Điển Tích Triết Văn

20 Tháng Bảy 20206:56 CH(Xem: 9859)
Điển Tích Triết Văn
2020-08-DIEN TICH TRIET VAN

Lời Giới Thiệu

Quý độc giả thân mến !

Nhân được xem tập “Điển Tích TRIẾT VĂN chọn lọc” của soạn giả sưu tập. Với những mẩu truyện trong đây, chắc chắn phải dày công truy cứu lắm, soạn giả mới đúc kết được theo từng lý nghĩa : khế hợp với lời của Đức Giáo Chủ trong Sấm Thi, qua những cao từ ẩn ngữ, mang tính chất giáo độ, tu chỉnh thân tâm cho nhân loại.

Phần văn chương, cách dùng điển ngữ của Đức Thầy thật là độc đáo, như “BÌNH NGÔ'', “SÁT ĐÁT”; đầy bản sắc dân tộc, như “NỢ NƯỚC VĂN CHƯƠNG”; thiết tha với cuộc sống yêu quê hương đất tổ, như “TIẾNG QUYÊN” ; kiên trì nhẫn nại nuôi ý chí trong gian khổ, như : “NẰM GAI NẾM MẬT”, v.v...

Về triết lý thì... quá đa diện, bởi sự tương hệ giữa ngoại sinh và thuộc tính luôn luôn gắn bó, lại lưu xuất vô cùng... Thế ! Soạn giả cũng kết hợp được nhiều luận chứng thật kỳ tài, qua truyện : “RỨT BỎ”, “NHƯ TA” : tâm lý cuồng động, mà số phận sẵn chờ, chuyện” CÒ BAY THẲNG KIẾNG” : và hiểu dụng lạ lùng của chân tánh đầy nhuệ tính và văn ngữ chẳng thế phô bày, truyện : “CÁI KHÔNG MỚI CÓ”, v.v... Mặc dù trước đây rất muốn tìm, chúng tôi cũng không làm sao hiểu hết được.

May thay ! Tập truyện được chuyền tay, mọi người đều vui mừng, ngỏ ý cùng soạn giả xin cho thành sách, hầu tiện dịp cho những ai cần tìm hiểu thêm về cách dùng điển ngữ của Đức Tôn Sư.

Lời yêu cầu của đa số bạn hữu, được soạn giả gật đầu tương ứng; một sự thỏa hợp thật miễn cưỡng, bởi việc chưa được coi là tác luyện đối với soạn giả. Nhưng theo chúng tôi, cho dù trên nguyên tố nào chăng nữa, chỉ nhằm khởi điểm giúp cho tâm thức con người có một hướng tới thật quang đãng. Điều này cũng do tiềm năng, tư chất của mỗi cá nhân, mà sự nội tỉnh có dịp trở giấc hoặc nhiều hoặc ít.

Vả lại, khu vườn đầy hoa, tức nhiên sẽ tỏa ra một sức quyến rũ kỳ đặc qua sự cảm nhận bằng tất cả giác quan;  chừng như ta không muốn quày trở lại với quãng thời gian đã đi qua. Sự liên giao đầy năng lực này, đôi khi khai quật được tiềm năng siêu đạt của con người.

Cho nên đối với Kinh Văn, Pháp Ngữ của bậc siêu phàm, chúng ta rất cần tiếp cận, nghiên cứu, để thấy rõ về bản chất bất toàn nơi ta và có ngày nào cái bất toàn sẽ thuần hóa được.

Do đó, khi đọc đến tập “Điển Tích TRIẾT VĂN chọn lọc” là niềm vui thật lớn với chúng tôi, và hơn thế nữa, hôm nay tập sách được hình thành. Vậy, xin trân trọng gởi đến các bạn niềm vui bất tận ấy ! ! !

                                               Bên dòng phù sa

                             Viết trong ngày Phật Đản năm 1974

                                           HUỲNH MẪN THẾ

 

 LỜI ĐẦU SÁCH

Bước vào vườn hoa, ai cũng thấy có rất nhiều loại, hoa nào cũng đẹp, cũng khoe sắc, ngát hương. Tuy tất cả đồng là hoa, song khi tầm nhìn đến đâu, các bạn sẽ thấy mỗi thứ hoa đều có nét đẹp riêng và tính chất, hương nhụy chẳng giống nhau.

Trong kho tàng văn chương Kinh sách xưa nay cũng thế, đã hàm chứa biết bao ý vị; mỗi mỗi đều có những ngụ ý đặc biệt.

Nếu có dịp đọc qua bộ Sấm Thi của Đức Giáo Chủ P.G.H.H, các bạn sẽ thấy trong đó rất nhiều Từ Ngữ, Thành Ngữ Điển Tích đủ loại: nào Lịch Sử, Văn Chương, nào Triết Lý, Ngụ ngôn, ẩn dụ v.v... chuyện nào cũng có mang tính chất đặc thù, nhưng tất cả đều nhằm vào mục đích khai trí và cải thiện nhân sinh.

Vì muốn tìm hiểu tu học, nên trước đây tôi có dịp đọc qua một ít Kinh điển truyện sách, thấy nhiều điểm hay hay theo suy nghĩ của mình, nên ghi lại. Nay có nhiều bạn yêu cầu chúng tôi, cần cho thành sách để cùng nghiên cứu, và cũng là phương tiện cho các bạn nào muốn sưu tầm hầu bớt được thời gian phải đọc nhiều Kinh điển khác.

Sách được mang tên “Điển Tích TRIẾT VĂN chọn lọc”. Trong đây, chúng tôi tạm chia làm hai phần. Điển văn tập I và Điển Triết tập II. Tuy nhiên, các chuyện kể dù Chính sử hay Giả sử, dù thực tế hay huyền thoại... chỉ mong sao, khi đọc đến chúng ta kinh nghiệm và tâm đắc một vài bài học trong lành nơi ấy.

 

Việc làm này cũng chưa hoàn hảo và như ý, rất mong sự đóng góp của các bạn vào những chỗ còn sơ khuyết.

                             Mùa Hoa Đạo niên Giáp Dần (1974)

                                                      Soạn Giả

 

 Tập I 

ĐIỂN VĂN

 1 – BỐ KÌNH

“Kẻ thời phụ nghĩa BỐ KÌNH,

Người trung hiếu chẳng gìn vẹn hai.”

(Sấm giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm)

Bố kình, cũng đọc bố kinh. Bố là vải, Kinh là gai, do câu “Bố quần kinh thoa” (mặc quần áo bằng bô vải, cài trâm bằng gai). Do điển tích vợ chồng ông Lương Hồng, sống thời Ngụy Võ Đế (Trung Hoa).

Tuy nhà nghèo nhưng sức học ông uyên thâm và rất trọng điều khí tiết. Lương Hồng cưới vợ là nàng Mạnh Quang, con nhà giàu có. Lúc mới về nhà chồng, nàng ăn mặc lộng lẫy, trang sức theo con nhà đài các. Ông lẳng lặng bảy ngày không nhìn đến vợ. Mạnh Quang nhận biết ý chồng, liền tự thay đổi bỏ hàng lụa, mặc y phục vải, cài trâm gai. Ông mừng rỡ liền kêu vợ nói :

– Đây mới chính thật là vợ của Lương Hồng.

Sau, ông bà chẳng màng công danh phú quý, lui về sống nghề cày ruộng, dệt vải. Tuy được chồng trọn yêu, nhưng lúc nào Mạnh Quang cũng hết lòng cung kính. Mỗi bữa ăn hay có vật gì đưa cho chồng, bà để vào cái mâm đưa lên ngang mày để tỏ lòng kính trọng (Mạnh Quang cử án tề mi).

Cho nên chữ bố kình có ý nói người vợ hiền từ, chính đính biết xử sự kính thuận với chồng. Truyện Kiều có câu :

     “Đã cho vào bực bố kình,

Đạo tùng phu lấy chữ trinh làm đầu”.

Đức Thầy dùng câu “phụ nghĩa bố kình” ở đây chỉ cho người người đời nay, giữa chồng vợ cư xử với nhau ít người được nghĩa ân chung thủy, thường phụ rãy với  nhau. Nên ngài từng khuyên :

     “Tu là sửa trọn ân tình,

Tào Khang chồng vợ bố kình đừng phai.”

 

2 – NẮC NIA

    “Đừng ham làm chức nức nia,

Ngày sau như khóa không chìa dân ôi !”

(Sấm giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm)

 Thành ngữ nắc nia là phiên âm của Miên Ngữ (Neak Nghia), có nghĩa là tôi mọi. Pháp Ngữ (Esclave), Anh Ngữ (Slave). ([1])

Thành ngữ này xuất phát từ đời vua Ream Mea Chơn Pray. Xứ Cam bốt, do sự tích sau đây :

Đời vua Ream Meam Chơn Pray có một thanh niên tên Tum, có tài văn nghệ, hát hò rất hay, được vua vời vào cung và phong chức Mơn EK. Trước khi vào cung chàng đã yêu một cô gái tên Teav thuộc vào hàng quốc sắc, con của bà góa chồng giàu có. Cô Teav cũng đáp lại một mối tình chân thành, hai người rất buồn sau khi bị chia ly.

Hai tháng sau Teav bị mẹ bắt buộc gả cho tên Nguôn, con của Ông Chuôn, là tỉnh trưởng Tôbôn Kho Mum. Cô từ chối hẳn, kế đó Teav được vua chọn làm cung nữ, nàng rất buồn và lo lắng vô cùng ! ! ! Vào cung, nàng gặp lại Tum. Trông thấy Teav, Tum thất vọng và liều chết trước mặt vua, chàng hát kể lại mối tình của mình đối với Teav. Vua nổi giận bắt hai người hỏi nguyên do. Cả hai đều trình bày sự thật mọi việc...  Vua nghe qua rất cảm động, nên cho Tum lấy Teav làm vợ, hai người hưởng hạnh phúc vui vẻ trong cung.

Mẹ Teav được tin cô là vợ của Tum, một người chức vụ thấp hơn Nguôn, giận lắm bà liền gởi cho Teav một lá thư, nói bà đau nặng, Teav cần về gấp để gặp bà. Teav về đến nhà biết bị mắc mưu của mẹ, nàng lén viết thư cho Tum hay mọi việc. Tum tâu với vua, vua liền cho Tum một thư lịnh cấm Nguôn không cho làm lễ cưới. Tum về đến nhà Nguôn thấy lễ cưới bắt đầu, Tum chưa kịp đưa thư lịnh ra hai người gặp nhau ôm khóc, Nguôn bèn cho người bắt Tum đem giết ở Pô Chơn Khal, Teav lén trốn theo đến bên xác chồng tự sát.

Vua được tin ấy nổi giận, liền cho quân lính đến bắt mẹ Teav, Ô Chuôn và Nguôn đem tử hình, còn những người đồng lõa chủ trương làm lễ cưới, đều bắt phạt làm Neak Nghia (tôi mọi) suốt đời.

Xuyên qua mẩu truyện của thành ngữ “nắc nia”, nhận thấy Đức Thầy dùng điển tích nầy trong hai câu giảng trên, là ám chỉ cho các quan chức thời Pháp thuộc, ham làm tay sai cho ngoại bang; ắt sau nầy phải đền tội trước quốc dân; như ngài đã từng bảo :

     “Chúng ham làm chức Nắc Nia,

Ngày sau như thể vô đìa quên nôm.”

 

3 – TÀO KHANG

    “Tu là sửa trọn ân tình,

TÀO KHANG chồng vợ Bố Kình đừng phai.
(Sấm Giảng Quyển III)

Từ Tào Khang, cũng đọc là Tao Khang. Tào là tấm (bả rượu) Khang là cám, gạo. Ý nói người vợ cưới từ lúc còn nghèo khổ; phát xuất từ điển tích Tống Hoằng đời Hán Quang Võ (Trung Hoa) :

Nguyên vua Hán Quang Võ có người chị là Hồ Dương Công Chúa, sớm góa chồng. Vua có ý định muốn gả cho quan Thượng thư Tống Hoằng, nhưng Tống Hoằng đã có vợ. Vua cho vời Tống Hoằng đến vấn thử :

– Ta nghe thiên hạ thường nói : Giàu đổi bạn, sang đổi vợ; có chăng? (ngạn ngữ : Phú dịch giao, quới dịch thê, hữu chư ?).

Tống Hoằng quì tâu :

– Thần nghe : người bạn lúc hàn vi không nên phụ; người vợ cưới hồi nghèo nàn không nên bỏ (Thần Văn : Bần tiện chi giao mạc khả vong, Tào khang chi thê bất khả hạ đàng).

Vua Quang Võ nghe qua biết Tống Hoằng không tham giàu phụ khó, nên không ép nữa.

Đọc qua điển tích Tống Hoằng do thành ngữ

Tào Khang. Nhận thấy Đức Thầy có dụng ý khuyên người đời : khi vợ chồng đã ăn ở với nhau từ thuở hàn vi, thì việc cư xử phải tình nghĩa mặn nồng, cho đến khi già chết, mới trọn đạo phu thê, như Ngài thường dạy :

“Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác”

Và :”Chồng hòa vợ thuận cháu con thảo hiền”

 

4 – NGŨ VIÊN KỲ

    “Đời xưa có NGŨ VIÊN KỲ,

Đem tài học thuốc hiến thì cho dân.”
(Sám Giảng Quyển III)

Thành ngữ Ngũ Viên Kỳ là danh từ ghép (kép) để chỉ cho Tam Thánh Tổ Sư, tức là ba vị tổ của ngành Đông y vào thời Ngũ Đế (Trung Hoa).

Trong “Nội Kinh Huỳnh Đế” có chép : Đời thượng cổ (Ngũ Đế) có ba ông : Ngũ Tử, Hiên Viên và Kỳ Bá. Hiên Viên là vua Huỳnh Đế, còn Ngũ Tử và Kỳ Bá là hai đại quan cận thần của vua. Ba ông đều đem hết trí năng của mình, kê cứu nguyên nhân các thứ bệnh của thân tâm con người và thí nghiệm những loại thảo mộc tìm ra phương thức, dược phẩm để trị bịnh cứu dân. Lòng các Ngài chẳng hề mong cầu lợi lộc hay danh vị tước quyền.

Điển Tích trên đây ngụ ý chỉ cho sự giúp đỡ bất vụ lợi của các bậc đầy lòng vị tha bác ái và cũng khuyên mọi người noi gương hy sinh từ thiện ấy. Đức Thầy còn dạy :

     “Người xưa còn chẳng cần thân,

Miễn cho trong nước chúng dân được nhờ.”

 

5 – TÊN DÃ TRÀNG

“Giống xe cát biển Đông thường thấy

TÊN DÃ TRÀNG rất uổng công trình,

Khi nước ròng nhờ lúc bình minh,

Lúc nước lớn cát kia tan rã.”
(Giác Mê Tâm Kệ – Q. IV)

Tên Dã Tràng, cũng gọi Công Dã Tràng, tức là một loại còng nhỏ, trên lưng lõm xuống, thường ở theo bờ biển. Nước ròng chúng dùng càng vít cát lên lưng, rồi chở xuống mé nước đổ, để lấp biển, nhưng đến khi nước lớn bị sóng đánh vào, cát bị tan rã.

     “Dã tràng xe cát biển Đông,

 Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì” (CD).

Thành ngữ này dùng chỉ việc làm nào dày công cực nhọc mà không đem lại kết quả gì. Ở đây chỉ những người, suốt đời chỉ biết đeo đắm danh lợi ảo huyền, nhưng khi gặp tai nạn đưa đến thì tất cả đều buông trôi :  “Từ rày trần hạ lợi danh trôi”. Và ngày rốt cuộc:

“Nhắm mắt cũng nắm hai tay”.

Đây là câu chuyện phát xuất thành ngữ Dã Tràng :

– Ngày xưa, tại tỉnh Sơn Tây (Trung Hoa), có anh thợ săn tên Dã Tràng, chuyên sống nghề săn bắn. Hôm nọ Dã Tràng đi ngang qua một hang đá, bỗng gặp đôi vợ chồng nhà rắn. Anh chẳng hề đá động đến, nhưng từ độ ấy anh luôn theo dõi cặp rắn, thấy chúng thường sống bên nhau, chừng như hạnh phúc lắm !

Một hôm, rắn cái tới kỳ lột vỏ, rắn đực đi kiếm mồi về nuôi nấng, chăm sóc. Chẳng bao lâu, tới kỳ lột vỏ của rắn đực, rắn cái chẳng những không làm bổn phận, lại còn đi tư tình với con rắn đực khác, và dắt tình nhân về miệng hang toan hại chồng. Thấy thế, Dã Tràng động lòng nghĩa hiệp, quyết giết con rắn lang chạ ấy,  liền rút tên, bắn rắn cái chết tốt, tình nhân của nó kinh sợ chạy mất.

Mấy hôm sau, rắn đực cứng mạnh bò ra miệng hang, gặp vợ bị tên nằm chết, xem lại mũi tên có đề danh Dã Tràng, bèn tìm tới nhà báo thù. Rắn lẻn vô nằm núp dưới giường, bỗng nghe Dã Tràng thuật lại câu chuyện xảy ra của cặp rắn cho vợ nghe. Bấy giờ rắn đực mới vỡ lẽ, vợ mình chết là đáng tội. Còn anh thợ săn nầy là ân nhân của ta, nó liền bò ra gật đầu trước mặt Dã Tràng mấy cái và nhả ra một hột ngọc sáng, rồi bò đi mất.

Từ ngày Dã Tràng được rắn tặng cho viên ngọc, mỗi khi anh để ngọc vào miệng ngậm lại, nghe được tiếng của các loài thú. Hôm nọ, Dã Tràng nghe đàn quạ nói với nhau : “Phía đông, cách đây một dặm đường, có con nai bị thương gần chết”. Dã Tràng đến đó gặp đúng như vậy, anh xẻ nai lấy thịt. Đàn quạ bay theo kịp, kêu nói : “Lấy thịt nai cho chúng tôi bộ đồ lòng, vì công ấy của chúng tôi”. Dã Tràng làm y theo lời quạ. Lần sau cũng thế, nhưng quạ chưa đến kịp, bị chó sói cướp mất bộ đồ lòng. Quạ bay theo trách mắng : “Dã Tràng là kẻ bội ngôn...”

Dã Tràng biện minh thế nào, chúng cũng không thôi. Thấy quạ hỗn xược, mắng nhiếc đủ điều, Dã Tràng tức giận rút tên bắn quạ. Quạ né khỏi và cắn mũi tên bay đi, nói : “Ta sẽ báo thù”, đoạn rồi quạ đem mũi tên ấy, cấm vào tử thi đang trôi.

Thế là mấy ngày sau Dã Tràng bị lính bắt về tội bắn người chết. Anh bị tống giam chờ ngày kết án. Ngồi trong ngục Dã Tràng nghe bầy chim sẻ nói : “Có nhiều kho lương thực của vua để hở, đã bị loài chim ta ăn no nê”. Anh liền cho viên chủ ngục hay điều đó, lúc đầu họ không tin, nhưng việc xảy ra đúng như vậy. Sau đó Dã Tràng thấy đàn kiến kéo nhau di chuyển và nói :  “Sắp có bão lụt lớn chúng ta phải lánh nạn”. Anh liền báo tin nữa, lần nầy quan sở tại cấp báo về triều đình để ra lệnh ngừa lụt. Quả nhiên mấy hôm sau lụt lội tơi bời, nhưng nhờ ngừa trước nên không bị thiệt hại cho lắm.

Qua cơn lụt, Vua ra lệnh tha cho Dã Tràng và mời anh về trào hỏi nguyên do? Dã Tràng tâu rõ tự sự...  Vua phong tước cho anh và ở lại hoàng cung. Từ đó Vua thường mượn viên ngọc của Dã Tràng ngậm vào miệng để được nghe tiếng của các loài chim nơi vườn Ngự uyển.

Ngày kia Vua tổ chức du ngoạn vùng biển, cũng để được nghe các động vật dưới nước nói chuyện; ngồi trên mạn thuyền Vua nghe các bầy cá tâm sự đủ điều, lòng thỏa thích vô hạn nên cười lên ha hả; bỗng viên ngọc rơi tỏm xuống nước. Vua rất hối hận nhưng không kịp, Vua động viên cả thợ lặn, chài lưới tìm lại viên ngọc, song vô hiệu.

Riêng Dã Tràng thì sầu não, biếng ăn, biếng ngủ và sau cùng nảy ra ý “lắp biển tìm châu”nên hằng ngày anh ta ra mé biển xe cát đổ xuống cho đến khi thân cùng lực tận mà vẫn không tìm được ngọc.

Sau khi Dã Tràng chết, người ta thấy trên bãi biển xuất hiện giống cua nhỏ (còng), cứ mỗi khi thủy triều xuống (nước ròng) thì chúng xe cát đổ thành đống sát mé nước, nhưng khi dòng thủy triều ùa lên (nước lớn) thì cát ấy bị tan đi. Cứ thế mà chúng mãi làm không chán. Thấy vậy, người ta bảo nhau rằng : có lẽ Dã Tràng chết đi vì lòng luyến tiếc chưa vẹn nên hóa kiếp làm loại còng ấy, với hoài bão lấp biển để tìm lại viên ngọc quí.                         

Điển nầy xưa nay văn chương thường dùng để chỉ cho sự lấp biển vá trời, là việc sức người không thể làm được, chỉ hoài công vô ích. Còn về Phật học : Dã Tràng ám chỉ cho vạn vật trong thế gian, những gì có hình sắc hay quyền tước, lợi danh, tình ái đều phải đi theo định luật : thành, trụ, hoại, không, nên dù ta có nhọc công gầy tạo và tham luyến cũng chẳng được bền lâu.

6 – BẠN TÁC

“Chữ BẠN TÁC dù cho đến chết,

Cũng keo sơn gắn chặt mới là.”
(Giác mê tâm kệ quyển IV)

Thành Ngữ Bạn Tác, tức Đạo bè bạn, một điều trong “Ngũ luân”. Đây chỉ cho tình bạn hữu đã kết nghĩa thâm giao thì dầu cho đến chết cũng chẳng hề phai lợt.

Xưa nay, sách sử thường lưu lại nhiều gương hạnh, như tại Việt Nam có Lưu Bình, Dương Lễ và trong tác phẩm Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực. Còn sử Trung Hoa có ba anh em Lưu, Quan, Trương “Đào Viên kết nghĩa”, các tình bạn ấy rất quen thuộc với mọi người. Ở đây xin chứng minh thêm câu chuyện :

Vào thời chiến quốc, tại vùng Tây Cương, núi Tích Thạch, thuộc địa phận của vua Võ Ngươn nước Sở. Có anh Tả Bá Đào, gia đình nghèo, cha mẹ mất sớm tánh tình hiền hậu, rất hiếu học; tuổi đã 40 vẫn chưa có công danh sự nghiệp. Một hôm nghe Vua Sở chiêu nạp hiền sĩ, Bá Đào khăn gói định đến yết kiến, nhưng nhằm tiết Đông Thiên, gió mưa lạnh buốt, y phục ướt dầm, trời lại sắp tối. Bá Đào ghé vào túp lều tranh dựa mé rừng, hỏi đụt nhờ. Chủ nhà ra mở cửa mời vào, Bá Đào thấy trong nhà chỉ vỏn vẹn một cái giường, ở trên chất đầy sách vở, Bá Đào vừa muốn thi lễ hỏi thăm thì người ấy nói :

– Khoang đã ...  để tôi nhúm lửa cho ông hơ ấm lại rồi sẽ tiếp chuyện.

Vừa hơ y phục, hai người vừa trò chuyện, Bá Đào hỏi thăm tên họ chủ nhà, và tại sao chỉ có một mình như thế này?

Chủ nhà đáp :

– Tôi tên Dương Giác Ai, cha mẹ mất sớm, chưa có vợ con, bởi lo học hành, bỏ phế ruộng nương nên gia đình phải chịu nghèo túng, sống côi quạnh trong túp lều đây. Nay gặp hiền sĩ ghé vào, thật là vinh hạnh cho tôi nhiều lắm, rồi Giác Ai lo dọn cơm mời khách, thức ăn đơn sơ, nhưng Giác Ai hết sức ân cần tiếp đãi, nên Bá Đào dùng rất ngon lành.

Sau khi kể hết lai lịch cho nhau nghe, hai người rất tâm đầu ý hiệp rồi cùng nhau kết nghĩa đệ huynh : Bá Đào lớn tuổi hơn nên làm anh, Giác Ai làm em, Bá Đào thấy Giác Ai văn võ song toàn nên ngỏ ý : Anh em mình cùng đi đến nước Sở để lập công danh; với tài lực của em chắc vua Sở phải trọng dụng, thế là hai người chuẩn bị ra đi, song chẳng được mấy ngày, còn đang ở giữa rừng bổng bị đợt mưa dầm, người nào cũng chỉ còn một bộ y phục, nhưng đều bị ướt cả, hai người dừng lại cùng nhau cắt lá cây rừng che đỡ, tuyết lại xuống càng nhiều, Bá Đào phát bịnh, lạnh run cả người...

Trời vừa hết mưa, Giác Ai chạy bẻ cây khô đốt lửa hơ cho anh, Bá Đào bàn với Giác Ai :

– Anh thấy con đường đây đến nước Sở, với số gạo tiền của mình hiện có chỉ đủ một người dùng mới đi đến nơi, em còn nhỏ tuổi lại đủ khả năng hơn anh; vậy hãy để anh ở lại đây, mình em ra đi có hy vọng kết quả. Giác Ai không đồng ý, nhưng Bá Đào lại nói : Bây giờ anh quá mỏi, đi không nổi nữa !

Giác Ai cảm động thưa :

– Anh nằm đỡ đây chốc lát, em đi kiếm củi thêm về nấu cơm ăn, khỏe lại chúng ta cùng đi, sống chết vui khổ đều có nhau; nhưng khi Giác Ai đi kiếm củi ôm về thì thấy Bá Đào cởi hết y phục, xếp lên gói hành lý của Giác Ai; để mình trần nằm trên tuyết, chờ chết. Vừa gặp mặt Giác Ai, Bá Đào chỉ nói được ít tiếng từ giã và khuyến tấn em rồi tắt thở. Giác Ai thương khóc thảm thiết, lo chôn thây anh và làm dấu kỹ rồi ra đi.

Khi đến nước Sở nhờ Quan đại phu Bùi Trọng tiến cử, Giác Ai được vua Sở trọng dụng phong chức Trung Đại phu. Giác Ai tâu với vua về tình cảnh anh của mình. Vua Sở liền truy phong cho Tả Bá Đào cũng chức Trung Đại Phu, ban thưởng vàng lụa và cho quan quân theo Giác Ai đến nơi cải táng Bá Đào trọng thể.

Việc vừa xong, một đêm nọ Giác Ai nằm mộng thấy Bá Đào về, anh em gặp nhau mừng rỡ, Bá Đào nói :

– Anh rất cám ơn em chẳng quên tình bằng hữu, mai táng anh tử tế, nhưng em chôn anh gần mộ Kinh Kha, y chết đặng làm thần rất oai dũng, mỗi bữa y thường đến xua đuổi : bảo anh phải dời nơi khác, nếu không y sẽ phá mồ. Vậy em hãy dời mộ anh đi !

Giác Ai tỉnh vậy, sáng ra bèn đòi làng xóm tới hỏi. Họ cho biết, gần đó có mộ Kinh Kha thiệt. Trước kia y thích khách vua Tần không được, bị giết bỏ thây ngoài đồng. Nhờ Cao Tiệm Ly lén đem về chôn tại đây. Từ ấy đến nay rất linh hiển, nên người xứ này lập miễu thờ, bốn mùa cúng tế.

