm thì đây là dịp may ít có:“Xưa nay không có mấy khi, Dương trần có Phật vậy thì xuống đây”.(Sấm Giảng Q.1) Bởi Đức Phật A Di Đà quá thương xót chúng sanh, nên truyền lịnh cho Đức Thầy khai hóa Đạo mầu. -Do đó, trên con đường giáo độ nhân sanh, dù gặp nhiều gian lao thử thách, Ngài cũng chẳng nao núng ngại ngùng miễn sao cho người đời hiểu biết Đạo mầu là thỏa nguyện. Và Ngài luôn khuyến tấn: Ai muốn thấu đạt lý diệu huyền trong Đạo pháp, trước tiên phải diệt lòng vị kỷ tham lam, đường tu mới mau thành đạt mục đích. CHÚ THÍCH : TÂM TRÍ: (Xem lại chú thích tại tr.154 Tập 1/3). ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr.280 Tập 1/3). NHUỐC NHƠ: Dơ xấu, nhục nhã. HUYỀN CƠ: (Xem lại chú thích tại tr.40 Tập 1/3) TỬU ĐIẾM: Uống rượu và đàng điếm, hai trong “Tứ đổ tường”. Đức Thầy từng dạy: “Người tu phải lánh hơi men, Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình”.(SG-Q.3) TỨ ĐỔ TƯỜNG: Bốn việc tệ hại giữa bốn bức tường:“Tửu, Sắc, Tài, Khí”. 1- Tửu là thích uống rượu. Trong rượu có chất men, đủ năm thứ vị: chua, cay, đắng, mặn, ngọt nên ai uống vào đều bị nhiễm ghiền, nóng nảy, say sưa thường sanh ra 10 điều lỗi: 1./ Sắc diện khác thường. 2./ Cử chỉ chẳng ra gì. 3./ Mắt thấy không tỏ. 4./ Hiện ra tuồng giận dữ. 5./ Phá hại sản nghiệp, không lấy gì nuôi sống. 6./ Hay sanh bịnh hoạn. 7./ Gây thêm sự kiện cáo. 8./ Danh xấu đồn khắp. 9./ Trí huệ hao kém. 10./ Chết bị đọa vào ba đường ác. Đức Thầy từng răn cấm:“Uống rượu : Phải cữ tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ, để đừng có tỏ sự chia rẽ với người ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội lỗi”(Những điều phải tránh hẳn, hoặc được châm chế, hoặc nên làm – tr.205 SGTVTB 2004 ). 2- Sắc là chơi bời theo đàng điếm. Những kẻ đắm mê sắc lịch, nếu là thường dân thì thân mau tàn tạ, trí hóa lu mờ, nhà tan cửa nát; hạng vua quan thì mất nước, danh thể nhuốc nhơ như “Trụ, Kiệt”…Còn người tu hành nếu không diệt được lòng tham sắc thì bị tiêu tan giới đức, dù Tiên cũng phải hườn tục, như Uất Đầu Lâm Phất.v.v… 3- Tài là ham tiền của, cờ bạc. Người sa vào vách nầy, hay sanh ra trộm cướp, đàng điếm, bị xã hội ruồng bỏ. Tục ngữ thường nói:“Cờ bạc là bá thằng bần, Cửa nhà bán hết tra chân vào cùm”. Đức Thầy đã bảo:“Cờ Bạc: Phải cữ tuyệt; những kẻ cờ bạc muốn vào Đạo, phải thệ nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự nầy chẳng có cuộc vui nào có thể châm chế đặng”.(Những điều phải tránh hẳn, hoặc được châm chế, hoặc nên làm – tr.205 SGTVTB 2004). 4- Khí là hơi thuốc phiện (nha phiến, a phiến)…Kẻ hút thuốc phiện thì thân hình ngày càng gầy ốm, bạc nhược; ngày đêm xoay quanh bàn hút, nhả khói phun mây, không còn biết đến việc gì nữa, nên bao nhiêu tiền của ruộng vườn đều tiêu sạch. Người xưa từng cảnh giác:“Có ăn, ăn điếu thuốc lào, Đừng ăn a phiến ai nào có ưa”. Đức Thầy nay đã cấm tín đồ:“Thuốc phiện: Phải cữ tuyệt; không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút muốn vào Đạo phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác, mới có thể châm chế đặng”.(Những điều phải tránh hẳn, …tr.205 SGTVTB 2004). Tóm lại, về “Tứ đổ tường”, Đức Thầy đã răn cấm các tín đồ:“Điều thứ nhứt: Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường”.(Tám Điều Răn Cấm – tr.214 SGTVTB 2004). SA BỐN VÁCH: Rơi vào bốn điều tai hại “Tứ đổ tường”: Rượu thịt, sắc đẹp, cờ bạc, hút thuốc phiện. ĐẠO LÀNH: Đạo từ thiện, đây chỉ Đạo Phật. Bởi chủ yếu của Đạo Phật là dạy tín đồ phải:“Làm hết các việc từ thiện – Tránh tất cả điều độc ác – Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch”(bài Phật Là Gì ?) để đạt đến mức giải thoát. Trong bài “Cảm Tác”, Đức Thầy có viết:“Đạo lành mở cửa nơi miền Nam bang”. ĐẠO CẢ: Đạo lớn, nghĩa của chữ Đại Đạo (xem tr.48 Tập 1/3, đoạn 4 bài Sứ Mạng). ÍCH KỶ: Chỉ biết có lợi riêng cho mình, chỉ nghĩ đến mình, ai sao mặc kệ. CHÁNH VĂN 233. Mau trở lại đừng theo tà-quỉ, Tham, Sân, Si chớ để trong lòng. Phải giữ lòng cho được sạch-trong, 236. Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ. Lớp đau chết kể thôi vô số, Thêm tà-ma yêu-quái chật đường. Chốn hồng-trần nhiều nỗi thảm-thương, 240. Làm sao cứu những người hung-ác. Khắp thế-giới cửa nhà tan-nát, Cùng xóm làng thưa-thớt quạnh-hiu. Bấy lâu nay nuôi duỡng chắt-chiu, 244. Nay tận-diệt lập đời trở lại. Khắp lê-thứ biến vi thương-hải, Dùng phép-mầu lập lại Thượng-Ngươn. Việc Thiên-Cơ Khùng tỏ hết trơn, 248. Cho trần-hạ tường nơi lao-lý. LƯỢC GIẢI (từ câu 233 tới câu 248) : -Đức Thầy kêu gọi những ai chạy theo tà đạo (mê tín dị đoan), sớm trở lại con đường chánh giáo.Vì:“Những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là tà thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta”.(Tám Điều Răn Cấm/ Điều Thứ Năm).Còn lòng tham, sân, si của mỗi người, chính nó là thứ tà quỉ của nội tâm:“Tà kiến tam độc thật Ma Vương”(Pháp Bửu Đàn Kinh). Hễ tham sân si càng tăng thì bịnh khổ càng nhiều và hột giống trí tuệ càng bị vùi lấp. Cho nên Đức Thầy khuyên người tu cần diệt trừ tận gốc, ba món phiền não căn bản ấy, tức lòng mình được thanh tịnh, huệ mạng sáng suốt, vững vàng và khỏi nỗi khổ do tham, sân, si khuấy động. Ngài còn cho biết, sắp tới đây: nào cảnh ốm đau chết chóc, nào tà quái cả âm lẫn dương nhiễu hại khắp lê dân. Bởi: “Thời kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma, Trời mở cửa Quỉ Vương xuống thế”. (Giác Mê Tâm Kệ, Q.4) Thảm thương cho kẻ hung ác, phải gặp nhiều khổ nạn, dù Phật Tiên có đầy lòng từ bi, nhưng cũng không sao cứu được. Lại nữa, cơ Trời tiêu diệt buổi Hạ ngươn bắt đầu diễn tiến: trước nhất là cảnh chiến tranh chết chóc xảy ra, làm xóm làng thưa thớt, tài vật tiêu hao; kế đó là nạn đói đau tiếp diễn, khiến cả nhân loại, đều chịu cảnh lầm than thống khổ. Trong “Giác Mê Tâm Kệ, Q4”, Đức Thầy nói rõ: “Khổ với thảm ngày nay có mấy, Sợ mai sau dòm thấy bay hồn. Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn, Cảnh sông máu núi xương tha thiết”. Và rồi đây cuộc diện sẽ xảy ra: “Ngọn thủy triều nô nức sục sôi, Bầu trái đất một phen luân chuyển”. (Nang Thơ Cẩm Tú) Hoặc là: “Ôi ! Khổ thảm bốn bề sóng dậy, Dòm lưng trời lửa cháy liên miên. Tiêu điều sản vật điền viên, Thần thông biến hóa dưới miền Trung Ương”. (Đến Làng Nhơn Nghĩa) -Sở dĩ có thảm cảnh như vậy là do định luật trả vay của nhân và quả. Đó là do phép mầu của trời đất, dùng rửa sạch những phần tử xấu xa, tội ác trong thời hạ mạt, lập lại cảnh đời Thượng ngươn Thánh đức. Tất cả huyền cơ của tạo hóa, Đức Giáo Chủ đã nói hết cho thế trần được rõ những đau thương thống khổ, hầu sớm cải ác tùng thiện. CHÚ THÍCH : TÀ QUỈ: Tà ma quỉ quái. Đây chỉ cho các tà đạo thường bày ra sát hại sanh vật cúng tế quỉ thần ma quái, để cầu cho hết bịnh, nhưng bịnh đã không hết dứt mà trong gia đình lại thường bị đau ốm liên miên, nên Đức Thầy từng kêu gọi (trong Sấm Giảng,Q3): “Đừng theo lũ quỉ lũ ma, Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”. THAM, SÂN, SI: Là ba điều ác của ý nghiệp, là ba món phiền não trong “ngũ độn sử”(tham, sân, si, mạn, nghi). Cũng gọi nó là “tam độc” (ba điều độc hại): –Tham: là lòng ham muốn quá độ, nó thường sanh ra chiến tranh, giết hại và trộm cướp.v.v… –Sân: là tánh nóng giận, hay sanh gây gổ, cấu xé, hận thù. –Si: là mê muội tà kiến, không phân biệt được lẽ tội phước, hư nên, tốt xấu; không nhận đâu là chân lý. Tham Sân Si là nguồn gốc sanh ra muôn ngàn tội lỗi khác, Đức Thầy thường răn dạy (Giác Mê Tâm Kệ, Q4): “Chữ Tham trong ý muốn mặc tình, Rán định tánh trừ cho nó tuyệt. Chữ gây gổ là Sân hãy diệt, Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng. Thêm chữ Si thiệt quá lòng dòng, Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt”. THẢM THƯƠNG: Đau đớn thương xót. CHẮT CHIU: cũng gọi là chít chiu, có nghĩa là đùm bọc, dắt dìu. Cổ thi có câu: “Chắt chiu trong trứng mới nở ra, Diều đâu bay lại sớt con gà”.(Thân Gà) Hoặc là:“Mẹ gà, con vịt chắt chiu”.(Ca dao) TẬN DIỆT: Dứt hết, tiêu diệt hết; cơ tận diệt, đời tận diệt. BIẾN VI THƯƠNG HẢI: Do câu “Tang điền biến vi thương hải”, hoặc “Thương hải biến vi tang điền”. Có nghĩa là ruộng dâu hóa ra biển xanh, biển xanh trở thành ruộng dâu. Tục truyền trong trời đất, cứ 500 năm có biến đổi một lần. Do tích Tiên nữ Ma Cô: Bà thấy ba lần biển xanh hóa ra ruộng dâu…Đây ý nói sự biến đổi từ cảnh đời Hạ ngươn ra Thượng ngươn, theo luật “Châu nhi phục thỉ”. THƯỢNG NGƯƠN: Ngươn đầu tiên (Xem thêm Chú thích chữ Hạ ngươn tại tr.51 Tập 1/3). THIÊN CƠ: (Xem chú thích tại tr.64 Tập 1/3). LAO LÝ: Nhà ngục. Ý nói bị giam hãm trong tù ngục, rất buồn thương khổ sở. Ví dụ: Mắc vòng lao lý. CHÁNH VĂN 249. Lão nào có bày điều ma-mị, Mà gạt-lường bổn-đạo chúng-sanh. Đức Minh-Vương ngự chốn Nam-Thành, Đặng phân xử những người bội nghĩa. Trung với hiếu ta nên trau-trỉa, Hiền với lương bổn-đạo rèn lòng. Thường nguyện-cầu siêu-độ Tổ-Tông, 256. Với bá-tánh vạn dân vô sự. Đời Ngươn-Hạ nhiều người hung-dữ, Nên xảy ra lắm sự tai-ương. Đức Di-Đà xem thấy xót-thương, 260. Sai chư Phật xuống miền dương-thế. Tu kíp kíp nếu không quá trễ, Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng. Cứu lương-hiền chẳng cứu người hung, 264. Kẻ gian-ác đến sau tiêu-diệt. LƯỢC GIẢI (từ câu 249 tới câu 264) : -Đoạn nầy ý nói Đức Thầy chẳng hề mị dối để lừa gạt tín đồ và bá tánh mà lúc nào Ngài cũng tỏ thật cho mọi người được biết: sau nầy sẽ có Đức Thánh Vương ngự tại Hoàng thành Việt Nam để phân xử những người vong ân bội nghĩa: “Trên vua minh chánh cầm cân, Dưới quan liêm tiết xử phân công bình”. (Hoài Cổ) -Cho nên Ngài khuyên vạn dân phải vẹn gìn trung hiếu, vì đó là hai điều trong “Tứ Đại Trọng Ân”:“Hiếu trung phải liệu cho xong, Đến chừng gặp chúa mới mong trở về” (Sám Giảng Q.3). Đồng thời lo rèn tập thân tâm được trở nên hiền từ thanh khiết và luôn tu cầu cho Cửu huyền Thất tổ đặng siêu thăng, cả vạn dân đều an cư lạc nghiệp, sớm tỉnh ngộ tu hành. -Bởi chúng sanh thời mạt hạ quá hung tàn bạo ác, nên có tai biến hãi hùng xảy đến. Đức Di Đà xót thương cho bá tánh gặp hồi tai họa nên sắc lịnh cho Đức Thầy theo chư Phật lâm phàm khai Đạo cứu dân. Ngài truyền dạy mỗi người gấp rút tu hành, để kịp thời thoát khỏi “Nếu để trễ chầy e chẳng kịp”(Để Chơn Đất Bắc). Và:“ Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra”(Sám Giảng, Q.3). -Căn cứ luật công bằng của tạo hóa thì hiền còn dữ mất. Trong cuộc tẩy trần tới đây, chỉ có người lương thiện, mới được sống còn tới ngày Thượng ngươn an lạc, còn những phần tử ác hung tất phải bị luật đào thải diệt vong. CHÚ THÍCH : MA MỊ: Dua mị dối trá. NAM THÀNH: Thành trì nước Việt Nam. BỘI NGHĨA: bội bạc (bội ơn, bạc nghĩa), không nhớ ơn nghĩa. Đức Thầy có câu:“Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân”(Khuyến Thiện Q.5) TRUNG VỚI HIẾU: (Xem chú thích chữ “Thảo cha ngay chúa” tại tr.166 Tập 1/3). TRAU TRỈA: Cũng đọc là trau tria. Có nghĩa tu sửa, giồi chuốt; ý chỉ người hành đạo cần trau sửa bào chuốt cho thân tâm được hoàn toàn tốt lành. Đức Thầy từng dạy:“Mau mau trau trỉa chữ lành cho xong”.(Thiên Lý Ca) Và: “Trau tria nhục thể về nơi cũ, Chùi rửa tim gan một tấc lòng”. (Cho Một Vị Sơ Tâm) SIÊU ĐỘ TỔ TÔNG: Siêu độ là cứu lên cho khỏi. Cũng gọi là độ thoát. Tổ tông là Ông bà dòng họ (Cửu huyền Thất tổ)… Ý nói người tu cần lo trau thân hành đạo, bố thí trì chay để hồi hướng công đức, cầu nguyện cho tổ tiên dòng họ được siêu thăng Tịnh độ, thoát khỏi sự khổ não trong luân hồi lục đạo. Đức Thầy dạy tín đồ hằng nguyện: “Nguyện đem công quả tu hành, Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài. Về Phật quốc ngày ngày an lạc, Cả giống dòng giải thoát luân trầm”. (Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Cửu Huyền) TAI ƯƠNG: Tai họa lớn. Đức Thầy có câu: “Nếu chẳng nghe hồn vướng tai ương, Chừng ấy mới kêu mời khó rước”. (Khuyến Thiện, Q.5) KÍP KÍP: Gấp gấp, ý khuyên việc gì cần làm mau, làm gấp mới kịp. Đức Thầy từng khuyên:“Đời cùng tu gấp kịp thì, Đặng xem báu ngọc ly kỳ năm non”.(Sám Giảng, Q.3). ĐỐI ĐẦU: (Xem lại chú thích tại tr.123 Tập 1/3) GIAN ÁC: Gian trá và hung ác: phường gian ác. Đức Thầy thường cảnh tỉnh: “Thương đời văn vật say mê, Làm điều gian ác thảm thê sau nầy”(Sám Giảng, Q.3). TIÊU DIỆT: Diệt hết, làm tan mất cả, không để sót lại.