Giác Ai liền dắt tùy tùng đến mộ Kinh Kha, chỉ vào tượng mà mắng :

– “Ngươi là một đứa thất phu, ở nước Yên thọ ơn Thái Tử nuôi dưỡng, chẳng biết kế chi đền ơn mới qua Tần làm thích khách. Chẳng những sự bất thành mà còn làm hư việc nước. Lẽ ra phải ở đây an hưởng cúng tế, cớ sao còn dám mê hoặc nhân dân, lại hiếp anh ta là một danh nho liêm chính? – Nay ta đến đây dặn bảo phải chừa, nếu còn hiếp anh ta, ta sẽ đào mã và phá miễu của ngươi đó !”

Tối lại Giác Ai thấy Bá Đào về nói :

– Em đã lo cho anh, nhưng bộ hạ của Kinh Kha đông quá nó không chịu nhường nhịn, vẫn còn tới hiếp luôn, anh cự không lại. Vậy em nên dời mộ anh đi nơi khác là hơn !

Giác Ai thức dậy, tức thời viết biểu về triều, tâu hết sự tình cho vua hay, rồi đòi hàng xóm tới nói : “Kinh Kha làm bức anh ta, nếu ta phá mồ nó, tất làng xóm không vui. Vậy ta quyết định xuống cửu tuyền giúp anh, đánh lại bọn cường nghịch”, Nói rồi ông rút gươm tự tử.

Đêm ấy lúc canh ba, gió mưa nổi dậy, sấm sét tưng bừng nghe tiếng la hét vang dội. Sáng dậy ai nấy ra coi, thấy mồ Kinh Kha bể nát như trời đánh, xương cốt vang ra tứ tung cây cối tróc gốc ngã lăn như ai đào bới. Miễu bị cháy sạch, như chỗ đất bằng. Từ ấy Kinh Kha không còn linh nữa. Vua Sở hay tin rất thương xót, nên sai quan ra đó, lập miễu thờ hai anh em Tả Bá Đào và Dương Giác Ai.

Nhận thấy tình bạn hữu của hai anh em danh nhân vừa kể, thật hiếm có, về sau được người ca ngợi và lấy đó làm bài học quý giá nên có lời thơ khen tặng;

     “Thương nhau như gã Ai Đào,

Mong chi chia xẻ Đồng Bào nhiều phe.”

Đức Thầy hiện nay cũng từng khuyên dạy :

     “Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã,

     Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan”.

 

7 – KHOE TÀI

    “Đã tu hành đừng có bôn chôn,

Tưởng hay giỏi KHOE khoang TÀI cán.”
(Khuyến Thiện – QV)

Tánh hay khoe khoang tài trí của mình là một tật bịnh không tốt, chẳng những không học thêm đặng điều hay của kẻ khác cũng chẳng được bao người thương mến, còn chuốc lấy tai hại là khác.

1 – Sách xưa có chép: thời chiến quốc (TH), có ông Dương Tử, một hôm đi đến nước Tống, nghỉ đêm trong quán trọ, biết được chủ quán có hai người thiếp : một người có sắc đẹp, một người thì xấu; nhưng có điều lạ, người thiếp xấu ai ai cũng thương quý, còn người thiếp sắc đẹp mọi người đều khinh bỉ, chê trách. Dương tử bèn gọi những người làm công để hỏi lý do?

Họ trả lời : – Vì người thiếp đẹp lúc nào cũng tự cho mình là đẹp, lại hay khoe khoang chưng diện nên chúng tôi không mến được. Còn người thiếp xấu, bà tự biết mình là xấu, xử sự với mọi người thường khiêm nhường, nhã nhặn, nên ai cũng mến yêu gần gũi.

Dương Tử nghe qua liền kêu các đệ tử, dạy rằng : các trò hãy ghi lấy điều này : “người tài giỏi mà không khoe khoang cái tài giỏi của mình thì đi tới đâu, cũng được nhiều người thương mến học hỏi”.

Câu chuyện trên giúp chúng ta thấy rằng : “Cái nết đánh chết cái đẹp” và đây cũng là một bài học cho người sau về mặt xử thế được hài hòa tốt đẹp. Chính đức tính đó sẽ trợ trưởng cho việc tu tịnh khẩu nghiệp mau kết quả.

   

2– Thời Đông Châu (TH). Sau khi vua Việt Câu Tiễn phá thành Cô Tô, Ngô Phù Sai tự sát. Sự việc đã thành công, quân Sư Phạm Lãi bỏ Việt Câu Tiễn, vượt bể sang Tề, đổi tên họ là Chi Di Tử Bì, sau sang ở đất Đào hành nghề thương mãi trở nên giàu có lớn. Người người thường gọi ông là Đào Chu Công.

Bấy giờ người con trai thứ của Chu Công giết người, bị nước Sở bắt cầm tù. Chu Công sai đứa con út đến Sở lo cứu anh nó, nhưng người con cả giành đi, ông không đồng ý, người con cả nói :

– Trong nhà có con cả, gọi là đốc suất, nay em con có tội, cha chẳng sai con đi lại bảo thằng Út, thế coi con chẳng ra gì? Nếu không con sẽ tự sát

Người mẹ cũng nói hộ cho con cả được đi, Chu Công dần dừ, cực chẳng đã mới tiếp nhận.

Ông viết phong thư và lấy một ngàn nén vàng, kêu người con cả ra dặn dò :

– Ngươi đến Kinh thành Sở tìm nhà Trang Sinh dâng thơ và vàng cho Ông, mặc tình ông làm gì thì làm. Phải cẩn thận đấy ! Nhớ đừng có tranh tài, khoe hơn với ông ấy nhé !

Người con cả khi đi cũng tự đem thêm vài trăm nén vàng để tùy cơ lo liệu.

Nhà Trang Sinh ở một bên ngoài thành, giữa đám rau cải. Khi tới cửa xem có vẻ nghèo hèn, song người con cả cũng xin vào dâng thơ và số vàng theo y lời cha dặn...

Trang Sinh xem thơ hiểu ý nói :

– Vậy thôi anh hãy đi ngay ! Đừng nên ở lại đây, sau nầy dầu em anh có ra được, cũng đừng hỏi tại sao?

Người con cả ra rồi, không qua lại nhà Trang Sinh nữa, nhưng anh ngầm ở lại lấy số vàng riêng, lo cho một quý nhân có quyền thế trong nước Sở, để nhờ lo cho em mình khỏi tù.

Trang Sinh tuy nhà ở một xóm hẻo lánh, song được nổi tiếng là người liêm sỉ và thẳng thắn với cả nước. Từ vua Sở đến quan quân đều tôn là bậc thầy. Sáng hôm sau, Trang Sinh thong thả vào yết kiến Vua Sở tâu :

Đêm hôm tôi xem thiên văn thấy ngôi sao Mỗ... đóng nơi mỗ...  đấy là điềm hại cho nước Sở ta !

Vua Sở vốn tin tưởng Trang Sinh nên hỏi :

– Giờ ta phải làm sao?

– Có cách là bệ hạ phải thi ân bố đức, mới có thể trừ được họa hại.

Vua Sở nói :

– Tiên sinh về nghỉ, Quả nhân sẽ làm theo. Vua liền sai quan giữ kho niêm phong ba kho tiền.

Quý Nhân nước Sở đi chầu, nghe được tin ấy vui mừng, về kêu người con cả của Chu Công nói :

– Ngươi đã gặp mai rồi, khỏi lo lắng gì hết, em ngươi cũng được ra.

– Tại sao Ngài biết được như vậy?

– Vì mỗi lần vua muốn đại xá, thường niêm phong các kho tiền. Nay vua đã ra lệnh này, thì chắc trong vài ngày đây sẽ có cuộc đại xá tù nhân, tất em ngươi được về chứ sao !

Nghe nói người con cả Chu Công rất hối tiếc 1 ngàn lượng vàng đã dâng cho Lão Trang Sinh, nên anh trở lại vào ra mắt Trang Sinh. Lão Trang giựt mình hỏi :

– Sao anh chưa về?

Người con cả thưa :

– Thưa nay tôi vẫn chưa về. Trước kia vì việc thằng em, nay em nó may được lịnh đại xá nên tôi lại đây chào cụ để về.

Trang Sinh biết nó muốn lấy số vàng lại nên nói :

– Số vàng của anh tôi còn để y tại chỗ kia, anh hãy vào trong nhà mà lấy. Nghe ông nói người con cả lòng mừng khấn khởi vào trong lấy vàng rồi từ giã ra về.

Trang Sinh tuy có ý trả vàng lại cho Chu Công từ trước, nhưng nay rất xấu hổ vì bị đứa trẻ con đánh lừa, nên tức tốc vào ra mắt Vua Sở nói :

– Hôm qua tôi có báo tin về ngôi sao bất thường đó...  Bệ Hạ có hứa tu đức để bù lại. Nay tôi ra đường nghe đâu đâu cũng bàn rằng : đứa con Chu Công là một nhà giàu có ở Đào, nay bị tội giết người, ở tù tại Sở. Người nhà nó đem vàng bạc đến đút lót cho các quan hầu cận Vua. Vậy chuyện phóng thích này chỉ vì đứa con Chu Công, chớ không phải Vua biết thương dân nước Sở mà ra lịnh đại xá đâu !

Vua Sở nghe nói cả giận, liền làm án xử tử con Chu Công, rồi qua ngày sau mới xuống lịnh đại xá. Rốt cuộc con cả của Chu Công phải đưa đám táng của em nó về nước. Người mẹ và dân làng xót thương than khóc; riêng về Chu Công thì chỉ ngồi mà cười dài.

Vợ ngạc nhiên hỏi :

– Sao con chết mà ông không thương khóc, lại cười?

Chu Công đáp :

– Trước kia tôi biết con cả thế nào cũng làm cho em nó chết, nên không cho nó đi mà nó cũng quyết đòi cho bằng được. Không phải nó không thương em nó đâu. Có điều bà và nó không thể hiểu nổi ! vì từ nhỏ nó đã cùng ta chịu cực khổ vất vả lắm mới làm ra tiền của, giờ bỏ của nó phải tiếc. Còn thằng Út vừa sanh ra là sống trong cảnh giàu sang, cỡi xe bền, rong ngựa tốt, săn bắn vui chơi, phung phí tiền bạc không hề tiếc. Hôm trước ta sở dĩ định sai thằng Út đi, chỉ vì cớ, nó biết coi thường tiền bạc mới lo được việc. Thằng cả thì không biết thế và cũng không nghe lời ta dặn bảo nên nó vô tình làm em nó chết. Lẽ thường là thế, có gì đáng thương xót ! Thêm nữa, ta vì chìu theo ý bà và con, chứ thật ra khi nó ra đi, lòng ta lúc nào cũng chờ nó mang xác em nó về mà thôi !

Xuyên qua hai cốt truyện kể trên giúp ta thấy được tai hại của người hay khoe tài, tranh hơn với thiên hạ. Kẻ có bịnh này thường vướng phải nạn tai và rất trở ngại cho cuộc tiến thân, bất luận dù đời hay Đạo, Đức Thầy từng giác tỉnh :

“Biết Đạo tùy thời mau tránh khổ

Chớ đừng thi thố những tài ba”

... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...

“Tài ba khoe sức uổng thây mà,

Nhựt dạ yêu đời dụng khuyến ca”

Và :

“Bước ra đường ăn nói thiệt thà,

Dầu khôn khóe cũng là giả dại.

Nếu tranh đương ắt ta bị hại,

Thêm sa cơ lại bị xích xiềng”.

 

8 – TỰ ĐẮC

                 “Hơn TỰ ĐẮC khoe khoang dõng sức,

Phải bị người hiềm khích ghét ganh”.
(Khuyến Thiện – Q. V)

Ở đời khi người ta có tài năng, tiền của hoặc địa vị hơn người thì hay sanh ra lòng tự đắc, tự hào rồi đem khoe khoang cho thiên hạ biết. Chính đó là cái bịnh mà người quân tử không nên có; còn nói đến nhà tu lại càng tránh xa hơn nữa. Dưới đây là câu chuyện trong làng văn để chứng minh cho vấn đề :

Lê Quý Đôn được nổi tiếng là nhà bác học thời Lê Mạc, ông sáng tác rất nhiều văn thơ nói về sử địa, văn hóa nước ta. Ông sanh năm 1726, tại xã Duyên Hà, tỉnh Thái Bình (Việt Nam), tự là Doãn, hiệu Quế Đường. Ông là con trưởng của Trung Hiếu Công Lê Phú Thứ, giữ chức Hình Bộ Thượng Thư đời vua Lê Dụ Tôn. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh và có trí nhớ lạ thường.

Năm 18 tuổi ông đã đỗ giải Nguyên, kỳ thi Hương năm 27 tuổi, đời vua Lê Hiển Tôn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14, ông đậu Bảng Nhãn.

Bấy giờ Quý Đôn tự xem mình là bậc xuất chúng bèn viết trên tấm biển trước cửa ngõ một câu : “Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn” (nếu ai không biết một chữ gì cứ đến mà hỏi).

Hôm nọ, phụ thân ông là Quan Hình Bộ Lê Phú Thứ từ trần, cuộc tang ma rất trọng thể. Nơi bàn giữa, Quý Đôn đang tiếp chuyện với các văn Nhu Khoa bảng; bỗng người nhà báo tin, ngoài cửa ngõ có cụ lão xin vào phúng điếu. Quý Đôn vội vàng đứng dậy ra tiếp rước, thấy khách chưa từng quen, nhưng có vẻ nho phong nên mời ngồi vào hàng ghế giữa, gạn hỏi nguyên do?

Cụ lão tự xưng :

– Tôi là bạn cố tri của Quan Hình Bộ, vì lâu tới thăm nên cậu Bảng Nhãn chưa biết mặt. Nay tôi đến không có lễ lộc chi, nhờ cậu lấy giấy viết, biên hộ giùm hai câu văn, để điếu Quan Hình Bộ.

Lê Quý Đôn vốn tánh hay quý trọng văn chương, nên lẹ làng lấy giấy, viết ra cầm sẵn...  cụ lão khởi đọc : “Chi”, rồi ngưng lại, ý chờ Quý Đôn viết, nhưng Quý Đôn chưa biết viết chữ “chi” gì cho đúng ý ông lão, bèn thưa :

– Bạch cụ ! Chi gì cụ?

Cụ Lão nhìn Quý Đôn có vẻ ngạc nhiên nói tiếp :

– “Chi”...   Lúc ấy tất cả quan khách có mặt đều quay về chú ý đến cụ Lão và Quý Đôn. Quý Đôn thì sốt ruột, nhưng vẫn chưa đặt bút xuống được.

Bấy giờ cụ Lão mới chịu đọc nguyên câu :

– “Chi chi tam thập niên dư xích Huyện Hồng Châu Kim thượng tại. – Tại tại sổ thiên lý ngoại đào hoa lưu thủy tử hà chi?”. Có nghĩa : Thấm thoát ba mươi năm, xích Huyện Hồng Châu này còn đó. Ngậm ngùi thay ! Ngoài ba ngàn dặm hoa trôi, nước chảy, Bác về đâu?

Viết xong, các văn nhu ai cũng đều xuýt xoa thán phục ! Đoạn rồi Cụ Lão đến trước linh cữu quan Hình Bộ, vừa lạy vừa khóc kể :

“Hỡi anh ơi ! Là anh ơi ! anh bỏ anh đi đâu? Con anh nó thi đậu Giải Nguyên, Bảng Nhãn, tôi bảo viết chữ “chi” nó không biết viết mà anh bỏ đi đâu vậy? Anh ơi là hỡi anh ơi !”

Cụ lão làm lễ điếu xong đứng dậy từ giã ra đi. Quý Đôn và các nho khách ân cần cầm lại cách gì cũng không được. Liền theo đó, Lê Quý Đôn cho người ra gỡ tấm bảng trước cửa, cũng từ độ ấy ông lo tu rèn đức hạnh...  Về sau ông trở thành bậc Bác học uyên thâm, tài đức song toàn. Ông cũng được nhà vua cử đi xứ Trung Quốc và làm Tổng Tài Quốc Tử Giám, coi việc tục biên Quốc Sử với Nguyễn Hoàng. Chức vụ sau cùng của ông là Công Bộ Thượng Thư.

Lê Quý Đôn mất vào năm Giáp Thìn (1784) thọ được 59 tuổi, lưu lại cho đời hằng mấy mươi tác phẩm đủ loại, bằng Hán văn lẫn Quốc âm.

Câu chuyện trên giúp chúng ta thấy rằng Quý Đôn là bậc văn tài lỗi lạc, nhưng lúc đầu ông cũng còn tánh tự cho mình hay giỏi, nên bị cụ Lão dạy cho bài học quá mắc. Có điều đáng khen là ông không hề phiền hờn và biết lo cải đổi lại ngay.

Hơn nữa, trong đời chẳng mấy ai không sơ suất, lầm lộn, song nếu mình biết cải sửa sẽ sớm hoàn chỉnh. Vả lại, trong người của mỗi chúng ta đều có bản chất quân tử hay tiểu nhân; ngu si hoặc thông minh Bác học. Cũng như đã có sẵn hạt giống Phật Thánh hay ma quỉ. Nếu ta biết cải đổi hay chuyển hóa tất từ xấu xa nhơ nhớp trở thành tốt đẹp cao thanh và từ chúng sanh trở nên Phật Thánh, Đức Thầy đã bảo :

“Ngài bèn xét ở trong Phật chúng,

Các chúng sanh đều có như ta”.

Và :

“Phật, Tiên, Thánh muôn loài vạn vật,

Cũng ở trong quả đất dựng gầy,

Siêu thăng nhẹ tách đường mây,

Trầm luân oan nghiệt càng gây thêm hoài”.

 

9 – NGHĨA NHÂN

“Bạch trinh giữ lấy NGHĨA NHÂN

Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.
(Thu đã cuối)

Từ Nghĩa nhân cũng gọi Nhân nghĩa, Vốn hai đều trong Ngũ thường. Cũng là giềng mối của Đạo làm người, nhà tu nếu thiếu Nhân nghĩa, làm người cũng chưa hẳn được đừng nói chi tới Phật Thánh. Cho nên bậc trượng phu quân tử có chí lớn không bao giờ để mất Nhân nghĩa như chuyện sau đây :

Lưu Huyền Đức sống đời Tam Quốc (TH), thuở mới gầy dựng cơ nghiệp, Huyền Đức gặp nhiều gian nan vất vả, sau khi thoát nạn ở Đàn Khê (do Thái Mạo bày tiệc rượu để mưu sát) ông trở về Tân Dã gặp Đang Phúc ([2]) một hiền sĩ tài ba đến yến kiến nói :

– Nghe Ông có con ngựa hay, giúp ông thoát nạn ở Đàn Khê, vậy cho tôi xem tướng ngựa coi sao? – Lưu Bị liền sai người tháo yên dắt ngựa đến, Đang Phúc nhìn kỹ một hồi, nói – Đây quả thật là giống ngựa Đích Lư, tuy có tài chạy ngàn dặm (Thiên Lý mã), nhưng lại có tướng hại chủ, xin Chúa Công chớ dùng.

Huyền Đức nói :

– Tôi bị khốn nơi Đàn Khê, may nhờ nó nhảy bay đưa tôi qua sông, được sống về đây !

Đang Phúc thưa :

– Nhưng thế nào sau này thế nào nó cũng có một lần hại chủ. Vậy tôi xin phép có phương cách giải trừ cái hại ấy.

– Hãy cho biết xem sao?

– Chúa Công có oán hận người nào thì nên tặng cho họ con ngựa này, chừng nó hại người đó xong, hãy đem nó về mà cỡi thì vô hại.

Huyền Đức nghe qua biến sắc mặt, nói :

– Ông vừa mới đến, chưa dạy ta điều gì chánh Đạo, lại khuyên ta làm việc ích kỷ hại nhân như vậy, ta thật không dám nghe theo.

Đang Phúc nét mặt hân hoan, bái Huyền Đức một cái, nói :

– Trước đây tôi vẫn nghe Chúa Công là người Nhân nghĩa, đức độ, nhưng chưa tin, nay tôi mới biết lời đồn ấy không sai.

Huyền Đức vui vẻ nói :

– Bị này đâu xứng đáng nhận lời khen tặng, còn phải nhờ Tiên sinh khuyên bảo cho...

Đang Phúc là người tinh thông binh pháp, nên khi về giúp Lưu Bị, Phúc bày mưu lược, đánh Tào Nhân thua luôn mấy trận, chạy về Hứa Xương. Sau Tào Tháo và bọn mưu sĩ biết được, Đang Phúc tức là Từ Thứ, đang giúp Lưu Bị, nên Bị mới mạnh như thế. Họ lập kế bắt mẹ Thứ cầm tù, rồi mạo tuồng chữ của bà; viết thư kêu Từ Thứ phải về với mẹ.

Từ Thứ được thơ tưởng thật, từ giã Lưu Bị để về lo báo hiếu. Tôn Càng hay tin liền có ý kiến riêng với Huyền Đức.

– Từ Thứ là bậc kỳ tài trong thiên hạ, lại ở với mình đã lâu, tình hình quân ta thế nào Thứ đều biết rõ. Nay nếu để ông ta về với Tào Tháo, tất nhiên được trọng dụng, nguy cho bọn ta lắm ! Chúa Công phải cố lưu Thứ lại đừng cho đi, khi Tào Tháo thấy Thứ không về, tức đem giết mẹ Thứ. Từ Thứ biết mẹ đã chết, quyết phải báo thù, sẽ cố gắng giúp ta đánh Tào Tháo.

Lưu Bị nghiêm sắc mặt nói :

– Ý này không được ! Mượn tay người khác giết mẹ để dùng người con là bất Nhân; giữ người lại không cho đi, để cắt đứt cái Đạo Mẫu từ là bất nghĩa. Ta thà chết chớ không khi nào làm những việc bất Nhân, bất Nghĩa ấy được !

Nghe Lưu Bị nói ai nấy đều thán phục !

Đọc qua câu chuyện, thấy rằng Lưu Huyền Đức cũng lo dân cứu nước, cũng mưu đồ làm chủ thiên hạ, nhưng ông thi hành đường lối Vương Đạo, không hề để mất Nhân Nghĩa, bởi Nhân Nghĩa là vấn đề then chốt của Đạo đức con người.

Ngày nay Đức Giáo Chủ P.G.H.H. Ra đời, có trách nhiệm lớn lao cả hai phương diện : đời lẫn Đạo; vừa lo giác tỉnh quần sanh thoát vòng sanh tử và vừa lo bảo tồn dân nước; Ngài chủ trương đặt Nhân Nghĩa, Đạo Đức hàng đầu. Cho nên Ngài thường thống trách hạng người đánh mất Nhân Nghĩa bằng những câu :

     “Giàu sang lắm kẻ vô nghì,

Ỷ mình trên bực kể gì Nghĩa Nhân.”

Hoặc là :

     “Dốc lòng tranh Bá đồ Vương,

Đeo câu danh lợi lấp đường Nghĩa Nhân.”

Để rồi Ngài khuyên mọi người :

     “Ở trần xử trọn Nghĩa Nhân,

Quyết làm tôi Phật gởi thân liên Đài.”

 

10 – TRƯỢNG PHU

“Câu TRƯỢNG PHU là trang nghĩa sĩ,

Chữ anh tài của đấng trung lương.”
(Nang thơ Cẩm Tú)

Trượng phu là bậc nam nhi đứng đắn, tài ba xuất chúng, đức hạnh song toàn, gồm đủ : “Trung nghĩa, trí dũng, liêm chính... Xưa, Lưu Huyền Đức thời Hậu Hán (TH) có khen Triệu Tử Long xứng đáng là bậc Trượng Phu.

Tử Long người ở Châu Định, xứ Trường Sơn (TH) họ Triệu tên Vân, tên chữ là Tử Long. Trước giúp Công Tôn Toản, song thấy Toản chưa xứng đáng nên theo phò Lưu Huyền Đức.

Sau khi chiến thắng trận Xích Bích, Lưu Bị và Khổng Minh lấy được Kinh Châu, liền sai các tướng đánh chiếm các nơi. Phần Triệu Tử lãnh lịnh đánh thành Quế Lương. Tướng giữ thành này là Triệu Phạm chịu qui hàng, rước Triệu Tử Long vào thành đãi tiệc và kết bạn thâm giao. Triệu Phạm rất mến tài Triệu Tử Long, ý muốn gả chị dâu cho Triệu Tử nên lúc tiệc ngà ngà say Triệu Phạm cho người chị dâu ra tiếp đãi. Nàng vốn là một trang quốc sắc.

Triệu Tử Long thấy ngạc nhiên hỏi,... Phạm giới thiệu :

– Đây là chị dâu của tôi, anh tôi chết đã 3 năm, chị tôi tuổi còn nhỏ sống cô quạnh, không thể không tái giá. Tôi đã chọn nhiều nơi nhưng chị tôi chưa ưng và bảo khi nào chọn người hội đủ ba điều kiện mới ưng

Triệu tử lấy làm lạ hỏi :

– Ba điều kiện ấy như thế nào?

Triệu Phạm đáp :

– 1. là phải một chàng trai tài kiêm văn võ và vang danh trong thiên hạ.

– 2. là người ấy tướng mạo phải khôi ngô, đường đường một dũng tướng.

– 3. là phải cùng một họ với anh tôi.

Triệu Tử nói :

Như thế thì trong thiên hạ tìm đâu ra người hội đủ ba điều kiện ấy?

Triệu Phạm cười đáp :

– Thế mà có hiền huynh đây hội đủ ba điều kiện đó, nếu hiền huynh bằng lòng thì tôi lo làm lễ cưới để tẩu tẩu tôi được nâng khăn sửa túi và kết thân trọn đời với hiền huynh.

Triệu Tử Long nghe nói nghiêm sắc mặt mắng :

– Ta đã kết nghĩa anh em với người thì chị dâu của ngươi tức như chị dâu của ta, lý nào tính việc trái lẽ như vậy?

Triệu Phạm thẹn đỏ mặt, mắng lại và đưa mắt ra ám hiệu cho kẻ tả hữu bắt Triệu Tử Long. Song Triệu Tử lại nhanh trí tống Triệu Phạm một đạp té nhào, vượt khỏi vòng vây lên ngựa về trại.

Triệu Phạm mưu tính với hai tùy tướng là Trần Ứng và Bảo Long giả trá hàng, nhưng mưu ấy bị Triệu Tử biết được nên việc thất bại. Thế là Triệu Tử lấy được thành Quế Lương và bắt Triệu Phạm đem về nạp dưới trướng.

Trước công đường Triệu Phạm quỳ thưa :

– Tôi quyết định thuần phục Lưu Hoàng Thúc đã lâu, nhưng việc trắc trở là tại anh Triệu Tử mới ra nông nỗi này, Phạm liền thuật rõ đầu đuôi cho Lưu Bị và Khổng Minh nghe.

Khổng Quân Sư hỏi Triệu Tử :

– Việc ấy cũng tốt sao tướng quân cự tuyệt?

Triệu Tử thưa :

– Thưa Quân Sư ! Việc ấy có 3 điều không nên :

1 – Là tôi và Phạm đã kết nghĩa huynh đệ, nếu tôi cưới chị dâu Phạm là trái Đạo và thiên hạ chê cười.

2 – Là làm như vậy thì người đàn bà kia sẽ bước thêm một bước nữa, phải thất tiết với chồng.

3 – Là Triệu Phạm mới qui hàng mà có cử chỉ đó e không thật lòng.