265. Nay trở lại như đời Trụ-Kiệt, Hãy tu nhơn chớ có tranh-giành. Tuy nghèo hèn mà chí cao-thanh, 268. Được hồi-phục nhờ ơn chư Phật. Hãy thương-xót những người tàn-tật, Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười. Trên Năm-Non rồng phụng tốt-tươi, 272. Miền Bảy-Núi mà sau báu-quí. Mặc trai gái trẻ già có nghĩ, Thì khoan cười tôi rất cám ơn. Khùng ra đời truyền dạy thiệt hơn, 276. Chư bổn-đạo chớ nên khinh rẻ. Nay Khùng đã hết già hoá trẻ, Nên giữa đồng bỗng lại có sông. Ở Tây-Phương chư Phật ngóng trông, 280. Chờ bá-tánh rủ nhau niệm Phật. LƯỢC GIẢI (từ câu 265 tới câu 280) : -Thế cuộc hiện nay, chẳng khác thời Kiệt Trụ khi xưa, tình trạng Vua bất minh, tôi bất trung:“Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”(Bài Cảm Tác) khiến chúng dân gánh chịu cảnh lầm than cơ cực. Đức Thầy kêu gọi mọi người nên mở rộng lòng nhơn bố thí cho những ai nghèo đói tàn tật. Đồng thời diệt bỏ tánh tham lam giành giựt. Tuy sống trong cảnh nghèo hèn, nhưng hãy rán giữ lòng trong sạch cao khiết, tất có ngày chư Phật sẽ hộ trì cho phục hồi cựu vị Phật Tiên. -Ngài còn cho biết tại miền “Năm Non Bảy Núi”, tuy hiện giờ thấy toàn là cây đá âm u, nhưng sau nầy sẽ có cảnh vui tươi quí báu:“Rừng lâm cây đá thấy ngày nay, Mà ruột năm non có các đài”( Đến Làng Nhơn Nghĩa). -Vì lòng quá thương xót chúng dân, nên Ngài kể hết sự tình, mặc cho nam nữ trẻ già có tin hay không tùy ý, chớ không nên khi dể nhạo chê làm chi cho vương nghiệp tội. -Thời gian trước Đức Thầy giáo dân với xác thân là một ông Lão, nhưng Ngài chuyển kiếp khai Đạo kỳ nầy, với một thể xác trẻ trung. Nguồn giáo pháp của Ngài thuyết ra ví như con sông thông ra biển cả. Nếu ai biết nương theo đó mà tiến hành và chuyên tâm làm lành niệm Phật, tất được giải thoát an vui. Vì bên cõi Tây phương Cực Lạc Đức A Di Đà cùng chư Bồ Tát rất mong đợi khắp bá tánh đồng tâm niệm Phật để được các Ngài tiếp dẫn vãng sanh về cảnh giới ấy. CHÚ THÍCH : TRỤ: (Xem lại chú thích tại tr.172 Tập 1/3). KIỆT: (Xem lại chú thích nơi câu 121 trên). CAO THANH: Cũng đọc là thanh cao. Có nghĩa cao thượng và thanh nhã, trong sạch. Truyện Kiều có câu:“Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Đức Thầy cũng dạy: “Thường trau giồi chí hướng cao thanh, Cho khỏi thẹn con lành Phật giáo”. HỒI PHỤC: Khôi phục lại như cũ. Ý nói cái đã bị mất mát, sai lạc hay bịnh hoạn mà nay được hồi phục trở lại. NĂM NON: Năm cái chỏm cao (vồ) trên núi Cấm (Thiên Cẩm Sơn), gồm có: 1- Vồ Bò Hong: vì khi xưa, ít người lai vãng nên giống bò hong sanh sản nhiều vô số ở tại vồ nầy. Cao 716 thước, ở về hướng Tây. 2- Vồ Đầu: phải chăng vì cái vồ đầu tiên mà người ta gặp được khi lên núi do ngã chợ Thum Chưng. Cao 584 thước ở về hướng Tây Bắc. 3- Vồ Bà hay Phnom Barech: vì ở đây có một cái điện thờ Bà Chúa Xứ. Cao 579 thước, ở về hướng Nam. 4- Vồ Ông Bướm: vì khi xưa Ông Bướm và Ông Vôi, vốn người Miên, tướng lĩnh của Cố Quản Trần Văn Thành, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương. Sau về ẩn náu tu hành ở nơi đây và được chứng đạo. 5- Vồ Thiên Tuế hay Phnom Prapéal: Vì ở đây có nhiều cây thiên tuế. Cao 514 thước ở về hướng Đông.(theo quyển Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn Văn Hầu). BẢY NÚI: (Xem lại chú thích tại tr.106 Tập 1/3). NAY KHÙNG ĐÃ HẾT GIÀ HÓA TRẺ: Đức Thầy đã nhiều lần chuyển kiếp độ đời, từ xác già chuyển sanh lại xác trẻ, bởi Ngài:“Thương hồng trần mượn xác tái sanh”(Bài Diệu Pháp Quang Minh). Như từ Phật Thầy Tây An chuyển sanh lại Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ, Chờ thời Thiên định thiết hùng ca”. (Hai Mươi Chín Tháng Chạp) (Câu giảng trên còn có ý nghiã đúng theo lời tiên tri của Đức Phật Thầy: Năm 1856, Đức Phật Thầy Tây An cùng các đệ tử đứng trước thềm chùa Tây An núi Sam, nhìn xuống đồng Láng Linh, nhằm mùa nước lớn mênh mông như biển, Ngài nói: “Chừng nào giữa đồng Láng Linh nầy có con sông thì ta sẽ trở lại độ đời với hình thể trẻ trung hơn bây giờ”. Đến năm 1939, người Pháp cho xáng múc con Kinh Vịnh Tre xuyên qua đồng Láng Linh. Và cũng trong năm 1939 ấy, Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời khai sáng PGHH. Nên biết Đức Phật Thầy tiên tri lời nầy năm 1856 lúc Ngài 50 tuổi; 83 năm sau, Đức Giáo Chủ PGHH ra đời mới 20 tuổi. Cho nên sự việc nầy cũng rất ứng với các câu giảng kể trên). NÊN GIỮA ĐỒNG BỖNG LẠI CÓ SÔNG: Phàm những người ở giữa đồng khô, thường bị thiếu nước xài và cũng chẳng có sông rạch, để thông ra biển cả. Bỗng nhiên lại được con sông đào đến, thật là điều may mắn ít có. Ý nói chúng sanh sống thời mạt pháp cảnh khổ bao trùm, rất khao khát trông đợi người cứu tinh, bỗng được Đức Thầy khai nguồn Đạo pháp, thì có chi vinh hạnh cho bằng. Con đường Đạo lý của Ngài vạch ra ví như dòng sông, giúp cho chúng sanh nương theo đó mà vượt ra biển cả, tức được giải thoát an vui. Như Ngài cho biết: “Cá to mà phải ở ao, Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sông. Một mai dạo được Tây Đông, Khắp trong thế giới thỏa lòng ước ao”. TÂY PHƯƠNG: Cảnh Phật, tức cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. NIỆM PHẬT: Trì niệm lục tự Di Đà. Tức chỉ người tu theo Pháp môn Tịnh độ để được vãng sanh về cõi Tây phương Cực lạc. Bởi Đức Phật A Di Đà có nguyện:“Nếu chúng sanh nào xưng danh hiệu Ta (niệm Phật) thì chắc sanh về nước Ta, nếu không y lời thì ta chẳng thể làm Phật”. Đức Thầy nay cũng xác định: “Ao sen báu Tây phương đua nở, Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm”. (Khuyến Thiện, Q.5) CHÁNH VĂN 281. Làm nhơn-ái ắt tiêu bệnh-tật, Vậy hãy mau tầm Đạo Thích-Ca. Phật tại tâm chớ có đâu xa, 284. Mà tìm kiếm ở trên Non-Núi. Chúng đục-đẽo những cây với củi, Đắp xi-măng sơn phết đặt tên. Ngục A-Tỳ dựa kế một bên, 288. Chờ những kẻ tu hành giả-dối. LƯỢC GIẢI (từ câu 281 tới câu 288) : -Đức Giáo Chủ khuyên mỗi người, nên mở rộng lòng nhơn ái, đối với vạn loại chúng sanh thì ít vương mang bệnh tật. Bởi căn cứ vào luật nhân quả, hễ ai tạo nghiệp sát, hoặc đánh đập làm đau khổ chúng sanh khác thì kiếp nầy hoặc kiếp sau bị giảm thọ (bớt tuổi), đau ốm liên miên và thân hình xấu xí tàn tật. Bằng ai bố thí phóng sanh đối với người và vật thì được phúc thọ (sống lâu), ít bệnh tật, thân xác tươi đẹp. Kinh Niết Bàn có chép:“Có hai nhân duyên làm cho chẳng sanh ra bệnh khổ: Một là thương xót tất cả chúng sanh, hai là thí thuốc cứu những người có bệnh”. -Trên đường tu học, nếu hành giả muốn kết quả chắc chắn, trước phải tìm hiểu Đạo Phật cho chính xác. Bởi muôn ngàn phương tiện trong Giáo lý của Phật đều dạy nhà tu hãy tìm lại Phật tâm của mình:“Phải bền lòng tầm Phật trong tâm”(Kệ Dân, Q.2). Muốn thế, hành giả phải dùng trí huệ diệt hết vọng tâm phiền não, tức Phật tánh hiện bày:“Trí hiền tâm đức chùi lau, Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng”(Sám Giảng, Q.3). Bằng ai tìm Phật theo những tượng cốt (thinh âm sắc tướng) hoặc núi non am cốc thì chẳng khác “người cỡi trâu lại đi tìm trâu”, tu như thế rất sai lầm mong gì kết quả. -Còn những kẻ tu hành giả dối, phô trương hình thức bên ngoài để lừa bịp thế gian. Chính họ đã hành sai chân lý, lại còn dẫn dắt bá tánh lầm lạc thì ắt:“Khó mong cửa Phật dựa kề, Càng gần địa ngục nhiều bề thảm thương”(Phụ Nữ Ca Diêu). CHÚ THÍCH : NHƠN ÁI: Cũng gọi là nhân ái, tức lòng nhơn đức hay thương người mến vật, tha thứ người, thương xót hạng cơ bần và tận tâm giúp đỡ họ mọi điều ích lợi. Người có lòng nhơn ái bao giờ cũng tròn hiếu đạo với cha mẹ, kính thuận với đệ huynh, hòa hài với xóm chòm, cô bác, tôn trọng mạng sống các sanh vật, không vô tình hay cố ý làm đau đớn hoặc thiệt hại thân mạng của chúng. Kinh Phật bảo:“Cái lợi lớn hơn hết là ở nơi lòng nhân từ, cái phước lớn hơn hết là do tâm thanh tịnh”. Đức Thầy nay cũng từng dạy trong bài “Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện”:“Lòng nhơn xin khá tập rèn” và trong bài“Diệu Pháp Quang Minh”:“Chí quân tử lòng nhơn vạn đại”. ĐẠO THÍCH CA: Đạo Phật, vì Đức Thích Ca là Giáo chủ Đạo Phật toàn cõi Ta bà. Truyện Quan Âm Thị Kính có câu:“Buồn muốn đi tu Đạo Thích Ca”. PHẬT TẠI TÂM CHỚ CÓ ĐÂU XA: Tâm của mỗi chúng sanh đồng một bản thể với chư Phật. Từ vô thỉ trong thể chơn như ấy, vì một tích-tắc bất giác vọng niệm sai lầm, nên bị đám mây phiền não che lấp Phật tâm. Từ đó mọi kiến thức đều do phiền não chi phối, nên ta không thể thấy được Phật tâm của mình. Cũng ví như hồ nước đang trong sạch, bỗng bị gió thổi, sóng trào, khiến cặn cáu nổi lên làm nước đục ngầu, không thể nhìn ra đâu là nước trong. Nhưng khi hết gió, sóng lặng, bùn cặn lắng chìm tận đáy, bấy giờ ta thấy hồ nước trong lành trở lại. Vậy trong hồ nước đục trước kia, có sẵn thể nước trong sạch. Cũng như trong tâm chúng sanh (vọng), có sẵn chơn thân (Phật), tức trong phiền não vẫn có bồ-đề, trong mê có giác. Nên người muốn tìm Phật mà cứ chạy theo hình tướng bên ngoài, hoặc tìm nơi non cao rừng thẳm là sai lầm. Bởi không có Phật nào khác hơn là bản lai thanh tịnh của chính mình. Kinh Niết bàn, Phật bảo:“Nhược nhơn bất tri Phật tánh giả, tắc vô trượng phu tướng giai danh nữ nhơn”(Nếu người không biết mình có tánh Phật thì người đó không phải là bậc trượng phu, chỉ gọi là nữ nhơn thôi). Đức Lục Tổ Huệ Năng cũng nói: “Người tu hành muốn kiếm Phật thân, Nơi nào kiếm chơn thân của Phật. Trong tự tánh thấy thường chơn thật, Có chơn thì giống Phật mới thành. Chẳng thấy tâm kiếm Phật ngoài thân, Tâm vọng khởi thiệt phần si ám”. Đức Phật Thầy Tây An cũng dạy: “Lọc lừa thì được nước trong, Ma, Phật trong lòng lựa phải tầm đâu ?” Đức Thầy nay cũng đã hằng khuyên: “Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm, Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm”. (Đến Làng Nhơn Nghĩa) NGỤC A TỲ: Phạn ngữ là Avichi, phiên âm là A-tỳ, dịch là vô gián (không lúc nào ngừng, gián đoạn). Ngục A-tỳ là cảnh địa ngục thấp hơn hết và nguy khổ hơn hết trong tám cảnh Địa ngục lớn (Bát đại Địa ngục). Tội nhân vào đó bị trừng phạt không lúc nào ngừng nghỉ, nên có tên là ngục vô gián. Trong Địa Tạng kinh có giải năm nghiệp cảm chẳng gián đoạn ấy như sau: 1- Tội nhơn vào đây, ngày đêm đều chịu sự trừng phạt, cho đến hằng số kiếp, không lúc nào gián đoạn. 2- Nhiều người nằm trong giường ngục thì bị chật, nhưng bớt ra, chỉ còn một người cũng thấy chật như thường. 3- Những đồ trừng trị như: gậy, côn, chim cắt, rắn, chó sói, chó thường, cối xay, cối giã, cưa xẻ, đâm, xẻo, vạc dầu, lưới sắt, dây sắt, ngựa sắt, da sống trói đầu, sắt nóng dội vào mình, đói ăn viên sắt, khát uống nước sắt, quanh năm suốt kiếp, kể vô số. 4- Bất luận nam nữ, thổ mán mọi rợ, già trẻ sang hèn, hoặc Trời, người, quỉ, thần.v.v…Hễ ai làm ra tội gì thì mang lấy tội nấy đều phải chịu mãi như vậy. 5- Đọa xuống Địa ngục nầy, từ khi mới vào cho đến trăm ngàn kiếp, trong một ngày một đêm muôn lần chết đi rồi sống lại, cầu xin tạm nghỉ một chút cũng không được, cứ liên tiếp như vậy mãi, trừ ra khi nào hết tội nghiệp mới được đi đầu thai. Cũng trong Địa Tạng Kinh còn nói rõ những người phạm tội như sau đây sẽ bị đọa vào Ngục A Tỳ: “Kẻ bất hiếu với cha mẹ, chê bai Tam Bảo, hủy báng Kinh Pháp; làm thân Phật chảy máu; kẻ xâm lấn tổn hại nhà chùa, làm ô uế tăng ni, ở trong vòng chùa chiền làm việc dâm dục, phóng túng hoặc giết hại nhơn vật. Kẻ giả bộ thầy tu để phá đồ vật nhà chùa, lường gạt kẻ tại gia, làm trái giới luật và tạo ra nhiều tội ác; kẻ trộm cắp đồ vật của nhà chùa và chúng tăng”. Tất cả những tội phạm nói trên đều bị đọa vào Ngục A-tỳ.
289. Khuyên sư-vãi mau mau cải-hối, Làm vô-vi chánh Đạo mới mầu. Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu, 292. Hãy tìm kiếm cái không mới có. Ngôi Tam-Bảo hãy thờ Trần-Đỏ, Tạo làm chi những cốt với hình. Khùng nói cho già trẻ làm tin, 296. Theo Lục-Tổ chớ theo Thần-Tú. LƯỢC GIẢI (từ câu 289 tới câu 296) : -Bởi thấy thời nay có số tăng ni trong các chùa tu theo sắc tướng thinh âm làm sai lạc chân truyền của Đạo Phật từ trước, nên Đức Thầy khuyên họ mau trở về với Chánh pháp vô vi:“Huyền pháp thâm trầm thơm bất tuyệt, Vô vi chánh Đạo hỡi người ôi !”(Cho Ông Tham Tá Ngà). Có thế mới đúng chân truyền của Đức Phật Thích Ca và mới kết quả trên đường tu Phật. Vì rằng: tất cả hình tướng màu sắc đều là hư vọng, ảo ảnh. Người tu theo sắc tướng (hữu vi), khác nào kẻ bắt bóng trong gương, mò trăng đáy nước. Kinh Thiền Môn đã nói:“Tu mà cầu hình tướng bên ngoài, tuy trải qua nhiều kiếp, rốt cuộc chẳng đặng thành công. Nếu giác ngộ trở về xem bản tánh mình, thì trong một niệm liền chứng quả Bồ đề. Cho nên hành giả phải tìm cái chơn không (chơn tâm) mới là thật có”. Đức Giáo Chủ hằng dạy: “Chuyện cao siêu Phật pháp còn dài, Khó gặp chữ không không mà có” (Sa Đéc). -Do đó, về nghi thức thờ phượng, Đức Thầy không cho tín đồ tạo thêm hình cốt, hoặc tụng tán trống mõ, chuông đẩu, mà:“…nên thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào nháng bề ngoài”. Và:“Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ Ông Bà cúng món chi cũng đặng”(Xem Cách Thờ Phượng…, tr.201-202 SGTV 2004). -Đức Thầy hằng khuyên dạy tín đồ hãy tu theo Đức Lục Tổ Huệ Năng, tức là tu đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Thích Ca, vì Đức Lục Tổ đã chứng thọ chân truyền, chớ không nên tu theo Thần Tú, bởi phái nầy thường bày ra sắc tướng thinh âm, làm sai lạc chân lý của Đạo Phật. CHÚ THÍCH : SƯ VÃI: Các Tăng sư và những Ni cô đã xuất gia vào chùa tu hành. CẢI HỐI: Hối hận những việc đã lầm lỗi và quyết định sửa đổi lại. VÔ VI: Phạn ngữ Asamskrta. Dịch là Vô vi, có nghĩa: không có nhân duyên tác động, không có hình tướng màu sắc, không có bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt. Vô vi tức là chơn lý tuyệt đối, là Niết bàn, là Đạo, là Vô tướng và Thật tướng. Vậy làm vô vi là làm không có hình tướng về sắc mà cũng không có hình tướng về tâm. Tuy tri hành tất cả việc Đạo pháp, nhưng tâm không còn phân biệt ngã chấp, không có tướng người, tướng ta, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tất đạt đến thật tướng Niết bàn, chơn không diệu hữu. Đức Thầy dạy “làm vô vi” mới là Chánh Đạo, và mới đúng chân truyền của Đức Thích Ca, bởi tâm ấn của Ngài là:“Chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm”, lìa cả hình tướng văn từ, ngôn ngữ, chỉ dùng tâm mà trì hành chứng đắc và dùng tâm truyền qua 33 vị tổ. Tới Đức Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ có một tâm ấn. Đức Thầy hiện nay cũng bảo:“ Đạo vô vi của Phật ân cần, Noi theo chí Thích Ca ngày trước”.(Giác Mê Tâm Kệ Q.4). Và: “Xả thân tầm Đạo vô vi, Nhiệm mầu thâm diệu nan tri Lão bày”. (Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa) CÁI KHÔNG MỚI CÓ: Cái lý chơn không mà diệu hữu. Cái không ở đây là không có sắc tướng, bởi Đức Phật từng bảo:“Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thinh cầu ngã. Thị nhân hành tà Đạo, bất năng kiến Như Lai”(Nếu dùng sắc mà thấy ta, lấy âm thinh cầu ta. Thiệt là người hành Tà đạo, chẳng bao giờ thấy được Như Lai). Hoặc là:“Phàm hữu sở tướng, giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng, phi tướng, tức kiến Như Lai”(Các pháp tướng đều là không thật, đều là ảo mộng. Bằng thấy các tướng mà chẳng chấp tướng tức thấy được Như Lai). Vậy hành giả nếu không còn thiên chấp theo sắc tướng tức chứng được “cái không”, tức là chơn không, cũng gọi là Tạng Tánh Như Lai. Nhưng không mà chẳng không, nên gọi là có. Bởi trong cái chơn không thanh tịnh ấy vốn có diệu dụng sáng mầu, chẳng thể nghĩ bàn được, nên gọi “không mà có”. Như Đức Thầy từng bảo trong Giác Mê Tâm Kệ, Q.4:“Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”. Hoặc là: “Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp, Cho đời hiểu rõ lý chơn không”. (Khuyên Bỏ Dị Đoan) TAM BẢO: Phạn ngữ Triratna, dịch là Tam Bảo. Có nghĩa ba ngôi quí báu : Phật, Pháp, Tăng. 1- Phật là đấng toàn thiện toàn giác “bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải”. (Ân Tam Bảo) 2- Pháp là lời của Phật thuyết ra để giáo hóa chúng sanh, về sau các Đại đệ tử kết tập lại thành Tam tạng: Kinh, Luật, Luận. Người tu nhờ trì hành theo đó mà đắc thành Đạo quả. 3- Tăng là các Đại đệ tử của Phật, bậc giới hạnh tinh nghiêm, liễu ngộ Phật pháp và vâng ý Phật mà giáo hóa chúng sanh. Lúc Đức Phật Thích ca còn trụ thế, chính Ngài là Phật bảo. Lần đầu tiên Ngài đến rừng Lộc Giả thuyết pháp Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo cho năm anh em Kiều Trần Như nghe, đó là Pháp Bảo. Năm vị ấy khi nghe xong đều tỏ ngộ chứng quả A La Hán, ấy gọi là Tăng Bảo. Rồi từ đó Phật pháp truyền dạy lan rộng thêm vô số Pháp bảo và Tăng bảo. Còn luận giải theo lý tánh thì tự tâm mình giác ngộ là Phật Bảo, tự tâm mình chơn chánh là Pháp Bảo, tự tâm mình thanh tịnh là Tăng Bảo. Ngôi Tam Bảo mà Đức Thầy đề cập ở đây là chỉ cho Bàn thờ Phật tại mỗi gia đình của mỗi tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. TRẦN ĐỎ: Bức trần màu đỏ thờ trên ngôi Tam Bảo để biểu hiện tinh thần từ bi của Phật. Đó là lúc Đức Thầy mới khai Đạo, nhưng sau đó 8 tháng Ngài cho đổi lại màu dà. Về ý nghĩa và lý do thay đổi, Ngài có nói rõ trong một đoạn văn như sau: “Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng Tông phái với chúng ta, làm sái phép, sái với Tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các Sư dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại, không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật”(Xem Cách Thờ Phượng,… tr.201 SGTVTB 2004). LỤC TỔ: (638-713). Ngài là vị tổ đã được thọ truyền tâm ấn của Đạo Phật. Kể từ Sơ tổ Ca Diếp truyền dẫn đến Ngài là Tổ thứ 33, song kể riêng bên Trung Hoa, từ Đạt Ma Tổ sư thì Ngài là tổ thứ sáu (Lục Tổ). Lục Tổ tên thật là Huệ Năng, họ Lư, đạo hiệu là Phụ Trung Cư sĩ, con của Lư Khánh Thao và bà Lý Thị. Nguyên quán Ngài tại đất Phạm Dương, sau dời về Tân châu, xứ Lãnh Nam. Ngài sanh vào đêm mùng 8 tháng 2 năm Mậu Tuất (638), thuộc nhà Đường (Trung Hoa). Từ khi lọt lòng mẹ, Ngài không bú sữa, vì hằng đêm có thần nhân cho uống nước Cam lồ. Mới ba tuổi Ngài phải mồ côi cha; mẹ của Ngài thủ tiết nuôi con trong cảnh nghèo khổ, cháu rau đạm bạc. Lớn lên Ngài chuyên đốn củi đổi gạo về nuôi mẹ. Một hôm, Ngài gánh củi xuống chợ đặng đổi gạo nghe có người tụng Kinh Kim Cang đến câu:“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”(Không trụ vào chỗ nào để sanh tâm mình) thì Ngài tỏ ngộ và ý quyết đi tu. May mắn có người giúp cho 10 lượng bạc, Ngài chu cấp cho mẹ già, rồi đến chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai cầu học với Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn. Trên tám tháng Ngài vui vẻ làm công quả bửa củi, giã gạo, gánh nước.v.v…mà không hề than van, chỉ chuyên trì môn kiến tánh:“Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Một hôm Ngũ Tổ truyền khắp môn đồ: mỗi người hãy làm một bài kệ tự tánh, nếu ai được tỏ ngộ sẽ được kế truyền ngôi Tổ thứ sáu. Trong đồ chúng cả ngàn người, nhưng không ai dám làm, duy có Thần Tú học rộng biết nhiều, làm một bài kệ lén dán trên tường: “Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài. Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai”. (Thân ấy Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài. Giờ giờ cần phủi sạch, Chớ để vướng trần ai). Bài kệ ấy được đồ chúng truyền tụng, thấu đến tai Huệ Năng. Ngài liền đến xem và muợn người chép giùm bài kệ của Ngài lên vách: “Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài. Bổn lai vô nhứt vật, Hà xứ nhá trần ai”. (Bồ đề vốn không thọ, Minh cảnh cũng không đài. Xưa nay không có vật, Nào chỗ vướng trần ai”. Sau đó, Ngũ Tổ đến xem biết Huệ Năng đã ngộ chơn tánh, nên dùng mật ngữ gọi vào phòng, truyền tâm ấn và phú chúc y bát cho Ngài nối ngôi Tổ thứ sáu. Lúc ấy nhằm đời Đường Cao Tông, hiệu Long Sóc năm Tân Dậu. Ngài lãnh y bát, về phương Nam ẩn dật 16 năm mới ra truyền Đạo. Đến ngày 13 tháng 8 năm Quý Sửu, Ngài ở chùa Quốc Ân kêu đồ chúng lại thuyết bài kê: “Trơ trơ chẳng làm lành, Xăn xăn chẳng tạo ác. Bặt bặt dứt thấy nghe, Lộng lộng tâm không mắc”. Thuyết kệ xong, tới canh ba Ngài ngồi ngay thẳng mà tịch. Đến đời vua Hiến Tông nhà Đường, ban hàm ân cho Tổ là:“Đại Giám Thiền Sư” và đề tặng trên tháp bốn chữ “Nguyên Hòa Linh Chiếu”, các đệ tử tạo tháp thờ Ngài ở Tào Khê. Nhục thân của Ngài không hư rã, đệ tử xây tháp lưu giữ cho đến ngày nay. Quan huyện Thiều Châu có dựng bia ghi Đạo hạnh của Tổ sư để làm kỷ niệm:“Tổ Sư Xuân Thu bảy mươi lẻ sáu. Hai mươi bốn tuổi được truyền y bát, ba mươi chín tuổi xuống tóc. Sư thuyết pháp ba mươi bảy năm. Trong các môn nhơn của Ngài có bốn mươi ba người đặng đạt Tông Chỉ và nối truyền chánh pháp. Còn những người ngộ đạo siêu phàm chẳng biết bao nhiêu mà kể”. Trong hàng cao đệ của Lục Tổ như: Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Hà Trạch Thần Hội, Vĩnh Gia Huyền Giác, Nam Dương Tuệ Trung và Pháp Hải.v.v…Đó là những nhân vật trọng yếu. Lời truyền giáo của Ngài còn lưu lại cho đời quyển Pháp Bửu Đàn Kinh; lý nghĩa diệu mầu khó tả, hàm chứa tâm ấn và chánh Pháp của Đạo Phật. Ngày nay Đức Giáo Chủ bảo chúng ta tu theo Lục Tổ là tu đúng theo Chánh Pháp Vô Vi của Đức Phật Thích Ca vậy. THẦN TÚ: (606-707) Trong lịch sử Phật giáo không có ghi chép tiểu sử rõ ràng, chỉ biết đại lược: Thần Tú là đệ tử của Tổ Hoàng Nhẫn, làm chức Giáo thọ, trông coi đồ chúng tu học; mọi người đều kính nể sự học tập nghe nhiều của ông. Khi ông làm Kệ dâng Ngũ Tổ, lòng luôn nao nức tự phụ trong hàng tăng chúng chẳng ai bằng mình. Song sau khi chẳng được truyền y bát, ông đâm ra hiềm khích Lục Tổ Huệ Năng, bèn lập thành một tông phái Đạo Phật truyền bá phương Bắc nước Tàu, trụ trì tại chùa Ngọc Tuyền, ở Kinh Châu. Học trò của Thần Tú có khoảng 3.000. Thầy trò đều chủ trương lối tu tiệm giáo, lần lần bày ra âm thinh sắc tướng: gõ mõ, tụng kinh, cúng kiếng chè xôi…làm sai lạc tông chỉ của Đạo Phật. Trong hàng đệ tử muốn tôn ông làm Tổ thứ sáu, nhưng vì Lục Tổ Huệ Năng đã được thọ truyền y bát, thiên hạ đều tin nghe. Thế nên đã mấy lần đệ tử của Thần Tú âm mưu hành thích Lục Tổ, song cơ mưu bất thành. Từ đó hai tông phái Bắc, Nam lần lần xa cách.