Tôi không thể vì chuyện một người đàn bà mà làm hại việc lớn của Quốc gia.

Huyền Đức nói :

– Hôm nay đại sự đã yên, ta cho phép Tử Long kết duyên với người đàn bà ấy.

Tử Long thưa :

“Trong thiên hạ không thiếu chi đàn bà con gái, chỉ lo cho mình không lập được thân danh và chẳng xứng đáng là phận tu mi trong thiên hạ mà thôi”. Lưu Huyền Đức nghe chẳng dám ép nữa bèn trọng thưởng cho Tử Long và có lời khen ngợi :

– Người như Tử Long rất xứng đáng là bậc trượng phu ! Liền theo đó Huyền Đức cũng ra lịnh tha cho Triệu Phạm.

Câu chuyện trên, cho chúng ta thấy rằng : Người có chí khí trượng phu mới xứng đáng là bậc trung lương nghĩa sĩ trong đời. Còn như ai muốn tiến lên địa vị Hiền Thánh thì lại cần có tiết độ Trượng Phu hơn nữa, như Đức Thầy đã bảo :

     “Trượng phu chí cả dọc ngang,

Dạo trong bốn biển mới trang Thánh Hiền.”

 

11 – THẤT THỦ HẠ BÌ

    “Muôn năm Trời định khắc kỳ,

Ngặt ông THẤT THỦ HẠ BÌ khó toan.”
(Xuân hạ Tác Cuồng thơ)

Hạ Bì cũng gọi là Hạ Phì; tức Hạ Bì thành, do điển tích Quan Công thất thủ thành Hạ Bì, đời Tam Quốc (TH).

Bấy giờ Lưu Bị đang đóng quân ở Từ Châu, Tào Tháo đem 10 vạn quân, chia làm năm đường tiến đánh. Lưu Bị thua trận chạy qua nương nhờ với Viên Thiệu, Trương Phi cũng lạc một nơi, còn Quan Vân Trường, tức là Quan Công cố thủ thành Hạ Bì. Tháo lập mẹo lừa Quan Công ra khỏi thành đánh nhau. Tháo giả thua cho Quan Công đuổi theo xa rồi đánh úp lấy thành. Quan Công không còn đường về, đành chạy lên hòn Thổ Sơn trú đóng. Tháo rất mến tài Quan Công nên cho quân vây xiết rồi sai tướng Trương Liêu đến dụ hàng. Liêu cũng có tên là Văn Viễn, trước kia có lúc chơi thân với Quan Công, khi hai người gặp nhau Quan Công hỏi :

– Trương Liêu đến đánh với ta chăng?

Liêu đáp :

– Đâu phải thế ! Liêu này nghĩ tình cố nhân, đến đây gặp nhau đó thôi ! Nói rồi bỏ đao hai người ngồi trên đỉnh núi trò chuyện :

Quan Công hỏi :

– Ngươi đến đây dụ ta hay giúp ta?

Trương Liêu đáp :

– Chẳng phải dụ mà cũng chẳng phải giúp, tôi đến là để báo tin cho anh hay. Hiện giờ Lưu Huyền Đức chẳng hiểu còn hay mất, còn Dực Đức (Trương Phi) không biết sống hay chết. Đêm qua Tào Công phá được thành Hạ Bì, quân dân đều an toàn cả. Tào Công lại cho người giữ gìn gia quyến của Huyền Đức, không cho một ai vào quấy nhiễu, đối đãi thật tử tế.

Quan Công giận nói :

– Thế là ngươi đến dụ ta, nay tuy hết đường đất, ta vẫn coi cái chết như không. Ngươi hãy đi ngay, ta sẽ xuống chân núi đánh nhau, thà chết cũng vui.

Liêu nói :

– Anh nói thế không sợ thiên hạ người ta cười cho?

– Ta vì trung nghĩa mà chết, thiên hạ sao lại cười?

– Anh chết bây giờ thì mắc phải 3 cái tội.

– Ba tội ấy như thế nào?

Liêu nói :

– Thứ nhất : khi trước anh cùng Lưu Sứ Quân kết nghĩa, thề sống thác có nhau, nay Sứ Quân mới vừa thua mà anh liền chết đi. Nếu Sứ Quân còn, sau này muốn tìm anh làm sao có? Thế là anh phụ lời thề năm xưa.

– Thứ nhì : Sứ Quân đã phó thác hai tẩu tẩu cho anh, giờ đây anh liều chết lấy ai mà bảo vệ, đó là anh phụ lời giao phó.

– Thứ ba : anh đã tinh thông Kinh sử, võ nghệ siêu quần, sao không chờ để hiệp cùng Sứ Quân giúp nhà Hán, lại nhảy vào nơi nước sôi lửa cháy, liều chết như kẻ vũ phu thì có ích gì; nên tôi gọi đó là ba tội.

Quan Công suy nghĩ giây phút rồi nói :

– Thế ngươi muốn bảo ta phải làm sao?

Liêu đáp :

– Hiện giờ bốn mặt đều là quân Tào vây kín, mảy lông cũng khó lọt, nếu anh không hàng tất phải chết. Chi bằng anh hàng đi sẽ có 3 điều tiện lợi, rồi thời gian sau anh ngóng nghe tin tức, khi biết Lưu Sứ Quân ở đâu anh sẽ tìm về đó :

– Một là anh bảo vệ được hai phu nhân

– Hai là không trái với lời thệ ước nơi vườn Đào năm xưa.

– Ba là anh lưu lại được cái thân hữu dụng cho Quốc dân. Vậy anh hãy suy nghĩ kỹ lại đi.

Quan Công liền đáp :

– Ngươi trình bày nghe cũng hợp lý, nhưng ta cũng có 3 điều giao ước.

– Một : ta hàng đây là hàng nhà Hán, chớ chẳng phải hàng Tào.

– Hai : không một ai được quyền quấy nhiễu hai chị dâu ta và Tào Công phải lấy bổng lộc của Hoàng Thúc cung cấp cho hai chị dâu ta.

– Ba : là khi nghe Lưu Hoàng huynh ta ở đâu thì dù cách xa ngàn dặm cũng phải để cho ta tự do đến đó.

Ba điều ấy nếu Tào Công bằng lòng thì ta hàng, bằng không thì ta quyết tử chiến đến cùng. Trương Liêu trở về tâu với Tào Tháo.

Tháo nói :

– Điều một : Ta là tướng của Hán, đầu Hán tức đầu ta điều này dễ thôi.

– Điều hai : Việc nghiêm cấm không ai được bén mảng đến tẩu tẩu của y thì ta đã thực hiện rồi, còn bổng lộc ta sẽ cấp bằng hai !

– Chỉ có điều thứ ba khó mà chấp nhận, vì khi nghe Huyền Đức ở đâu thì Vân Trường cũng đến đó.

Thế thì nuôi y có ích lợi gì cho ta?

Trương Liêu giãi bày :

– Thừa Tướng hãy suy nghĩ lại : sở dĩ Quan Công không bỏ được Lưu Bị, là vì Bị cư xử với Quan Công quá tốt, nay nếu y về với ta, ta sẽ đối đãi hậu hơn, tức chừng đó y không còn giữ ý định ra đi nữa. Tháo nghe được liền vui lòng chấp thuận.

Khi về, Tháo tìm đủ cách lung lạc lòng nghĩa khí của Quan Công, như : 3 ngày đãi tiệc nhỏ, 7 ngày đãi tiệc lớn, lên ngựa thưởng vàng, xuống ngựa thưởng bạc ([3]) may đãy gấm bọc râu và ban cho áo cẩm bào... Ngoài ra, Tháo còn bày kế ly gián bằng cách để Quan Công cùng hai người chị dâu ở chung một phòng lớn, khiến họ mang tiếng loạn luân và tình nghĩa của Quan Công cùng Lưu Bị chẳng còn.

Dầu thế, nhưng lòng trung cang nghĩa khí của Quan Công như vàng đá, ông cho ngăn gian phòng làm hai, ban đêm ngồi tại cửa đốt đuốc xem sách Xuân Thu cho đến sáng. Mỗi khi có chuyện cần thăm hỏi hai chị, thì ông chờ lúc ban ngày mới dùng tay áo che mặt, mà vào; đứng xây lưng vô, mặt vẫn ngó ra cửa. Tào Tháo cấp mỹ nữ phục vụ cho Quan Công, ông chuyển luôn qua hầu tẩu tẩu. Tháo cho người theo dõi từ cử động của ông, ai ai cũng đều thán phục. Cũng trong thời gian đó, ông được vua Hán phong chức Hán Thọ Đình Hầu.

Bấy giờ Viên Thiệu sai Nhan Lương, Văn Xú (xu) là hai tướng tài đến đánh, tướng của Tào Tháo không ai cự lại. Quan Công vì muốn đền ơn Tào Tháo, nên xin ra trận, chỉ trong chốc lát đã chém được đầu hai tướng ấy xách về cho Tháo. Nhân đó ông biết được tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu, liền chuẩn bị ra đi. Tháo biết được nên không cho Quan Công gặp mặt để từ giã...

Cuối cùng Quan Công cũng treo ấn tích từ chức, viết thư và vàng bạc, đều để lại, rồi phò nhị Tẩu vượt qua năm ải, chém sáu tướng để đến Hà Bắc đoàn tụ đệ huynh và lo gầy dựng cơ nghiệp về sau.

Đọc qua câu chuyện “Thất Thủ Hạ Bì thành” của Quan Công Hầu, dưới thời Hớn mạt, ai ai cũng thấy; luật tạo hóa đã luận chuyển nước Trung Hoa sắp đến hồi chia ba thiên hạ mà ba anh em; Lưu, Quan, Trương sẽ chiếm được một gốc để dựng nên cơ nghiệp nhà hậu Hán. Song lúc chưa đến thời Lưu Huyền Đức phải bị binh Tào đánh tan rã, nhất là Quan Công đang gặp hồi nan giải; không hàng Tào ắt phải chết, bằng hàng thì còn gì nghĩa khí.

Tào Tháo thì mến tài Quan Công, tính thuyết phục cho kỳ được, nên hai bên đều dùng ý thế đối nhau. Tào dùng mẹo khiến Quan Công chẳng còn lối thoát. Còn Quan Công vì muốn sống còn để sau này làm nên sự nghiệp buộc phải chấp nhận; nhưng ông thà chịu hàng nhà Hán chứ không chịu hàng Tào để bảo tồn khí tiết.

Cũng như Đức Huỳnh Giáo Chủ trong hiện tình (1939) có trách nhiệm khai Đạo cứu đời và bảo tồn dân nước, nhưng thời cơ chưa đến, phải bị người Pháp lưu đày rày đây mai đó, rồi tới Nhựt bắt đem về để ở một nơi, tìm cách mời Ngài hợp tác. Lúc đó có người hỏi Đức Thầy : “Ngài đã quyết chống đuổi người Pháp, nên họ mới lưu đày Ngài, giờ đây người Nhựt đem Ngài về ở gần, nếu sau này người ta hiểu lầm Ngài thân Nhựt thì Ngài nghĩ sao?”

Khi ấy, Đức Giáo Chủ mỉm cười ứng khẩu lên hai câu đối thay vì trả lời :

“Trương Tiên tá Hớn phi thần Hớn,

Quan Thánh Cư Tào bất đê Tào.” ([4])

Cũng như Ngài đã thố lộ trong hai câu giảng :

     “Muôn năm Trời định khắc kỳ,

Ngặt ông thất thủ Hạ Bì khó toan.”

Ngài còn khen ngợi lòng nghĩa khí của Quan Công để cảnh giác người thời nay và mãi về sau :

“Quan Công Hầu gìn chặt nghĩa ân,

Vượt năm ải về thăm Huynh trưởng.

Kẻ nghĩa khí thiên kim Vạn lượng,

Lũ nịnh thần sách sử nào khen.”

12 – TIN HỒNG

“Lắng tai nghe được TIN HỒNG,

Tờ hoa ít chữ gọi lòng chia vui.”
(Cho Ông Cò Tàu Hảo)

Tin Hồng là tin tức tốt đẹp vui mừng do chữ Hồng tín hay Nhạn tín (chim Hồng, chim Nhạn). Các loại chim này cùng loại Ngỗng trời. Người xưa khi có việc đi xa thường viết thơ cột vào chân chim, chim có linh tính mang thư đi tới nơi của người muốn gởi.

Đời vua Võ Đế có sai Sứ Giả là Tô Võ đi Sứ qua Hung Nô. Cuộc giao hảo không được hài hòa nên Tô Võ bị chúa Hung Nô bắt giam vào hang đá và đày chăn dê suốt 19 năm. Thời gian sống cảnh rừng núi dài đăng đẳng, chịu biết bao sự gian khổ. Tô Võ quá nhớ nhung quê hương xứ sở nên viết một lá thơ cột vào chân chim Hồng Nhạn và bảo : ngươi hãy bay về đến Kinh đô của ta để báo tin cho Vua hay.

Quả nhiên chim bay đến Thượng Lâm, vua Võ bắt được, khai thơ ra xem mới biết được Tô Võ còn sống. Vua liền cử binh mã chinh phạt Hung Nô và rước được Tô Võ về nước, chúa tôi đoàn tụ.

Do từ ngữ và câu chuyện nêu trên, xưa nay khi muốn đến tin tức gì có tánh cách vui mừng sum hiệp các nhà văn thường dùng thành ngữ Nhạn tín hay Hồng tín cho đẹp văn.

Xem văn điển Tin Hồng qua 2 câu giảng, thấy rằng : Ở đây, Đức Thầy khi được tin ông Cò Tàu Hảo sắp xuất gia, tức là ông có quyết tâm giải thoát vòng sanh tử. Đó là tin vui mừng nên Ngài mượn giấy mực gởi tặng một bài thơ để chúc mừng Ông !

13 – N NƯỚC VĂN CHƯƠNG

     “NỢ NƯỚC VĂN CHƯƠNG toan báo đáp,

     Ơn nhà Đạo đức quyết đền ân.”
(Tỉnh Bạn Trần Gian)

Bốn chữ “NỢ NƯỚC VĂN CHƯƠNG” có nghĩa dùng tài văn chương, thi phú ra đáp ơn Đất nước, khiến cho lân bang kính nể không dám xâm lăng. Xưa nay có rất nhiều điển tích, đây xin chứng minh một ít truyện :

1 – NGUYỄN HIỀN:

Ông sanh đời nhà Trần, tỉnh Nam Hà (Bắc phần Việt Nam). Thuở nhỏ cha mẹ cạo đầu ông, cho vào chùa vừa học Đạo, vừa học chữ với một vị Sư. Nguyễn Hiền rất siêng năng việc học và mọi công tác trong nhà chùa, tâm trí thông minh, học một biết mười, được nổi tiếng là Thần đồng.

Ông thi đậu luôn 3 trường và đậu Trạng Nguyên vào năm 1247, đời nhà Trần, bấy giờ ông mới 12 tuổi.

Khi vào triều bái trước sân rồng, vua thấy Trạng Nguyên còn quá bé trong bộ mũ áo quá khổ (xùng xình) vua tức cười hỏi :

– Khởi đầu Trạng học với ai vậy?

Trạng liền đáp ngay :

– Tâu bệ hạ, lúc nhỏ tôi học với tôi, chỉ khi nào không hiểu mới hỏi lại Sư một vài chữ thôi !

Vua thấy Trạng nói năng cộc lốc cho là trẻ con chưa biết lễ nghĩa nên bảo : – Trạng hãy về nhà học lễ phép ba năm mới cho ra làm quan.

Bấy giờ nhà Nguyên muốn xâm lấn nước Nam ta, mới sai Sứ đem sang một Quốc thư trong đó có một câu đó thử xem nước Nam có nhân tài không? Triều đình ta mở ra, thấy vỏn vẹn có bốn câu thơ chữ Hán;

“Lưỡng nhật, bình đầu nhật,

Tứ Sơn, điên đảo Sơn.

Lưỡng Vương tranh nhứt Quốc,

Tứ khẩu tung hoành gian.”

Cả triều thần xem qua đều không hiểu ý nghĩa ra sao? Chúa tôi đắn đo bóp trán luôn cả mấy ngày, cũng không sao thấu đạt; bỗng có người nhớ lại Trạng Hiền, bèn tâu với vua nên triệu Trạng Hiền về Kinh hỏi thử, biết đâu Trạng sẽ giải được. Không còn cách nào hơn. Vua liền phái người đi triệu Trạng về gấp.

Viên quan lãnh lịnh, phi ngựa đến nhà Trạng đưa chiếu của Vua ra mời Trạng về triều để hỏi một việc quan trọng.

Trạng lắc đầu nói :

Trước đây vua bảo ta chưa biết lễ phép, nhưng nay đến vua cũng chẳng biết lễ, Trạng nhứt định không đi !

Vua nghe chuyện liền sai quân gia mang cờ quạt võng lọng đến rước, Trạng mới chịu đi...

Khi xem xong bốn câu thơ, Trạng cười lớn trước mặt Sứ thần và tâu với nhà vua : Đây chỉ là một chữ điền mà thôi ! Trạng liền giải thích :

– Câu thứ nhất : “Lưỡng nhật bình đầu nhật” là hai chữ nhật 日日ghép lại, trên dưới bằng đầu nhau thì ra chữ điền

– Câu thứ nhì : “Tứ Sơn điên đảo Sơn” là bốn chữ Sơn sấp ngửa đảo ngược nhau cũng là chữ điền .

– Câu thứ ba : “Lưỡng Vương tranh nhứt Quốc” là hai chữ Vương giao nhau cũng là chữ điền .

– Câu thứ tư : “Tứ khẩu tung hoành gian”, là bốn chữ khẩu đặt ngang dọc liền nhau cũng là chữ điền nốt.

Thấy Trạng Hiền giải đúng, Sứ thần nhà Nguyên rất khâm phục, nên từ giã, lủi thủi ra về, đình cuộc xâm lăng lúc đó. Còn vua và thần dân ta như trút được gánh nặng. Vua liền ban thưởng cho Trạng rất hậu. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng vẫn phong cho Trạng chức Thượng Thư, nắm quyền hành một Bộ.

2 – MẠC ĐỈNH CHI

Đây là người thứ nhì cũng dùng tài văn chương làm cho các nước lân bang kính nể.

Mạc Đỉnh Chi là một danh sĩ đời Trần, tự là Tiết Phụ, người làng Lũng Động, Huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc phần VN).

Đỉnh Chi gia đình nghèo, thân hình nhỏ bé, tướng mạo xấu xí, nhưng học rất giỏi, thi đậu Trạng Nguyên năm Giáp Thìn. (1304) đời vua Trần Anh Tôn, thấy tướng mạo quan Trạng xấu xí, vua không mấy thích, nhưng sau ông có làm bài; “Ngọc Tỉnh Liêu Phú” để ví mình như hoa sen ở dưới giếng ngọc, Vua mới hài lòng. Ông làm quan rất thanh liêm, phò luôn cả ba đời vua : Anh Tôn, Minh Tôn và Hiếu Tôn.

Mạc Đỉnh Chi được vua phái đi Sứ Trung Nguyên nhiều lần, như có lần ông gặp mưa đi chậm trễ nên vào cửa ải bị quan coi cửa bắt phải đối một vế đối, mới mở cửa cho vào.

“Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan” (qua cửa quan chậm, quan coi cửa đóng cửa, mong khách đi qua cửa)

Vế ra đối khó ở những chữ “quá” “quan” lập đi lập lại nhiều lần. Trước vế đối hiểm ấy Mạc Đỉnh Chi liền ứng khẩu đọc luôn.

“Tiên đối vị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối”. (Ra vế đối trước thì dễ, nhưng đối lại mới khó, xin nhượng Tiên sinh đối trước).

– Như vậy ông đã đối rồi và những chữ “Tiên” “đối” cũng lập lại đối chọi với câu ta đối của quan coi cửa.

Viên coi cửa thấy Mạc Đỉnh Chi đối vừa nhanh vừa tài lấy làm kính phục bèn mở cửa cho ông và đoàn Sứ thần nước ta vào

Lần khác ông cũng đến yết kiến vua Nguyên, thấy bức tượng thêu con chim sẻ đậu trên khóm trúc, trông sống động y hệt chim thật, ông liền vồ bắt chim, người Nguyên cười ồ cả lên, chê ông quê kịch. Song Mạc Đỉnh Chi nhanh trí giựt bức tượng xé nát, mặt hầm hầm giận nói :

– Xưa nay tôi nghe người ta chỉ vẽ mai tước, chớ không thấy ai vẽ trúc tước bao giờ. Bởi trúc biểu hiện cho người quân tử còn chim sẽ biểu hiện cho kẻ tiểu nhân. Chim sẽ đậu trên bụi trúc là ý để cho kẻ tiểu nhân lấn lướt người quân tử. Nay tôi vì triều đình của các ông mà dẹp bỏ sự lầm lộn ấy, hãy cho người thêu lại đi !

Người Nguyên nghe qua rất xấu hổ và càng nể Trạng của nước ta.

VỊNH CÁI QUẠT

Một buổi chầu khác, có người nước ngoài đem dâng cái quạt quý. Nhân đó vua Nguyên bảo hai Sứ thần nước Nam và Triều Tiên làm bài thơ “Vịnh Cây Quạt” mà không cho nói đến chữ quạt.

Đỉnh Chi chưa biết làm như thế nào, thấy Sứ thần Triều Tiên viết lia lịa. từ xa nhìn cán bút đưa đẩy, ông đọc được bài thi của Sứ thần Triều Tiên, nhân đó mà phát khởi ý bài của mình, người sau có dịch đại ý :

“Nắng trải vàng tan đá, trời đất là lò, bây giờ người ta là bậc cự nho như Y Doãn, Chu Công, gió bấc rợn người, mưa tuyết đầy đường. Khi đó người là kẻ trượng phu chết đói như Bá Di, Thúc Tề. Ôi ! Được dùng thì làm, bị bỏ thì ẩn. Riêng ta với ngươi làm được đều đó thôi”.

Bài ông vịnh về cái quạt mà không hề nói đến chữ quạt, lại nói lên được cái khí tiết người quân tử, hay hơn bài của Sứ thần Triều Tiên. Triều thần nhà Nguyên đều phục tài, tán thán ông.

TỎ RA KHÍ PHÁCH

Lại một lần triều kiến khác, người Nguyên ra vế đối : “Nhân quả vân yên, bạch trú thiêu tàn ngọc thố” (mặt trời bốc lửa mây bốc thành khói, ngày lên thiêu tan mặt trăng).

Vế đối có ý khoe khoang của nhà Nguyên. Đỉnh Chi liền đối lại :

“Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn sạ lạc kim ô” (trăng làm cung, sao làm đạn, hoàng hôn bắn rớt mặt trời) vế đối đầy khí phách. Người Nguyên biết Mạc Đỉnh Chi ngạo mạn, nhưng đành chịu không dám làm gì ông.

MỘT CHỮ NHẤT

Cũng một lần khác, ông đi sứ nhà Nguyên, vừa đến nới gặp lúc Công Chúa nhà Nguyên mất. Từ lâu vua tôi nhà Nguyên muốn hạ uy danh nước ta, không bỏ qua cơ hội tốt. Vua Nguyên liền mượn sứ thần Việt Nam đọc hộ giùm bài văn tế mà họ đã viết sẵn trong phong bì, đợi đúng giờ đọc mới trao cho Mạc Đỉnh Chi.

Ông bóc phong bì ra xem, chỉ thấy có một chữ “nhất”. ông không cần nghĩ ngợi cứ đọc luôn một loạt :

“Thanh thiên Nhất đóa Vân,

Hồng lô Nhất điểm tuyết.

Thương uyển Nhất chi hoa

Dao trì Nhất phiến nguyệt

Y hi ! vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết.”

Có nghĩa :

Trời xanh có một ánh mây

Bầu trời có một bông tuyết

Vườn thượng uyển có một cánh hoa

Ao tiên có một vầng trăng

Ôi ! Mây tan, tuyết rã, hoa tàn, trăng khuyết.

Ý nói về người đẹp nhứt mà không nói đến người, chỉ nhắc đến thiên nhiên vũ trụ và chữ Nhất mà thôi. Thật là vừa sát với đề vừa bao gồm cả ý tứ thanh tao. Cũng lần này vua rất thán phục Mạc Đỉnh Chi, nên phong cho ông chức “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên” (xứng đáng làm trạng cả hai nước : Tàu và Việt Nam).

Sau này có người khen tặng ông :

“Hai chức Trạng Nguyên rùm đất Bắc,

Một nhà khoa bảng ngất trời Nam.”

3 – SƯ ĐỖ PHÁP THUẬN (951 – 990)([5])

Người thứ ba, chỉ có hai câu thơ cũng đủ làm cho sứ Tàu thán phục, tức là Sư Đỗ Pháp Thuận.

Ông sanh năm 915, (không rõ quê quán) chỉ biết Thiền Sư xuất gia hồi còn nhỏ, thọ giáo với Thiền Sư trụ trì chùa Long Thọ. Thiền sư học rộng, giỏi văn thơ, hiểu rõ việc đời, có tài phò vua giúp nước. Thời nhà Tiền Lê mới lập nghiệp, vua Lê Đại Hành thường mời Sư vào triều bàn luận việc chánh trị và ngoại giao. Khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận chức tước của triều đình ban cho. Vua Lê càng thêm kính nể, không dám gọi tên thường mà chỉ gọi là Đỗ Pháp Sư. Các công việc văn hàm nhà vua đều ủy thác cho Sư làm.

Năm Thiên phúc thứ 7 (986) nhà Tống sai Lý Giác làm sứ giả sang nước ta, vua yêu cầu Thiền Sư cải trang làm người chèo đò đón Lý Giác. Khi đò sang giữa sông tình cờ gặp hai con ngỗng đang lội trên mặt nước. Lý Giác với vẻ mặt tự hào ứng khẩu ngâm thơ

“Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hương thiên nha.”

Có nghĩa :

Ngỗng kìa ngỗng một đôi,

Ngưỡng mặt nhìn ven trời

Lý Giác còn đang nghĩ ngợi chưa tìm ra ý văn cho câu thứ ba thì Thiền Sư đang cầm chèo liền ứng khẩu ngâm tiếp :

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba

Có nghĩa :

Nước xanh lông trắng phủ

Sóng biếc chân hồng bơi.

Lý Giác nghe Sư ngâm hai câu thơ rất thán phục, suy nghĩ : đây là người lái đò mà tài văn học như vậy thì khắp trong dân chúng đất Nam hẳn có nhiều nhân tài xuất chúng hơn nữa. Từ đó Giác rất dè dặt không dám tự hào nữa.

4 – ĐẠI SƯ KHUÔNG VIỆT (933 – 1011)([6])

Thiền Sư họ Ngô, tên là Chân Lưu, người làng Cát Ly, Huyện Hương Lạc, sinh năm 933. Sư là hậu vệ của Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Sư có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng, chí khí cao xa.

Thuở nhỏ Sư theo nho học, lớn lên xuất gia thọ giới với Thiền Sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc. Từ đó Sư học qua ba Tạng Kinh Điển, thấu đạt ý nghĩa của Thiền Tông. Năm 40 tuổi tiếng tăm Sư lừng lẫy khắp nơi. Có lúc Sư ẩn tích tu tại Hương tích Sơn, vua Đinh Tiên Hoàng phải 3 lần lặn suối trèo non đến tận nơi mới gặp và được Sư nhận lời về giúp. Trong khi đàm luận, Thiền Sư ứng đối rành rẽ và vạch ra kế sách xây dựng Quốc gia. Vua nghe rất đắc ý hết lòng kính nể liền phong Sư làm Tăng Thống. Năm (971) Sư lại được vua phong là Khuông Việt Thái Sư ([7]), cố vấn nhà vua và làm mẫu mực cho nước Việt.