297. Khuyên bổn-đạo chớ nên mê ngủ, Thức dậy tìm Đạo chánh của Khùng. Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng, 300. Được sanh sống nhờ ơn Chín-Bệ. Hóa phép lạ biết bao mà kể, Chín từng mây nhạc trổi tiêu-thiều. Kẻ tà-gian sau bị lửa thiêu, 304. Người tu niệm sống đời thượng-cổ. Khùng vưng lịnh Tây-Phương Phật-Tổ, Nên giáo-truyền khắp cả Nam-Kỳ. Hội Long-Hoa chọn kẻ tu-mi, 308. Người hiền đức đặng phò chơn Chúa. Khuyên những kẻ giàu sang có của, Hãy mở lòng thương-xót dân nghèo. Cảnh vinh- hoa lại quá cheo-leo, 312. Nhà giàu có sau nhiều tai-ách. LƯỢC GIẢI (từ câu 297 tới câu 312) : -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ khuyên trong bổn đạo, chớ đắm mê theo danh lợi ảo huyền mà hãy sớm thức tỉnh, nương theo con đường Đạo đức chân chánh, do Ngài đã vạch sẵn, hầu sau nầy:“ Đặng coi chư quốc non Tần giành chia” (Thiên Lý Ca). Chừng ấy sẽ có:“ Đức Minh Vương ngự chốn Nam Thành”(Kệ Dân, Q.2), biết bao cảnh vui tươi báu lạ, nhạc Tiên reo mừng khắp ba cõi, chín từng để tiếp rước “Phật, Thánh, Tiên an bang cùng định quốc” (Không Buồn Ngủ). Ai biết tu tỉnh hiền lương thì được “… nhuần ân Thánh Đế”(Nang Thơ Cẩm Tú), và Ngài sẽ ban thưởng cho sống đời thượng cổ; còn hạng gian tà bạo ác, tất bị luật đào thải diệt vong. -Đức Phật Tổ ở Tây Phương đã sắc lịnh Đức Thầy truyền dạy cho nhân dân được rõ: Phật Trời sẽ lập Hội Long Hoa để chọn những ai xứng đáng là bực râu mày quân tử, tài đức vẹn toàn, hầu được phò trì Đức Thánh Vương và sống đời Ngươn thượng. -Ngài cũng hằng khuyên hạng người giàu sang dư ăn dư để hãy mở rộng lòng nhơn, giúp đỡ cho kẻ cơ bần, bệnh tật. Vì bao sự nghiệp phú quí vinh hoa đối với thời chiến loạn, khó mà bảo tồn vĩnh cửu:“Giàu sang như nước trên nguồn, gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ”.(Sấm Giảng, Q1). CHÚ THÍCH : ĐẠO CHÁNH: (Xem lại chú thích nơi câu 161 trên) LIỆT QUỐC: Các nước trên thế giới. Cũng như chữ chư quốc hay chư bang. Đức Thầy có câu: “Các nơi liệt quốc chư bang, Chúc cầu bình trị trướng loan sum vầy’. (Viếng Làng Mỹ Hội Đông) TRANH HÙNG: Tranh giành để xưng hùng với thiên hạ. CHÍN BỆ: Cũng gọi là chín từng, là nghĩa của chữ “cửu trùng”, tức là chín bực thang (thềm), bước lên ngai vua. Ý chỉ cho ngai vua hay là ông vua. Ví dụ: Tâu qua chín bệ; “Trên chín bệ mặt trời gang tấc”. (Cổ thi) TIÊU THIỀU: Tiếng dùng để chỉ chung cho âm nhạc trong cung vua. “Tiêu thiều nhả nhạc vang lừng” (Cổ thi). THƯỢNG CỔ: Thời Thái cổ, đời xưa; thời xa xưa trước thời trung cổ. Nghĩa cũng như chữ Thượng ngươn. HỘI LONG HOA:(Xem lại chú thích tại tr.45-47 Tập1/3). TU MI: (Xem lại chú thích nơi câu 111 trên). CHƠN CHÚA: Cũng viết là chân chúa. Có nghĩa ông vua rất chân chánh, công bằng và sáng suốt, được lịnh Trời sai xuống trị dân. VINH HOA: (Xem lại chú thích tại tr.233 Tập 1/3). CHEO LEO: Lắt lẻo, không vững; rất nguy hiểm, rất có thể ngã rơi bất cứ lúc nào. Người xưa từng hát; “Phượng Hoàng đậu chốn cheo leo, Đến khi thất thế phải theo đàn gà”. TAI ÁCH: (Xem lại chú thích nơi câu 4 trên). CHÁNH VĂN 313. Hỡi bá-tánh rừng sâu có mạch, Tuy u-minh mà có đền vàng. Lịnh Quan-Âm dạy biểu Khùng troàn, 316. Cho bổn-đạo rõ nguồn chơn-lý. Lũ thầy-đám hay bày trò khỉ, Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền. Chốn Diêm-Đình ghi tội liên-miên, 320. Mà tăng-chúng nào đâu có rõ. Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ, Từ xưa nay có mấy ai thành ? Phật từ-bi độ tử độ sanh, 324. Là độ kẻ hiền-lương nhơn-ái. LƯỢC GIẢI (từ câu 313 tới câu 324) : -Đoạn giảng trên Đức Thầy ý thức cho mọi người được biết: dù là ở chốn núi cao rừng thẳm song nơi nào cũng có sẵn mạch nước ngọt trong lòng đất. Còn miền Thất sơn, tuy hiện giờ chỉ thấy toàn là cây đá âm u nhưng sau nầy sẽ có đền vàng điện ngọc:“Chừng Bảy núi lầu son lộ vẻ”(Đáp họa cho Ông Lương Văn Tốt). Hoặc là: “Chừng nào tiếng sấm nổ vang, Thất sơn lộ vẻ đền vàng báu thay”. (Vọng Bắc Hòa Nam) Lại nữa, Đức Quan Thế Âm đã sắc lịnh cho Đức Thầy truyền dạy khắp giới tu hành được rõ đâu là chơn thật ngay chánh nên theo và đâu là tà mị nên tránh. -Bởi hiện tình có số người tu giả dối, đã mang lốt Sư mà còn đem kinh kệ đi tụng mướn để thọ hưởng tiền công đức của bá tánh, mê hoặc thiện tín, làm sai tông chỉ tu hành, đó là điều nên tội mà tăng chúng nào đâu hay biết ! Những âm thinh sắc tướng, cúng kiếng chè xôi, tụng tán cầu siêu, làm đám.v.v…là do phái Thần Tú bày ra từ trước, làm sai lạc chân truyền của Đạo Phật. Thế mà trong giới tu hành chẳng lo cải sửa. Cho nên từ ấy đến nay ít có nhà tu được chứng đắc. -Vẫn biết chư Phật đầy lòng từ bi bác ái, lúc nào cũng muốn độ hết chúng sanh, nhưng nếu hành giả nào muốn được sự cứu độ của các Ngài, cần phải tu sửa thân tâm trở nên hiền lương nhân ái. Chớ chẳng phải do sự mướn người tụng kinh, cầu siêu hoặc bày ra cúng kiếng lễ mễ mà được. CHÚ THÍCH : MẠCH: Mạch máu hay mạch nước. Đây chỉ cho mạch nước, tức đường đi ngầm dưới đất, cung cấp nước ngọt cho nhân loại. Trong trái đất dù nơi rừng sâu hay đồng nội, chỗ nào cũng có mạch nước ngầm. U MINH: Tối tăm, mờ mịt. Ví dụ: nơi u minh, rừng u minh. TROÀN: là truyền. Ví dụ: Lịnh trên troàn dạy cho mọi người được biết. CHƠN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.171 Tập 1/3). TRÒ KHỈ: Pháp ngữ gọi là Singerie (trò nỡm). Ý chỉ cho việc gì không nên, không thành công, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Kinh sách đạo Phật có chép câu chuyện ngụ ngôn như sau: “Xưa, ở khu rừng nọ, có đàn khỉ độ 500 con. Hôm nọ, chúng rủ nhau đến cây cổ thụ bên bờ giếng cư ngụ. Tối lại chúng thấy dưới giếng nước có mặt trăng nằm tận đáy. Một con khỉ hốt hoảng kêu ầm lên: “-Ôi ! Chết rồi anh em ơi ! Hôm nay mặt trăng bị chết, nó rơi xuống đáy giếng đây nầy ! Chúng ta hãy mau tìm cách vớt nó lên, kẻo thiên hạ bị tối tăm, khổ sở lắm ! Chúng xôn xao nhảy nhót, cuống quít với nhau, chưa biết phải làm thế nào ? Bỗng nghe con khỉ chúa nói lớn: “-Tất cả anh em hãy yên lòng, tôi đã có cách rồi. Việc nầy chẳng khó chi, miễn là các anh em nghe theo tôi. Phần tôi nắm lấy cành cây rồi một anh bám lấy đuôi tôi, và cứ thế lần lượt cứ bám đuôi nhau hết cả đàn. Thế là chúng ta sẽ xuống tận đáy giếng để vớt trăng lên. “Cả đàn khỉ nghe nói reo mừng đều cho đó là diệu kế, bèn làm đúng như lời khỉ chúa. Khi chúng nối nhau gần đến nơi, vì nặng quá nên cành cây bị gãy lìa, cả lũ khỉ đều rơi xuống giếng. Chúng lúng túng không có lối lên mà cũng chẳng có ai ở đó cứu vớt; kết cuộc cả đàn khỉ đều bị chết nơi đáy giếng. “Lúc ấy có vị thần ở trên cây trông thấy liền ngâm bài kệ: “Một con ngu dại đã xong, Thương thay ! Cả lũ đều không biết gì. Trăng còn vằng vặc trên kia, Dắt nhau xuống giếng làm chi cực lòng”. Ở đây, ý nói những người tu hành sai chơn lý, đã tốn công mà không kết quả, chỉ làm trò cười cho thiên hạ, thật đáng tiếc ! Đáng thương hại ! KINH LUÂN: Công việc kéo tơ. (Kinh là sắp từ mối tơ và chia ra; Luân là so từ sợi tơ mà hợp lại). Nghĩa rộng là sắp đặt và sửa sang chánh trị theo qui củ và có kế hoạch…Song chữ kinh luân ở đây là chỉ cho Kinh Kệ của Phật. DIÊM ĐÌNH: Triều đình của Diêm La Vương nơi phân xử tội phước các linh hồn sau khi bỏ xác (chết) lại thế gian. LIÊN MIÊN: Liền liền, không dứt. TĂNG CHÚNG: Phạn ngữ là Samgha. Tăng là tiếng đọc tắt, nói cho đủ là Tăng già (samgha). Tức là một số đông nhà sư (Tỳ-kheo) hòa hợp nhau thành một đoàn thể, sống với tinh thần lục hòa. Chúng là chữ Hán, dịch nghĩa là đông người (chúng tăng). Vậy chúng tăng là hai tiếng: Phạn và Hán đồng nghĩa, ghép lại dùng để gọi chư Tỳ-kheo ở một ngôi chùa hay một Giáo hội đạo Phật. THẦN TÚ: (Xem lại chú thích nơi câu 296 trên). TỪ BI: (Xem lại chú thích tại tr.40 Tập 1/3). NHƠN ÁI: (Xem lại chú thích nơi câu 281 trên). CHÁNH VĂN 325. Xá với phướn là trò kỳ-quái, Làm trai-đàn che miệng thế-gian. Kẻ vinh-hoa phú-quí giàu sang, 328. Mướn tăng-chúng đặng làm chữ hiếu. Thương bá-gia vì không rõ hiểu, Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn. Thấy lạc-lầm Đây động lòng son, 332. Khuyên bổn-đạo hãy nên tỉnh-ngộ. Ở dương-thế tạo nhiều cảnh khổ, Xuống huỳnh-tuyền Địa-Ngục khảo hình. Tuy lưới Trời thưa rộng thinh-thinh, 336. Chớ chẳng lọt những người hung-ác. Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác, Quỉ Vô-Thường dắt xuống Diêm-Đình. Sổ sách kia tội phước đinh-ninh, 340. Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ. LƯỢC GIẢI (từ câu 325 tới câu 340) : -Bởi nhận thấy một số tăng chúng thời nay, đáng lẽ họ phải gắng sức trau giồi trí tuệ để khuyên dạy bá tánh tự lo khử ác tùng thiện, hiếu thuận từ hòa hầu hồi hướng công đức cho Cửu huyền Thất tổ được siêu thăng. Đằng nầy họ lại bày vẽ những cuộc trai đàn với các nghi thức rườm rà, đượm màu mê tín. Việc đó khiến cho những kẻ giàu sang hiểu lầm: hễ có tiền của nhiều mang đến cho chúng tăng cầu siêu giùm là vẹn tròn hiếu nghĩa, khỏi cần phải tu hành, tác phước làm chi cho cực. -Đức Thầy thấy sự lầm lạc như thế mà động lòng thương, nên Ngài kêu gọi khắp thiện tín mau tỉnh ngộ trở về với chơn lý:“Mình làm chữ hiếu mới hay, Chớ muớn người ngoài cầu nguyện khó siêu”(Sám Giảng, Q.3). Và phải tin sâu nơi luật nhân quả, hễ làm lành hưởng phước, tạo ác mang tai, chẳng hề sai chạy. Xưa, Đức Phật từng bảo:“Cầu phước chẳng qua trai giới bố thí; Cầu thọ chẳng qua giới sát, phóng sanh; cầu huệ chẳng qua học rộng nghe nhiều, suy tư, tịnh ý; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn tư tưởng phải quấy, chớ không phải đem tài vật lễ mễ Phật Trời mà được”. -Nhân loại ở thế gian nếu ai làm điều hung ác thì khi chết linh hồn bị nghiệp lực hút vào Địa ngục chịu sự hình phạt khốc liệt. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt dù một mảy lông (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu). Kiếp sống của con người cứ miệt mài con đường tội ác, một khi số vô thường đến thì trước công án của Diêm Vương, dù một điểm nhỏ cũng không cãi chối được:“Bán điểm nan mãn nguyệt cảnh minh, Bá kế thiên mưu đô thị thố”.