Đến trào vua Lê Đại Hành, Thiền Sư càng được vua kính nể. Bao nhiêu việc trọng đại trong nước vua đều hỏi ý kiến Thiền Sư. Những nơi có cảnh trí đẹp, thanh u Sư đều dựng thảo am để Thiền Hành tĩnh tọa.

Năm Thiên Phúc thứ 7 (986) sứ nhà Tống là Lý Giác sang Việt Nam. Cũng chuyến đi này Lý Giác gặp sư Đỗ Pháp giả làm người chèo đò làm cho Lý Giác thán phục một phen. Giờ đây vào đến trào nội vua lại cho Đại Sư Khuông Việt tiếp sứ, ứng đối tài tình lại khiến cho Lý Giác càng kính nể hơn nữa. Cho nên trước khi ra về, sứ giả Lý Giác lưu tặng cho vua ta một bài thơ

(Xin chép văn nôm của Thích Mật thể)

“Nay gặp Minh Quân giúp việc làm

Một mình hai lược Sứ Miền Nam

Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ

Muôn dặm non sông mắt chữa nhàm

Ngựa đạp mây bay qua suối đá

Xe vòng núi chạy đến giồng Lam

Ngoài trời lại có trời soi sáng

Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.”

Vua Lê Đại Hành đem bài thơ ấy cho Thiền Sư xem và hỏi ý kiến?

Sư đáp :

– Câu thứ 7 trong đây, sứ Trung Quốc có tán thán Bệ Hạ ngang hàng với vua Trung Quốc của y (ngoài trời lại có trời soi sáng). Vua có nhờ Sư làm một bài thơ đưa tiễn Lý Giác. Sư vâng lịnh làm bài thơ theo điệu Tống Vương Lang qui.

(Văn nôm của Sư Thích Mật Thể dịch)

“Gió lùa phất phới chiếc buồm hoa

Thần tiên trở lại nhà

Đường muôn ngàn dặm trải phong ba

Cửa trời nhắm đằng xa,

Một chén quan hà dạ thiết tha.

Thương nhớ biết bao là,

Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà

Bày tỏ với vua ta.”

Nhận thấy trong bốn nhân vật vừa kể qua đều đồng nhất điểm là đem tài văn chương ra bảo vệ danh thể và nước non nòi giống.

Ngày nay Đức Giáo Chủ qua hai câu thi trên, Ngài muốn nói : việc đáp ơn Quốc dân không chỉ dùng tài sức mưu lược bắn giết ngoài trận chiến mà có khi phải dùng đến văn chương lời lẽ mới đem lại cường thịnh vẻ vang cho dân cho nước, và lân bang nể phục. Việc làm này phần nhiều của nhà tu hoặc các hiền nhân Thánh Triết thi hành. Thảo nào Đức Huỳnh Giáo Chủ chẳng dạy :     “Nợ nước văn chương toan báo đáp,

Ơn nhà Đạo đức quyết đền ân.”

14 – NHU THẮNG CANG

“NHU HIỀN hòa nhược ắt THẮNG CANG,

Đời cùng Đạo bi hoan, ly hiệp.”
(Nang thơ Cẩm Tú)

Về mặt xử thế nếu ai dùng đức tánh mềm dẻo hiền hòa ắt thắng được kẻ cường mạnh. Cũng như nước và đá, nước có thể soi phủng đá, chớ đá không thể nào làm tiêu nước. Do thành ngữ “Nhu thắng cang” và câu chuyện sau đây :

Thời Đông Châu, nước Triệu có hai người tôi trung nghĩa là Nguyên Soái Liêm Pha và Tướng Quốc Lạn Tương Như.

Nguyên vua Triệu có hạt ngọc bích rất quý giá (Quốc Bảo). Vua Tần hay được khởi lòng tham, nên tính kế sai sứ sang Triệu, bảo đem viên ngọc ấy qua sẽ đổi cho 15 thành. Vua Triệu thừa biết lòng gian xảo của vua Tần, nên hội quần thần chọn được Lạn Tương Như phong làm Đại phu và giao cho trách nhiệm mang ngọc bích sang Tần. Tương Như hứa rằng : nếu Tần không thật tâm đổi thành thì đem ngọc về chớ không để mất.

Khi đến Tần, nhờ mưu lược thông minh Lạn Tương Như thắng cuộc, đem ngọc trở về mà không bị vua Tần sát hại. Vua Triệu vui mừng liền phong Tương Như chức thượng Đại Phu.

Sau đó vua Tần thiết kế, mời vua Triệu hội kiến tại Thăng Trì, dụng ý ỷ mạnh bắt ép và làm nhục vua Triệu. Vua tôi nước Triệu liền hội kiến chọn Lạn Tương Như theo bảo giá và Lý Mục đem 3.000 binh tinh nhuệ theo sau phòng khi bất trắc.

Trong tiệc rượu ấy vua Tần và bầy tôi tìm đủ cách hạ nhục Vua Triệu, song tất cả bị Lạn Tương Như bác bẻ; làm cho Vua tôi nhà Tần chẳng những không hại được Vua Triệu mà phải tỏ tình hòa hiếu và hứa đưa Thái Tử sang Triệu làm con tin.

Vua tôi yên ổn về tới nước, Triệu Vương nói :

“Quả nhân được Lạn Tương Như, thân yên như thái sơn, nước vững như chín đỉnh. Tương Như công rất lớn, tài trí không ai bằng.” Vua liền phong Tương Như làm tướng Quốc, phẩm trật trên hơn các quan trong triều.

Bấy giờ Nguyên soái Liêm Pha nghĩ rằng : ta bấy lâu chưởng quản binh quyền, đánh thành cướp đất gầy dựng giang san cho nước Triệu. Còn Lạn Tương Như chỉ có chút công do tài miệng lưỡi mà Vua lại đặt địa vị hắn trên ta. Vả lại y là một xá nhân hèn mọn của kẻ hoạn gia, ta há lại chịu ở cấp dưới của hắn ư... nếu gặp Tương Như đâu ta phải giết.

Tương Như nghe được lời nói đó, liền cáo bịnh không đi chầu, luôn tránh né chẳng cho Liêm Pha gặp mặt. Nhiều người cho Tương Như là hèn nhát thầm thì chê bai. Có lần hai người cùng đi ngược chiều trên đường cái, Tương Như bảo người đánh xe tránh sang ngã khác, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới ra lộ. Thấy thế bọn xá nhân tức giận chịu hết nổi mới họp lại nói với Tương Như.

– Chúng tôi bỏ làng xóm, thân tộc đến đây nương với Ngài, vì thấy Ngài là bậc trượng phu, tài trí mới quý kính mà theo. Ngài cùng Liêm Pha là đồng liêu, còn thứ bậc thì trên hết. Thế mà Liêm Pha hăm dọa Ngài không đáp lại và cũng chẳng dám gặp mặt; tại sao Ngài sợ quá như vậy? Chúng tôi lấy làm xấu hổ cho Ngài và không còn muốn ở đây nữa, xin đi hết !

Tương Như liền ngăn lại, nói :

– Ta sở dĩ tránh Liêm Tướng Quân là có cớ, các ngươi chưa biết đó thôi !

– Chúng tôi ngu dốt xin Ngài nói rõ cho nghe.

– Các ngươi xem Liêm Tướng Quân có hơn vua Tần không?

– Dĩ nhiên là Liêm Pha không hơn Vua Tần được.

– Các ngươi nên biết oai võ của Vua Tần thiên hạ không ai dám chống, thế mà Tương Như này dám mắng vua Tần giữa triều đình, lại còn làm nhục cả quần thần nước Tần nữa. Thử hỏi Tương Như này há lại sợ Liêm Tướng Quân hay sao? Bởi ta đã suy nghĩ kỹ, sở dĩ nước Tần không dám đánh Triệu là vì sợ có ta và Liêm Tướng Quân; nếu 2 cọp cấu nhau tất cả phải chết hết, hoặc chết một con; cũng như hai cánh tay mà đứt một phải bị yếu đi. Cho nên ta thà chịu nhục, nhân nhượng Liêm Tướng Quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là khinh vậy !

Hiểu được dụng tâm cao kiến của chủ tướng, bọn xá nhân điều kính phục. Sau đó mấy ngày, xá nhân họ Lạn và bộ hạ của Liêm Pha gặp nhau trong quán rượu, hai bên tranh nhau chỗ ngồi, một người trong xá nhân họ Lạn kêu gọi anh em : chủ nhân ta vì việc nước mà phải nhân nhượng Liêm Tướng Quân, chúng ta cũng nên theo ý chủ nhân nhường khách họ Liêm đi ! Nghe được tin ấy Liêm Pha càng thêm tự đắc.

Bấy giờ tại Hà Đông có một Hiền sĩ tên là Ngu Khanh đến yết kiến vua Triệu. Trước khi vào chầu có nghe được việc của Liêm Pha và Tương Như, nên khi triều kiến xong ông liền tâu với vua Triệu :

– Nước của bệ hạ sở dĩ được mạnh, Tần phải khiếp phục là có hai cây cột trụ là Tể Tướng Tương Như và Nguyên Soái Liêm Pha. Hôm nay nghe hai tướng không hòa nhau e nước Triệu phải suy yếu. Đoạn rồi ông thuật hết mọi việc cho vua Triệu nghe. Vua giựt mình liền nhờ Ngu Khanh hòa giải giúp.

Ngu Khanh ra khỏi trào đến gặp Liêm Pha, trước hết ông ca ngợi công lớn của Liêm Pha, rồi nói tiếp : – kể về công thì không ai bằng Tướng Quân thật, nhưng nói về chất lượng, chỉ có Lạn Tướng Quân là cao.

Liêm Pha cao mặt nói :

– Nó là đứa hèn nhát, nhờ miệng lưỡi mà được công danh có gì là chất lượng?

Ngu Khanh đáp :

– Lạn Tướng Quân không phải là người hèn nhát đâu, chỉ vì nghĩ đến việc lớn đó thôi ! Rồi ông thuật lại lời của Tương Như bảo bọn xá nhân cho Liêm Pha nghe và nói tiếp : Tướng Quân không gởi thân nơi nước Triệu thì thôi, nếu muốn gởi thân nơi nước Triệu mà hai vị đại thần, một người nhường nhịn, một người kêu căng, tôi e cho cái tiếng tốt kia sẽ không về phần Tướng Quân

Nghe lời nói ấy Liêm Pha cả thẹn, nói :

– Nếu Tiên sinh không giải rõ, tôi bao giờ được nghe biết đều lỗi của mình. Tôi thật kém hơn Lạn Tướng Quân xa lắm ! Đoạn rồi Liêm Pha nhờ Ngu Khanh đến nói trước với Tương Như và tự mình trần vai áo, cầm roi đến dinh của Tương Như xin tạ lỗi :

– Bĩ nhân này chí lượng hẹp hòi, không biết được Tướng Quốc rộng lượng khoan dung đến thế, dù chết cũng chẳng đủ chuộc tội ! Liêm Pha nói rồi quì mãi ở giữa sân. Tương Như chạy ra đỡ dậy và nói :

– Hai ta sánh vai thờ chúa, làm tôi xã tắc. Tướng Quân hiểu lòng cho nhau là quý lắm, còn tạ lỗi làm chi !

Liêm Pha nói :

– Tôi tánh thô bạo, đội ơn Tướng Quốc bao dung, nghĩ lại lấy làm hổ thẹn lắm ! Nói rồi nắm tay Tương Như mà khóc, Tương Như cũng khóc !

Liêm Pha nói tiếp :

– Từ nay xin kết làm bạn sống chết có nhau dù cho thế nào cũng không dám thay lòng. Ông liền sụp xuống lạy trước, Tương Như lạy đáp lại, rồi đặt tiệc khoản đãi, cùng ăn uống đến sáng.

Vua Triệu được tin ấy vui mừng khôn xiết, liền đem trăm vật hoàng kim thưởng công Ngu Khanh và cử làm chức thượng Khanh.

Câu chuyện trên giúp ta thấy rằng Tương Như dùng đức độ nhu hòa mà thắng phục được lòng tự kêu của Liêm Pha và đem lại sự hài hòa cho tình huynh đệ. Ước gì mỗi Quốc gia đều có bầy tôi như Lạn Tương Như thì lo gì đất nước chẳng phú cường, dân chúng không an cư lạc nghiệp.

Đức Thầy dùng thành ngữ “Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang” là để khuyến hóa toàn dân nêu rèn tập cho mình có những đức tánh : hiền hòa, khoan dung, đại độ, mềm dẻo, nhịn nhường để đoàn kết chặt chẽ trong tình dân tộc, hầu đem lại sự vinh quang cho nước non và nền Đạo giáo.

Cũng như trong hiện tình, dù Ngài phải đương đầu với bao kẻ hung tàn khiêu khích, lấn lướt dã tâm. Song lòng Ngài vẫn giữ một mực.

“Sĩ điềm tịnh tiểu nhơn lấn lướt,

Thời vận hèn dụng nhược thắng cang.”

 

15 – NGHĨA CÔNG

“Thù riêng muôn vạn cho cam,

Cũng nên gác bỏ để làm NGHĨA CÔNG.”
(Tiếng chuông cảnh tỉnh)

Thành ngữ Nghĩa Công là chỉ việc lớn lao công nghĩa đối với Quốc dân và vạn loại chúng sanh; nó đối lại với tình riêng là tình cảm ân oán riêng tư nhỏ hẹp của cá nhân hay gia đình đoàn thể.

Sau đây là câu chuyện xuất phát thành ngữ xem “nghĩa công nặng hơn tình riêng.”

Thời Đông Châu Liệt Quốc (Trung Hoa), nước nào cũng lo tranh giành Vương Bá. Bấy giờ thế vua Tề đang mạnh, kéo quân sang đánh nước Lỗ. Khi đến biên giới Tề Lỗ, dân chúng kinh sợ chạy trốn. Trong số đó có một người đàn bà, tay bồng đứa bé, tay dắt một đứa nữa. Thấy đoàn binh kéo gần tới, người ấy liền bỏ đứa bé trên tay xuống đất rồi bồng đứa nhỏ đang dắt lên mà chạy, bỏ mặt đứa kia kêu khóc.

Viên chủ tướng nước Tề thấy vậy, liền cho lính bắt nàng ấy đến hỏi thì được nàng cho biết :

– Đứa bỏ lại là con ruột của tôi, còn đứa bé tôi bồng chạy đi là con của người anh cả tôi. Vì tôi liệu sức không thể bảo toàn cả hai đứa; nên đành phải bỏ bớt một đứa.

Tướng Tề hỏi tiếp :

– Mẹ con là tình máu mủ, tại sao nàng đành bỏ con mà đi cứu người khác?

Người đàn bà đáp :

– Anh tôi trước khi chết có ký thác cho tôi nuôi nó để phụng sự Tổ Tông, nối dõi; cho nên con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công, bỏ con tuy đau xót thật, nhưng tôi không thể làm việc vô nghĩa mà bỏ con anh tôi. Vì làm thế tôi không thể vác mặt sống ở nước Lỗ này được !

Nghe nói tướng Tề liền cho dừng quân lại và sai người về tâu lại với vua Tề :

– Nước Lỗ chưa có thể đánh được, vì quân ta mới đến cương giới, đã thấy một người đàn bà ở thôn quê còn biết trọng nghĩa công hơn tình riêng. Huống chi các quan lại, sĩ phu trong nước Lỗ làm gì họ chẳng gì nghĩa công mà liều chết chống quân ta.

Vua Tề nghe qua cho là phải, lập tức triệu đoàn quân viễn chinh về nước, bãi cuộc xâm lăng.

Xét ra nước Lỗ chỉ nhờ một người đàn bà biết trọng nghĩa công mà khỏi nạn binh lửa. Sau đó mấy ngày, vua Lỗ hay được chuyện, liền cho vời người đàn bà ấy về trào, thưởng cho nàng 100 tấm lụa và sắc phong hai chữ danh dự “nghĩa Cô” ([8])

Thời nay Đức Thầy dùng hai chữ nghĩa công qua hai câu giảng nêu trên là có ý khuyên toàn dân đối với đồng bào chủng tộc hay thân quyến bạn bè, dù ai có thù hận oán ân cũng nên gác bỏ để lo thi hành việc công nghĩa, có lợi ích cho dân cho nước và vạn loại chúng sanh.

16 – NGỌN ĐÔNG PHONG

“Nghĩ đến đây gió ào ào thổi,

              Ngẩng mình ra nhìn NGỌN ĐÔNG PHONG.”
(Thu đã cuối)

Ba chữ “Ngọn Đông Phong” tức là ngọn gió Đông Nam, do thành ngữ “Phong vân bất trắc” xuất phát từ đời Tam Quốc (TH).

Bấy giờ Tào Tháo từ Bắc Ngụy, kéo 80 vạn quân đến, trước đánh Đông Ngô, sau bình Tây Thục. Chiến thuyền của Tào dàn binh tại sông Trường Giang, gần núi Xích Bích. Do đó Lưu Bị nhờ Khổng Minh một mình sang hiệp cùng Đông Ngô thiết kế phá binh Tào Tháo. Sau khi bàn thảo, tất cả đều đồng ý lập trận hỏa công.

Châu Du là quan Đô Đốc của Đông Ngô, vì tốn rất nhiều công của, binh mã trong việc dụng hỏa công, mọi việc đã chuẩn bị, song gặp phải gió ngược không thuận tiện cho cuộc đốt phá quân Tào. Buồn tức quá nên Châu Du sanh bịnh ! Khổng Minh đoán biết, nên đến gặp Du để hỏi thăm chứng bịnh.

Châu Du nói :

“Nhơn hữu đản tịch chi họa phúc, khởi năng tự bảo”

(Người có họa hay phước, trong sớm tối ai giữ được).

Khổng Minh liền đáp :

“Thiên hữu bất trắc chi phong vân, nhơn liệu khả năng liễu hồ” (trời có mây gió không chừng, nào ai dám biết rõ được).

Nghe Khổng Minh nói trúng bịnh mình, Châu Du cả kinh nhưng giả vờ thản nhiên hỏi :

– Ông có thuốc chi trị bịnh giúp tôi !

Khổng Minh thong thả đáp :

– Tôi có thuốc, nói rồi mượn giấy mực kê toa. Ông biên ít dòng chữ đưa cho Châu Du xem :

“Dục phá Tào công,

Nghi dụng hỏa công.

Vạn sự cụ bị,

Duy khiếm gió Đông.”

(Muốn đánh Tào Công, phải dùng hỏa công.

Muôn việc đã xong, Chỉ thiếu gió Đông).

Châu Du xem qua càng thêm kinh hãi, nghĩ thầm : Khổng Minh thật là bậc Thần Thánh, đoán được ý ta. Cho nên, Du đành chịu thiệt : vì quên nghĩ đến thời tiết mới bày trận hỏa công, rất nhọc công phí sức mà dùng không được, nên tôi tức tối mà sanh bịnh, nhờ tiên sinh có cách nào trợ giúp?

Khổng Minh nói :

– Trước kia, tôi có gặp một Dị Nhân cho quyển “Kỳ Môn Độn Giáp Thiên Thơ, có thể gọi gió kêu mưa được. Nếu Đô Đốc muốn cần gió Đông Nam thì phải sai người lập cho tôi một cái Đàn, tại núi Nam Bình, bề cao 9 thước, chia làm 3 tầng dùng 120 người cầm cờ đứng chung quanh, tôi sẽ lên Đàn cầu mượn gió Đông Nam cho Đô Đốc 3 ngày.

Châu Du nói :

– Chẳng cần tới 3 ngày, chỉ một đêm gió thuận là được !

Khổng Minh cho biết :

– Đến ngày 20 tháng 11, là ngày Giáp Tý mới bắt đầu tế gió, đến ngày 22 (Bính Dần) thì có gió.

Châu Du nghe nói vui mừng, vùng đứng dậy như người không có bịnh, liền ra lịnh cho binh tướng đắp đàn. Khổng Minh từ giã Châu Du, rồi cùng Lỗ Túc đến núi Nam Bình xem địa thế, và sắp đặt mọi việc, chờ đến ngày 20 lên đàn cầu gió.

Trước khi lên đàn Khổng Minh bảo Lỗ Túc : ông hãy về giúp Châu Du điều khiển binh nhung, nếu tôi cầu không được gió cũng đừng nên trách. Túc đi rồi ông ra lịnh cho các binh tướng coi đàn : mỗi người miệng ngậm thẻ không được ngó lên; cấm không ai được tự tiện bỏ chỗ đứng của mình và cũng chẳng được sợ hãi hoặc quay đầu nói năng bậy bạ. Ai trái lịnh sẽ bị chém đầu ! Cả thảy đều tuân lịnh răm rắp. Khổng Minh mỗi ngày lên đàn 3 lần xuống đàn 3 lần.

Hôm ấy trời gần tối, bầu trời vẫn sáng sủa yên lặng, không thấy một tí gió nào. Du nói với Lỗ Túc :

– Khổng Minh nói sai rồi, trời Đông tháng rét thế này, làm gì có được gió Đông Nam?

Túc đáp :

– Tôi chắc Khổng Minh không phải là người nói sai. Gần đến canh ba, bỗng nhiên nghe tiếng gió thổi, cờ quạt tung bay về hướng Tây Bắc. một lát, gió Đông Nam thổi lên ầm ầm. Du giật mình nói :

– Người này (Khổng Minh) có phép đạt được trời đất, tài thật hơn quỉ thần ! Nếu để y sống, thế nào cũng gây vạ lớn cho Đông Ngô ta, chi bằng giết y trước là hơn. Du liền sai Từ Thịnh và Đinh Phụng điều binh thủy bộ đến ngay đàn cầu gió chặt đầu Khổng Minh, khỏi nói gì hết ! Mặt khác, Du lo điều binh đến đốt Tào Tháo. Trận giặc này tiêu diệt trên 80 muôn binh, tướng của Tào. Chỉ sống sót mấy mươi tên chạy theo Tháo về đến Huê Dung Đạo, may nhờ Quan Công Hầu nhớ đến nghĩa xưa, nên tha cho Tháo về nước.

Còn hai tướng lãnh lịnh đến đàn giết Khổng Minh thì khi tới nơi, ông đã xuống thuyền nhỏ, do Triệu Tử Long chực sẵn rước đi, cách đó không xa ([9]). Hai tướng cho căng buồm bọc gió đuổi theo, nhưng khi thuyền gần kịp, bị Triệu Tử Long gương cung bắn đứt dây lèo. Thuyền Đông Ngô quay ngang muốn lật không đuổi theo được. Bấy giờ Triệu Tử Long mới cho trương buồm lướt sóng. Về đến nước Khổng Minh sắp đặt các tướng đánh chiếm các châu quận.

Qua trận Xích Bích, thấy rằng Khổng Minh chỉ có một mình sang Đông Ngô dùng ba tấc lưỡi và mượn gió Đông phong mà thành công lớn, chiếm được các nơi : Nam Quận, Kinh Châu, Quế Đương v.v... Từ đó, thân thế và đất đai của Lưu Bị (Tây Thục) được nới rộng. Còn Đông Ngô phải phí tổn bao nhiêu công của, binh tướng đánh đuổi Tào Tháo nhưng không chiếm được Châu Quận nào. Châu Du tức khí mà hộc máu. Từ đó hai nước sanh bất hòa và gây chiến với nhau.

Nên biết lúc Đức Thầy sáng tác bài thơ “Thu đã cuối” có hai câu giảng nêu trên là Ngài đang bị người Pháp quản thúc tại nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn) năm Canh Thìn (1940). Hôm ấy vào lúc cuối mùa thu, bước sang mùa Đông, nên mới có gió bấc thổi lai rai, mà gió Bấc tức là gió thổi từ hướng Bắc hoặc hướng Đông Bắc thổi về; nhưng lúc đó lại có ngọn Đông Phong, tức là gió từ hướng Đông Nam thổi tới. Cho nên Đức Thầy mới nhớ tới chuyện Khổng Minh thời Tam Quốc xưa kia, nhờ có ngọn gió này (Đông Phong) mà ông thành công rực rỡ.

Còn Đức Thầy hiện nay Ngài cũng cho biết : tuy bị bọn tham quan a tùng với người Pháp chèn ép Tôn Giáo và đày sắt các nhà yêu nước, yêu dân; nhưng sẽ có một ngày kia, gió Đông Phong thổi tới ([10]) thì đám sâu dân mọt nước ấy chẳng còn (muỗi mồng bay tan) : “Tham quan chừng ấy vắng tăm, Mọt dân chừng ấy kiếm tầm đâu ra”) ([11]) bấy giờ nền Đạo của Ngài mới được hanh thông sáng tỏ.

 

17 – SANH VI TƯỚNG TỬ VI THẦN

“SANH VI TƯỚNG TỬ VI THẦN,

Câu châm ngôn ấy truyền lần đến nay.”
(Gọi Đoàn)

Thành ngữ “Sanh Vi Tướng Tử Vi Thần” để nhắc đến các bậc hết lòng trung nghĩa với Quốc dân; dù còn sống hay chết đi cũng là thần dân của đất nước mình, chớ không hề thay lòng đổi dạ. Dân tộc Việt Nam thường lấy câu châm ngôn cho con cháu đời đời. Xưa nay xuất phát qua nhiều truyện tích, đây xin lượt kể một vài truyện :

1 – Theo sử Việt Nam vào đời nhà Thục, vua An Dương Vương có hai quan trung thần là Vũ Trung và Lỗ Quốc. Hai ông đã nhiều phen chống nhà Triệu phương Bắc.

Vũ Trung được vua phong chức Đô Thống, sau thăng hàm Thái Bảo. Còn Lỗ Quốc được làm Tổng Binh, sau thăng hàm Thái Sư.

Thời gian sau Thục Vương lầm mưu kế thân với Triệu Đà, gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Trọng Thủy gạt Mỵ Châu đổi được nỏ thần đem về rồi kéo quân đánh trở lại.

Bấy giờ nước Thục lâm vào thế yếu, hai tướng Vũ Trung và Lỗ Thống chống trả quyết liệt, song bị thua dần. Một hôm lui quân đến Trang Quế Nhâm. Bị hòn núi cản đường, hỏi ra mới biết đấy là Thổ Sơn. Lỗ Quốc liền ứng khẩu ngâm mấy vần thi :

“Lỗ Sơn nhân hề ! Lỗ Sơn dân,

Sanh vi dũng tướng tử vi thần

Sơn hà tuy hủ, anh hùng cốt,

Danh tính truyền lưu vạn cổ tân.”

 

(Người Lỗ Sơn chừ ! Dân Lỗ Sơn,

Sống làm tướng mạnh, thác làm thần

Xương tàn thân mất, hồn không mất,

Thanh sử truyền ghi mãi vạn đời).

– Ngâm thơ xong Lỗ Quốc liền tự sát. Vũ Trung lo chôn xác bạn vừa xong, kế binh Triệu đánh ùa tới. Ông dẫn tàn quân chạy đến Lâm Ấp, (quanh Hồ Tây) truyền quân dừng lại, lập miễu thờ Lỗ Quốc; cúng tế Xong ông uống rượu ngâm thơ, trong thơ người ta chỉ còn ghi chép được một câu : “Nan Đệ, Nan Huynh, nghĩa đồng sanh tử” (khó được anh em nào vì nghĩa mà cùng sống thác chung thỉ với Quốc dân). Ngâm thơ xong ông cũng nhảy xuống Hồ Tây tự tử.