( Đến lúc thác xuống âm ti dù nửa điểm tội cũng khó che dấu được, vì cái kiếng tại đài nguyệt cảnh chiếu rất rõ ràng. Ở đây có trăm điều mưu kế lầm lỗi đều hiện ra tất cả) (Trong Tỉnh Thế Ngộ Chơn). -Bấy giờ Phán quan sẽ đem bản ghi chép tội phước hằng ngày ra và Diêm Vương sẽ xét xử kẻ tội phước; đâu đó thưởng phạt rất công minh. CHÚ THÍCH : XÁ VỚI PHƯỚN LÀ TRÒ KỲ QUÁI: Xá hạc, xá ngựa, lầu kho, phướn sớ là những đồ vật của mấy ông “nhưn bông, làm đám” tạo ra để đốt khi có người đem tiền của đến để nhờ làm lễ cầu siêu. Họ nói với tang chủ rằng:”Đốt đồ ấy cho người chết ở dưới âm phủ xài được và xá hạc, xá ngựa sẽ mang sớ đến Trời Phật”. Đó thật là điều rất giả dối lạ lùng, thế mà người ta vẫn tin. Sau đây là câu chuyện có liên quan đến vấn đề, do ông Võ Quang Lệ ở xã Hòa Hảo tường thuật: Vào ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Mão (1939), tại An Hòa Tự làng Hòa Hảo, có cuộc trai đàn do ông Võ Quang Lệ là tang chủ. Ông đem tiền đến chùa, nhờ Sư trụ trì là Yết Ma Thường tổ chức lễ cầu siêu cho thân phụ ông nhân ngày lễ làm tuần bá nhựt. Trong cuộc trai đàn ấy, dĩ nhiên là có tụng kinh, gõ mõ, có xá phướn lầu kho theo tục lệ của mấy thầy làm đám. Giờ cúng ngọ gần tới thì cũng chính nhằm dịp Đức Thầy vừa đến. Sau khi đi một vòng thăm “đại hùng bảo điện”, Đức Thầy bước vào hậu đường, trong khi Yết ma Thường cùng ông Lệ đang săm soi sửa chữa lại mấy xá hạt, xá ngựa, để chuẩn bị cho kịp giờ “đưa tiễn về Trời”. Đã biết tin Đức Thầy bất thần ghé chùa và cũng biết ý Đức Thầy lúc nào cũng đả phá những điều dị đoan và lợi dụng, nên Yết ma Thường không vui. Ông muốn nhân dịp nầy “hạ uy tín” Đức Thầy để bù trừ điều Ngài không chấp nhận việc ông nầy“Làm chay đám tạo nhiều xá mã”(GMTK, Q.4) và “Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền” (Kệ Dân, Q.2); đồng thời cũng để thử xem oai linh của Đức Thầy, nên Yết ma Thường lén để dưới manh chiếu xếp lại, đặt trên chiếc trường kỷ đối diện ngay Ông, một quyển Kinh Phổ Môn, rồi chờ đợi. Khi Đức Thầy đến, Yết ma Thường giả bộ niềm nở mời Ngài ngồi ngay trên chiếc ghế ấy. Đức Thầy với cử chỉ hòa hưỡn và tự nhiên, trả lời ông Yết Ma: -Được, Ông cứ để tôi đứng đây nói chuyện. Đoạn, Ngài nhìn ngay ông Lệ đang ngồi trên chiếc trường kỷ bên kia với Yết ma Thường, ứng khẩu một bài thi tứ tuyệt:“Cho hay Đạo cả thiệt vì tiền, Đạo cả không tiền, Đạo ngửa nghiêng. Có bạc sợ chi miền Địa ngục, Không tiền khó đến cảnh Tây Thiên”. Nghe bài thi của Đức Thầy, ông Thường nóng mặt; còn ông Lệ như thoát cơn say. Khi Đức Thầy ra về, Yết ma Thường dở chiếu lấy quyển kinh lên, cho ông Lệ xem và cả hai đều gật gù nghĩ ngợi. Mẩu chuyện nầy là một nhát búa đẽo mạnh vào những mắt cây cong, nó có hiệu năng khuyến cáo mọi người chừa bỏ các điều phi lý, chỉ thể hiện sự mê tín hoang đàng, chớ không đem lại một mảy may lợi ích. TRAI ĐÀN: Đàn làm chay. Là những tăng chúng hội hiệp tại một ngôi chùa nào đó để làm lễ cầu siêu cho các vong hồn trong thân nhân của chư thiện tín, do họ đem tiền của, vật thực đến nhờ các sư tổ chức giùm để họ lễ bái cầu nguyện. NHƠN NGHĨA: (Xem lại chú thích tại tr. 275 Tập 1/3) LÒNG SON: (Xem lại chú thích tại tr.239 Tập 1/3). TỈNH NGỘ: (Xem lại chú thích nơi câu 93 trên). HUỲNH TUYỀN:(Xem lại chú thích tại tr.94Tập 1/3). ĐỊA NGỤC KHẢO HÌNH: Sự hành phạt tra khảo nơi Địa ngục. Do sự tội ác nặng hay nhẹ của mỗi cá nhân mà khi chết linh hồn bị đọa vào cảnh giới Địa ngục, họ cảm thấy mình bị sự trừng phạt, mỗi nơi mỗi khác. Có ngục tội nhân bị kéo lưỡi dài ra cho trâu cày; hoặc có nơi quỉ sứ móc trái tim của tội nhơn cho quỉ dạ xoa ăn; có nơi quỉ sứ đun sôi vạc dầu mà nấu thân thể kẻ có tội; có nơi đốt cột đồng cho đỏ, rồi bắt kẻ có tội ôm vào; có nơi người ta thổi cho lửa bay gộp lại, áp vào kẻ có tội. Có ngục toàn là giá lạnh, hoặc có ngục toàn là phân người và nước tiểu; có nơi bay tới những cây gai toàn bằng sắt ghim vào mình người tội, hoặc có nơi gươm giáo đâm vào tội nhơn; có nơi bị gậy gộc đánh vào bụng, vào lưng liên tiếp. Hoặc có ngục hình, hành bằng cách đốt cháy tay chơn tội nhơn; hoặc có nơi tội nhơn bị rắn sắt quấn chung quanh mình, hoặc chó sắt đeo tội nhơn mà cắn xé.v.v… QUỈ VÔ THƯỜNG: Quỉ bắt người tới số phải chết; cũng gọi như chữ tử thần. Vì cái chết làm cho con người phải mất đi tất cả (số vô thường đã đến) nên người ta quá ghê sợ mà gọi nó là Quỉ Vô Thường hay là Tử Thần. CHÁNH VĂN 341. Tìm Cực-Lạc, Đây rành đường ngõ, Hãy mau-mau tu tỉnh mới mầu. Tận thế-gian còn có bao lâu, 344. Mà chẳng chịu làm tròn nhơn-đạo. Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo, Mở lòng nhơn tiếp rước mới là. Làm hiền-lành hơn tụng hơ-hà, 348. Hãy tưởng Phật hay hơn ó-ré. Đã chánh Đạo thêm còn sức khoẻ, Đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn. Vẹn mười ơn mới đạo làm con, 352. Lúc sanh sống chớ nên phụ-bạc. LƯỢC GIẢI (từ câu 341 tới câu 352): -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ chỉ cho biết: nếu ai muốn vãng sanh Cực lạc thì nơi đây Ngài vạch sẵn đường lối, tức là Pháp Môn Tịnh Độ. Đại ý Ngài dạy: hành giả cần có đủ Tín, Nguyện và chuyên tâm niệm Phật, làm lành:“Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi rán niệm chớ quên không đợi gì thời khắc”(Niệm Phật, tr.212 SGTVTB 2004). Nếu ai nhứt tâm trì chí như vậy, quyết đặng vãng sanh Cực Lạc, như Ngài đã viết trong Quyển 5, Khuyến Thiện: “Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ, Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh. Nếu như ai cố chí làm lành, Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc. Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật, Dầu Tiên, Phàm, ma quỉ, súc sanh. Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành, Được cứu cánh về nơi an dưỡng. Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng, Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi”. Vậy chúng sanh nào muốn được kết quả như trên, phải mau thức tỉnh tu hành. Lại nữa, ngày tận diệt gần kề, thế mà chúng dân chẳng chịu tu tròn Nhân Đạo. Bởi phần Nhân Đạo có làm tròn mới được sống còn trong ngày Thượng ngươn Thánh đức và như thế cũng gọi là trả xong nợ thế, vẹn đáp tứ ân:“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”.(Cho ông Cò Tàu Hảo). -Ngoài ra còn phải rộng lòng thương những người nghèo khổ, tàn tật để tùy phương giúp đỡ:“Nếu đã xả thân tầm đạo đức, Mở lòng bố thí ngộ thần ca”(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện). Bởi điểm trọng yếu của người tu Phật là bên ngoài lo làm lành lánh dữ, tác phước thiện duyên, bên trong thì chuyên tâm niệm Phật và tảo trừ vô minh phiền não để kiến diện Phật tâm (Phước Huệ song tu ). Chính đó là chánh Đạo, là chơn lý tuyệt vời. Bằng ai mảng lo tụng kinh gõ mõ, ó ré theo hình tướng (không cần thấu đạt nghĩa lý) thì mong gì đạt đạo: “Kinh Thích Đạo, Kinh xem chẳng tụng, Việc thinh âm sắc tướng chẳng dùng. Đạo tại tâm, tâm Đạo xuất tùng, Tùng tâm Đạo mới là Phật Đạo”. (Kim Cổ Kỳ Quan của Ô.Ba Thới) -Thêm nữa, người tu có hành đúng theo chánh Đạo mới bảo tồn được sức khỏe, hầu làm tròn bổn phận người con, đối với công ơn trời biển của cha mẹ. Nghĩa là phải ghi nhớ mười điều ân vào thâm tâm để sớm lo đền đáp: Lúc cha mẹ còn sanh tiền thì lo cung cấp từ miếng ăn, thức mặc, cho đến chỗ được chu toàn. Vâng lời dạy bảo của cha mẹ và hằng khuyên cha mẹ làm việc phước nhân, tránh điều tội lỗi. Còn khi cha mẹ quá vãng thì rán tu cầu cho linh hồn được siêu sanh cõi thọ, thoát đọa trầm luân. Đó là vẹn tròn Đạo làm con. CHÚ THÍCH : CỰC LẠC: (Xem lại chú thích nơi câu 28 trên) TU TỈNH: Thức tỉnh và trau sửa thân tâm cho được trọn lành, trọn sáng. TẬN THẾ GIAN: (Xem lại chú thích nơi câu 25 trên) NHƠN ĐẠO: (Xem lại chú thích tại tr. 152 Tập 1/3). TỤNG HƠ HÀ: Cách tụng kinh như la lối lớn tiếng, có giọng điệu ca kệ. MƯỜI ƠN: Những công ơn của người con thọ nơi cha mẹ. Trong “Phụ Mẫu Báo Hiếu Trọng Ân Kinh”, Phật có giảng mười điều ơn, tạm lược như sau: 1- Thập ngoạt hoài thai ân: Ơn mười tháng cưu mang. 2- Lâm sản thọ khổ ân: Ơn sanh đẻ chịu khổ. 3- Sanh tử vong ưu ân: Ơn sanh được đứa con, mừng mà quên lo rầu. 4- Yến khổ thổ cam ân: Ơn uống đắng nhổ ngọt. 5- Hồi can tựu thấp ân: Ơn nhường chỗ khô nằm chỗ ướt. 6- Nhũ bộ dưỡng dục ân: Ơn bú mớm và nuôi nấng. 7- Tẩy trạc bất tịnh ân: Ơn rửa ráy mọi thứ dơ bẩn. 8- Viễn hành ức niệm ân: Ơn con đi xa thì cha mẹ nhớ tưởng. 9- Vị tạo ác nghiệp ân: Ơn vì con mà cha mẹ nhiều khi làm điều chẳng lành. 10-Cứu cánh lân mẫn ân: Ơn cha mẹ thương con không có cái thương nào bằng. Bởi công ơn của cha mẹ lớn lao như thế, nên cổ nhân từng bảo:“Lên non mới biết non cao, Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”. Và trong kinh “Tâm Địa Quán”, Phật dạy:“ Ân từ phụ cao như núi chúa; Ân bi mẫu sâu tợ đại dương”. Đức Thầy hiện nay cũng khuyên: “Ở ăn cho vẹn mười ơn, Cảnh tình hiền đức gặp cơn khải hoàn”. (Để Chơn Đất Bắc) ĐẠO LÀM CON: Bổn phận làm con phải vẹn tròn hiếu thảo với cha mẹ. Bởi hạnh hiếu là đứng đầu các hạnh. Cổ nhân từng nói: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Sách “Liên Tông Bửu Giám” cũng bảo:“Hiếu dưỡng bách hạnh vi tiên; Hiếu tâm tức thị Phật tâm; Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Dục đắc Đạo đồng chư Phật, tiên tu hiếu dưỡng nhị thân”.(Điều hiếu dưỡng là đứng đầu trăm hạnh, tâm hiếu thảo tức là tâm Phật; hạnh hiếu đâu chẳng là hạnh của chư Phật. Vậy muốn đắc Đạo cũng như chư Phật, trước hết khá nên hiếu dưỡng song thân). Kinh Đạt Ma cũng có thi rằng: “Làm con khá trả đặng ơn sâu, Muôn việc trần gian hiếu đứng đầu. Chín tháng cưu mang nhiều khó nhọc, Ba năm nhũ bộ cũng hèn lâu. Tu hành trước hết tròn Nhân Đạo, Ra thế mới mong tránh bể dâu, Ba vạn sáu ngàn là dễ mấy, Ngày qua tháng lại bóng thiều thâu”. Tóm lại, Đạo làm con là hiếu hạnh mà hiếu hạnh tức là Phật hạnh, và nó đứng đầu các hạnh. Đức Thầy cũng bảo:“Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên”(Hiếu Nghĩa Vi Tiên). PHỤ BẠC: Bội bạc ân nghĩa. Không nhớ đến công ơn của cha mẹ, nỡ lòng cư xử bất hiếu. Đức Thầy thường thống trách hạng người phụ bạc (trong GMTK, Q.4): “Ham công danh quên chữ sanh thành, Mến phú quí quên câu dưỡng dục”. CHÁNH VĂN 353. Nếu làm đám được về Cực-Lạc, Thì giàu-sang được trọn hai bề. Ỷ tước-quyền làm ác ê-hề, 356. Khi bỏ xác nhiều tiền lo-lót. Kinh với sám tụng nghe thảnh-thót, Lũ nhưn-bông tập luyện đã rành. Đẩu với đờn, kèn, trống, nhịp sanh, 360. Làm ăn-rập đặng đòi cao giá. Tâm trần-tục còn phân nhơn ngã, Thì làm sao thoát khỏi luân-hồi. Những giấy-tiền vàng-bạc cũng thôi, 364. Chớ có đốt tốn tiền vô lý. Xưa Thần-Tú bày điều tà-mị, Mà dắt-dìu bá-tánh đời Đường. Thấy chúng-sanh lầm lạc đáng thương, 368. Cõi Âm-Phủ đâu ăn của hối. LƯỢC GIẢI (từ câu 353 tới câu 368) : -Giả sử có kẻ mướn người cầu siêu mà linh hồn kẻ chết được về Cực Lạc thì tu quá dễ dàng vậy sao? Và kẻ quyền thế bình nhựt cứ tha hồ lường gạt dân chúng, rồi đến khi chết con cháu tung tiền ra mướn các thầy nhưn bông làm hiếu sự cho mình, thế thì họ “bắt cá hai tay”đều được cả sao ? Như vậy, còn gì là chơn lý ? Người xưa từng bảo:“ Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, bất tu bất đắc”. Và người tu có “xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo” mới mong thành quả và cứu thoát Cửu huyền (Nhứt nhơn thành Đạo, Cửu huyền thăng). -Còn các món: đẩu đờn, kèn trống, chuông mõ, tụng tán v.v…do mấy thầy nhưn bông bày ra để đi làm đám, lòng còn đầy tham, sân, si, nhân, ngã, cộng với sự lừa người, dối Phật, họ đã tự trói mình vào luân hồi sanh tử, mong gì cầu siêu cho ai được. -Lại còn những giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, vốn xuất phát từ đời Đường bên Trung Hoa. Đương thời phái Thần Tú chẳng những không cấm lại còn mặc nhận cho các môn đồ chứa chấp và hiệp nhau lừa bịp bá tánh, rồi lưu truyền mãi đến ngày nay. -Đức Giáo Chủ nhìn thấy chúng dân bị lầm lạc mê tín, Ngài động lòng từ bi giác tỉnh mọi người, nên nhận rõ: Ở thế gian còn phải tôn trọng lẽ công bằng thì chốn âm phủ có lý nào còn dùng hối lộ hay sao? Thế nên trong Tám Điều Răn Cấm, Đức Thầy có dạy:“ Điều thứ sáu: Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn tật”. CHÚ THÍCH : NHƯN BÔNG: Là những người dọn sắc diện như nhà tu, nhưng chỉ chuyên đi làm đám, cầu siêu và tụng kinh mướn cho người ta, làm hoen ố Đạo Phật. TÂM TRẦN TỤC: Nghĩa cũng như tâm trần cấu. Tức là tâm nhiễm ô trần trược. Vì các phiền não mê tình đã kết cấu từ vô thỉ, khiến tâm càng ngày càng thêm ô trược . Đây chỉ cho tâm của mỗi chúng sanh. PHÂN NHƠN NGÃ: Tức là tâm phân biệt nhân ngã. Có nghĩa lòng phân biệt người – ta, và của người – của ta trong chỗ hơn thua cao thấp, xấu tốt. Sự phân biệt ấy như sau: Nhơn: Vọng tâm phân biệt người với ta khác nhau, muốn người lúc nào cũng phải theo cái ta muốn và phải lệ thuộc, phải kém thiếu hơn ta mọi việc. Ngã: Phân biệt rằng ta quí trọng hơn người, đáng sống hơn