Lúc đó người địa phương ai cũng thấy, một đạo hồng quang từ dưới hồ bốc lên trời, rồi dần dần tan biến. Từ đó tiếng tăm và sự linh ứng của hai quan trung thần nổi dậy, qua các Triều đại đều tôn sùng hai bậc vị Quốc vong thân ấy.

2 – Chuyện thứ hai là thời cận đại, lúc người Pháp vừa đặt chân đến đất Việt Nam; Chắc không còn ai lạ gì với Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực?

Ông sinh năm 1837, tại tỉnh Bình Định (Trung phần), trong một gia đình chài lưới ở cặp bờ biển, con của cụ Nguyễn Trung Thăng. Cũng có thuyết nói ông là Chơn hay Lịch (Quản Chân, Quản Lịch) ở tỉnh Tân An (Nam phần). song vì bà cụ thân sinh ông, nói tiếng hơi cứng, nên xác định quê ông ở Bình Định đúng hơn.

Vì căm thù quân Pháp nên gia đình ông và số người đồng hương di cư vào Định Tường (Nam phần). Trong đoàn có cụ Quản Cơ Lê Đình Vạn đứng ra chiêu tập nghĩa binh trên 200 người chực cơ đánh Pháp. Sau vì già bịnh, cụ Vạn giao binh quyền lại cho cụ Nguyễn Trung Trực, từ đấy ông lập được nhiều chiến công oanh liệt như sau :

1 – Ngày mùng 10 tháng tư – 1861 Thủy Sư Đô Đốc Charner cho quân đổ bộ lên bờ sông Bảo Định. Chính cụ Nguyễn điều động nghĩa binh tiêu diệt hơn 30 binh sĩ Pháp và tên chỉ huy Bondais bị hạ tại chỗ.

2 – Ngày 22 tháng 6 năm 1861 Tướng Phaulinval tiến đánh Định Tường. bị cụ Nguyễn dùng kế “không thành” đánh Tướng Phaulinval trọng thương và quân Pháp chạy bán chết bán sống.

3 – Kế quân Pháp gom toàn lực bao vây đồn Thược Nhiêu. Cụ liền phân binh trong một đêm đánh triệt hạ 7 đồn binh của chúng.

4 – Ngày 11 – 12 – 1861 Ngài dùng hỏa công đánh đốt chiếc tàu Espérance tại vàm sông Nhựt Tảo. Ngọn lửa cháy ngất trời cả một khúc sông. Chính cụ chém được đầu trung tá Parfait xách lên bờ cho dân chúng xem.

5 – Đêm 5 – 6 – 1866 Ngài tiến đánh đồn Kiên Giang (Rạch Giá), giết được 5 võ quan Pháp và 67 lính Tây, bắt sống 6 tên và đoạt được 100 khẩu súng vô số đạn dược.

Sau cùng bị số người theo Pháp bày mưu bắt mẹ Ngài và cả trăm đồng bào giam giữ; buộc Ngài ra mặt, họ mới trao trả.

Bấy giờ Ngài thấy cuộc kháng Pháp không thể kéo dài thêm nữa. Vả lại cần cứu sống hàng trăm nhân mạng nên Ngài giải tán nghĩa binh, rồi tự trói mình nạp cho Pháp để chuộc mẹ và số đồng bào.

Quân Pháp dùng đủ cách dụ hàng, nhưng không thể lay chuyển được lòng trung nghĩa của Ngài. Cho nên họ đem Ngài ra hành quyết vào ngày 28– 8 năm Mậu Thìn (27– 10– 1868). Trước khi tử hình Ngài có ứng khẩu bài thơ tuyệt mệnh, lời lẽ khí khái và thống thiết vô cùng :

“Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,

Yêu gian đởm khí hữu Long Tuyền.

Anh hùng nhược ngộ vô dung địa,

Báo hận thâm cừu bất đái thiên.”

Thi sĩ Đông Hồ dịch :

“Theo việc binh nhung tự thuở trai,

Phong trần hăng hái tuốt gươm mài,

Anh hùng gặp phải hồi không đất,

Thù hận chang chang chẳng đội trời.”

Sau khi vị Quốc vong thân, Ngài được vua Tự Đức sắc tứ truy phong là “Quan Thượng Đẳng Đại Thần”, hiện giờ đền thờ chánh của Ngài tại xã Vĩnh Thạnh Trung tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá).

Bởi Quan Thượng Đẳng trung hiếu lưỡng toàn, nên sau khi bỏ xác chơn linh Ngài hiển Thánh và đến thọ giáo với Đức Phật Thầy Tây An (trường hợp này giống như Quan Công Hầu, sau khi hiển Thánh, ông đến suối Ngọc Tuyền qui y với Trí Giả Thiền Sư, sau chứng Đạo là Già Lam Quan Đế) ([12])

Trong một bài thơ khoán thủ có đề cập đến Quan Thượng Đẳng Đại Thần, do Đức Thầy sáng tác năm Canh Thìn (1940) với tựa đề “Lý Lịch”

“THƯỢNG : thẩm Đạo mầu nẻo cao sâu,

ĐẲNG : đẳng hãy làm chớ để lâu,

ĐẠI : pháp vô vi là chơn lý,

THẦN : làm trọn vẹn khỏi lo âu.”

Thẩm xét bài thơ trên, thấy hàm dung bao ý nghĩa chứng minh rằng Ngài Nguyễn Trung Trực theo Đức Thầy chuyển kiếp độ đời qua bốn chữ Khoán thủ.

Nhận xét của cụ Nguyễn không dài lắm, nhưng tâm đức của Cụ gồm đủ “TRUNG, HIẾU, TIẾT, NGHĨA”. Giờ đây tuy xác thân của Cụ phải trả về cho tứ đại, nhưng hồn thiêng và danh nghĩa của Cụ còn sống mãi tới ngàn sau, muôn đời sử xanh hằng ghi tạc. Thật xứng với câu châm ngôn “Sanh vi tướng, tử vi thần”.

Dùng thành ngữ này trong bài “Gọi Đoàn”. Đức Thầy muốn kêu gọi các tướng binh thời chống Pháp hãy noi gương Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa ấy. Chính Ngài cũng lấy hiệu danh cho Quân đội kháng Pháp là Bộ Đội : “Nguyễn Trung Trực”. Ngài cũng từng thốt trong bài “Sứ Mạng” : “Những tiền kiếp dầu sống cũng là dân quan đất Việt, dầu thác cũng quỉ thần đất Việt chớ bao lìa”. Và những câu :

“Trổi hùng phong cốt cách duy tồn,

Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất”.

Qua hai sự tích trên đây đã nêu lên tấm gương tiết khí cao cả và giúp cho người sau làm bài học ghi nhớ muôn đời.

 

18 – Ô NGÂN – CẦU NGÂN – MƯA NGÂU

“Bấy lâu chạnh cám Ô NGÂN,

Bây giờ hiệp mặt phân trần sạ dươn.”
(Viếng làng Mỹ Hội Đông)

“Chim Ô đà dựa CẦU NGÂN,

Người xưa trở gót mấy lần ai hay.”
(Dặn Dò Bổn Đạo)

“Thân nặng nề như chim Ô Thước,

Quyết làm xong cầu đá SÔNG NGÂN.”
(Nang thơ Cẩm Tú)

Các thành ngữ nêu trên đều là pháp xuất từ điển tích Ngưu Lang và Chức Nữ. hai người vốn hai ngôi sao trên trời (sao Ngưu và sao Chức).

Ngâu là do chữ Ngưu đọc trại. Chàng Ngưu thì lo việc chăn nuôi cày cấy, còn nàng Chức Nữ thì lo thêu dệt vá may, việc làm rất siêng sắn. Thượng Đế thấy thương cho hai người kết duyên tơ tóc, nhưng khi có đôi bạn, hai người lại sanh ra lười biếng. Thượng Đế bắt tội, đày mỗi người mỗi nơi, cách sông Ngân Hà; hằng năm cứ đến ngày mùng 7, tháng 7 mới cho hai người gặp nhau một lần, tại bến sông Ngân.

Vì cách nhau suốt năm trường, nên khi hai người gặp lại nửa mừng nửa tủi, nước mắt rơi xuống thành những đám mưa phùn. Cho nên từ trước đến nay người ta thường gọi mưa phùn vào lúc tháng 7 là mưa Ngâu (mừng ra nước mắt).

Tương truyền là Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau có chim Ô Thước (chim quạ hoặc chim khách) đội đá bắt cầu cho đôi đàng hiệp mặt. Vì thế chung quanh điển tích này những nhà văn còn dùng thêm các từ ngữ như : Ô thước hay cầu đá sông Ngân.

Tóm lại các từ ngữ có liên quan tới điển tích nói trên đều có ngụ ý chỉ cho sự trùng phùng. Từ vua tôi. Thầy trò hoặc chồng vợ có duyên lành liên hệ với nhau dù bị xa cách thế nào hay thời gian bao lâu đi nữa cũng có ngày trùng phùng hội hiệp. Chuyện Quan Âm Thị Kính có câu : “Thiệt công Ô thước bắt cầu” và Đức Giáo Chủ cũng từng nói :

“Mảng sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp,

Lo chi Ô thước chẳng xong cầu.”

 

19 – SÂM THƯƠNG

“Sum vầy chiếc nhạn SÂM THƯƠNG,

Nho văn cảm kính hiền lương của người.”
(Viếng làng Mỹ Hội Đông)

Sâm thương là hai vì sao trên nền trời. Sâm là sao Hôm, tối mọc về hướng Tây, Thương là sao Mai; sớm mọc về phía Đông. Hai vì sao này không mọc chung với nhau một lần được Đường Thi có câu : “Nhân bất tương kiến, động như Sâm dữ Thương”. Có nghĩa : người sống xa cách không gặp được nhau như sao Sâm và sao Thương vậy.

Thành ngữ này do điển tích Yên Bá và Thực Trầm là anh em ruột con của Cao Tân, tánh tình bất hòa hai người cải vã nhau luôn. Một hôm thấu tới tai Ngọc Hoàng, Ngài liền bắt tội đem đày Yên Bá ở phía Đông làm sao Mai (Thương) và Thực Trầm ở phía Tây làm sao Hôm (Sâm). Từ đây mỗi người mỗi phương không còn gặp nhau nữa.

Do tích này về sau các Văn Nhân, thi sĩ thường dùng chữ “Sâm Thương” để diễn tả sự xa cách không thấy mặt nhau. Người ta thường nói : “Sâm Thương cách trở”. Chinh Phụ Ngâm có câu : “Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương”.

Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng viết :

“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân.”

Xét về chữ “Sâm Thương” mà Đức Thầy dùng ở đây : “Sum vầy chiếc nhạn Sâm Thương”. Có nghĩa : từ lâu tuy tớ Thầy cách trở như hai sao Sâm và Thương. Song bây giờ lại được gặp mặt (sum vầy).

 

20 – BÓNG THỎ

“Rạng vừng mây BÓNG THỎ lạc nhàn,

Để chuyến khác cạn câu hoài vọng.”
(Cho Tham Tá Ngà)

Bóng thỏ : do chữ “Ngọc Thố” hay “Bạch Thố”, tức là con thỏ bằng ngọc trắng. Nghĩa bóng : là chỉ cho mặt trăng. Tục truyền có con thỏ bằng ngọc.

Trong kinh Phật cũng có kể lại sự tích : Ngày xưa, có con thỏ, tánh rất hiền từ, biết thương xót đồng loại. Bấy giờ gặp thời hạn hán, không còn cây cỏ nuôi sống, các nhà thỏ khác lần lượt chết đói rất nhiều. Con thỏ này động mối từ tâm mới kêu đồng bọn nói :

“Các anh hãy tựu lại đây tôi sẽ biếu cho thức ăn đỡ lòng”. Nói rồi thỏ tự nhảy vào đống lửa thiêu mình để hiến xác nó cho đồng loại đỡ đói trong ngày, chỉ còn lại bộ xương.

– Phật thấy vậy rất thương cảm tấm lòng hy sinh của thỏ, nên dùng pháp diệu cứu thỏ sống lại và đem cho ở trên cung trăng.

Từ đó các Văn Nhân thường dùng từ thỏ Ngọc hay Bóng Thỏ (Ngọc Thố) để chỉ cho mặt trăng.

Nguyễn Du có câu : “Trải bao Thỏ lặn ác tà”. Bài thơ văn Nguyệt của tác giả vô danh có nói :

“Hỡi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?

Chớ chị Hằng Nga đã mấy con?”

Và bài Phú Nguyễn Hằng có câu :

“Nghiệm một chút diều bay cá nhảy mới hay Đạo lý huyền vi. Thấy đôi vừng thỏ lặn ác tà, biết thuở cơ thường biến đồi?”

Câu : “Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn” ở đây có ý nói : Trăng sắp lặn, trời sắp sáng ra, chỉ cho thời gian hết đêm tới ngày

21 – NON LỊCH

“NON LỊCH đài mây rạng tu mi,”
(Vén Màn Bí Mật)

“NON LỊCH rừng nhu lộ vẻ rồng,

Danh hiền ban rải khắp Tây Đông.”
(Đáp lời ông Nguyễn Thanh Tân)

Non lịch nghĩa của chữ “Lịch Sơn” phát xuất thời Ngũ Đế (Trung Hoa); do điển tích vua Thuấn cày ruộng ở “Lịch Sơn” (Núi Lịch), được vua Nghiêu rước về truyền ngôi báu.

Ông họ Diêu, tên Thuấn. Cha ông là người rất hung bạo, không phân biệt được kẻ dở người hay, nên người đương thời gọi tên ông là Cổ Tẩu (người mù mắt). Mẹ ông Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu tục huyền với người vợ sau, sanh được người con trai tên là Tượng. Vì sự gièm pha của kế mẫu và người em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cổ Tẩu không ưa ông Thuấn và tìm cách giết đi. Biết thế nhưng ông vẫn trọn gìn giữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán.

Khi Cổ Tẩu bắt ông đi cày ruộng ở đất Lịch Sơn, cốt là để cho ông chết. Vì nơi đây có tiếng rất nhiều thú dữ ăn thịt người; Bởi tâm hiếu thuận động đến lòng trời nên có cả đàn voi ra giúp ông cày đất, và các loài chim đáp xuống nhổ cỏ hộ. Thấy không hại được ông, Cổ Tẩu và người dì ghẻ sai ông đánh cá ở Hồ Lô Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khi ông đến thì sóng lặng gió yên.

Vua Đường Nghiêu nghe đến đức hiếu của ông, bèn vời về truyền ngôi. Trong suốt 61 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi khảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca. Người sau thường làm thơ tán tụng ông, đây xin trích một đoạn :

      “...Trời cao thẳm mấy lần cũng đến,

     Vật vô chi cũng mến lọ người.

        Mấy phen Non Lịch pha phôi,

Cỏ chim vì nhặt, ruộng voi vì cày,

     Tiếng hiếu hữu bay xa Bệ Thánh,

     Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi

        Cầm kỳ xiêm gió thảnh thơi,

Một nhà đầm ấm muôn đời ngợi khen.”

Dùng thành ngữ “NON LỊCH” qua các câu thơ kể trên Đức Thầy muốn nói : Ngài có trách nhiệm xây dựng cho dân tộc được sống cuộc đời thanh bình như thời Nghiêu, Thuấn. Bằng cách : Mỗi người đều biết trau giồi tâm đức cho thuần lương cao khiết để xứng đáng làm công dân thời Thượng Ngươn Thánh đức ấy.

22 – CỘT ĐỒNG NHÀ NAM

“Chúng sanh hãy tưởng giống dòng,

                Hiệp tâm, hiệp chí CỘT ĐỒNG NHÀ NAM”.
(Thiên Lý Ca)

“Cột Đồng Nhà Nam”, do câu : “Đồng tru chiết, Giao Chỉ diệt”, xuất phát từ thời Bắc thuộc lần thứ hai.

Sau khi Mã Viện, tướng nhà Đông Hán đánh được Trưng Nữ Vương liền sát nhập đất Giao Chỉ ta thuộc về nhà Hán. Mã Viện cho chỉnh đốn binh lương, đem quân đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp lũy đến đó và biến cải mọi cách chính trị trong các châu quận. Mã Viện đem phủ trị về đóng ở Mê Linh và dựng cây cột đồng ở chỗ phân chia địa giới, có khắc sáu chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Có nghĩa : chừng nào cây đồng trụ này đổ (ngã) thì người Giao Chỉ phải mất nòi.

Bấy giờ người Giao Chỉ chúng ta vì sợ mất nòi giống, nên mỗi ai khi đi ngang qua chỗ đó đều liệng vào gốc đồng trụ một hòn đá, ý làm cho cột đồng đứng vững, dân Giao Chỉ trường tồn. Lâu ngày như vậy, đá chồng chất lên cao như ngọn núi, cột đồng trụ không thể ngã được.

Dùng thành ngữ “CỘT ĐỒNG NHÀ NAM”. Đức Thầy có ý biểu dương tinh thần đoàn kết, chung sức của quốc dân ta thời ấy và khuyến khích người sau noi dấu.

23 – TRI ÂM

“Nay gặp bạn “TRI ÂM TRI KỶ,”

Cho những điều thiện mỹ cổ lai.”
(Cho Tham Tá Ngà)

Tri âm có nghĩa là biết tiếng, tức là nghe tiếng đờn mà biết được ý chí lời lẽ. Ý chỉ cho tình bạn thâm giao, hiểu biết lòng nhau; Do điển tích Bá Nha và Tử Kỳ.

Bá Nha tộc danh là Du Thụy, làm quan Thượng Đại Phu nước Tống, thời Chiến Quốc (TH). Một hôm ông đi sứ nước Sở về, gặp đêm trăng thanh gió mát, cảnh vật nên thơ, ông cho dừng thuyền ở mé sông Hàm Dương rồi lấy đờn ra khảy. Tiếng đờn du dương thảnh thót, bỗng nhiên đờn bị đứt dây, ông kinh ngạc bèn sai tiểu đồng lên bờ tìm xem có ai nghe trộm không? Có tiếng người đáp lại :

– Xin đại nhơn chớ ngại, tôi là tiều phu đi đốn củi về ngang, nghe tiếng đàn của Đại nhân hay quá nên dừng lại nghe, chớ không phải là kẻ bất lương.

Bá Nha nửa tin nửa ngờ liền mời Tử Kỳ xuống thuyền. Ông sửa dây đàn, khảy lên một bản rồi hỏi Tử Kỳ : Ông bạn nói biết nghe âm nhạc, vậy tôi đàn bản vừa rồi là bản gì?

Tử Kỳ đáp :

– Đó là khúc nhạc Đức Khổng Tử khóc Thầy Nhan Hồi, tài cao mà đoản mệnh.

Bá Nha khen thầm, liền sửa dây tưởng mình trên núi cao khảy lên :

Tử Kỳ tán thán : “Nga nga hồ chí tại cao sơn” (Thật chí của đại nhơn tuyệt vời trên núi cao).

– Bá Nha thả hồn theo dòng nước đàn một bản nữa.

– Tử Kỳ cũng ca ngợi : “Dương dương hồ chí tại lưu thủy” (Chí của đại nhơn cuồn cuộn nơi dòng nước chảy)

Bá Nha hết sức vui mừng nhận Tử Kỳ là bạn tri âm, biết thưởng thức điệu dao cầm qua ý chí của mình, rồi mới cùng nhau yến ẩm và kết bạn thâm giao. Sáng lại, trước khi từ giã hai người hẹn nhau sang năm này sẽ tái ngộ nơi đây.

Một năm trôi qua, đến ngày hẹn. Bá Nha trở lại bến cũ, trông mãi chẳng thấy Tử Kỳ, bèn lấy đàn ra khảy, tiếng đàn phát ra nghe ai oán não nùng ! ! ! Lòng nghi ngại, Bá Nha đợi sáng ra lên bờ tìm tới nhà mới thấy Tử Kỳ đã chết, ông liền đến bên mộ Tử Kỳ bày nghi án cúng tế, rồi lấy đàn ra khảy bản “Thiên thu trường hận” bản dịch của người sau như vầy :

     “Năm qua nhớ một chiều thu,

Bến sông trong chiếc cô chu gặp người,

     Năm nay trở lại thôi rồi,

Tri âm đâu vắng, trăng trôi lạnh lùng !

     Núi hoang một nắm mồ phong,

Trăm năm đeo vết thương lòng nơi đây !

     Lòng đau đày đoạn tháng ngày,

Giọt sương hồ cạn lệ đầy tâm tư !

     Sầu dâng lớp lớp trầm phù,

Đến vui đi những mịt mù khổ đau !

     Tử Kỳ em hỡi nơi nào.

Mấy vàng so được cao sâu nghĩa này !

     Cung đàn ta khảy hôm nay

Tơ đàn đã đứt từ đây phiếm lòng !

     Đàn ơi năm sợi tơ đồng,

Thiên thu xin gởi theo cùng cố nhân !”

– Đờn xong, Bá Nha đập chiếc dao cầm bể nát, buồn bã trở về ngâm lên bốn câu thơ (chép theo bản nôm)

“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,

Đờn vắng Tử Kỳ, đờn với ai?

Gió xuân khắp mặt bao bè bạn,

Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay !”

Đức Thầy dùng thành ngữ tri âm qua hai câu giảng nêu trên ý để kêu gọi ai là người thấu hiểu được lời giáo pháp của Ngài hầu thực hành theo :

     “Điệu đờn trổi khúc huyền thâm,

Nhà nghề chọn bản tri âm đâu nào?”

 

24 – TRI K

“Nghĩ việc đời xưa, gẫm việc nay,

   Ai người TRI KỶ, ai là ai?”
(Ai người tri kỷ)

Tri kỷ là người bạn thân, tốt, biết rõ lòng nhau, những tâm tình, trắc ẩn không thể nói với ai mà chỉ người bạn đó biết cho mình, tình bạn tri kỷ ấy thật hiếm có. Do điển tích Bảo Thúc Nha và Quản Trọng.

Hai người đều sống thời chiến quốc, kết bạn thân với nhau. Lúc chưa làm quan hai người hùn vốn đi buôn. Quản Trọng tìm cách chia phần lời nhiều hơn, nhưng Thúc Nha không buồn, lại nói rằng : Quản Trọng cần có tiền nhiều để nuôi mẹ. Khi mới ra làm quan, Quản Trọng làm nhiều việc không thành, ai cũng chê, chỉ có Thúc Nha biết tài cao cho là Quản Trọng chưa tới thời. Khi ra trận Quản Trọng hay lùi lại phía sau, mọi người đều cười cho là nhát, chỉ có Thúc Nha bảo Quản Trọng còn mẹ già cần phải giữ thân để nuôi mẹ. Khi nước Tề có loạn, mỗi người phò một công tử trốn sang nước khác và hẹn sau ai có chúa được làm vua, phải tiến cử bạn cùng phò một người.

Sau công tử Bạch về nước làm vua, tức là Tề Hoàng Công, Thúc Nha tiến cử Quản Trọng làm Tể Tướng. Quản Trọng giúp Tề Hoàng Công làm nên sự nghiệp, bá chủ khắp chư hầu. Khi sắp chết, Trọng lại không tiến cử Thúc Nha thay mình. Vua lấy làm lạ hỏi? – Quản Trọng đáp :

– Bảo Thúc Nha là bậc quân tử chớ không phải nhà chánh trị. Ông ưa điều thiện, ghét điều ác, lại ghét thái quá đến đỗi không ai chịu được. Người như thế mà nắm quyền chính, ắt hư việc nước. Có người mách việc ấy cho Bảo Thúc Nha nghe, ông cười và nói :

Chính vì thế mà trước kia ta hết sức tiến cử Quản Thượng Phụ cho Chúa Công. Thượng Phụ trung với nước mà không vì bạn, đó là ông chẳng phụ công ta tiến cử. Giả sử Chúa Công phong ta chức Tư Khấu để trừ gian diệt nịnh thì ta nhận ngay. Nếu phong ta làm Tể Tướng thì nhà ngươi và nội bọn còn đâu có chỗ dung thân ! Kẻ ấy mắc cỡ lui ra.

Bởi thế lúc sanh thời Quản Trọng nói : “Sanh ra là cha mẹ ta, còn hiểu ta chỉ có Bảo Thúc Nha”. Do đây người đời sau gọi hai người là bạn tri kỷ.

Đức Thầy dùng điển ngữ tri k kể trên có ý kêu gọi ai là người hiểu rõ ý chí và tâm đức của Ngài, hãy sớm quày đầu hướng thiện. Và cũng ngụ ý rằng : giữa Ngài và môn đồ dầu sống gần hay xa, dầu được nghe lời dạy trực tiếp hay gián tiếp nếu hiểu được tâm chí và việc làm của nhau, tức có duyên Thầy trò với nhau trong nhiều tiền kiếp

     “Duyên lành rõ được Khùng Điên,

Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần”.

 

25 – MỘ KHAN THẦN TỈNH

“MỘ KHAN THẦN TỈNH cần triêu,

Khỏi cơn hoạn nạn lam kiều được lên”.
(Khuyên người giàu lòng phước thiện)

Thành ngữ “Mộ Khan Thần Tỉnh” chỉ cho người con có hiếu thảo thường sớm viếng tối thăm, đấp lạnh quạt nồng cho cha mẹ, do điển tích Hoàng Hương, một trong “Nhị Thập Tứ Hiếu”.

Hoàng Hương người thời Đông Hán (TH). Mẹ mất khi ông mới lên 9 tuổi, ông gào thét và kêu khóc thảm thiết. Nuôi cha rất mực cung kính, sớm khuya thăm viếng hầu hạ không hề xao lãng. Mùa Đông nằm ủ vào chăn chiếu của cha để truyền hơi nóng cho cha khỏi rét. Đến mùa hè thì quạt mùng gối để cha được mát mẻ luôn, nhờ đó mà cha ông được ăn ngon, ngủ yên quanh năm vui vẻ.

Quan Thái Thú sở tại biết được Hoàng Hương là người con chí hiếu, liền làm sớ tâu với vua Hán. Hán Đế ban cho Hoàng Hương tấm biển vàng biểu dương bậc biết hiếu để. Người sau thường ca ngợi :

     “Cho hay tuổi trẻ mà khôn,

Nghìn thu biết Đạo làm con mấy người !”

Dùng thành ngữ “Mộ Khan Thần Tỉnh”, qua hai câu giảng nêu trên. Đức Thầy muốn khuyến tán mỗi người : bổn phận làm con cháu phải lo tròn câu hiếu đạo hầu đền đáp công ơn sanh dưỡng của Tổ Tiên, cha mẹ thì sau này sẽ được tiến lên cảnh Tiên Phật.

     “Hiếu Trung lòng chớ vội quên,

Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên đài”.

 

26 – TƯỚNG BÁI ĐÀN ĐĂNG

“Đường gai góc thiên sơn vạn hải,

Dẹp cho rồi, TƯỚNG BÁI ĐÀN ĐĂNG.”
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)

Thành ngữ “Tướng Bái Đàn Đăng”, cũng gọi là “Đăng Đàn Bái Tướng”. Có nghĩa nhà vua sai lập đàn làm lễ Bái Tướng, phong soái cho bậc đủ tài thao lược, xứng đáng thống lãnh binh quyền dẹp giặc cứu dân.

Ở đây chỉ Khương Thượng Tử Nha, được vua Châu Văn Vương xe giá đến Bàn Khê rước về, giúp vua bảo vệ Tây Kỳ. sau thời gian đúng lúc, võ Vương sai lập đàn Bái Tướng, giao cho Khương Thượng trọng trách thống lĩnh binh nhung và hội chư hầu tại sông Mạnh Tân diệt bạo Trụ – Đó là ông vua cuối cùng nhà Thương rất hôn quân vô đạo. Khương Thượng Tử Nha giúp Võ Vương kiến lập nên cơ nghiệp nhà Châu 800 năm. Đức Thầy có viết thêm những câu :

     “Tử Nha như thể cát đằng,

Tùng quân dựa bóng vui bằng hưng Châu.”

Và lúc bấy giờ :

     “Trụ kia bạo ác phải nhường,

Võ Vương hữu đức đường đường trị dân.”

 

27 – GIẤC MỘNG HOA

“Tỉnh say trong giấc MỘNG HOA,

Mơ màng cũng tưởng như ta bên mình”.
(Từ giã bổn Đạo khắp nơi)

Từ ngữ “Giấc Mộng Hoa” là giấc mộng tốt đẹp, do điển tích Giang Yên, một nhà thơ nổi tiếng ở Trung Hoa.

Lúc đầu ông thích làm thơ, nhưng thơ của ông viết chưa được hay lắm, nhưng ông không nản lòng, lúc nào cũng tha thiết cầu tiến. Nhân một đêm nọ ông nằm mộng thấy nơi đầu cây bút của ông trổ một hoa sen tuyệt đẹp. Bắt đầu từ đó về sau ông làm thơ rất hay, được vang danh là thi sĩ tài hoa, văn chương lỗi lạc.

Qua hai câu giảng trên và điển tích “Giấc Mộng Hoa” Đức Thầy có ý dạy người tu lúc nào cũng tưởng nhớ đến Đức Phật, được trọn lành trọn sáng để tâm tánh đặng đồng hòa với Chư Phật.

     “Tu cầu Phật hóa tánh tình,

Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao.”

 

28 – SÂN TRÌNH

    “Tuy là hữu cảnh vô hình,

Chớ dân lòng tưởng SÂN TRÌNH đáo lai.”
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

Từ ngữ “Sân Trình” thường ghép chung với từ ngữ “Cửa Khổng” làm một thành ngữ “Cửa Khổng Sân Trình”. Ý chỉ nơi Đạo Tràng (Trường dạy Đạo). Theo Phật học thì Đạo Tràng còn chỉ cho cái tâm của mỗi người. Vậy chữ “Sân Trình” là do điển tích ông Trình Tử (Sân dạy học của ông Trình Tử).

Ông sanh vào đời Tống Trung Hoa (1033– 1107), tên thật là Trình Di, hiệu Y Xuyên, nên cũng gọi là Y Xuyên. Ông vốn một nhà Đại Nho, dạy học trò rất đông. Những giờ ông giảng sách, học trò ngồi nghe chật ních từ trong trường đến ngoài cửa, ngoài sân, nên gọi là sân trình.

Ngoài ra ông còn hiệp với Chu Hội An chú thích rất nhiều kinh truyện để lại cho đời. Về sau các nhà văn thường dùng chữ sân trình để chỉ nơi dạy học, dạy Đạo. Nhà thơ Đăng Trần Phát có viết :

“Thế sự sương mờ đôi mắt lạc,

Sân Trình vắng vẻ khách ra vào”.

Qua điển tích và hai câu giảng nêu trên, Đức Thầy có ngụ ý cho biết : Tuy hiện giờ người Pháp bắt thân xác của Ngài lưu đày không còn ở Tổ Đình Hòa Hảo, nhưng chơn linh (pháp thân) của Ngài trùm khắp thế gian, nơi nào cũng có : “Ta phần hồn dạo khắp thế gian”. Nếu tín đồ nào biết thành tâm tưởng nhớ đến Đức Thầy và giữ lòng luôn thanh tịnh tốt lành thì giữa tâm hồn mình và tâm hồn của các Ngài sẽ được giao cảm nhau trong tức khắc (sân trình đáo lai).

 

29 – CA KHNG

“Từ nay CỬA KHỔNG” gài then,

Chờ ta trở lại thì đèn hết lu.”
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

“Cửa Khổng” cũng là thành ngữ, các nhà văn thường dùng để chỉ cho nơi dạy Đạo (Đạo Tràng) phát xuất từ điển tích Thánh Khổng Tử.

Ngài tên thật là Khâu, tự là Trọng Ni, người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nay thuộc phủ Duyên Châu, tỉnh Sơn Đông. Ngài sinh thời Đông Châu Liệt Quốc, ra làm quan trào Đinh Công nước Lỗ, đỉnh chót làm đến chức Tướng Quốc. Ngài học rộng, biết nhiều đạt thông Thánh Đạo. Sau khi châu du nhiều nơi Ngài trở về nước cũ dạy học và viết sách, lập thành nền Nho giáo (Khổng Giáo). Học trò thụ học với Ngài trên 3.000, phần xuất sắc nhất là được 72 người hiền, nắm vững giềng mối của Đạo và lảu thông lục nghệ ([13]) thi cử đỗ đạt.

Do đó về sau các làng văn thường dùng thành ngữ “cửa Khổng” để chỉ nơi dạy Đạo hoặc dạy học ạo tràng).

Nhà thơ Ức Trai đã viết :

“Trước cửa Khổng cung tường chính nhận,

Bước lên đường vào cửa thung dung”.

Dùng thành ngữ “Cửa Khổng” trong hai câu trên, Đức Thầy có dụng ý cho biết : từ đây, người Pháp sắp lưu đày Ngài, thì nơi Đạo Tràng Tổ Đình Hòa Hảo, Ngài không còn thuyết giảng Đạo lý như trước và tín đồ cũng ít lui tới (gài then). Cho đến chừng nào Ngài được trở về Tổ Đình thì nền Đạo hạnh sẽ được sáng tỏ hanh thông; nên Ngài cho biết : “Chờ Ta trở lại thì đèn hết lu”. Và :

     “Chừng nào Thầy lại gia trung,

Thì trong bổn Đạo bóng tùng phủ che”.

 

30 – KIM LÂN XÍCH PHỤNG

“KIM LÂN XÍCH PHỤNG” lâm nàn,

Cho nên phận Lão đâu an thân già.”
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

Thành ngữ “Kim Lân Xích Phụng” là chỉ hai trong bốn con thú linh “Long, Lân, Qui, Phụng một đàn tứ linh”. Song ghép thêm hai chữ Kim và Xích là vàng và đỏ, nghĩa bóng chỉ cho sự quý báu tốt đẹp.

Xưa nay hai loại Lân và Phụng ít khi xuất hiện, khi nào có Phật Thánh lâm phàm hoặc Thánh Vương ra đời chúng mới có mặt để bào tin trước. Ý chỉ cho đời sắp thanh bình Thánh Đức, nhàn lạc âu ca, có hai câu chuyện chứng minh :

1 – Về Kim Lân cũng gọi là Kỳ Lân, do câu chuyện Thánh Khổng Tử ra đời mà có. Vào thời Đông Châu Liệt Quốc, tại nước Trung Hoa có đình ông Thúc Lương Ngột, vợ là Nhan Trưng Tại. Ông bà đã sanh được 9 người con, nhưng toàn là gái, chưa có người con trai nào nối hậu, nên ông bà thường lên núi Ni Khâu cầu tự...

Sau đó, bà thọ thai. Sách Hán chép : lúc thọ thai Đức Khổng Tử có một con Kỳ Lân xuất hiện đi ngay vào nhà, nhả tờ ngọc thơ, trong đó có câu “Thủy tinh chi tử, kế suy Chu vi Đế Vương”. Có nghĩa : Con của Thủy tinh nối nhà Châu mà làm vua không ngôi. Bà Nhan thị thấy vậy liền lấy dây lụa đỏ buộc vào sừng con Kỳ Lân làm dấu, hôm sau bỗng nhiên Kỳ Lân đi mất.

– Đức Khổng Tử sanh vào ngày Canh Tý, tháng 10 năm Canh Tuất, trước Tây lịch 551 năm, đời Châu Linh Vương thứ 21. Ngài ra đời được ba năm thì cha chết, chỉ nhờ sự đùm bọc nâng niu của mẹ. Khi lớn lên Ngài thông minh xuất chúng, học ít biết nhiều, biết rất sâu rộng và chính xác. Ngài làm quan chức vị sau cùng là Tướng Quốc. Ngài mở trường dạy văn học và Nho học. Đạo Nho cũng gọi là Thánh giáo và bắt đầu có từ đó.

Ngài còn làm ra các bộ sách như : Tứ Thơ, Ngũ Kinh... để dạy đời và lưu truyền tới nay. Người thời đó và mãi về sau đều xưng tụng Ngài là Khổng Phu tử hay Thánh Khổng Tử; bởi Ngài là vị Tổ sáng lập nền Nho giáo (một trong tam giáo).

2 – Về chữ “Xích Phụng” chỉ cho loài chim phụng hay phụng hoàng.

Theo Sử Trung Hoa, thời Ngũ Đế : Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, Nghiêu và Thuấn. Người ta xưng tụng năm vị vua này là Thánh nhân, trong thời Nghiêu, Thuấn trị vì dân chúng sống cảnh thanh bình an lạc. Bấy giờ chim Phụng đậu múa hát khắp đồng nội, nơi nào cũng có. Qua đời kiệt Trụ (thời loạn lạc) chúa hôn mê thì không còn thấy một chim phụng nào nữa.

Mãi đến Châu Võ Vương sắp ra đời, người ta nghe tiếng chim phụng gáy trên núi Kỳ Sơn, chứng tỏ thời thanh bình sắp trở lại. Quả nhiên Võ Vương lên ngôi lập nên cơ nghiệp nhà Châu 800 năm. Điều này Đức Giáo Chủ PGHH thường bảo :

“Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ,

Bởi Võ Vương đáng bậc tu mi,

Nay trở lại khác nào đời trước”

Hoặc là :

“Trên non Tiên văng vẳng tiếng phụng hoàng,

Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc.”

“Chừng trần gian kiến thấy phụng hoàng,

Xòe cánh múa chào mừng Phật Thánh.”

Dùng điển : “Kim lân xích phụng”, Đức Thầy có ý cho biết : Chư Phật Thánh nay đã ra đời, nhưng còn trong vòng pháp nạn. Cho nên cuộc cứu an lê thứ của các Ngài còn nhiều gian lao lận đận; song tin chắc rằng có một ngày kia toàn dân sẽ chứng kiến được sự thành công rực rỡ của các Ngài :

“Ngóng trông chờ cho phụng gặp kê,

Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.

   

31 – LÁ THẮM

“Hiệp chung một cuộc nhánh nhành,

Sum sê LÁ THẮM chim xanh nối đường.”
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

Thành ngữ “lá thắm” là dịch nghĩa của chữ “Hồng Diệp” mà ra, do điển tích Vu Hựu và Hàng Thúy Tần đời Đường (TH).

Vu Hựu là nhà văn học, môn khách của Hàng Vinh. Một hôm nhân cuộc du ngoạn ngoài thành, Vu Hựu đến bên dòng Bích Câu ngồi xem cảnh.

– Còn Hàng Thúy Tần là một cung nữ của vua Đường, vì ở trong thâm cung lâu ngày buồn bực nhớ quê hương nên nàng mượn một lá cây đỏ (lá thắm) mới rụng đề vào đó một bài thơ, rồi thả xuống dòng nước trôi ra ngoài thành, bài thơ ấy như sau :

“Nước chảy sao mà vội?

Cung sâu cả buổi nhàn,

Ân cần khuyên lá thắm,

Đưa quách tới nhân gian.”

Vu Hựu đang ngồi dựa mé rạch nhìn mây nước, bỗng gặp lá thắm tấp vào, vội vớt lên thấy bài thơ. Xem xong chàng liền viết hai câu thơ trên lá cây khác hỏi lại :

“Đã nghe lá thắm đề thơ oán !

Trên lá đề thơ định hỏi ai?”

Khi nước chảy vào, Vu Hựu liền thả xuống dòng ngự câu, lá ấy trôi vô thành. Ở trong thành, Hàng Thúy Tần bất ngờ vớt được. Hai người đều rửa sạch các lá cây đó, cất vào rương để kỷ niệm, mặc dù cả hai đều không biết mặt nhau.

Thời gian sau nhà vua cho thảy hồi ba mươi cung nữ về quê lập gia đình. Vu Hựu may mắn cưới được Hàng Thúy Tần. trong đêm tân hôn, đôi giai nhân nhắc chuyện năm xưa, rồi đem so hai bài thơ thấy đích thị là của mình, đồng cho lá thắm ấy đã mai mối cho đôi bên nên nghĩa đá vàng, nên có thơ rằng :

“Nhất liên thi cú tùy lưu thủy,

Thập tải ưu tư mãi cố hoài !

Tam nhựt khước thành loan phụng hỉ,

Phương tri hồng diệp thị lương môi”

(Một đôi thi cú theo dòng nước,

Mười mấy xuân qua nhớ dẫy đầy.

Mừng bấy ngày nay loan sánh phụng,

Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai.)

– Do điển tích đó, xưa nay văn chương thường dùng chữ “lá thắm” để chỉ những người có nhân duyên với nhau thì dù cho có xa xôi cách trở, rốt lại cũng được gặp nhau.

Điển ngữ “lá thắm” Đức Thầy dùng trong bài “Từ Giã Bổn Đạo khắp nơi” ở đây, dụng ý chỉ cho các tín đồ và Ngài đã có duyên Thầy trò từ trước nên hiện giờ đặng gặp nhau. Thế thì từ đây, tuy dù có xa cách gian lao, nhưng rồi cũng sẽ đặng cùng nhau sum hiệp :

     “Hiền lành chừng đó sum vầy,

Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi... “

Và nếu ai muốn được tận hưởng cảnh ấy thì hiện giờ phải vâng theo lời dặn dò của Ngài :

     “Giảng kinh đọc tụng chiều mai,

Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta.”.

32 – CHIM XANH

“Hiệp chung một cội nhánh nhành,

Sum sê lá thắm CHIM XANH nối đường .”
(Từ giã Bổn Đạo Khắp Nơi)

Chim xanh là nghĩa của chữ “Thanh loan Điểu”, xuất phát từ điển tích vua Hán Quan Võ được gặp Tiên.

Một hôm, vua Đông Hán Quan Võ (TH) cùng quần thần đang dạo xem phong cảnh nơi vườn thượng uyển, bỗng có đôi chim to lớn bay đến đậu gần đó.

Vua liền hỏi bá quan :

– có ai biết đó là chim chi chăng?

Đông Phương Sóc quì tâu :

– Muôn tâu bệ hạ ! Chim này gọi là chim xanh, tên chữ của nó là “Thanh loan Điểu”, nó vốn là sứ giả của Bà Tây Vương Mẫu, mẹ của chư Tiên cõi trời. Nó cũng có tên là chim đem tin (nối đường). Hôm nay nó bay tới, tức báo tin trước, chút nữa đây sẽ có bà Tây Vương Mẫu ngự đến. Vua tôi liền hồi trào.

Quả nhiên, sau đó được quân vào phi báo với vua : có Bà Tây Vương Mẫu đến xin ra mắt; vua vui mừng cùng quần thần ra cửa tiếp rước. Khi vào đến cung điện, Vương Mẫu nói :

– Ngài là vua nhân từ, hữu phước nên nay tôi đem biếu ít quả đào tiên, đây là lộc trời ban cho. Vua tạ ơn thâu nhận và hỏi thăm cách trồng đào?

Vương Mẫu đáp :

– Đào này trồng trên thượng giới, lâu lắm mới kết quả, ở hạ giới này trồng chẳng được đâu

Điển tích chim xanh có ngụ ý : nếu người nào biết ăn ở hiền từ phước đức thì là điềm báo tin sắp đặng gặp Phật Tiên. Cho nên người sau cũng xác định :  

     “Đã là thấy bóng chim xanh,

Ắt rằng Vương Mẫu hậu hành đáo lai.”

Đại lược hai câu giảng nêu trên, Đức Thầy có ý kêu gọi chúng dân hãy thương yêu đoàn kết trong việc hiền lương đạo đức thì sau này sẽ gặp Phật Tiên cứu độ thoát khỏi sanh tử luân hồi.

“Kẻ hiền đức sau này được hưởng,

Phép thần linh của Đức Di Đà,

Lại được thêm thoát khỏi Ta Bà,

Khỏi luân chuyển trong vòng lục đạo”

33 – HUỲNH BÀO

“Say như xưa nhằm lúc HUỲNH BÀO,

   Trần Di ngủ say câu thành tựu”
(Diệu Pháp Quang Minh)

Từ Huỳnh Bào cũng gọi là Hoàng Bào, có nghĩa cái áo của vua mặc. Do điển tích Triệu Khuông Dẫn, tức Tống Thái Tổ – vị vua sáng lập đời Tống (TH); vào thế kỷ thứ X.

Lúc thiếu thời Khuông Dẫn có đến núi Tây Nhạc Huê Sơn đánh cờ với Trần Đoàn Lão Tổ, tức Trần Hi Di Tiên Sanh. Ông đã tu thành Tiên, khi nhìn qua tướng mạo, biết Khuông Dẫn sau này làm nên bậc Đế Vương, nên mời Khuông Dẫn đánh cờ với sự giao kết : ông thua thì chung bạc, còn Khuông Dẫn thua thì phải ký nhượng núi Huê Sơn cho ông. Khuông Dẫn nghĩ : núi của quốc gia chứ của mình sao mà ông đòi như vậy, thật buồn cười, liền chịu ký kết.

Khuông Dẫn vốn tay cao cờ, nhưng làm sao đánh lại Tiên ông, thế là Khuông Dẫn bị thua luôn mấy bàn.

Thời gian sau, Khuông Dẫn làm bạn kết nghĩa với Sài Vinh. Vinh được làm vua, Khuông Dẫn làm nguyên soái, đánh Nam dẹp Bắc, thâu được Nam Đường, đánh rợ Khiết Đan, lập nhiều công to. Tới khi dẹp loạn ở “Trần Kiều binh biến”, bấy giờ Sài Vinh chết, con lên ngôi xưng hiệu là Cung Đế. Bởi vua tuổi còn nhỏ, quan quân bất phục nên đề nghị Triệu Khuông Dẫn lên thay. Khuông Dẫn một mực khước từ, quần thần bèn lập kế phục rượu cho Khuông Dẫn thật say rồi lấy áo Huỳnh Bào mặc vào và khiêng để nằm trên ghế cao. Họ chực chờ Khuông Dẫn vừa tỉnh lại, tất cả đều tung hô vạn tế rồi đưa Khuông Dẫn về trào bảo Cung Đế phải nhường ngôi và phò Triệu Khuông Dẫn tức vị Thái Tổ nhà Tống.

Khi đó Trần Đoàn Tiên ông đang cỡi lừa đi giữa chợ, nghe được tin ấy ông liền nâng bầu rượu Thánh và ngâm lên bốn câu thơ :

“Vận khí xoay vần lối hiệp tan,

Huỳnh Bào đấp cật vững âu vàng.

Trần gian từ ấy đà vô sự,

Ta trở về ngôi ngủ mới an”.

Trong hai câu giảng nêu trên Đức Thầy có dùng từ Huỳnh Bào, qua điển tích Trần Đoàn Tiên Ông là Ngài muốn nhắc lại : Tiên ông cũng uống rượu, cũng say; nhưng cái say của bậc Thần Tiên là đưa nhân loại vào cuộc thái bình an lạc (thành tựu) vượt trên cái say của thường tình thế tục.

“Say của Thần Tiên rứt cuộc đời,

Say câu diệu lý hỡi người ơi !

Say như Lưu Khánh ai thèm chịu,

Say thể Trần Đoàn mới thảnh thơi.”

 

34 – XÍCH THẰNG

“Treo sợi XÍCH THẰNG chờ vận đến,

Cột dây ngọc đái đợi người ân.”
(Cho ông Nguyễn Kỳ Trân)

Từ Xích Thằng, cũng gọi là tơ hồng, tức sợi chỉ đỏ. Ý chỉ hai người có nhân duyên đã được định trước, phát xuất từ hai điển tích như sau :

1 – Quách Nguyên Chấn sanh đời Đường (TH). Một hôm Nguyên Chấn đến hỏi vợ tại nhà ông Trương Gia Chính. Nguyên Chính có 5 người con gái đều chưa chồng. Ông giao kết với Nguyên Chấn; Năm cô gái ở trong phòng, mỗi người cầm một mối chỉ 5 màu khác nhau thả ra ngoài, nếu Chấn nắm được mối chỉ của cô nào thì được cưới cô đó. Nguyên Chấn liền rút ngay sợi chỉ đỏ (Xích Thằng), thế là Chấn cưới được cô thứ ba đẹp hơn hết.

2 – Điển thứ hai là Vi Cố, cũng người đời Đường ở trọ tại Tống Đô. Một hôm nhân đi dạo cảnh, Vi Cố thấy một ông lão tóc râu bạc phơ, đang ngồi dưới trăng sáng xem sách, bên cạnh có cái giỏ xách đựng chỉ đỏ, Vi Cố bước đến thi lễ và hỏi :

– Ông lão xem sách chi vậy?

Ông lão đáp :

– Ta là Nguyệt Lão, đây là sách ghi chép sẵn những tên họ của đôi vợ chồng sắp kết duyên với nhau. Còn chỉ đỏ nầy là để cột chân của đôi trai gái ấy.

Vi Cố liền nhờ Nguyệt Lão cho biết người vợ tương lai của mình?

Ông lão bảo :

– Vợ ngươi là con gái của người ăn mày đang ăn xin ngoài chợ đấy ! Vi Cố nghe vậy lấy làm buồn và qua hôm sau định giết chết con bé ấy để mình khỏi phải kết duyên với con nhà ty tiện đó. Cố liền thi hành thủ đoạn, nhưng may thay cho cô bé ăn mày kia, chỉ bị một nhát dao trúng đầu mà không chết và mẹ cô bồng chạy qua xứ khác.

Thuở ấy, có vợ chồng viên quan trong vùng, ông bà sống với nhau đã 40 tuổi, nhưng không có con, thấy mẹ con cô bé lâm nạn động mối từ tâm bèn xin cô bé làm dưỡng tử. Thời gian trôi qua, Vi Cố lại cưới được cô tiểu thư ấy. Nhân một hôm Vi Cố tình cờ thấy cái sẹo trên đầu vợ, hỏi ra mới biết sự tình, chính vợ mình là cô gái ăn mày đã bị mình chém trước kia.

Do sự tích trên đây, về sau hễ thấy vợ chồng cưới hỏi nhau người ta bảo : Nguyệt Lão đã se duyên khó mà thoát khỏi.

Truyện Kiều có câu :

   “Nàng rằng : Hồng diệp xích thằng,

Một ngày cũng đã tiếng rằng tương tri.”

Cung Oán cũng nói :

“Ngẫm nhân sự có chi ra thế,

Sợi xích thằng chi để vương chân.”

Dùng thành ngữ “Xích thằng” trong hai câu thi nêu trên. Đức Thầy có ý khuyên ông Nguyễn Kỳ Trân giờ nên gác bỏ vị danh tài sắc và rán lo tu hành để chờ đợi người ân (Chúa và Thầy) trở lại. Hạnh phúc đó mới vinh diệu lâu dài.

 

35 – VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH

“VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH khí khẩu chương,

Thanh phong tiết hạnh dĩ luân thường.”
(Cho ông Nguyễn Thanh Tân)

Vạn Lý Trường Thành là một vách tường dài 4.800 dặm bằng 3000 km, hiện nay nằm ở phương Bắc (TH). Do Tần Thủy Hoàng làm ra để ngăn giặc Hung Nô, không cho tràn xuống.

Thành ngữ này có hai dụng ý khác nhau :

Ý thứ nhất, chỉ cho chính sách bạo ác của vua Tần, một ông vua hung bạo nhất, thời Đông Châu. Vì muốn ngăn giặc Hung Nô, vua Tần sai tướng Mông Điềm đem 80 muôn binh nối các bức tường đã xây từ trước, làm thành một vách tường dài 4.800 dặm. Cũng vì bức tường này mà không biết bao nhiêu sanh mạng lương dân phải tử biệt sanh ly, nghèo đói, bệnh tật lan tràn khắp lãnh thổ Trung Hoa thời ấy.

Xưa nay văn chương thường dùng thành ngữ này để chỉ những chánh sách hà khắc dân chúng, bắt sưu dịch quá nặng nề.

Ý thứ hai, “vạn lý trường thành” cũng chỉ cho mạng lịnh của người có danh vọng quyền uy, người ta ỷ trông vào đó như bức thành muôn dặm.

Do điển tích vua văn Đế đời Tống ra lịnh giết ông Đàn Đạo Tế, nhưng ông Tế không hề khiếp sợ. Trái lại mắt ông sáng quắc lên như ngọn đuốc, nhìn thẳng vào nhà vua, khiến vua phải núng chí !

Ông Tế nói tiếp :

– Như vậy chí khí của đôi mắt và lời nói của ta sẽ phá mất bức thành muôn dặm của nhà vua !

Qua hai câu thơ và điển ngữ kể trên, Đức Thầy muốn cho ông Nguyễn Thanh Tân biết : với chánh sách ác nghiệt của người Pháp hiện tình như “Vạn lý trường thành”, nhưng Ngài không hề khiếp sợ. vẫn dùng chí khí lời lẽ khai Đạo giáo dân, xây dựng cuộc sống mới cho cả đời lẫn Đạo.

 “Đem nguồn sáng mới cho nhơn loại,

Để tiến, tiến lên cõi đại đồng.”

36 – LŨ HUỲNH CÂN

“Thương tưởng người mê Lão xuống trần,

Ngặt vì chưa dẹp LŨ HUỲNH CÂN.”
(Đáp lời ông Nguyễn Kỳ Trân)

Lũ Huỳnh Cân là giặc khăn vàng, tức binh tướng đều bịt khăn bằng vải vàng, treo cờ cũng màu vàng. Điển này phát xuất từ đời Tam Quốc (TH).

Thuở ấy tại Huyện Cư Lộc có ba anh em : Trương Giác, Trương Lương, Trương Bửu (Bảo). Nguyên Trương Giác bị rớt tú tài, buồn quá nên vào núi hái thuốc. May gặp cụ lão xưng là Nam Hoa Lão Tiên cho Giác bộ Thái Bình yêu thuật, gồm ba quyển dạy rằng : người về xem kỹ theo đây mà tự học sẽ đạt được nhiều kỳ diệu. Khi kết quả phải lo tế thế độ dân, nếu có manh tâm tà gian ắt bị ác báo. Đoạn rồi Tiên ông hóa gió bay mất.

Trương Giác trở về tu tập theo đó, quả nhiên được phép hoán võ hô phong, thành binh sái đậu và bùa chú trị bịnh cho bá tánh dân chúng kéo theo càng lúc càng đông.

Từ khi có danh vọng, Giác không tự chủ được tâm nên cùng hai em mưu đồ cướp đoạt Hán trào. Bởi dưới tay có hằng vạn tướng binh, cùng biết bùa phép, nên lúc đầu quân nhà Hán phải thua. Vua truyền phát mộ thêm quân và tập trung các tướng giỏi vây đánh.

Bấy giờ có ba vị anh hùng là : Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi cùng nhau kết nghĩa tại Vườn Đào và mộ binh kéo ra đầu quân trừ giặc. Bọn Trương Giác dùng sái đậu thành binh thắng qua nhiều trận. Cuối cùng Châu Tuấn và ba anh em Lưu, Quan, Trương dùng đồ nhơ uế phá tan bùa phép, giặc Huỳnh Cân tiêu diệt từ đó.