người và mỗi việc cao sang sung sướng chi đều phải chiếm trên, hưởng trước hơn người. Của Người: Phân biệt thấy người có món chi tốt đẹp quí báu, đều muốn lấy về làm của mình, dù người không bằng lòng hay không hợp lý. Trái lại, của ấy xấu kém hơn của mình thì tìm đủ cách chê bai hất hủi. Của Ta: Phân biệt cái gì của ta đều là quí, là phải hơn của người gấp bội và lo bảo thủ không để hở. Rủi cái của ta mất đi thì sầu não, tìm kiếm và nghi ngờ đủ thứ. Nhiều khi vì chuyện nhỏ của ta mà nỡ hại sanh mạng hay tài sản của người. Tóm lại, vì cái vọng tâm phân biệt nhơn ngã, khiến con người tham đắm danh, lợi, tình…để bồi bổ cho giả thân mà phải luân hồi mãi mãi. Đức Thầy từng khuyên (trong GM TK, Q.4): “Chữ nhân ngã cũng là quá gắt, Ta chớ nên phân biệt với người”. LUÂN HỒI: (Xem lại chú thích tại tr. 36 Tập 1/3 ) NHỮNG GIẤY TIỀN VÀNG BẠC CŨNG THÔI, CHỚ CÓ ĐỐT TỐN TIỀN VÔ LÝ: Từ lâu dân ta có tục lệ dùng giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo và xá phướn lầu kho để đốt cho người chết mang theo hoặc gởi xuống âm phủ. Mê tín rằng làm như vậy là người chết xài được, chớ họ có biết đâu những sự vật ấy là do Vương Dư và Vương Luân đời Đường (Trung Hoa) chế ra để phỉnh gạt người đời mà trục lợi. Sách “Trực Ngôn Cảnh Giáo” có chép: Vương Luân là miêu duệ (con cháu đời sau) của Vương Dư, lập mưu với người bạn để tiêu thụ số giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo do y làm ra còn ứ đọng quá nhiều. Người bạn của Luân giả đau rồi chết, thân nhân liệm xác vào quan tài đem chôn. Luân bèn đem giấy tiền, vàng bạc đến đốt để cầu xin chuộc mạng. Người bạn của Luân từ từ sống lại. Mọi người tưởng thật đều tin theo và càng đốt giấy tiền vàng bạc nhiều hơn trước, khiến Vương Luân trở nên giàu to. Sự mê tín nhảm nhí ấy từ nước Tàu truyền lần sang nước ta. Bấy giờ nhà nhà đều quen lệ nầy nên Đức Thầy cảnh tỉnh: “Vàng bạc bởi tay khách trú làm, Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham. Giấy quần giấy áo không nên đốt, Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm”. (Hai Mươi Chín Tháng Chạp) THẦN TÚ: (Xem lại chú thích nơi câu 296 trên). TÀ MỊ: (Xem chú thích chữ ma-mị nơi câu 249 trên). ĐỜI ĐƯỜNG: Tức nhà Đường (618-906) bên Tàu. Vị vua sáng lập nhà Đường là Lý Uyên, kế truyền được 20 đời và trị vì được 289 năm. CÕI ÂM PHỦ: Cũng gọi là cõi âm cung hay âm ty, nơi Diêm Vương ngự để thưởng công phạt tội những linh hồn người chết. Cõi âm phủ đối với cõi dương gian:“Dương gian âm phủ đôi đàng cách xa”.(Cổ thi). CỦA HỐI: Của hối lộ. Tức là của lo lót, đút nhét, dâng của một cách kín đáo cho kẻ có quyền thế, để nhờ cậy che chở hoặc ban ân huệ. Ví dụ: Quan ăn hối lộ. CHÁNH VĂN 369. Đúc Phật lớn chùa cao bối-rối, Mà làm cho Phật-Giáo suy đồi. Tu Vô-Vi chớ cúng chè xôi, Phật chẳng muốn chúng-sanh lo lót. Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt, Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài. Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai, 376. Cúng với lạy khó trừ cho đặng. Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng, Không cầu siêu Phật bỏ hay sao ? Lập trai đàn chạy-chọt lao xao, 380. Bôi lem mặt làm tuồng hát Phật. Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất, Vậy hãy mau bỏ bớt dị-đoan. Rán giữ-gìn luân-lý tam cang, 384. Tròn đức-hạnh mới là báu-quí. LƯỢC GIẢI (từ câu 369 tới câu 384) : -Bởi nhận thấy có số người tu Phật, mãi đua theo hình tướng, tạo chùa, đúc tượng, cúng kiếng chè xôi…khiến cho người đời chán chê xa lánh và Đạo Phật do đó càng lúc càng suy yếu. Đức Thầy kêu gọi họ hãy tu theo Chánh pháp vô vi mới đúng chân lý. Vì rằng Phật chẳng hề dùng các món: chè xôi, bánh trái, hoặc tiền của. Chỉ vì chúng tăng làm sai chơn lý mới bày ra cúng kiếng nầy nọ để thọ hưởng vật thực đó mà thôi. -Ở đời có lắm kẻ gian tham, bỏn sẻn, ỷ mình giàu có, chẳng thương xót một ai, cứ đem tiền của vật thực đến chùa mướn người cầu siêu, lễ bái. Họ tin lầm rằng làm như vậy sẽ trừ hết tôi lỗi, khỏi cần phải tu. Họ có ngờ đâu: “Phật chẳng qua dụng chữ tín thành, Chớ nào dụng hương, đăng, trà, quả”. (Giác GMTK, Q.4) Do đó, Đức Thầy hằng cảnh tỉnh:“…Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng:“Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi Ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng:“Các người nên hiểu biết phận sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt hành theo giáo lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng dẫn và ủng hộ vậy”(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ – tr. 457 SGTVTB 2004). -Xét như trên, chư Phật lúc nào cũng tiếp độ những người tu hành chân chất, dù kẻ đó là bần hàn hạ tiện. Còn những cuộc trai đàn hát Phật, là trò mị dối, mê tín dị đoan, làm sai lạc chân truyền của Đạo Phật quá nhiều. Cho nên Đức Thầy kêu gọi các môn đồ trong Phật giáo từ đây hãy chấm dứt tệ đoan ấy để làm cho tròn bổn phận thực tại:“Rán tu Nhân Đạo cho tròn mới hay”(Sấm Giảng, Q.1). Ấy là bổn phận từ trong gia đình (giữa cha con, chồng vợ, huynh đệ) đến ngoài xã hội, đâu đó đều đối xử được vẹn toàn tốt đẹp. Đồng thời lo trau giồi hạnh nết, phát triển lòng nhơn và gội rửa tâm trí cho được sạch trong để tiến lên đường giải thoát, chính đó mới là điều cao quí. CHÚ THÍCH : SUY ĐỒI: Đồi bại, đổ nát. Ví dụ: Phong hoá suy đồi hay Phật giáo suy đồi. Đức Thầy có câu: “Lòng quảng ái xót thương nhân chủng, Buổi lố lăng Phật giáo suy đồi”. (Khuyến Thiện, Q.5) VÔ VI: (Xem lại chú thích nơi câu 290 trên). TRAI ĐÀN: (Xem lại chú thích nơi câu 326 trên) LÀM TUỒNG HÁT PHẬT: Lối hát y như hát bộ (bội), cũng mang râu đội mão, vẽ mặt.v.v…Những tuồng tích theo sử liệu Phật giáo, do tăng chúng và các ông nhưn bông đóng trò. Trong những cuộc làm chay ở các chùa, thường bày hát như vậy, nên gọi là Hát Phật. DỊ ĐOAN: (Xem lại chú thích nơi câu 78 trên). LUÂN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.270 Tập 1/3). TAM CANG: Cũng gọi là tam cương, tức là ba giềng mối quan trọng của Đạo làm người: 1-Quân thần cang; 2-Phụ tử cang; 3-Phu thê cang. Việc ăn ở, đối xử đâu phải ra đấy, như: vua tôi đối nhau phải có lòng trung chánh, cha con đối nhau phải có hiếu từ và chồng vợ đối nhau phải ân nghĩa song toàn. Đức Thầy có câu: “Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng, Tam cang trung trực người rằng ngu si”. (Để Chơn Đất Bắc) ĐỨC HẠNH: Đức là tâm lành; hạnh là nết tốt. Người vẹn tròn đức hạnh là bên trong đầy lòng nhân ái, khoan hòa; bên ngoài mọi cử chỉ nói làm đều biểu hiện hạnh nết tốt lành với mọi người từ trong gia đình đến ngoài xã hội. “Những người tích đức tu nhân, Ít khi gặp phải tai ương khổ nàn”. (Ca dao) Đức Thầy cũng khuyên: “Chốn Phật đường rán trau đức hạnh, Phải bền lòng mới rảnh trần ai” (Sa Đéc) CHÁNH VĂN 385. Nay gần đến long phi xà vĩ, Cảnh gian-nan bá-tánh hầu kề. Thấy chúng sanh còn hỡi say mê, 388 Khùng chỉ rõ đường tà nẻo chánh. Ta là kẻ vô hình hữu ảnh, Ẩn xác phàm gìn đạoThích-Ca. Làm gian ác là quỉ là ma, 392. Làm chơn chánh là Tiên là Phật. Hiếm những kẻ không nhà không đất, Mà sang giàu chẳng xót thương giùm. Có lỡ-lầm chưởi mắng um-sùm, 396. Thêm đánh đập khác nào con vật. Ăn không hết lo dành lo cất, Đem bạc trăm cúng Phật làm chi ? Phật Tây-Phương vốn tánh từ-bi, 400. Đâu túng thiếu mà quơ mà tởi. LƯỢC GIẢI (từ câu 383 tới câu 400) : -Đoạn nầy Đức Thầy tiên tri, nay sắp đến hai năm thìn, tỵ, cảnh gian lao chiến nạn sẽ đến với chúng sanh không còn xa lắm. Điều nầy Ông Sư Vãi Bán Khoai đã nói:“Rồng bay xao xuyến nào yên, Rắn bò giáp giới đảo điên dương trần”. Ông Ba Thới cũng bảo:“Rắn lộn rồng nhơn dân sanh giặc”. Và trong Quyển Nhứt, Đức Thầy còn cho biết: “Mèo kêu bá tánh lao xao, Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê”. Điều nầy đã ứng nghiệm vào hai năm (1940-1941), giai đoạn đầu của cuộc Đệ nhị thế chiến. -Đức Giáo Chủ nhìn thấy chúng sanh mãi đắm mê trong cảnh đời ảo mộng, đầy gian lao tội lỗi, nên Ngài phân tách rõ hai nẻo chánh tà cho bá tánh nhận thức. Công cuộc chuyển kiếp độ đời Ngài không hề phô trương hình tướng Phật Tiên, mà chơn linh Ngài chỉ ẩn nương vào xác phàm, để hoằng truyền Phật Pháp. Vậy ai muốn biết đâu tà đâu chánh, chẳng phải xem hình thức mà phải căn cứ vào hành động, hễ ai hành động chơn chánh thiện lương là Tiên Phật, còn tạo việc gian ác tức quỉ ma. -Ngài hằng kêu gọi kẻ giàu sang nên bỏ tánh kiêu căng ỷ thị, nhiếc xài đánh đập tôi tớ mà hãy mở lòng thương xót, bố thí cho kẻ khốn cùng đó là điều chánh lý, đáng làm. Bằng ai mãi tham lam ky cỏm, rồi mang tiền của đến chùa cúng Phật, thật chẳng có ích chi. Bởi lẽ chư Phật lúc nào cũng đầy lòng từ ái, hằng rộng độ khắp vạn dân, đâu có túng thiếu, cũng chẳng hề xài tiền bạc của thế gian mà chúng Tăng lại tởi khuyên như thế. CHÚ THÍCH : LONG PHI XÀVĨ: Rồng bay đuôi rắn. Ý chỉ năm thìn đã qua và đến cuối năm tỵ. SAY MÊ: Cũng gọi là mê sa, tức say đắm mê nhiễm một cách mù quáng, không thức tỉnh rời rứt ra. Đức Thầy nói (trong GMTK, Q.4): “Thương lê dân còn mảng say mê, Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng”. VÔ HÌNH HỮU ẢNH: Không có hình tướng, nhưng có bóng (Chơn linh hay Pháp thân). Ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:“Phật Trời hữu ảnh vô hình, Thánh Thần cũng vậy mới là oai linh”. Đức Thầy cũng cho biết: “Tuy là hữu ảnh vô hình, Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai”. (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi) ẨN XÁC PHÀM: Dấu kín Chơn linh trong xác thể phàm tục. Ý nói Đức Thầy chuyển kiếp độ đời, cũng mang xác thể như bao nhiêu người phàm tục khác, nhưng tâm hồn siêu việt hơn người thường. THÍCH CA: Phạn ngữ là Sakya. Họ của Phật. Tàu dịch là Năng nhơn, nghĩa là người có năng lực từ bi rộng lớn. Kinh “Di Đà Sớ Sao” nói:“Năng giả thiện quyền phương tiện khúc trực cơ nghi, Nhơn giả trí đức hồng ân phổ triêm vạn loại. Thị đại từ lợi vật dã”. (Chữ Năng là hay dùng pháp phương tiện quyền xảo tùy theo cho thích hợp các căn cơ để hóa độ; chữ Nhơn là lấy trí đức ân từ rộng lớn bủa khắp muôn loài. Thật là đại từ đại bi, tế nhơn, lợi vật của Phật vậy). TỪ BI: (Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 1/3) QUƠ TỞI: Quơ là lấy, vơ vét, quơ quào. Tởi là tải, quyên góp. Ví dụ: Tởi tiền cất chùa, đúc tượng…Đức Thầy từng nói: “Bị Tăng chúng quá ham chùa ngói, Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng. Phật nào ham tượng cốt phết vàng, Mà Tăng tạo hao tiền bá tánh”. (GMTK, Q.4) CHÁNH VĂN 401. Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi, Hãy giúp cho kẻ đói mới nhằm. Đến loạn-ly khổ hạnh khỏi lâm, 404. Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự. Chẳng làm phước để làm hung dữ, Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ. Phật Tây-Phương có lẽ hiểu dư, 408. Dụng tâm ý chớ không dụng vật. Muốn bổn-đạo tánh tình chơn-chất, Rèn lòng hiền thương xót lẫn nhau. Kể từ rày vàng lộn với thau, 412. Phật, Tiên, Thánh cùng nhau xuống thế. Cứu bá-tánh không cần lễ mễ, Để dắt-dìu đạo lý rành đường. Nước Nam-Việt nhằm cõi Trung-Ương, 416. Sau sẽ có Phật Tiên tại thế. LƯỢC GIẢI (từ câu 401 tới câu 416) : -Đoạn nầy Đức Thầy kêu gọi bá tánh, muốn tạo phước nhân, hãy trợ giúp cho kẻ nghèo đói mới đúng lý, đã thoát qua các tai nạn khổ ách, lại còn được phước đức nhiều hơn người sắm chuông đúc tượng. -Ngài hằng thống trách hạng người chẳng chịu tu thân hành thiện, mãi làm điều hung ác rồi mang tiền, vật đến chùa cúng bái, cho rằng làm như vậy sẽ trừ được tội lỗi. Nào ngờ mỗi hành động, hoặc tâm niệm nhỏ nhặt nào của chúng sanh, chư Phật đều thông suốt cả và các Ngài luôn tiếp độ những ai trở về với Đạo bằng tấm lòng thành thật. Còn những kẻ tuy đem lễ vật đến chùa cúng Phật rất nhiều, song chỉ để cầu phước và chẳng thật ý tu hành, thì các Ngài không hề chấp nhận. -Đức Thầy hằng mong mọi người đều rèn luyện tâm tánh cho được chơn thật hiền lương, để biết:“…thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo-đức..”.(Tám Điều Răn Cấm/Điều thứ tám – tr.214 SGTVTB 2004).Trong thế gian hiện giờ, kẻ chân giả, xấu tốt, còn đang lẫn lộn. Chư vị Phật Tiên, lâm phàm độ chúng, chẳng vì lợi lộc, mà chỉ vì muốn vạch rõ con đường đạo lý, để bá tánh nương theo đó mà tu hành thoát khổ. -Bởi cơ luân chuyển Việt Nam sẽ nhằm trung tâm điểm của quả địa cầu:“Cõi trung ương luân chuyển phương Nam, Mở hội thánh chọn người trung hiếu”(Diệu Pháp Quang Minh) nên sau nầy và nơi đây sẽ có: “Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc”? (Không Buồn Ngủ) và: “Long Hoa Tiên Phật đáo Ta bà, Lừa lọc con lành diệt quỉ ma”. (Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ Ở Bạc Liêu) CHÚ THÍCH : LOẠN LY: Rối loạn và tản mác, lộn xộn. Ví dụ: gặp lúc loạn ly, phân vân khổ sở. Đức Thầy bảo:“ Đời cùng ly loạn khắp chư bang”(Lộ Chút Cơ Huyền). KHỎI LÂM: Khỏi là thoát qua được. Lâm là gặp phải, vướng nhằm. Khỏi lâm là khỏi vướng phải. Trong Sấm Giảng Q.1, Đức Thầy có câu: “Đến sau khổ hạnh khỏi lâm, Nhờ công tu niệm âm thầm quá hay”. DỤNG TÂM Ý CHỚ KHÔNG DỤNG VẬT: Câu nầy ý dạy, ai thành tâm thật ý cải hối tội lỗi thì Phật trời sẽ ứng chứng cho, chớ không phải dùng lễ vật cúng tế cho nhiều mà được. Đức Thầy hằng khuyên: “Tới với Ta chớ đem đồ cúng, Chỉ đem theo hai chữ thành lòng”(GMTK,Q.4). CHƠN CHẤT: Thật thà chất phác. Đức Thầy (trong Tám Điều Răn Cấm/Điều thứ nhì) có dạy:“..phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất”. VÀNG LỘN VỚI THAU: Ý nói chân giả, tốt xấu còn lộn xộn chưa phân biệt. Đây chỉ cho hiện thời: Tiên, Phàm, Ma, Phật đang ở chung lộn trong cõi thế gian, rồi đây sẽ có ngày: “Nấu lọc rành mới biết vàng thau, Ai thật tánh ai người giả đạo” (Sa Đéc) LỄ MỄ: Lễ lộc. Vật thực để cúng tế (Soạn giả) – Nhiều: đầy lễ mễ thức ăn; một cách khó nhọc: mang lễ mễ (Hiệu đính). ĐẠO LÝ: (Xem lại chú thích tại tr. 129-131 Tập 1/3) NAM VIỆT: (Xem lại chú thích nơi câu 3 trên). TRUNG ƯƠNG: Ở giữa, chỗ chính giữa. Đức Thầy từng nói trong bài Trao Lời Cùng Ông Táo: “Ngày vâng chỉ đáo lai trần thế, Cõi Trung ương nhằm nước Việt Nam”. CHÁNH VĂN 417. Khuyên sư vãi bớt dùng của thế, Gắng công tu đặng có xem đời. Tu thật tâm thì được thảnh-thơi, 420. Tu giả-dối thì lao thì lý, Khùng khuyên hết kẻ ngu người trí, Rán tĩnh tâm suy nghĩ Đạo-mầu. Chuyện huyền-cơ bí-hiểm cao sâu, 424. Hãy nghiệm xét hai đường tà chánh. Các chư Phật không khi nào rảnh, Tâm từ-bi vẫn nhớ chúng-sanh. Các chư Thần tuần vãng năm canh, 428. Về Thượng-Giái tâu qua Thượng-Đế. Sổ tội ác thì vô số kể, Còn làm nhơn thì quá ít-oi. Hội công-đồng xem xét hẳn-hòi, 432. Sai chư tướng xuống răn trần-thế. LƯỢC GIẢI (từ câu 417 tới câu 432) : -Đức Giáo Chủ hằng khuyên các sư vãi bớt hưởng dụng tiền vật của thập phương và cố gắng trau sửa thân tâm cho được toàn thiện, hầu sau nầy đặng xem cảnh đời biến đổi. Nếu ai thành lòng tu niệm sẽ được giải thoát an vui, bằng tu dối thế, phải gánh chịu vô vàn lao khổ. -Ngài kêu gọi khắp mọi người hãy mau thức tỉnh, dốc hết tâm trí suy nghiệm lẽ diệu mầu trong Đạo pháp, để xác định được hai đường tà chánh, thì sự tu mới khỏi bị lầm lạc. -Lòng từ bi của chư Phật lúc nào cũng thương xót chúng sanh, hằng tùy phương cứu độ. Các bậc Thần Thánh ngày đêm luôn tuần du xem xét điều tội phước của nhân gian để tấu trình về Thượng Đế. Xét ra thấy điều tội ác của chúng sanh quá nhiều, còn việc nhơn hiền quá ít, nên các Ngài hội công đồng phân xử, quyết định cho chư tướng xuống trần, răn phạt kẻ hung ác. CHÚ THÍCH : GẮNG CÔNG: Cố công, đem hết tâm lực làm một việc gì. Ví dụ: Gắng công học tập, gắng công hành Đạo. Đức Thầy bảo trong Giác Mê Tâm Kệ, Q.4: “Gắng công tu xem nhiều phép lạ”. Và trong Khuyến Thiện, Q.5: “Gắng công trì niệm sớm khuya”. TU THẬT TÂM: Thật lòng tu sửa, không dối trá. THẢNH THƠI: Rảnh rang, thung dung, không bị ràng buộc lo nghĩ. Ví dụ: Cảnh sống thảnh thơi, và: “Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi, Nằm trâu thổi sáo vui đời Thuấn Nghiêu”(Ca dao). Đức Thầy hằng dạy: “Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh, Đây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh” (Kệ Dân, Q.2) TU GIẢ DỐI: Không thành thật tu hành, giả dạng mang sắc áo nhà tu, nhưng không quyết lòng tu sửa, chỉ ẩn dương nương Phật, lòng luôn mưu tính lợi dụng bá tánh. TỈNH TÂM: (Xem lại chú thích nơi câu 20 trên). ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr. 280 Tập 1/3). HUYỀN CƠ:(Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 1/3 ) BÍ HIỂM: Bí mật sâu kín. NGHIỆM XÉT: Ngẫm nghĩ, suy xét kỹ lưỡng. TỪ BI: (Xem lại chú thích tại tr. 40 Tập 1/3). TUẦN VÃNG: Đi qua lại để xem xét. Ví dụ: Vua phái các khâm sai đi tuần vãng các tỉnh, huyện… NĂM CANH: Theo giờ giấc thời xưa, một đêm có 5 canh, mỗi canh là 2 tiếng đồng hồ: Từ 8 giờ tới 10 giờ là canh một, từ 10 giờ tới 12 giờ là canh hai, từ 12 giờ (giữa đêm) tới 2 giờ sáng là canh ba, từ 2 giờ sáng tới 4 giờ sáng là canh tư, từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng là canh năm.. Ông Ba Thới có câu: “Đêm năm canh thổn thức chẳng an, Ngày sáu khắc sầu riêng đoạn đoạn”. THƯỢNG ĐẾ: Vua cõi Trời. Chỉ cho Ngọc Hoàng Thượng Đế. VÔ SỐ: Nhiều lắm, không thể đếm hết. CÔNG ĐỒNG: Cùng chung nhau, toàn thể. Có tánh cách một hội nghị mở rộng:“Công đồng hoạch định san hà, Nước ai nấy ở nhà nhà tự do”( Đi Khuyến Nông Về). HẲN HÒI: Cũng gọi là hẳn hoi. Có nghĩa tiêm tất đường hoàng, có quy định chắc chắn. Ví dụ: Làm việc hẳn hòi. CHÁNH VĂN 433. Đau nhiều chứng dị-kỳ khó kể, Sắp từ nay lao-khổ đến cùng. Kẻ dương gian khó nỗi thung-dung, 436. Người bạo ác không toàn tánh mạng. Đường đạo-lý chớ nên chán-nản, Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm. Phật Tây-Phương thiệt quá xa-xăm, 440. Phải tìm kiếm ở trong não trí. Sau đến việc sơn băng kiệt thủy, Khùng thảm thương bá-tánh quá chừng. Nhìn xem trần nước mắt rưng-rưng, 444. Cảnh áo-não kể sao cho xiết. Ta dạy-dỗ là vì tình thiệt, Cho bá-gia rõ biết người Khùng. Thấy dương-trần làm dữ làm hung, 448. Nên khuyên nhủ cho người lương-thiện. LƯỢC GIẢI (từ câu 433 tới câu 448) : -Đoạn giảng trên ý cho biết, bởi chúng sanh quá gian ác, nên Thượng Đế răn phạt, từ đây dân chúng vướng phải nhiều bịnh tật kỳ lạ, nếu kẻ nào còn tiếp tục gây tạo việc tội ác, tất tự chuốc lấy mọi điều thống khổ và khó bảo tồn thân mạng. -Trên đường tu học Đạo pháp, hành giả không nên nản lòng (bán đồ nhi phế) mà “Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh”(Diệu Pháp Quang Minh). Và ai muốn gặp Phật chẳng cần phải tìm xa xôi bên ngoài, mỗi người nên dùng trí sáng suốt tìm lại Phật tâm của mình. Bởi Đức Phật xưa từng bảo:“Nhơn nhơn hữu tánh Như Lai”, Đức Thầy nay cũng nhắc lại:“Các chúng sanh đều có như Ta”(Khuyến Thiện, Q.5). Vậy, nhà tu vừa nương theo giáo pháp, vừa dùng trí lực của mình phá tan màn vô minh, tức Phật tánh hiện bày, chứng thành Đạo quả. -Đức Thầy cũng cho biết đến lúc biến đổi cuộc đời, sẽ có cảnh hãi hùng thảm khốc đưa đến cho nhân loại. Vì lòng quá thương xót sanh linh cứ lăn sả vào con đường tội ác, nên Ngài mới truyền dạy lời chân thật cho bá tánh rõ, hầu sớm cải dữ về lành. CHÚ THÍCH : DỊ KỲ: Lạ lùng, khác thường. THUNG DUNG: Thảnh thơi, thong thả. CHÁN NẢN: Ngã lòng thối chí, không thiết đến nữa. Ví dụ: Trên đường tu học vẫn tiến hành, không hề chán nản, quyết định sẽ thành công. Đức Thầy hằng khuyên:“Chớ nản chí đường tu bỏ líp”.(Cho Ông Tham Tá Ngà). TẦM PHẬT TRONG TÂM: (Xem chú thích “Phật nọ tức tâm” tại tr. 159 Tập 1/3 và nơi câu 283 trên ). XA XĂM: Rất xa, xa lắm, cũng có nghĩa như chữ xa khơi. Ví dụ: Ngàn dặm xa xăm. NÃO TRÍ: Trí óc sáng suốt. Đức Thầy từng dạy: “Nghe sơ lời Lão cạn bày, Tìm trong não óc gặp ngày bình an” (Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi). SƠN BĂNG THỦY KIỆT: Cũng gọi là thủy kiệt sơn băng. Có nghĩa núi bị vỡ (lở), nước bị hết (khô cạn). Điềm báo tin quốc gia sắp bị tai nạn tức nước mất nhà tan, dân chúng gặp hồi đói đau khổ sở. Truyện Đông Châu Liệt Quốc có chép: Một hôm Vua nhà Châu (U Vương) đang thiết triều tại Kỳ Sơn có quan Thủ Thần vào tâu: – Chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lượt. U Vương mỉm cười nói: -Núi lở, đất động là lẽ thường, nhà ngươi tâu với Trẫm làm gì ? Quan Thái sử Bá Dương trở ra cầm tay quan Đại phu Triệu Thúc Đái than rằng: -Thuở trước sông Ỷ, sông Lạc cạn, nhà Hạ mất; sông Hà cạn nhà Thương hư. Nay cùng một lúc ba con sông đều động cả, ấy là Trời muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh sự tai biến. Sau vài hôm có tin núi Kỳ Sơn lở, đè chết dân chúng rất nhiều. Quan Thái Sử đoán rằng: -Nếu vua biết răn mình thì chừng 10 năm nữa loạn mới đến, bằng không thì mau hơn. Chữ “Sơn băng thủy kiệt” ở đây là chỉ cho cảnh: “Nay tận diệt lập đời trở lại, Khắp lê thứ biến vi thương hải, Dùng phép mầu lập lại Thượng ngươn”. (Kệ Dân, Q.2) ÁO NÃO: Sầu thảm, buồn bực. Đức Thầy có câu:“Áo não thương đời đa đói khổ, U buồn trăm họ vẽ vài câu”(Khuyên Người Giàu Lòng Phước Thiện). LƯƠNG THIỆN: Người hiền lành tốt đẹp, không vô tình hay cố ý gây thiệt hại cho một chúng sanh nào khác. Đức Thầy từng nói trong bài “Không Buồn Ngủ”: “Phật từ bi đặng chữ thanh cao, Người lương thiện hưởng muôn điều hạnh phúc”. CHÁNH VĂN 449. Chữ Lục-Tự trì tâm bất viễn, Thì lâm nguy có kẻ cứu mình. Ai lòng nhơn hoặc chép hay in, 452. Mà truyền-bá đặng nhiều phước-đức. Trong bá-tánh từ nay buồn bực, Khùng yêu dân chỉ rõ Đạo mầu. Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu, 456. Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp. Việc biến chuyển Thiên-Cơ rất gấp, Khuyên chúng-sanh hãy rán tu hành. Cầu linh-hồn cho được vãng-sanh, 460. Đây chỉ rõ đường đi nước bước. Hãy tưởng Phật đừng làm bạo ngược, Ta phần hồn dạo khắp thế-gian. Vào xác-trần nước mắt chứa-chan, 464. Khắp lê-thứ nghe lời thì ít . LƯỢC GIẢI (từ câu 449 tới câu 464) : -Đoạn nầy Đức Giáo Chủ khuyên: nếu ai chuyên tâm trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, không để phút nào gián đoạn, thì lúc gặp tai nạn nguy hiểm sẽ được Phật Trời gia hộ, hoặc có người cứu thoát. Cách đây (1975) khoảng 40 năm, báo chí có đăng câu chuyện ba anh Sĩ quan nọ, cùng đi trên chiếc phi cơ, rủi bị hư máy rớt xuống biển. Có điều lạ là phi cơ bị hư nhưng không chìm liền và ba anh chẳng bị thương tích gì cả. Phi cơ khác tới cứu, vớt ba anh lên, tức thời chiếc phi cơ hư chìm lút xuống nước. Sau hỏi ra được biết ba người ấy đã tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và lúc nguy ngập đó chỉ còn biết niệm Phật chờ chết, không ngờ được thoát nạn. Trường hợp nầy, suốt thời gian binh lửa tại đất nước Việt Nam, có rất nhiều người niệm Phật được hưởng ân huệ của Phật Thần. Nghĩa là nhờ sự chí tâm niệm Phật mà các người ấy đã bao lần thoát chết trước làn gió đạn mưa bom. Ông Sư Vãi Bán Khoai từng bảo: “Niệm Phật có Phật vãng lai, Lâm cơn nạn tám Phật sai cứu mình”. -Đức Thầy hiện nay cũng từng nhắc nhở: “Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt, Thì nạn tai cũng thoát như không” (Sa Đéc) Ngài cũng hằng kêu gọi người nào có lòng nhơn, nên in hoặc chép lời kệ giảng để truyền bá sâu rộng trong quần chúng, sau nầy sẽ được nhiều phước lợi: “Ai làm phước in ra mà thí, Thì được nhiều hạnh phúc sau nầy” (GMTK, Q.4) Vì cơ trời chuyển xoay quá gấp nên Đức Thầy giục thúc bá gia hãy mau tu tiến trên đường Đạo do Ngài đã chỉ vạch sẵn và rán hành trì Pháp Môn Niệm Phật để lúc lâm chung được vãng sanh về Cực Lạc. -Đồng thời mỗi người hãy tự diệt bỏ những hành động ngang tàng hung ác, giữ tư tưởng, ngôn ngữ cho thuần chánh và luôn luôn tưởng Phật nhớ Phật. Tuy hiện giờ Đức Thầy nơi xa nhưng lúc nào Ngài cũng dùng hóa thân dạo khắp trần gian để rộng độ chúng sanh:“Tuy là hữu ảnh vô hình, Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai”.