Đức Thầy dùng điển tích qua hai câu giảng nêu trên ngụ ý chỉ cho đời nay cũng có lắm tà đạo ra đời quấy phá chánh Đạo “Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân”. Cho nên Ngài có trách nhiệm dẹp tan tà đạo để cứu an bá tánh :

     “Diệt tà lập chánh đành rành,

Ba màu nắm chặt Nam thành xử phân”.

 

37 – TAY VIN NHÀNH QUẾ

“Không tìm thầy đặng hưởng phước thừa,

Ngày lập Hội TAY VIN NHÀNH QUẾ.”
(Nang Thơ Cẩm Tú)

Thành ngữ “Vin Nhành Quế” là nắm được cành quế, nghĩa bóng, chỉ người thi đậu. Tương truyền trên mặt trăng có cành quế nên văn chương thường dùng chữ cung Quế, là chỉ mặt trăng và có ngụ ý : người học trò thi đỗ đạt. Điều này phát xuất từ truyện của Đậu Yên Sơn (TH). Trong sách Tam Tự Kinh có chép :

“Đậu Yên Sơn, Hữu nghĩa phương,

Giáo ngữ tử, Danh cu dương.”

Phần chú thích có giải; Xưa có nhà họ Đậu ở đất Yên Sơn, là người có đức hạnh, học rộng, biết nhiều, gia đình khá giả và sanh được 5 người con trai. Ông có phương cách khéo léo giáo huấn năm người con đều tinh cần học tập.

Về sau 5 người con ấy đều thi đậu cao, làm tới tước vương trong triều đình. Thật là một gia đình gương mẫu, đời sau sách sử ghi biên, văn nhân ca ngợi :

“Đậu Yên Sơn, ngũ chi đơn quế,

Danh thơm còn lưu để nghìn thu.”

Gần đây, nội tổ của ông Võ Mậu Thạnh cũng có viết bài thơ khuyến dạy con cháu siêng năng học tập :

“Trắng thời chịu vẻ ngọt thì nêm,

Vui dạ chi bằng đọc sách đêm.

Học đủ ba dư ([14]) trời chẳng phụ,

Có ngày bẻ đặng Quế cung thềm ([15])

Nhận thấy Đức Giáo Chủ PGHH dùng điển từ trên là để kêu gọi mọi người sớm tầm sư hành đạo kịp đến ngày lập hội sẽ đặng thành quả, chẳng những danh phận được như người thi đậu mà còn hơn thế nữa.

                                             

38 – NGUN MÂY BC

“NGUỒN MÂY BẠC cuốn quay mũi viết,

Chấm vào nghiên chỉ xiết ngại ngùng.”
(Thu đã cuối)

Thành ngữ “Nguồn Mây Bạc”, tức là khối mây trắng. Nghĩa bóng chỉ nơi quê hương cha mẹ ở, do điển tích Địch Nhân Kiệt (TH).

Nhân Kiệt tự Hoài Anh, sống đời nhà Đường ở xứ Tinh Châu, làm quan rất minh chánh. Ông thường tiến dẫn những nhân tài ra giúp nước. Lúc thi hành công nhiệm phải xa nhà, ông quá nhớ thương cha mẹ. Một hôm ông nhìn về quê hương thấy nơi đỉnh núi Hàn Sơn có chòm mây trắng liền than rằng : “Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây đó” (Địch Nhân Kiệt vọng Thái Sơn thượng nhất phiến bạch vân thán viết ! ngô thân xá tại kỳ hạ).

Đương thời Nhân Kiệt được nhiều người ca ngợi về tài đức và ví ông như Thái Sơn Bắc Đẩu.

Dùng điển tích Nguồn Mây Bạc qua hai câu giảng nêu trên, Đức Thầy có ý cho biết : hiện tình Ngài đang bị người Pháp quản thúc tại nhà thương Chợ Quán; Ngài cũng rất nhớ nhung quê hương, thân quyến tín đồ. Đó là lý do khiến Ngài hạ bút đề thơ.

 

39 – MƯA TẦN

“Còn một đoạn MƯA TẦN nắng sở,

Trải qua rồi việc dở quá hay.”
(Thu Đã Cuối)

Thành ngữ MƯA TẦN, cũng như Lửa Tần. đều chỉ cho chánh sách trị dân quá nghiệt ngã, độc ác của Tần Thủy Hoàng.

Tần Thủy Hoàng tên thật là Triệu Chính, con của Dị Nhân, sinh thời Chiến Quốc (TH). Khoảng 221 – 206 trước Tây Lịch.

Sau khi gồm thâu lục Quốc, Thủy Hoàng sát hại binh tướng các nước quá nhiều, còn gom hết sách vở của Thánh Hiền mà thiêu hủy, chôn sống 460 sĩ phu, xây cung A Phòng tốn biết bao công quỹ nhân lực để vui hưởng riêng tư. Bắt quân dân xây vạn lý trường thành, hằng vạn gia đình phải chịu lầm than đói khổ, người căm hờn oán ghét không sao kể xiết.

Vì thế, nhà Tần chỉ hưởng được 3 đời là mất nước, để tiếng bạo ác muôn đời vẫn bị còn chê bai nguyền rủa.

Đức Thầy dùng điển này để ám chỉ cho người Pháp :

“Miệng toàn lời bắt chước chúa Tần,

Muốn chôn sống anh tài nhu sĩ.”

 

40 – NẮNG SỞ

    “Quản chi NẮNG SỞ mưa Tần,

Chèo xuôi chèo ngược mấy lần không thôi”
(Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm Q. I)

Nói đến Nắng Sở tức nói đến lòng hung tàn, hiếu sát của Hạng Võ, ai cũng ghê tởm.

Hạng Võ người ở làng Hạ Tượng, đất Cối Kê (TH) tên là Hạng Tịch. Mồ côi từ thuở bé, nên ở với người chú là Hạng Lương và có sức địch muôn người. Sau hiệp với Lưu Bang diệt bạo Tần, có giao ước trước mặt Sở Hoài Vương, nếu ai nhập Hàm Dương trước thì được làm vua.

Lưu Bang nhờ lòng nhân đức, được quân dân mến phục nên vào được Hàm Dương trước. Còn Hạng Võ vì tánh nóng nảy, hung hãn, trên đường tiến quân gặp nhiều trở ngại nên đến Hàm Dương sau. Võ liền bội ước và ỷ mình binh đông, thế mạnh cướp lấy Hàm Dương.

Những tội ác của Hạng Võ kể không xiết; chẳng những cướp đoạt kỳ công của Lưu Bang và phản phúc Sở Hoài Vương mà còn một đêm chôn sống 20 vạn quân Tần, quật mồ Tần Thủy Hoàng, giết chết tôn tộc nhà Tần 800 người và họ hàng của quần thần gồm 4.600 người, đốt cung A Phòng cháy luôn 3 tháng mới tắt.

Tóm lại do hai điển tích Tần Thủy Hoàng và Hạng Võ mà từ đó về sau các nhà văn khi muốn nói đến chánh sách cay nghiệt hung bạo đều dùng thành ngữ “Nắng Sở Mưa Tần”, hay “làm Tần làm Sở” (tức là làm khổ dân).

Đọc hai điển tích vừa qua hai câu giảng vừa nêu trên, Đức Thầy muốn cho chúng ta biết : Xưa nay những làn sóng nắng mưa bạo ác không lâu dài chỉ trong giai đoạn nào đó thôi. Cho nên Ngài có nói rõ;

     “Còn một đoạn mưa Tần nắng Sở,

     Trải qua rồi việc dở hóa hay.

        Thế gian sẽ biết Thánh tài,

Bế bồng con dại hát bài khải ca”.

                                               

41 – TIẾNG QUYÊN

    “Trí thần nhớ đến TIẾNG QUYÊN,

Gọi hồn cố quốc sầu riêng một mình.”
(Tự Thán)

Tiếng Quyên là tiếng chim quyên kêu, cũng gọi chim Quốc hay chim Cuốc, thường kêu suốt mùa hè. Có khi văn chương cũng gọi là Đỗ Vũ hoặc Tử Qui. Thành ngữ này phát xuất từ điển tích vua Thục Đế (TH).

Vua Thục Đế, xưng Đế, một trong bảy nước, hiệu là Vọng Đế. Trong nước gặp hồi thủy tai, dân chúng nghèo đói, nước non loạn lạc. Vua Thục Đế nhường ngôi cho thừa tướng Khai Minh, rồi lên núi ẩn. Sau thì thương nhớ nước non mà chết, hồn hóa thành chim Quốc kêu suốt mùa hè. Truyện Kiều có câu : Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên”.

Về sau các nhà văn chương dùng điển này để nói lên lòng nhớ thương quê hương non nước.

Hiện nay Đức Thầy cũng dùng từ ngữ tiếng Quyên là để biểu lộ lòng xót thương cho giang san chủng tộc mình đang bị kẻ ngoài thống trị :

“Yêu nước bao đành trơ mắt ngó,

Thương đời chưa vội ẩn non cao.”

 

42 – GIẤC HUỲNH

    “Trầm ngâm vẻ mặt làm thinh,

Tựa mình bên gối GIẤC HUỲNH đã say.”
(Tự Thán)

Từ ngữ Giấc Huỳnh là giấc mộng quý báu, tốt đẹp của các bậc Thần Tiên ngủ, giống như giấc mộng vàng, hay giấc mộng Hoa.

(Xem Giấc Mộng Vàng bên điển triết số 24)

 

43 – TÌNH TRƯỜNG

    “TÌNH TRƯỜNG đầy dẫy thi hài,

Lạ gì chẳng biết những bài học xưa.”
(Cảm Tác)

Văn nghĩa Tình Trường có nghĩa môi trường tình ái, tức vòng yêu đương giữa đôi trai gái. Sách sử thường chép : Chỉ có tình yêu của nam nữ mà gây biết bao thảm kịch núi xương sông máu. Chẳng những riêng họ chuốc lấy thảm thê mà còn làm cho bao nhiêu người khác phải khổ lây.

Xưa nay trong vòng tình ái xảy ra biết bao trường hợp, ở đây xin đơn cử một vài câu chuyện để làm bài học kinh nghiệm :

1 – “AN LỘC SƠN với DƯƠNG QUÝ PHI”

Dương Quý Phi sanh đời Đường (TH), hiệu là Thái Chân, nàng có sắc đẹp khuynh thành và trí thông minh, được Thái Tử Long Cơ yêu, cưới về làm vợ; song vua cha là Đường Huyền Tông quá say mê sắc đẹp của Thái Chân, bèn đoạt lấy và phong làm Dương Quý Phi.

Còn An Lộc Sơn, trước làm quan Tiết độ sứ cho vua Đường (Sơn gốc là rợ Khiết Đan). Sơn a tùng với Lý Lâm Phủ, vốn là phường tôi nịnh, Lâm Phủ bài kế cho Sơn vào làm con nuôi của Dương Quý Phi để cùng Phi gây cuộc tình ái. Sơn mưu đồ cướp ngôi nhà Đường để trọn hưởng người đẹp, nên kéo 15 vạn quân chiếm các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam. Rồi công hãm đoạt được thành Lạc Dương, xưng hiệu Yên Đế và kéo binh thẳng về Trường An, tức kinh đô nhà Đường làm cho quan quân chết vô số, vua Đường phải lánh nạn về Ba Thục mang Quý Phi theo. Sơn cũng kéo binh rượt bén gót.

Bấy giờ tướng binh nhà Đường nổi dậy buộc vua phải xử tử Quý Phi để đền tội. Khi Quý Phi thắt cổ chết rồi, các quan mới nỗ lực đánh trả. Cuối cùng quân của An Lộc Sơn tan rã và Sơn cũng chết.

2 – Điển thứ hai là “ĐÀO HOA PHU NHƠN” : Nàng tên là Tức Vĩ, sanh thời Đông Châu (TH), vốn là vợ của Tức Hầu, người có sắc đẹp vô song, hoa nhường nguyện thẹn.

Một hôm, bạn chư Hầu với Tức Hầu là Sái Hầu, toan cưỡng hiếp Tức Vĩ, nhưng không được.

Để trả thù cho vợ, Tức Hầu sang triều cống nước Sở (đang mạnh), đem lời gièm siểm khiến Sở Vương cất binh đánh nước Sái. Sái Hầu nhờ Dục Quyền rỗi tấu mới được tha. Sái Hầu quyết trả thù nước Tức nên đến tâu với vua Sở; vợ Tức Hầu là nàng Tức Vĩ đẹp lắm, chưa có phi hầu nào bằng ! Khiến vua Sở động mối tà dâm liền mượn cớ tuần du sang nước Tức, bắt buộc Tức Hầu phải đem vợ ra chào mừng. Vua Sở thấy Tức Vĩ đê mê cả tâm thần liền bày mưu đãi tiệc Tức Hầu, rồi truyền quân mai phục bắt đưa đi an trí ở Như Thủy, Tức Hầu uất ức mà chết.

Tức Vĩ hay tin dữ, toan nhảy xuống lầu tự tử, may có người khuyên nên sống để thừa cơ hội trả thù cho chồng. Còn vua Sở cho người vào cung bắt được Tức Vĩ đem về làm vợ và phong chức phu nhân, đặt cho biệt hiệu là : “Đào Hoa phu nhân”. Ở với vua Sở ba năm, nhưng Tức Vĩ không hề cười một tiếng. Vua Sở khuyên dỗ cách gì cũng không được, bèn hỏi duyên cớ?

– Tức Vĩ khóc và trả lời : Thần thiếp chẳng giữ trọn tiết trinh lại đi thờ hai chồng, nhứt là thù chồng chưa trả, thật vô cùng xấu hổ còn mặt mũi nào mà vui cười với ai !

Vua Sở lại càng yêu quý hơn và hứa trả thù cho nàng. Vua liền ra lịnh xua quân đánh nước Sái lần nữa. Sái Hầu phải đem châu báu vàng ngọc ra dâng cho nước Sở và nguyện hằng năm cống lễ xưng thần để được tha toàn mạng.

Đọc hai cốt chuyện kể trên, nhận thấy cũng vì sắc đẹp tình ái mà gây nên môi trường chiến tranh chết khổ, như nhà Đường Trung Hoa phải một phen thất điên bát đảo, sông máu núi xương, tiêu hao tài sản. Thật là một trang bi sử hãi hùng. Còn nước Tức thì bị diệt, nước Sái hai lần bị chiếm. Tướng binh, dân chúng chết vì các trận giặc ấy vô số kể, thảo nào Đức Thầy chẳng bảo :

     “Tình trường đầy dẫy thi hài.

Lạ gì chẳng biết những bài học xưa”
 

44 – NẰM GAI NẾM MẬT

    “Ngày xưa mấy bậc anh hào,

NẰM GAI NẾM MẬT dạ nào trách than.”
(Cảm Tác)

Thành ngữ “Nằm Gai Nếm Mật” do câu : “thường đảm ngọa tân”. Có nghĩa đêm nằm trên đống củi có gai nhọn và ngày thường nếm mật đắng. Ý chỉ cho người nuôi chí phục thù hay thực hiện một sự việc gì, dù cho thời gian có dài dặc hay đau đớn cay đắng thế nào cũng không nhục chí sờn lòng. Xuất phát từ điển tích Việt Câu Tiễn làm vua một chư hầu của nhà Châu, thời chiến quốc Xuân Thu, trước Tây lịch kỷ nguyên 450 năm. Nay là Tỉnh Chiết Giang (TH).

Bấy giờ vua nước Ngô là Phù Sai đem binh đánh nước Việt. Việt Câu Tiễn bại trận, bị Phù Sai bắt cả vợ chồng đem về cầm tù. Ngày thì đày chăn ngựa, tối bắt ngủ nơi nhà ngục lạnh lẽo, suốt 10 năm như vậy. Sau nhờ vệ thần Phạm Lãi bài kế quì nếm phẩm của Ngô Phù Sai để đoán bệnh cho y. Vua Ngô vì cảm cái ân tình ấy thả vợ chồng Câu Tiễn về nước.

Khi về đến nước nhà. Câu Tiễn quyết nuôi chí phục thù nên hằng đêm nằm ngủ trên đống chà (củi) có gai nhọn. Ban ngày trước khi dùng bữa đều nếm một miến mật đắng để lòng không lãng quên mối nhục hờn vừa qua.

Trải 20 năm nuôi chí và nhờ mưu chước của hai cận thần là Phạm Lãi và Văn Chủng, dùng mỹ nhân kế dâng Tây Thi và Trịnh Đáng cho vua Ngô, cũng như hiến gỗ quý cho xây thành Cô Tô. Vay giống lúa tốt, trả giống lúa đã luộc chín, khiến nước Ngô bị thất mùa.

Đến lúc Ngũ Tử Tư chết, nhà Ngô kiệt quệ lương tiền, Câu Tiễn cử quân đánh phá thành Cô Tô và buộc Ngộ Phù Sai phải tự sát.

Dùng điển “nằm gai nếm mật” qua hai câu giảng nêu trên. Đức Thầy muốn nói : hàng trượng phu chí cả trong đời, khi gặp cảnh khổ đau, cay đắng người ta còn không than phiền chán nản. Huống chi những bậc có bản nguyện : “vì chúng sinh mà sinh” và : “ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”. Như Đức Thầy trong bối cảnh hiện tình, sá gì chuyện bị người Pháp lưu đày, mưu hại mà nản chí độ đời hay sao? Ta hãy đọc thêm hai câu giảng kế tiếp sẽ thấy rõ ý chí của Ngài :

     “Trượng phu chí cả dọc ngang,

Dạo trong bốn biển mới trang Thánh Hiền.”

Và Ngài từng cho biết :

     “Thân Ta dầu lắm đoạn trường,

Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài.

     Ngày kia thỏa chí làm trai,

Tiếng lành như thể hương bay nực nồng.”

 

45 – TRÒ CHUA

    “Chữ tài thường gặp chữ tai,

Trớ trêu tạo hóa ông bày TRÒ CHUA.”
(Cảm Tác)

Trò chua là trò cay nghiệt độc ác, bởi lòng hoài nghi, đố kỵ, ghen ghét mà ra, do điển tích vua nước Kim (Mãn Châu ở phía Đông Trung Hoa).

Nguyên Kim Hoàng rất sủng ái hai vị cung tần, khiến bà Tiêu Hoàng Hậu ngày đêm ghen ghét thường bày mưu tính kế trừ bỏ. Bỗng vua Kim lâm trọng bịnh liền vời Hoàng Hậu lại gần căn dặn; “Khi ta chết hãy chôn hai cung tần ấy để theo hầu ta”. Nói rồi vua băng hà. Hoàng Hậu nghe theo lời dặn, nhưng trước khi đem chôn sống hai cung tần bà nghĩ : “nếu để toàn thân cho họ thì e khi xuống suối vàng chúng lại được nhà Vua yêu quý hơn trên trần, vì không có ta ở đó”. Nghĩ vậy nên bà bắt hai cung tần đem lóc hết thịt, có ý để khi xuống âm ti hình hài sẽ xấu xí, tất không được yêu; nhưng rồi lại nghĩ : “Hai cung tần đó còn bộ xương nếu xuống cõi âm lại hóa thành người lại được Vua yêu sủng hơn nữa chăng?” Bà nghĩ ra được cách hoàn toàn hơn là đem tuốt xương hai người ấy ngâm vào giấm chua cho tiêu mòn đi.

Điển ngữ này xưa nay các nhà văn thường dùng để diễn tả những sự ganh tị ghen ghét quá đỗi mà bày ra lắm trò cay độc chua chát.

Trong hai câu giảng nêu trên Đức Thầy có dùng điển trò chua là để diễn tả hiện tình Ngài đang gặp trò cay độc của kẻ cường quyền Pháp còn thêm lắm người hiềm tị ghét ganh. Chớ chẳng phải Ngài thống trách tạo hóa, vì Ngài thừa biết đây là định luật : ngọt, chua, mặn, lạt hay bi, hoan, ly, hiệp sẵn dành cho những ai đặt chân vào cõi Ta Bà, như Ngài từng thốt :

     “Gẫm trong cõi tạm nhiệm mầu,

Ngặt mang xác thịt, khó hầu cao bay.”

 

46 – LẠC HỒNG

    “Bay mùi thơm cả Tây Đông,

Bắc Nam nhơn vật LẠC HỒNG thảnh thơi.”
(Cảm Tác)

“Giống HỒNG LẠC kim chi ngọc diệp,

Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn.”
(Diệu Pháp Quang Minh)

“Đừng chia lìa Bắc Tổ Nam Tông,

Chỉ biết giống LẠC HỒNG thượng cổ.”
(Nang Thơ Cẩm Tú)

“Khắp Bắc Nam LẠC HỒNG một giống,

Tha thứ nhau để sống cùng nhau.”
(Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh)

Từ ngữ Lạc Hồng hay Hồng Lạc, tức nói đến họ Hồng Bàng và Long Quân, là các nhà vua đã có công lập quốc và sản sanh dân tộc Việt Nam. ([16])

Nguyên khởi là vua Đế Minh, cháu ba đời của vua Viêm Đế tức là vua Thần Nông đời Ngũ Đế (TH). Nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam, gặp một Tiên nữ, hai người kết duyên và sanh được Lộc Tục. Sau vua Đế Minh cắt đặt cho người con trưởng là Đế Nghi làm vua ở phương Bắc và Lộc Tục làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lấy Đế hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích quỷ, vào khoảng năm Nhâm Tuất (1872 trước Tây lịch). Bờ cõi nước ta lúc bấy giờ phía Bắc giáp Đông Đình Hồ (Hồ Nam), Tây giáp Ba Thục, Tứ Xuyên, Đông giáp Nam Hải.

Lên ngôi xong Kinh Dương Vương cưới con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sanh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi xưng là Lạc Long Quân sánh duyên cùng Âu Cơ, sau sanh ra một cái bọc có 100 trứng và nở được 100 con trai (Đồng bào).

Khi các người con khôn lớn vua Lạc Long nói với bà Âu Cơ : “Ta là giống Rồng, còn bà là giống Tiên (giống Tiên Rồng) không thể sống mãi như thế này được. Vậy bà hãy đem 50 con về núi, còn ta dắt 50 con xuống mé biển để lập nghiệp”

Do đó người Việt từ đó đến nay cho mình là con Rồng cháu Tiên, hay con cháu Lạc Hồng : “Hồng Lạc giống xưa rất tuyệt vời”.

Sau vua Lạc Long phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang xưng là Lạc Vương, tức vua Hùng Vương thứ nhất và kế truyền dẫn xuống 18 đời. Vậy kể từ họ Hồng Bàng đời Kinh Dương Vương, Lạc Long Vương và 18 đời Hùng Vương là những triều đại trước tiên từ năm Nhâm Tuất (cuối đời Xuân Thu) 2879 trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến năm Quý Mão 238 trước kỷ nguyên Tây Lịch. Cộng lại tất cả là 2621 năm mới bị nhà Thục cướp ngôi.

Dùng điển ngữ Lạc Long hay Lạc Hồng. Đức Thầy muốn nhắc nhở Đồng bào ta nên nhớ đến Tổ Tiên nòi giống. Hễ là con người Việt Nam thì từ Bắc, Trung, Nam đều là nòi giống Lạc Hồng : “Lúc xưa thì cũng ruột rà với nhau”.“Cần lao nhẫn nại Lạc Long tổ truyền”. Vậy chúng ta hiện giờ không nên chia rẽ mà phải thương yêu đoàn kết lẫn nhau để cùng nhau bảo vệ những nền nếp tốt đẹp sẵn có và dìu nhau trên con đường tiến hóa cả đời lẫn Đạo.

 

47 – LONG TUYỀN KIẾM

       “Tỏ ra khí phách trượng phu,

Vung “LONG TUYỀN KIẾM” tận tru gian thần.”
(Gọi Đoàn Thanh Niên)

Long Tuyền Kiếm là lưỡi kiếm báu chém sắt đứt như chém bùn, để lâu chiếu ra hào quang và hóa rồng, nên có tên ấy, do hai câu chuyện sau :

1 – Theo điển sử Trung Hoa. Đời Đông Châu, vua Ngô Hạp Lư sai Cang Tương làm ra. Trước hết Cang Tương đi tìm những kim loại tinh anh, rồi chọn ngày giờ, thời tiết tốt, sai 300 đồng nam, đồng nữ ngày đêm đốt than, nấu suốt 3 tháng mà vàng, sắt, thép vẫn không chảy. Cang Tương chẳng biết vì cớ sao, liền hỏi ý kiến vợ là Mạc Gia.

Người vợ đáp :

– Có lẽ thần vật đợi sinh khí của con người mới thành được, nay phu quân đúc kiếm 3 tháng không xong chắc là như vậy.

Cang Tương nói : – Xưa thầy ta cũng đúc mãi không thành kiếm, bà vợ phải hy sinh tế lò mới nên việc.

Mạc Gia nói :

Thầy ta còn bỏ thân để nên kiếm, ta nay há lại chẳng dám noi theo. Nàng liền tắm gội sạch sẽ, ra đứng ở cửa lò bảo các đồng nam đồng nữ kéo bể đốt than. Khi lửa cháy mạnh thì nàng nhảy vào lò. Được một lúc, các kim loại đều chảy ra, ông mới đúc được hai thanh kiếm báu, liền lấy tên là Cang Tương và Mạc Gia (lấy tên hai vợ chồng). Cang Tương đem cây Mạc Gia kiếm dâng cho vua Ngô, còn cây Cang Tương thì dấu lại giữ mình. Ngô Hạp Lư cầm thanh kiếm chém thử vào tảng đá, đá bị đứt hai ngọt xớt, vua liền tặng cho Cang Tương 100 nén vàng.

Thời gian sau vua biết Cang Tương còn giữ lại một thanh kiếm nên buộc phải đem nạp, bằng không sẽ bị tử hình. Sứ giả đến nơi, Cang Tương vào lấy thanh kiếm ra xem, thanh kiếm nằm trong vỏ tự nhảy ra hóa hình con rồng xanh. Cang Tương liền cởi rồng bay lên trời đi mất. Sứ giả về tâu lại, vua Hạp Lư thở dài, từ đó vua quý thanh kiếm Mạc Gia lắm.

– Chuyện thứ hai : Sau đó khoảng 600 năm thuộc về đời Tấn (TH) có quan Thừa Tướng là Trương Hoa, đêm thấy trên nền trời có khí lạ liền triệu một người giỏi về thiên văn là Lôi Hoán đến xem và hỏi?

Lôi Hoán nói : “Đó là cái tinh hoa của bảo kiếm, ở vào địa phận Phong Thành. Trương Hoa tức khắc bổ Lôi Hoán làm tri huyện ở xứ đó để tìm kiếm báu”.

Một hôm Lôi Hoán nhân đào hầm lấy đất đắp nền nhà bắt gặp được cái hòm bằng đá, dài hơn 6m, rộng hơn 3m. Khi mở ra xem trong đó có hai thanh kiếm, dùng đất ở núi Tây Sơn mà đánh bóng thì ánh sáng phóng ra rực rỡ. Lôi Hoán dâng về Trương Hoa một cây, còn một cây lưu lại để dùng. Trương Hoa xem kiếm rồi bảo : “Đây là kiếm Cang Tương, còn kiếm Mạc Gia đi đâu mất, nhưng thần vật thế nào rồi cũng hợp lại với nhau”.

Sau Lôi Hoán và Trương Hoa cùng đeo kiếm đi qua bến Diêm Đình, tự nhiên hai thanh kiếm đều phóng xuống nước mất. Hai ông liền sai người lặn xuống tìm thì thấy hai con rồng ngũ sắc vênh râu, trừng mắt, khiến thợ lặn hoảng sợ trồi lên không dám xuống nữa.