(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi). Ngài nhìn thấy số người nghe Kệ Giảng quá ít, phần đông là mắt lấp tai ngơ, nên lòng Ngài ngập tràn nỗi buồn thương, chứa chan dòng lệ. CHÚ THÍCH : CHỮ LỤC TỰ: Sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. TRÌ TÂM: Giữ gìn lòng mình cho thuần nhứt một niệm Phật, không hề để một vọng tưởng nào khác xen tạp. BẤT VIỄN: Chẳng lìa xa. Ý nói tâm không để tiếng niệm Phật vắng lâu mà phải niệm nối liền như dây xích, khoen nầy mắc liền khoen khác. LÂM NGUY: Gặp lúc nguy hiểm nghèo ngặt. LÒNG NHƠN: (Xem chú thích chữ “nhơn ái” tại câu 281 trên). TRUYỀN BÁ: Gieo rải khắp nơi. Ý nói đem giáo lý pháp mầu phổ biến rộng ra. Thuở xưa Đức Phật từng bảo: “Các con muốn đền ơn Ta ư ? Thì Giáo pháp của Ta đó ! Hãy gắng mà học đi, hãy cố mà hành đi, và hãy quyết mà truyền đi. Mọi sự cúng dường tán Phật, không bằng đem giáo pháp của Ta mà quảng bá”. Nay Đức Thầy cũng thường khuyến tấn: “Nên cố gắng trau thân gìn đạo, Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành”. (Khuyến Thiện, Q.5) PHƯỚC ĐỨC: Cũng gọi là phúc đức. Làm những việc có ích lợi cho mọi người gọi là phước, lòng nhơn ái từ thiện đối với vạn loại chúng sanh gọi là đức. Người có phước đức luôn có lòng Từ, Bi, Hỉ, Xả và tận tâm giúp đỡ muôn loài những điều phúc lợi. Đức Thầy có câu:“Phước đức quí hơn bạc vàng”(K/Thiện, Q.5) Và:“”Ai nhiều phước đức được vào cõi Tiên”(Sám Giảng, Q.3). ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr. 280 Tập 1/3). TƯỞNG NIỆM: Tưởng nhớ. Tưởng Phật, nhớ Phật. Đây ý bảo phải luôn tưởng nhớ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. CANH THÂU: (Xem lại chú thích tại tr.189 Tập 1/3) LINH HỒN: (Xem lại chú thích tại tr.59 Tập 1/3) VÃNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.209 Tập 1/3) BẠO NGƯỢC: Tàn bạo ngang ngược. CHỨA CHAN: Cũng đọc là chan chứa. Có nghĩa dẫy đầy linh láng. Bài “Mượn Cây Đuốc Huệ” có câu: “Nghĩ cuộc đời mà chan chứa nỗi hao mòn, Xem cảnh thế luống xót xa niềm chích mát”. CHÁNH VĂN
465. Chốn sơn-lãnh bây giờ mù-mịt, Cho nên dân dạy chẳng nghe lời. Kể từ nay nói chuyện chiều mơi, 468. Chớ chẳng nói dông dài khó hiểu. Cờ đã thất còn chờ nước chiếu, Mà còn ăn con chốt làm chi. Ai là người quân-tử tu mi ? 472. Phải sớm xử thân mình cho vẹn. Chừng lập Hội khỏi thùa khỏi thẹn, Với Phật-Tiên cũng chẳng xa chi. Lời cao-siêu khuyên hãy gắn ghi, 476. Ta ra sức dắt-dìu bá-tánh. NAM-MÔ TAM-GIÁO QUI NGUƠN, PHỔ-ĐỘ CHÚNG-SANH A-DI-ĐÀ PHẬTLƯỢC GIẢI (từ câu 465 tới câu 476) : -Bởi nhìn lên các đỉnh núi miền Thất Sơn, vẫn còn mờ mịt những cây lẫn đá, chưa thấy gì gọi là quí báu, nên dân chúng chẳng chịu nghe lời giáo khuyên. Đức Giáo Chủ cho biết, từ đây Ngài sẽ nói những chuyện gần bên, trước mắt cho chúng sanh dễ hiểu, chớ không nói dài dòng hay ẩn dấu điều chi. -Cuộc cờ của đất nước sắp tới hồi chiếu bí mà trong bá tánh mãi còn đắm say quyền tước vị danh, để rồi mai đây phải ôm sầu nuốt hận. Cho nên Đức Thầy từng kêu gọi (trong bài Thiên Lý Ca): “Cả kêu kìa hỡi là ai, Quan trường rời rứt mặt mày chùi lau. Lui chơn ra khỏi cho mau, Tầm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan”. -Vậy ai là người nam nhi quân tử hãy sớm tu thân lập đức, ngôn hạnh song toàn, hiếu trung gồm đủ và diệt trừ các nghiệp nhân tội ác. Có thế, mới không tủi hổ trong ngày Long Hoa đại hội và được kiến diện Phật Tiên, chung hưởng cảnh đời Thượng ngươn Thánh đức. -Trước khi dừng bút, Đức Thầy nhủ khuyên mỗi người hãy ghi nhớ những lời cao sâu, mầu nhiệm trong đây hầu sớm hôm trau giồi đạo hạnh. Riêng Ngài lúc nào cũng dốc hết tâm lực để “Dìu nhơn sanh khỏi chốn mê lầm, Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới”(Tặng Bác Sĩ Cao Triều Lợi). -Chót hết Ngài dạy: Khi xem hết quyển Kệ Dân nầy, mỗi người đều tâm nguyện với Đức Phật A Di Đà cùng chư Phật, Thánh, Tiên đồng từ bi tế độ khắp chúng sanh, sớm thoát mê về giác. CHÚ THÍCH : SƠN LÃNH: Cũng viết là sơn lĩnh. Có nghĩa: chót núi hay đỉnh núi. Ý chỉ cảnh rừng núi miền Thất Sơn. CỜ ĐÃ THẤT CÒN CHỜ NƯỚC CHIẾU, MÀ CÒN ĂN CON CHỐT LÀM CHI ?: Trong bàn cờ tướng, một bên đã thất, chỉ còn nước chiếu nữa là biết ăn thua, thế mà người trong cuộc lại lo ăn con chốt làm chi, cho luống công vô ích; bởi nó không phải là con cờ quan trọng. Ý nói cuộc thế sắp đến hồi biến hoại, cơ tạo hóa sẽ chọn lọc hiền còn, dữ mất, tại sao bá tánh chẳng sớm lo trau thân lập hạnh, lại mãi chạy theo danh lợi ảo huyền. Vì những quyền lợi cao sang ấy không thể cứu sống được mình; trái lại, nó thường kéo mình vào khổ nạn đau thương ! -Đây còn có nghĩa chỉ người Pháp sắp bị mất quyền ở đất nước Việt Nam mà kẻ gian nịnh còn bám theo chúng để mưu cầu quyền lợi nhỏ nhen, nhơ xấu, nên Đức Thầy giác tỉnh họ (trong SấmGiảng Q.1): “Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi !” QUÂN TỬ: Người có phẩm hạnh cao khiết, lòng nhân ái rộng lớn và chí đức, tài năng siêu xuất hơn kẻ thường. Thánh nhân từng bảo:“Quân tử ái nhân dĩ đức” (Người Quân tử lấy Đạo đức mà thương người). Đức Thầy từng nói: “Chí Quân tử lòng nhơn vạn đại, Dốc làm sao rõ mặt tang bồng”. (Diệu Pháp Quang Minh) Vậy ai muốn trở thành bậc “Nam nhi Quân tử”, phải tự lo tu sửa tánh tình, ngôn hạnh, đến xử sự đều đứng đắn tốt đẹp. Cho nên người quân tử lúc nào cũng chỉ cầu ở nơi mình:“Quân tử cầu chư kỷ”. Thuở xưa Ngụy Văn Hầu hỏi Hồ Quyển Tử rằng: -Cha hiền có đủ nhờ cậy chăng ? Hồ Quyển thưa: -Không đủ ? – Con hiền có đủ nhờ cậy không ? – Không đủ. – Anh hiền có đủ nhờ cậy không ? – Không đủ. – Em hiền có đủ nhờ cậy không ? – Không đủ. – Bầy tôi hiền có đủ nhờ cậy không ? – Không đủ. Văn Hầu đổi sắc mặt, gắt: Quả nhân hỏi nhà ngươi năm điều, mà điều nào ngươi cũng cho là không đủ, tại cớ làm sao ? Hồ Quyển thưa: – Cha hiền không ai hơn Vua Nghiêu mà con là Đan Chu phải bị đuổi. Con hiền không ai hơn Vua Thuấn mà cha là Cổ Tẩu thật ngoan ngạnh, độc ác. Anh hiền không ai hơn Vua Thuấn mà em là Tượng rất ngạo mạn. Em hiền không ai hơn Chu Công mà Quản Thúc bị giết. Bầy tôi hiền không ai hơn ông Thang, ông Vũ mà Vua Kiệt vua Trụ mất nước…Mong nhờ người không như ý, cậy người không được bền lâu. Nhà vua muốn cho nước được bền trị thì phải cậy ở mình trước, hơn là mong nhờ người khác.(Dẫn theo Cổ học Tinh hoa). Chuyện trên đây là mặt xử sự trong đời, muốn được thành công còn phải do nơi sức mình là trước nhất. Đến như người muốn tiến xa trên đường đạo hạnh thì trước phải cần tu thân xử kỷ, sau mới được sự tiếp độ của Phật Tiên. TU MI: (Xem lại chú thích nơi câu 111 trên). VỚI PHẬT TIÊN CŨNG CHẲNG XA CHI: Bởi tâm tánh của Phật Tiên và chúng sanh đồng một bản thể (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh). Tất cả đều có từ vô thỉ, song vì các Ngài sớm giác ngộ và tiến hóa, nên trở thành Tiên Phật. Còn chúng ta mãi đắm mê trần tục, tạo nhiều nghiệp nhân, tội lỗi, nên bị luân hồi sanh tử, từ vô lượng kiếp, nay vẫn còn làm chúng sanh. Nếu giờ đây ta biết giác ngộ tu hành, diệt sạch lòng phàm phu vọng tưởng, tức được trở thành Tiên Phật như các Ngài:“Phật Tiên Thánh muôn loài vạn vật, Cũng ở trong quả đất dựng gầy”(Thu Đã Cuối) Xưa, Đức Lục Tổ đã bảo:“Chư Thiện tri thức, phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ đề. Niệm trước mê muội tức là phàm phu, niệm sau giác ngộ tức là Phật. Niệm trước dính cảnh tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh tức là Bồ đề”. CAO SIÊU: Quá cao, vượt trên mức thường. Ví dụ: Ý nghĩa cao siêu. Đức Thầy từng nói: “Chuyện cao siêu Phật pháp còn dài, Khó gặp chữ không không mà có”.(Sa Đéc) GẮN GHI: (Xem lại chú thích tại tr. 174 Tập 1/3) NAM MÔ: (Xem lại chú thích tại tr. 81 Tập 1/3) TAM GIÁO: Ba Tôn Giáo lớn:Thích (Phật), Khổng ( Thánh), Lão (Tiên). Đức Thầy có câu: “Trong Tam giáo ân cần mở Đạo, Trường ngoại bang phục đáo như xưa” (Thiên Lý Ca) QUI NGUƠN: Cũng gọi là qui nguyên. Có nghĩa hiệp về một gốc. Đức Thầy bảo trong bài “Đến Làng Nhơn Nghĩa”:“Dưới trên hòa thuận chọn đường quy nguyên”. PHỔ ĐỘ: Cứu độ khắp cả, tế độ các giới chúng sanh thoát khỏi cảnh mê đồ thống khổ. Đức Thầy từng cho biết: “Oai thần đem Đạo huyền thâm, Nhiệm mầu phổ độ âm thầm ai hay”
|
THAY LỜI TỰA
(Tái Bản tại Hoa Kỳ Lần 1, Năm 2010)
Sấm Giảng Thi Văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ là bộ pháp bảo, hàm chứa giáo thuyết căn bản, giúp người tín đồ PGHH hiểu biết tông chỉ và phương thức hành đạo.
Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo khẳng định Ngài không lập một tôn giáo mới lạ. Ngài chỉ là vị thánh tăng vưng lịnh Đức Thế Tôn hạ giới xuống trần hưng truyền chánh pháp. Cho nên Ngài đã “nối theo chí Thích Ca ngày trước” và “rút trong các Luật các Kinh” để thành lập một giáo thuyết khế cơ, giản dị, dễ học, dễ tu cho căn cơ thấp kém của phần lớn chúng sanh trong thời Mạt pháp.
Tuy nhiên, dù cố giản dị đến đâu, một bộ Sấm Kinh chỉ vỏn vẹn khoảng 500 trang mà tóm lược cả “rừng kinh kệ” của chư Phật Thánh thì nội dung tất phải hàm súc cô đọng. Hơn nữa, về hình thức, lời lẽ có bình dị cũng không tránh khỏi việc cần sử dụng điển tích, điển văn, Hán ngữ, dụng ngữ Phật pháp, phương ngữ, …để diễn đạt tư tưởng. Đó là các lý do khiến người tu học đôi khi không dễ hiểu nếu thiếu phương tiện sưu tầm tra cứu.
Cố soạn giả Thiện Tâm là một tín đồ PGHH, một tu sĩ cả đời xả thân tu học, một giảng viên trong Ban Hoằng Pháp chùa Tây An Cổ Tự và Ban Phổ Thông Giáo Lý Giáo Hội Trung Ương Phật Giáo Hòa Hảo trước năm 1975. Ông nhận thức sự cần thiết của một bộ Chú Giải Sấm Giảng Thi Văn để giúp chư tín hữu khắc phục các trở ngại nói trên nên đã tự nguyện đứng ra làm công tác khó khăn nầy.
Văn-Tư-Tu là phương châm của người tu học Phật pháp: đọc nghe, suy nghiệm rõ ràng rồi hạ công tu tập thì mới thành tựu được Đạo Giải Thoát.
Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhắc nhở:
“Coi rồi phải nhận cho rõ lý.”
Và: “Nghe cạn lời chớ có mờ hồ,
Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo.”
Cố Soạn Giả tự nhận việc làm để thể hiện mục tiêu trên không thể hoàn hảo ngay từ bước đầu. Công tác sưu khảo biên sọan nầy cần có nhiều người góp sức, cần có sự tiếp tục và tiếp tục chỉnh đốn bổ sung mãi mãi,…
Tái bản và phát không bộ sách nầy, chúng tôi muốn nối vòng tay thể hiện hoài bão của cố Soạn Giả hầu giúp lợi ích trên đường tu học cho chư đồng đạo và tín hữu Phật giáo gần xa trong tinh thần khiêm tốn đó.
Chúng tôi chân thành cảm tạ quý bạn đạo, hữu danh cũng như ẩn danh, đã và sẽ yểm trợ tích cực về tịnh tài cũng như công sức để thực hiện hoàn thành Phật sự nầy.
Hoa Kỳ, Mùa Xuân Năm Canh Dần, 2010, P.L. 2554
BAN HIỆU ĐÍNH
Gửi ý kiến của bạn