Theo truyền sử thì những thanh kiếm báu thỉnh thoảng cũng có xuất hiện, nhưng chỉ dành cho những bậc Thánh vương và các anh hùng tướng soái để trừ gian dẹp loạn hoặc đánh đuổi xâm lăng, bạo chúa hầu cứu dân cứu nước. Như vua Lê Lợi nước Nam ta, lúc chưa đến thời. Ông đi đánh cá dưới hồ, khi kéo lưới lên, bỗng được thanh kiếm báu.

Sau đến thời kỳ, ông khởi nghĩa đánh đuổi được quân Minh đem lại nền tự do cho nước nhà. Khi xong nhiệm vụ trở về già, vua Lê Lợi đang bơi thuyền dạo chơi dưới hồ, bỗng gặp thần Kim Qui thâu gươm lại. hiện giờ còn dấu tích “hồ Hoàn Kiếm”, cũng gọi là Hồ Gươm ở gần Hà Nội (Bắc phần Việt Nam).

Qua hai câu giảng nêu trên, Đức Giáo Chủ PGHH dùng thành ngữ “Long Tuyền Kiếm'' là dụng ý ca ngợi tinh thần yêu nước của các anh hùng dân tộc, và để bài trừ những kẻ gian tà nịnh tặc, mãi quốc cầu vinh qua bất cứ thời đại nào.

 

48 – BÌNH NGÔ

“Tiếng roi lại BÌNH NGÔ sát đát,

Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm.
(Gọi Đoàn Tráng Sĩ)

 Thành ngữ “Bình Ngô”, nói cho đủ là “Bình Ngô Đại Cáo”, tức là lời bố cáo rộng cho khắp chúng dân hay về việc vua Lê Thái Tổ và quân dân ta đã đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi Việt Nam.

Bản “Bình Ngô Đại Cáo” do vị Đệ nhất công thần Nguyễn Trãi thừa lệnh vua Lê làm ra. Trong bài này cụ đã dùng tài văn chương ca ngợi công nghiệp đánh đuổi giặc Minh, đem lại nền độc lập thanh bình cho quốc dân ta thời đó. Lời lẽ trong đây rất hùng hồn sắc bén, nêu cao dũng khí của người xưa và tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Thật là áng văn kiệt tác và bất hủ, đọc đến ai cũng lấy làm hãnh diện và hứng khởi trước cảnh vinh quang của đất nước. Cho nên khi nhắc đến bài “Bình Ngô Đại Cáo” ai ai cũng nhớ đến cụ Ức Trai Nguyễn Trãi là Vị Quân Sư Khai Quốc Công Thần dưới trào nhà Lê.

Cụ là con trai của ông Bảng Nhãn Nguyễn Đức Long. Hiệu là Phi Khanh, quê ở làng Thị Ngại, Huyện Thượng Sơn (Chí Linh) tỉnh Hải Dương, nay là tỉnh Hà Đông (Bắc Phần Việt Nam).

Năm 21 tuổi cụ thi đậu Thái Học Sinh dưới thời Hồ Quý Ly. Khi nhà Minh đưa chiêu bài giả tạo : “Diệt Hồ Phù Trần” để thôn tính Việt Nam; thế là nhà Hồ bị bắt đem về Kim Lăng. Cụ Phi Khanh cũng bị bắt theo, Nguyễn Trãi bịn rịn không rời, quyết theo cha để sớm hôm phụng dưỡng, nhưng thân phụ không cho, bảo ông phải ở lại quê nhà làm tròn nghĩa vụ nợ nước thù nhà.

Ông vâng lời trở về ẩn sĩ và lo học tập lảu thông binh pháp trận đồ, chờ đến lúc Bình Định Vương Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn, ông đến hợp tác và dâng lên vua một chiến sách “Bình Ngô”. Vua rõ được tài ba của ông nên rất vui mừng chấp nhận, liền phong ông làm Quân Sư.

Thật là “Minh Quân Lương Tể”, suốt 10 năm gian khổ chống giặc, lúc nào vua tôi cũng kề cận bên nhau. Khi bình giặc xong, vua Lê lên ngôi, Nguyễn Trãi được phong chức Quan Phục Hầu, được cải sang nhà họ Lê, tức là Lê Trãi kiêm chức Nhập Nội Hành Khiển – một chức quan to nhất trong triều, đặng vào ra cung điện bất cứ lúc nào.

– Về sự nghiệp văn chương của ông, ngoài bài “Bình Ngô Đại Cáo” Và “Ức Trai Thi Tập” (gồm 100 bài thơ dài ngắn lấy bút hiệu là Ức Trai) ông còn sáng tác rất nhiều tác phẩm khác, tất cả đều nhằm vào mục đích lợi dân ích nước giáo huấn các giới dân chúng.

Đến lúc 60 tuổi, ông lui về trí sĩ tại Côn Sơn, Huyện Chí Linh, Tỉnh Hải Dương, nơi trước kia ngoại tổ của ông là Trần Nguyên Đán đã trí sĩ và có chùa của Huyền Quang Tôn Sư, đệ Tam Tổ phái Trúc Lâm – một tông phái phát xuất từ dân tộc tính Việt Nam.

Ngày nay, nhắc đến bài “Bình Ngô Đại Cáo”, Đức Thầy có dụng ý kêu gọi Đoàn Tráng Sĩ noi gương xưa để xây dựng đoàn kết đánh đuổi ngoại xâm, bảo tồn dân nước. Ta thử đọc thêm một đoạn kết :

     “Nay vận nước đến hồi thạnh thái,

     Chí anh hùng ta hãy noi gương.

        Một mai nước được phú cường,

Tấm thân tráng sĩ cột rường nhà Nam.”

 

49 – SÁT ĐÁT

“Tiếng roi lại bình ngô SÁT ĐÁT,

Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm”
(Gọi Đoàn Tráng Sĩ)

Từ ngữ “Sát Đát” phát xuất từ đời Trần (Việt Nam), do chống quân Mông Cổ mà ra. Chữ sát là giết phạt, Đát là quân Mông Cổ, cũng gọi là giặc Nguyên.

Đời vua Trần Nhân Tông trị vì, vào năm Giáp Thân 1283 vua Nguyên (bấy giờ đã lấy hết nước Trung Hoa) sai Thái Tử Thoát Hoan và bọn Toa Đô. Ô Mã Nhi dẫn 50 vạn quân sang đánh nước Nam ta. Họ viện cớ mượn đường Việt Nam đi đánh Chiêm Thành, nhưng vua ta đã rõ được cơ mưu của họ nên cử Trần Hưng Đạo Vương làm Tiết chế thống lãnh ba quân chống giặc.

Song vì quân ta ít, lính giặc quá đông nên lúc đầu quân ta phải yếu thế. Vua vời Hưng Đạo Vương đến nói : “Thế giặc to như vậy mà chống đối với nó thì quân ta bị tàn hại, hay là Trẫm hàng đi để cứu muôn dân”.

Hưng Đạo Vương liền tâu : “Bệ hạ nói câu ấy rất là nhân đức, nhưng tôn miếu xã tắc thì sao? – Nếu bệ hạ muốn hàng thì xin trước hãy chém đầu thần rồi sau hãy hàng”

Vua nghe lời nói trung liệt như vậy lòng mới yên. Vương liền chiêu tập các đạo quân hội tại Vạn Kiếp ngày đêm lo luyện tập. Ngài còn viết ra bài “Hịch” truyền đi khắp nơi, khiến quân dân tướng sĩ đều nức lòng chiến đấu. Người nào cũng lấy kim mực chích vào cánh tay hai chữ “Sát Đát”. Nghĩa là giết quân Mông Cổ.

Thế là hai lần giặc Mông Cổ xâm lấn nước ta đều bị quân ta đánh bại và danh chữ “Sát Đát” có từ đấy.

Dùng từ ngữ “Sát Đát” Đức Thầy có ý nhắc đến chiến công oanh liệt của Hưng Đạo Vương đời Trần và quân dân ta 2 lần đánh bật quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi. Cũng để kêu gọi toàn dân hãy đứng lên đuổi giặc ngoại xâm (người Pháp), bảo tồn dân nước để đồng bào ta được tự do hạnh phúc. Ta hãy đọc thêm một đoạn trong bài : “Tặng Đoàn Thanh Niên Ái Quốc” để hiểu thêm lời kêu gọi của Ngài :   

        “Từ Nam ra Bắc xa ngàn,

Nhưng lòng phải một mới toàn mưu hay.

     Chừ ! dầu có đắng cay rán chịu,

     Đợi cơ trời kết liễu thù chung,

        Làm cho rõ mặt anh hùng,

Làm cho địch thủ rùng rùng bó tay.”

 

50 – BẠNG DUẬT TƯƠNG TRÌ

       “Giống nòi nỡ giết nhau chi?

BẠNG DUẬT TƯƠNG TRÌ lợi lũ ngư ông.”
(Tự Thán II)

Thành ngữ “BẠNG DUẬT TƯƠNG TRÌ” có nghĩa con trai (ngao) và con cò cắn níu nhau thì ông chài được lợi. Ý chỉ cho hai người hoặc hai nhóm, hai nước mãi tranh nhau, tất phải hở nhiều phía nên bị kẻ thứ ba thừa cơ tóm hết cả hai; phát xuất từ điển tích như sau :

Thời Xuân Thu, nước Tàu (TH) chia ra làm nhiều nước nhỏ, bấy giờ nước Triệu mưu tính đánh nước Yên. Tô Tần vì nước Yên sang nói với vua Huệ Vương nước Triệu : - Vừa rồi trên đường sang đây tôi thấy trên sông Dịch Thủy có một con trai hả miệng phơi mình trên bãi, bỗng có con cò chạy đến mổ trai. Trai liền ngậm miệng lại kẹp chắc lấy mỏ cò. Cò nói :

– Ngày nay và ngày mai trời không mưa chắc có khô trai ăn !

Trai liền nói lại :

– Nay và mai ngươi cũng không rút được mỏ ra thì ắt có khô cò ăn !

Hai con chẳng con nào nhượng con nào, bỗng chốc có ông chài vừa bơi xuồng tới chài một cái bắt hết cả hai. ([17])

Nay nếu Bệ hạ sai quân đánh nước Yên, bên nước Yên tất phải chống lại. Hai bên đều hao binh tốn của và cũng suy yếu cả, e nước Tần thừa cơ hội đánh lấy cả hai nước. Chừng ấy Bệ Hạ có hối cũng không kịp. Vua Huệ nghe được liền ra lịnh bãi binh.

Đức Thầy viết thành ngữ này trong hai câu thơ nói trên, là có dụng ý kêu gọi đồng bào ta hãy tránh nạn chia rẽ, nồi da xáo thịt. Cần phải xây lưng đoàn kết lẫn nhau để lo đánh đuổi xâm lăng bảo tồn dân nước, như Ngài đã nhiều lần kêu gọi :

   “Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống,

   Tha thứ nhau để sống cùng nhau

   Quý nhau từ giọt máu đào,

Để đem máu ấy tưới vào địch quân”

 

51 – MƯỢN GƯƠM LÊ LÝ

    “Nước mất đâu dễ ngồi an,

MƯỢN GƯƠM LÊ, LÝ dẹp tan quân thù.”
(Tế chiến sĩ trận vong Vườn Thơm)

Bốn chữ “Mượn Gươm Lê, Lý” là Đức Thầy muốn nhắc đến điển vua Lê Lợi và danh tướng Lý Thường Kiệt. Hai vị anh hùng này đã làm nên các chiến công hiển hách cho quốc dân Việt Nam.

1 – Vua Lê Lợi; người làng Lam Sơn, Huyện Thị Nguyên, Phủ Tiên Hoàng. Tỉnh Thanh Hóa. Trải mấy đời thân quyến sống nghề nông, gia đình giàu có, tài đức hơn người. Ông thường giúp kẻ nghèo khó, cô quả, nên được mọi người quanh vùng mến phục. Bấy giờ giặc Minh khuyến dụ ông ra làm quan, nhưng ông không nhận. Ông thường nói : “làm trai sanh ra trong đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời” một hôm, ông đi chài cá, bỗng kéo lên được lưỡi kiếm chiếu ra ánh sáng, ông biết là “bảo kiếm” nên đeo vào người. Từ ấy ông nuôi chí lớn... Vì thấy nhà Minh cai trị dân ta quá tàn ác, đâu đâu cũng chung chịu cảnh làm than cơ cực, ông lo tích lũy lương tiền, ngựa voi, khí cụ và chiêu tập anh hùng các nơi để chờ cơ đuổi giặc.

Đến mùa Xuân năm Mậu Tuất 1418, ông tự xưng là Bình Định Vương, khởi nghĩa đánh giặc Minh. Bấy giờ có Nguyễn Trãi và hào kiệt bốn phương kéo về hợp tác. Qua mười năm kháng chiến, Bình Định Vương và tướng sĩ đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi đem lại nền tự chủ cho nước nhà, Ngài mới lên ngôi tức là Thái Tổ nhà Lê.

Lúc tuổi già, một hôm vua cho bơi thuyền chơi trên mặt hồ, bỗng thấy thần Kim Qui xuất hiện lội ngay lại thuyền. Vua liền rút kiếm báu chém một cái, không ngờ thần Kim Qui hả miệng cắn lưỡi kiếm lặn mất. Vua mới hiểu ra mình đã hoàn thành nhiệm vụ, tất phải trả kiếm lại cho nguyên chủ.

2 – Lý Thường Kiệt : Ông sanh thời hậu Lý ở phường Thái Hòa. Huyện Thọ Xương (Hà Nội). Ông có sức khỏe hơn người và lảu thông thao binh lược pháp, tài kiêm văn võ. Những công lao bảo vệ quốc dân của ông, chẳng những vang danh thời đó, mà còn làm cho hậu thế ca ngợi, nhắc nhở muôn đời, qua bài chiến công đáng kể : “Bắc phạt Tống, Nam bình Chiêm”.

Theo sử chép : vào năm Ất Mão (1075) bấy giờ nhà Tống bên Tàu (TH) muốn xâm lấn nước ta, sai Lưu Bí khiêu khích phá quấy biên thùy. Vua Lý Nhân Tông liền sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản, cử 10 vạn binh chia, làm hai đạo tiến đánh phủ đầu giặc Tống, chiếm được ba Châu : Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu. Tiêu diệt hơn 10 muôn binh Tống và gom hết của tiền châu báu chở về nước. Tống Triều nổi giận sai Quách Quì và Triệu Tiết cử đại binh hiệp với hai nước : Chiêm Thành và Chân Lạp (Miên) sang đánh báo thù.

Được tin ấy Lý Thường Kiệt tức tốc chia quân chặn đánh tại sông Như Nguyệt, quân giặc tiến lên không được, nhưng ông thấy giặc đông hơn quân ta gấp bội; sợ chiến sĩ thối chí nên ông làm một bài thơ nói rằng của Thần Thánh ban cho để kích thích lòng hăng chiến các binh sĩ :

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Nghĩa :

Núi sông Nam Việt, vua Nam ở.

Định phận đã ghi bởi số trời.

Cớ sao quân Bắc sang xâm lấn?

Chúng giặc rồi đây cũng bại thôi !

Nhờ vậy mà quân Nam ta hăng hái đánh giặc và đẩy lùi được binh Tống.

– BÌNH CHIÊM : Đến năm Quý Mùi (1103) nhân có bọn Lý Giác ở Diễn Châu, Nghệ An làm phản, Lý Thường Kiệt liền đem quân vào đánh. Giác thua chạy sang Chiêm Thành, nhờ vua nước ấy là Chế Na Na trợ giúp rồi lại họp quân nước ấy trở lại đánh lấy ba Châu ([18]) mà trước kia vua Chiêm Thành đã hiến dâng cho nước ta.

Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân vào đánh đuổi. Chế Na Na thua chạy, xin trả lại ba châu và triều cống như trước.

Bình Chiêm xong trở về được một năm thì ông mất, thọ được 86 tuổi. vua Lý Nhân Tông phong tước Trung Phụ Công, lại gia phong mỹ tự và Dũng Vũ. Sau vua Trần Anh Tông tấn phong ông là : “Uy Thắng Đại Vương”.

Dùng thành ngữ “Mượn Gươm Lê Lý” qua hai câu thơ trên, Đức Thầy muốn nhắc đến hai chiến công oanh liệt của hai vị anh hùng Việt Nam là Lê Thái Tổ và Lý Thường Kiệt. Ý để kêu gọi toàn dân hãy noi gương ấy mà hăng hái đứng lên chống đuổi giặc ngoại xâm. Đem lại nền tự chủ cho nước nhà.

 

52 – MỘNG VÕ HẦU

“Nào ai dám sánh mình Minh triết,

Mà dám lăm le MỘNG VÕ HẦU”
(Đáp lời Cụ Phạm Thiều)

MỘNG VÕ HẦU là mộng làm Tể Tướng, hay Quân Sư của một quốc gia. Ý chỉ mộng công danh phú quý. Danh từ này phát xuất từ điển tích Khổng Minh đời Tam Quốc (TH).

Khổng Minh tên tộc là Gia Cát Lượng, sanh thời Tam Quốc (234 – 181 trước Tây lịch). Con của Gia Cát Khúc, em Gia Cát Cẩn. Gặp thời loạn lạc (Mạt Hớn) ông đến ở ẩn đất Nam – Dương, tại Ngọa Long Cương, nên có hiệu là Ngọa Long tiên sinh, ông thường ví mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị thời xưa.

Sau ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi ba lần đến thảo am cầu xin ông về giúp, thấy ba anh em quá nhiệt tình nên ông ưng thuận.

Khổng Minh là bậc túc trí đa mưu, tinh thông thiên văn, địa lý và binh pháp. Ngồi trong thảo am vẫn biết cuộc diễn tiến của đất nước Trung Hoa ra sao. Một mình sang Đông Ngô, ông chỉ dùng 3 tấc lưỡi phá 80 muôn binh của Tào Tháo (Trận Xích Bích). Ngồi một chỗ dẹp năm Đạo quân của Bắc Ngụy... đã chết còn làm cho cha con Tư Mã Ý kinh tâm tán đởm. Ông giúp Lưu Bị từ trong thế cùng lực kiệt, dựng nên cơ nghiệp. Từ quyền Tổng quản điều khiển quân nhung, đến địa vị Quân Sư Thừa tướng. Khi Lưu Bị từ trần. Lưu Thiện nối ngôi phong cho ông là Võ Vương Hầu ([19]) và tôn ông là Thượng phụ của Vua.

Sở dĩ trong hai câu thơ đáp lời cụ Phạm Thiều. Đức Thầy có dùng chữ Võ Hầu (tước vị của Khổng Minh) vì cụ Phạm Thiều trong bài thơ mời Ngài tham chánh thời ấy, cụ có viết :

“Non sông chờ đợi người Minh triết,

Chớ để danh thơm chỉ Võ Hầu.”

Nghĩa là cụ Phạm Thiều xưng tặng Đức Thầy là bậc Triết nhân tài đức, có thể đảm trách vai trò quân sư hay Tể Tương Như Khổng Minh (Võ Hầu), nhưng tại sao Ngài còn ngần ngại chẳng chịu ra giúp nước cứu dân, vì non sông đang chờ đón những người như Ngài, nên e cho một ngày kia danh nghĩa và tài đức của Ngài phải mai một đi chăng?

Nên Đức Thầy mới đáp lại :

Đại ý Ngài không bao giờ cho rằng mình là hàng minh triết và cũng không hề có cao vọng làm công hầu khanh Tương Như bao nhiêu người đã tưởng, qua hai họa đáp :

“Nào ai dám sánh mình minh triết,

Mà dám lăm le mộng Võ Hầu.”

 

53 – BẠCH ĐẰNG GIANG

“BẠCH ĐẰNG GIANG công nghiệp ấy ai bằng,

Quân Việt ít đánh tan Mông Cổ mạnh.”
(Kỷ niệm rừng Chà Là)

Bạch Đằng Giang là con sông Bạch Đằng chảy qua các tỉnh : Bắc Ninh, Hải Hưng và Quảng Yên, đổ ra vịnh Bắc Việt, do câu :

“Bạch Đằng Giang vương nghiệp sáu năm.”

Nhắc đến Bạch Đằng Giang, tức muốn nói đến hai chiến công rực rỡ mà trước kia ông cha ta đánh đuổi xâm lăng, qua hai trào nhà Ngô và nhà Trần.

Chiến công thứ nhất là Ngô Quyền chiến thắng giặc Nam Hán :

Thời nước ta tự chủ, có ông Ngô Quyền ở làng Đường Lâm, Huyện Phú Thọ, Tỉnh Sơn Tây (Bắc Phần Việt Nam) là con của vị quan Mục Phong Châu tên Ngô Mân. Khởi nguyên, Ngô Quyền làm thuộc tướng của Dương Diên Nghệ bị Kiều Công Tiện giết và cướp ngôi, ông bèn kéo binh về phá thành giết được Kiều Công Tiện.

Trước khi chết, Kiều Công Tiện có thông đồng với nhà Nam Hán (TH). Vua Hán nhân cơ hội ấy thực hiện mộng xâm lăng, liền sai Thái Tử Hoằng Thao dẫn 15 muôn binh tiến theo đường thủy còn y thì thống lãnh 10 muôn binh đi đường bộ sang đánh nước ta.

Được tin ấy Ngô Quyền đem quân đón giặc tại sông Bạch Đằng. Ông cho quân đóng cọc, đầu bịt sắt nhọn cắm lút dưới mặt nước. Khi chiến thuyền của giặc vào sông Bạch Đằng, vượt qua cửa Lục Đầu đúng lúc nước lớn, ông cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi tháo lui, quân giặc đuổi theo qua khỏi chỗ có đóng cọc thì bị binh mai phục của ta đổ ta đánh bất ngờ làm quân giặc thua, rút chạy. Bấy giờ gặp lúc nước ròng xuống nên thuyền giặc bị chạm vào cọc nhọn tan vỡ, lính Nam Hán chết vô số. Ngô Vương bắt được Hoằng Thao đem về giết tại thành Đại La.

Hán chúa Lưu Cung được tin đại binh bại vong, con chết nên lo buồn hoảng sợ, rút quân thẳng về Phiên Ngung (TH). Thắng quân Nam Hán, Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô tại thành Cổ Loa. Ông làm vua được 6 năm, mất vào năm Bính Thìn(994) thọ được 47 tuổi (897 – 944).

Chiến công thứ hai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị Đệ nhất Công Thần Đời Trần, chiến thắng quân Mông Cổ.

Ông quê ở làng Tức Mạc, Huyện Kỳ Lộc, phủ Trường Xuân (bắc phần Việt Nam). Thân sinh là An Sinh Vương Trần Liễu, thuộc dòng tôn thất nhà Trần. ông đã hai lần chiến thắng đuổi quân Nguyên (Mông Cổ) ra khỏi bờ cõi. Đây xin kể trận chiến thắng tại Bạch Đằng Giang.

Sau các trân chiến thắng như : Hàm Tử Quan, Chương Dương Độ, Tây Kết... Thoát Hoan Thái Tử Mông Cổ phải chui vào ống đồng mà trốn để về Tàu. Đến mùa thu năm Đinh Hợi (1287) Thoát Hoan lại kéo 30 muôn binh sang phục thù.

Hưng Đạo Vương được tin lo phòng bị ngăn giặc, mặt khác sai Trần Khánh Dư đánh tan đoàn thuyền vận lương. Ngài đoán biết thế nào quân giặc cũng thối binh, nên cho binh tướng phục kích tại sông Bạch Đằng. Cũng áp dụng thế chiến của Ngô Quyền khi xưa, lấy cọc bịt sắt nhọn đóng một khúc sông. Chờ nước thủy triều lên cho thuyền nhỏ ra nhử giặc, khi thủy triều ròng xuống thì rút lui cho giặc lọt vào ổ phục kích. Ngài mới ra lệnh tấn công... Quân giặc lớp bị bắt, lớp bị giết vô số...

Nhận thấy 30 vạn quân Nguyên nhiều gấp mấy lần quân ta, thế mà nhờ mưu lược cọc chiến tại sông Bạch Đằng nên quân ta toàn thắng, tạo thành một chiến công lịch sử muôn đời.

Đức Thầy dùng ba chữ Bạch Đằng Giang là để nhắc lại hai chiến công oanh liệt vẻ vang của ông cha ta thuở trước. Và cũng để kêu gọi toàn dân hăng hái đứng lên đánh đuổi ngoại xâm (Pháp) hầu giành lại nền độc lập cho quốc dân, như Ngài từng thốt :

     “... Tiếng vang độc lập reo hò,

Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiên

     Quyết phen này kết liên một khối,

     Đem máu đào tắm gội giang san

Và :

     “Liều mình đục pháo xông tên,

Liều mình giết giặc xây nền tự do.”


[1] Dẫn theo văn học Cam bốt, bài Đức dục lớp 8.

[2] Đang Phúc tên thật là Từ Thứ, tự là Nguyên Trực

[3] (Tam Nhựt tiểu yến, thất nhựt đại yến, thượng mã đề kim, hạ mã đề ngân)

[4] Trương Lương nương nhà Hán đánh Tần để báo thù cho vua nước Hán và thân tộc, chớ không phải làm toi nhà Hán vĩnh viễn; sau tu thành Tiên. Còn Quan Công tuy lúc thất thời phải về ở với Tào Tháo, nhưng lòng ông không hề đầu phục Tào Tháo, sau được người đời tôn là Thánh.

[5] Trích lược Sử Phật Giáo Việt Nam của Thích Mật Thể

[6] Trích lược sử Phật Giáo Việt Nam của Thích Mật Thể

[7] Xứng đáng là bậc Khuông phò nước Việt

[8] Nghĩa cô là một chức quan do làm được việc nghĩa mà nên

[9] Nguyên Khổng Minh đã chiếm quẻ biết trước, ngày đó có gió Đông Nam và Châu Du quyết giết cho được ông, nên ông đã dặn Triệu Tử Long đón rước. Còn Lưu Bị thì chuẩn bị sẵn đợi ông về sẽ chia quân đánh lấy các thành trước.

[10] Ám chỉ đêm 24 rạng ngày 25 tháng giêng Ất Dậu (1945) Nhựt đảo chánh Pháp.

[11] Tặng Đoàn Thanh Niên Ái Quốc

[12] Dẫn theo kinh Quan Thánh.

[13] Sáu nghề; lễ, nhạc, bắn tên, đánh xe, văn thư, toán pháp. 

[14] Học trong ba thời gian dư :

1–  Thông thường học sinh tới tháng hè thì nghỉ, nhưng người chăm học vẫn học luôn.

2 – Ban ngày gặp trời mưa học sinh quấn chăn ngủ, còn người siêng học vẫn học không ngủ.

3 –Đêm lại học sinh đi chơi rồi ngủ. Còn người siêng học, học luôn cả đầu hôm và khuya.

[15] Bẻ đặng Quế Cung thềm" là chỉ cho sự thi cử đỗ đạt.

[16] Cũng có sách chép : tiền nhân ta đời thượng cổ, lấy chim Hồng chim Lạc làm vật Tổ, coi như tổ tiên của mình. Chẳng những thờ cúng mà còn vẽ hình đó vào mình để làm dấu riêng của bộ lạc. Đây là hai thứ chim hay đổi chỗ ở theo mùa nóng, lạnh và bay rất cao xa. Người Việt thường di cư theo hướng bay của chim ấy, không sợ lạc ra bờ biển. (Đây dẫn theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim)

[17] Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông.

[18] Ba châu ấy là : Địa Lý, Mê Linh và Bố Chính.

[19] Có chỗ biên là Võ Hương Hầu.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn