ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA HẢO

29 Tháng Bảy 202012:15 CH(Xem: 7448)
ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA HẢO

      Để Hiểu Phật-Giáo Hòa-Hảo
Để hiểu PGHH

THAY LỜI TỰA


          Chúng tôi đã từng tiếp-xúc rất nhiều người trong các giới, lúc đàm-thoại có nêu ra nhiều nghi-vấn về Đạo Phật-giáo Hòa-Hảo. Chúng tôi nhận thấy nhiều câu hỏi rất lý-thú đáng được ghi chép để thay vì trả lời cho những người sắp hỏi hay chưa hỏi. Muốn cho câu hỏi có mạch-lạc, chúng tôi cần xếp thành một hệ-thống tư-tưởng, đương-nhiên có những câu chưa hỏi mà chúng tôi phải đặt thêm.

          Đã là câu nghi-vấn, dĩ-nhiên chưa hiểu rõ sự thật về Đạo Phật giáo Hòa-Hảo. Vi thế mà quyển sách nầy cần phải ra mắt chư-tôn.

          Đối với những người xưa nay chưa hiểu giáo-lý Phật-giáo Hòa-Hảo thi nó sẽ là chìa khóa để mở cửa của kho-tàng giáo-lý nầy mà từ lâu nhiều người chưa có dịp vào, nhưng một khi vào rồi sẽ thấy sự thật không như những lời huyễn-hoặc.

Còn đối với anh em tin-đồ trong Đạo, nó sẽ là một sự nhắc-nhở có hệ thống, cần ích cho việc tu-tấn trong lúc Đức Huỳnh Giáo-Chủ vắng mặt.

          Ngoài công-dụng phá tan mối hiểu lầm của nhiều người, quyển sách nầy sẽ đem lại cho chư-tôn một sự nhận xét rõ-ràng về chỗ tương-ứng giữa giáo-lý của Đức Phật Thích-Ca và Đạo Phật-giáo Hòa-Hảo không còn chỗ nào sai-biệt. Trở lại chư-tôn sẽ nhận thấy Phật-giáo Hòa-Hảo là một nền tôn giáo triệt-để đi theo tinh-lý vô-vi chánh-đạo của Đức Phật Thich-Ca mà từ khi Đức Lục-tổ Huệ-Năng bặt truyền y bát, Thần-Tú bày ra âm-thinh sắc-tướng làm cho chánh-giáo phải suy-vi.

Chính vì mục-đích chấn-hưng Phật-giáo mà Đức Huỳnh Giáo-Chủ thừa lịnh Phật-Tổ giáng-lâm, hưng-truyền chánh-pháp. Muốn cho công cuộc giáo-độ nầy được viên-mãn, Ngài phương-tiện diệu-dụng pháp-môn học Phật tu Nhân là một pháp-môn thích-trung, tuy giản dị nhưng đem lại sự chứng đắc chắc-chắn, bằng chứng là tín-đồ của Ngài đã có một số người phát huệ và có điễn lành.

          Phương chi pháp-môn học Phật tu Nhân mà Ngài đã khai-thị, nó rất thích-hợp với căn-khí của chúng-sanh trong thời-kỳ Nguơn-Hạ nầy là thời-kỳ mà chúng-sanh thường bị thị-dục và ác-duyên làm cho lu mờ bản-tánh. Hơn nữa Ngài đã đạt được máy huyền cơ, thấy rằng thời-kỳ tận-diệt đã hầu gần thì chỉ còn có phương pháp giáo-hóa chúng-sanh trở lại nền-nếp tốt đẹp của đạo nhân, đồng-thời trau-giồi trí-huệ, bồi-bổ công-đức để một ngày gần đây đủ tư-cách đến Hội Long-Hoa, trước chầu Phật sau nghe rõ pháp-mầu mà hưởng Bồ-đề diệu-quả.

          Ngày mồng sáu tháng Hai năm Giáp-Ngọ (1954).

Thanh-Sĩ và Vương-Kim

 

CHƯƠNG THỨ NHỨT: Thân Thế Đức Huỳnh Giáo-Chủ

Hỏi. – Quí ông là người đạo nào?

Đáp. – Chúng tôi là tín-đồ Phật-giáo Hòa-Hảo.

H. – Quí ông cho tôi biết, tại đâu đã gọi Phật-giáo mà lại còn thêm hai tiếng Hòa-Hảo nữa?

Đ. – Bởi vị giáo-chủ sanh-trưởng ở thôn Hòa-Hảo, một làng nằm trên Bắc-ngạn sông Vàm-nao, thuộc quận Tân-châu, tỉnh Châu-đốc. Hơn nữa giáo-chủ truyền bá giáo-lý đạo Phật và thường mượn tên làng sanh-trưởng của mình dùng làm biệt-danh, vì đấy mà nền đạo của Ngài khai-sáng mới có tên Phật-giáo Hòa-Hảo.

Ngoài ra danh-từ Hòa-Hảo còn tiêu-biểu cho tinh-thần kết-liên khắp nhơn-loại đại-đồng trên nền tảng hòa-hảo, như Ngài thường biểu-ý trong câu:

Mảng chờ trong bá-tánh thảnh-thơi,
Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.
Hay là:
Ước mơ thế-giới lân hòa-hảo,
Nhà Phật con Tiên hé miệng cười.

H. – Quí ông có thế cho biết quí danh của giáo-chủ không?

Đ. – Ngài quí danh là Huỳnh Phú-Sổ mà toàn-thể tín-đồ của Ngài gọi là Đức Thầy và người ngoài thường xưng hô là Đức Huỳnh Giáo-chủ.

H. – Quí ông có thể cho biết niên-kỷ của Ngài không?

Đ. – Ngài sanh năm Kỷ-mùi tức năm 1919, kể đến năm nay 1954 thì Ngài được 36 tuổi.

H. – Quí ông có thể cho biết thân-sinh và thân-mẫu của Ngài không?

Đ. – Thân-sinh của Ngài là Đức-ông Huỳnh-Công-Bộ còn thân-mẫu là Đức-bà Lê-thị Nhậm.

H. – Lúc Ngài ra đời, gia-thế của thân-sinh Ngài như thế nào?

Đ. – Ngài sinh trong gia-đình khá-giả. Lúc bấy giờ thân-sinh của Ngài là một vị hương-cả đương-niên.

H. – Học-lực của Ngài đến đâu mà Ngài chủ xướng một nền đạo rộng lớn như thế?

Đ. – Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì sức học của Ngài chỉ đến bực tiểu-học trở lại. Với gia-thế của Ngài có đủ điều-kiện cho Ngài tiếp-tục sự học-hỏi đến cấp cao, song vì lúc đó Ngài cứ mãi bịnh hoạn, thành thử phải bỏ học mà về lo điều trị. Hơn nữa thân-sinh Ngài thấy Ngài mãi đau ốm nên không muốn cho Ngài học thêm nữa.

H. – Với sức học thấp kém dường ấy thì Ngài được tài chi hấp-dẫn hằng triệu tín-đồ?

Đ. – Theo sự hiểu biết của chúng tôi, sau khi thôi học về, Ngài vẫn đau ốm liên-miên, chạy chữa đủ phương thuốc Đông Tây mà bịnh cứ một ngày một tăng thêm, cho đến một hôm nọ, hoác-nhiên có một ánh từ-quang chiếu rọi khắp mình Ngài làm cho Ngài bất-tỉnh. Chừng khi tỉnh lại thì Ngài hoàn-toàn biến đổi trạng-thái. Từ đó Ngài quán-thông cả vạn-vật.

H. – Lấy gì để biết Ngài đã quán-thông?

Đ. – Ban sơ thật ra người đời chưa ai nhận ra Ngài đã quán-thông. Ngay như trong gia-đình Ngài cũng không ai để ý. Mãi cho đến khi trong làng có những chứng bịnh bất trị, như bịnh trùng, bịnh điên, bịnh đau tà… được Ngài cứu chữa lành mạnh bằng phương-pháp mầu-nhiệm, bắt đầu từ đó, người ta mới ngạc-nhiên quan-tâm đến.

H. – Phương-pháp mầu-nhiệm ấy ra sao?

Đ. – Đại để, lúc đầu Ngài dùng nước lã, giấy nhựt-báo của thân-sinh Ngài mua để đọc, xé nhỏ ra bằng ngón tay mà cho uống, hoặc dùng dây chuối, dây bố làm niệt đeo vào bịnh nhơn. Thế mà hết bịnh một cách không thể dùng óc khoa học ngày nay mà hiểu nổi.

H. – Ngài còn dùng phương-pháp nào nữa không?

Đ. – Ngoài ra, Ngài còn dùng là xoài, lá ổi, lá mít, bông trang, bông thọ v.v… làm thuốc thang mà chữa trị. Có điều lạ nhứt là những người ghiền á phiện, ghiền rượu đã uống nhiều thuốc để cai, để bỏ nhưng không có hiệu-quả, khi đến Ngài chỉ có nước uống nước lã và bắt niệm Phật, thế mà bỏ thuốc bỏ rượu một cách dễ-dàng không có hành phạt chi cả.

H. – Quí ông có thể kể một vài bịnh ngặt-nghèo được Ngài trị hết không?

Đ. – Nếu kể ra thì không thể nào kể cho hết. Đây chúng tôi chỉ kể lại trường hợp đặc biệt của con gái ông cả Cẩn ở làng Hưng-nhơn. Cô ấy phải bịnh đau tà thập tử nhứt sanh, khi đem đến nhờ Ngài cứu thì Ngài chỉ dùng nước mà rải khiến cho cô ấy ngã ra chết. Ngài bỏ đó, thân nhân thấy vậy lấy làm lo-ngại, đến yêu-cầu Ngài cứu thì Ngài bảo khiêng vào nhà sau để đó, đợi giờ Tý, Ngài sẽ chữa cho. Quả thật đến giờ ấy, Ngài làm phép trong chén nước rồi cạy miệng đổ cho cô ấy uống. Trong chốc-lát cô ấy tỉnh lại rồi mạnh luôn.

H. – Cứ theo tôi biết thì cũng có người dùng phép chữa bịnh tuy không cùng một phương-pháp như Ngài, song cũng cứu được nhiều bịnh ngặt-nghèo mà nào có thấy ai nhờ đó dựng lên một nền đạo như Ngài đâu?

Đ. – Đành rằng chỉ riêng phương-pháp đó thì chưa đủ làm cho người thức-tỉnh nhưng sở-dĩ Ngài lập thành mối đạo là do sự sáng tỏ của Ngài mà cả phái tân-học cũng như Nho-học đều phải khâm-phục.

H. – Ngài làm thế nào mà người ta khâm-phục?

Đ. – Ngoài phương-pháp trị-bịnh, Ngài còn ra thi bài đáp họa những người đến thử Ngài.

H. – Quí ông có thể kể cho tôi biết một vài trường-hợp người ta đến thử Ngài không?

Đ. – Theo chỗ chúng tôi biết, có nhiều cự Nho như thầy ba Thận ở làng Phú-lâm, học-trò của ông tú Thường, ông hương lễ Ướng tức là Nguyễn-Thanh-Tân ở Mỹ-hội-đông, ông Huỳnh Hiệp-Hòa ở Bình-Thủy, nghe Ngài ra đời có nhiều việc kỳ-diệu mới trù-nghĩ làm nhiều bài thơ ẩn-từ chiết-tự đến bắt-bí Ngài, thế mà Ngài họa ngay trước mặt một cách dễ-dàng làm cho mấy ông ấy phải kinh khủng trước tài ứng-đối trác-tuyệt.

H. – Quí ông còn nhớ những bài đó không?

Đ. – Đây là bài thơ chiết-tự của ông Huỳnh-Hiệp-Hòa ra cho Ngài họa:

Phiến ngôn đại chấn điểm Nam-cương,
Khẩu tụng Văn-Vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn-chương.

Nếu chiết-tự sáu câu đầu thì thấy ông Huỳnh Hiệp-Hòa hỏi Ngài có phải là: Trạng-Trình, Cử-Đa, Đề-Thám không? Ngài liền họa lại:

Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đao khổ tường.
Tề tướng Cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp,
Phật-lý di khai đại-hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn-lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

Cứ xem bài thơ này đủ thấy Ngài chẳng những họa vận bằng mà cả vận trắc nữa. Đó là chưa nói đến ý-nghĩa của bài thơ có ẩn-ý xưng danh rất khéo-léo.

Tuy-nhiên cũng chưa mấy tài bằng trường-hợp của thầy ba Thận. Ông này trót hai đêm nặn óc làm ra hai bài thơ định đến thử Ngài, nhưng khi đến Ngài, chưa kịp đem ra hỏi thì Ngài đã đón mời vào, vồn-vã hỏi rằng: Bộ ông muốn làm thơ lắm hả ông? Liền đó Ngài bắt đầu vô câu chuyện mà trong đó Ngài đã đáp hết những đều mà thầy ba Thận định hỏi trong hai bài thơ.

Đến khi ra về người cùng đi hỏi tại sao không đem hai bài thơ ra thử thì thầy ba Thận nói cho biết rằng khi nói chuyện Ngài đã trả lời hết rồi, mặc dầu hai bài thơ ấy vẫn còn nằm trong túi.

H. – Như thế là Ngài biết tâm-lý người ta nữa sao?

Đ. – Cứ theo chỗ chúng tôi biết thì chẳng những Ngài ám-thông tâm-lý người đời mà còn hiểu cả ý định của người nữa. Như trường-hợp ông hương sư Vàng, một ngày nọ đem quyển Sám giảng người đời của ông Sư-Vãi Bán-Khoai đến hỏi Ngài thì Ngài chận lại rồi đọc ron-rót không sai một chữ nào, khiến ông hương-sư Vàng phải ngạc-nhiên vì ông biết Ngài từ nhỏ tới lớn chưa từng gặp quyển đó lần nào.

Dù vậy những điều vừa kể trên chỉ làm cho một số người nhờ trị lành bịnh và được họa thi mà khâm-phục, chớ chưa bằng cách Ngài viết Sám-giảng khắc-phục được số người đã có xu-hướng đạo-đức.

H. – Ngài viết Sám-giảng hồi nào và trong đó nói những gì mà khắc-phục được một số người có xu-hướng đạo-đức.

Đ. – Ngài ra đời vào ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão (ngày mở Đạo), nhưng mãi đến tháng sáu tháng bảy, nghĩa là sau một độ dùng huyền-diệu để trị-bịnh, Ngài mới viết Sám-giảng trong đó Ngài bộc-lộ tiền-thân của Ngài mà những người tu theo Đức Phật-Thầy Tây-An, Đức-Phật Trùm, Đức Bổn-Sư, Ông Sư-Vãi Bán-Khoai đều nhận ở Ngài có sự tái-lâm đấng chơn-sư của họ.

H. – Có những đoạn văn nào của Ngài hay bằng-chứng nào minh-xác mấy vị trên đây với Ngài là một không?

Đ. – Để nhận thấy chỗ liên-hệ giữa Đức Phật-Thầy Tây-An, ông Sư-Vãi Bán-Khoai với Đức Huỳnh Giáo-chủ, tưởng cũng nên đem đối-chiếu những tư-tưởng đồng-nhứt giữa ba Ngài.

Trước hết ta nhận thấy rằng: trong phái Phật-Thầy các Ngài một khi lâm-phàm cứu thế đều xưng Khùng xưng Điên, ý chừng đối lại người đời xưng khôn xưng lanh, thường khinh khi Phật, Tiên, Thần, Thánh.

Mặc dầu xưng Khùng, xưng Điên, nhưng đối với những người có thiện-căn, các Ngài không hẹp lượng mà chẳng cho biết rằng: Khùng Điên là của Phật, của Thầy, chớ không phải của người lảng trí. Đây là đoạn văn ông Sư-Vãi Bán-Khoai xưng Khùng, xưng Điên:

Điên này Điên Phật, Điên Thầy,
Chẳng sợ ai rầy nên nói cù nhây.

Ta hãy xem một đoạn văn dưới đây của Đức Huỳnh Giáo-chủ thì sẽ thấy chỗ đồng-nhứt tư-tưởng ấy:

Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
Chớ chẳng phải của người lảng-trí.

Bởi Khùng Điên của Phật của Thầy, cho nên rõ thiên-cơ, đoán biết âm dương kết-liễu. Đây ta hãy đọc ông Sư-Vãi Bán-Khoai:

Khùng sao mà biết thiên-cơ,
Cũng là Phật khiến cho Khùng dại điên.

Cũng đồng một tư-tưởng này, Đức Huỳnh Giáo-chủ đã viết:

Khùng đã biết âm dương kết-liễu,
Khùng huyền cơ, Khùng đạo Thích-Ca.

Ngoài sự xưng hô giống nhau, chúng ta còn thấy cả sự nhận-định thời cơ cũng giống nhau nữa. Ông Sư-Vãi Bán-Khoai viết:

Hết đây đến nước dị-kỳ,
Dỗ-dành thiên-hạ vậy thì chẳng an.

Đến Đức Huỳnh Giáo-chủ cũng thế:

Hết đây rồi đến dị-kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Xưa nay, sự trùng ngôn trùng ý vẫn là điều thường thấy xảy ra luôn, nhưng chúng tôi dám chắc chẳng bao giờ có một sự đồng-nhứt tư-tưởng như thế này. Trong quyển Sấm giảng người đời, ông Sư-Vãi Bán-Khoai trong cuộc đi phổ-độ chúng-sanh thường nói là một Thầy ba tớ. Đây là lời ông Sư-Vãi Bán-Khoai tự-thuật:

Chừng nào nước chảy đông nguồn,
Một Thầy ba tớ hết đường lao-đao.
Ông thường nhắc đến luôn:
Nào khi nắng bụi bay tuôn,
Một Thầy ba tớ chẳng buồn lại vui.

Đến Đức Huỳnh Giáo-chủ cũng thế, trong Sám-giảng, Ngài nhắc lại cuộc châu-du độ thế, cũng cho biết là một Thầy ba tớ:

Khùng thời ba tớ một Thầy,
Giảng dạy dẫy đầy rõ việc thiên-cơ.

Chẳng những cho biết là một Thầy ba tớ mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai còn cho biết cả danh-hiệu nữa. Đây là danh-hiệu mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai thường xưng:

Huệ-Lựu ký tả một bài,
Viễn bang châu quận hậu lai khán tường.
Hoặc giả:
Huệ-Lựu bút ký tả rồi,
Đặng cho thiên-hạ dấu soi để đời.

Cái danh hiệu này được Đức Huỳnh Giáo-chủ lặp lại trong Sám-giảng của Ngài:

Đừng thấy ngu dại mà khi,
Thầy là Huệ-Lựu, tớ thì Huệ-Tâm.

Khi đọc đến đoạn này thử hỏi còn tín-đồ nào của ông Sư-vãi Bán-Khoai không nhận thấy chỗ xuất-xứ của Đức Huỳnh Giáo-chủ. Họ không còn ngần-ngại gì nữa mà chẳng nhận Đức Huỳnh Giáo-chủ là chuyển-kiếp của ông Sư-Vãi Bán-Khoai.

Thật-thế, chúng ta hãy đọc đoạn văn này của ông Sư-Vãi Bán-Khoai:

Tôi đâu mà có an thân,
Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần.
Mến là mến nghĩa Hoàng-Lân,
Thương là thương lấy vạn dân mắc nàn.

Rồi đọc đoạn văn này của Đừc Huỳnh Giáo-chủ, chúng ta sẽ thấy chỗ nhận-định của tín-đồ ông Sư-Vãi bán-Khoai là đúng:

Dạy đạo chánh vì thương Nam-Việt,
Ở Cao-miên vì mến Tần-hoàng;
Trở về nam đặng có sửa-sang,
Cho thiện-tín đặng rành chơn-lý.

Như thế thì rõ lắm rồi. Nhưng cũng còn chưa rõ bằng đoạn văn sau đây:

Đừng ham nói nọ nói này,
Lặng yên coi thử Điên này là ai?

Cám thương Ông lão Bán-Khoai,
Vì yêu dân-chúng chẳng nài nắng mưa.

Thế là bức màn huyền-vi giữa ông Sư-Vãi Bán-Khoai và Đức Huỳnh Giáo-chủ đã hé mở. Chẳng những thế mà bức màn huyền-vi giữa Đức Phật-Thầy Tây-An và Đức Huỳnh Giáo-chủ cũng được vén lên. Đức Huỳnh Giáo-chủ cho biết:

Khùng này quê ngụ núi Sam
Còn Điên chẳng có chùa am dưới này.

Núi Sam là chỗ Đức Phật-Thầy Tây-An đã tịch, cho nên khi nói đến núi Sam là tín-đồ phái Phật-Thầy hiểu ngay là chỉ Đức Phật-Thầy Tây-An.

Mặc dầu cho biết là quê ngụ núi Sam để cho dân-chúng đừng nghi nan, nhưng Đức huỳnh Giáo-chủ vẫn thấy người đời còn thờ ơ, cho nên không dứt lặp đi lặp lại:

Thương lê-thứ bày tường trong đục,
Mặc ý ai nghe phải thì làm;

Lời của người di tịch núi Sam,
Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc.
Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần;
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ.
Giả quê dốt khuyên người tỉnh-ngộ,
Giả bán buôn thức giấc người đời;
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
Kẻo dân-chúng nhiều người kiêu ngạo,
Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-mão,
Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.
Nếu trẻ già có biết thì dùng,
Chẳng có ép có nài bá-tánh.

Thử hỏi, khi đọc đến đoạn này, tín-đồ nào của Đức Phật-Thầy Tây-An, chẳng nhận ra Đức Huỳnh Giáo-chủ là ai? Chắc sao cũng có người sẽ hỏi: Đức Huỳnh Giáo-chủ lại vừa ông Sư-Vãi Bán-Khoai chuyển kiếp, lại vừa Đức Phật-Thầy Tây-An chuyển kiếp? Điều này, chúng ta đã biết: giữa Đức Phật-Trùm, Đức Phật-Thầy Tây-An, ông Sư-Vãi Bán-Khoai và Đức Huỳnh Giáo-chủ vẫn không có sự sai-biệt. Chính Đức Huỳnh Giáo-chủ trong bài Lịch sử về đời của Ngài, có đoạn cho biết: “Tuy là nhơn-dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng, chớ dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu cho đến ngày ra trợ thế “, đủ hiển-thị chỗ nhận-định ở trên.(1)

________________________________________________________________________

(1) dẫn theo “Tận-thế và Hội long-Hoa” của Vương-Kim.

Do đó người đời không còn phải lấy làm lạ mà thấy một số tín-đồ của Đức Phật-Thầy Tây-An, Đức Phật-Trùm, Đức Bổn-Sư, ông Sư-Vãi Bán-Khoai qui-ngưỡng theo Đức Huỳnh Giáo-chủ.

H. – Ngài ra đời kỳ này có khác mấy lần chuyển kiếp trước kia không?

Đ. – Cứ theo Sám-Giảng của Ngài cho biết thì Ngài ra đời kỳ này được lịnh Đức Phật A-Di-Đà và Phật-Tổ xuống trần, như đã thổ-lộ trong bài thơ tứ-tuyệt của Ngài họa lại câu hỏi của ông Tùng ở Cái-đầm:

Cũng biết càn-khôn vẫn một bầu,
Tây-phương yêu chúng chẳng ngồi lâu.
Sắc của A-Di và Phật-Tổ,
Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu?

Hay trong một đoạn giảng “Kệ dân” của Ngài đã viết:

Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,
Đức Di-Đà truyền mở đạo lành;
Bởi vì Ngài thương-xót chúng-sanh,
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.
Nên khổ-lao Khùng không có nại,
Miễn cho đời hiểu đặng đạo mầu.

Ngoài ra Ngài còn vưng lịnh của Đức Ngọc-Đế, như đã cho biết:

Cúi đầu tâu lại cửu-trùng,
Ngọc-hoàng ban chiếu cho Khùng giáo dân.
Hoặc giả:
Lời văn tao-nhã hữu-tình,
Bởi vưng sắc-lịnh thiên-đình sai ta.

H. – Ngài vưng lịnh xuống thế với mục-đích gì?

Đ. – Nếu kể cho tường-tận thì không sao hết được, nhưng chúng tôi có thể tóm lược mục-đích lâm-phàm của Ngài kỳ này gồm có chín việc làm trọng-yếu.

Việc làm thứ nhứt, Ngài ra đời trước là mở cơ giáo-độ để chấn-hưng chánh-pháp của Đức Phật thích-Ca, vì từ ngày bặt truyền y-bát đến nay, chơn-pháp của Phật bị người đời làm sai-lạc tinh-nghĩa mà thành ra một ngày một suy-đồi. Do đó mà hôm nay Ngài xuống trần để hoàn-thành cái sứ-mạng chấn-hưng Phật-pháp như Ngài đã cho biết:

Ta thương đời len-lỏi xuống trần,
Đạo vô-vi của Phật  ân-cần,
Nối theo chí Thích-ca ngày trước.
Hay là:
Phận tớ xác-phàm tớ sẽ vưng,
Cúng-dường cho Phật, Phật đành ưng;
Dù cho phải chịu ngàn cay-đắng,
Cũng nguyện đạo-mầu sẽ chấn-hưng.

H. – Còn việc làm thứ hai là việc gì?

Đ. – Việc làm thứ hai là Ngài dùng nhiều phương-tiện để gây vào lòng chúng-sanh một niềm tin-tưởng vững-chắc nơi Phật-pháp hầu thoát khỏi sông mê bể khổ, như Ngài thường tuyên-thuyết:

Thuyền bát-nhã Ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê.
Hay là:
Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh-chúng.

H. – Việc làm thứ ba là gì?

Đ. – Việc làm thứ ba của Ngài là chỉ đường cho chúng-sanh về Tây-phương Cực-lạc hưởng quả bất sanh bất diệt mà Ngài đã hằng tỏ bày:

Nghe Điên dạy sau này thơi-thảnh,
Đây chỉ đường Cực-lạc vãng-sanh.
Hoặc là:
Tìm Cực-lạc đây rành đường ngỏ,
Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu;
Tận thế-gian còn có bao lâu,
Mà chẳng chịu làm tròn nhơn-đạo.

H. – Việc làm thứ tư là gì?

Đ. – Việc làm thứ tư của Ngài là đào luyện hạng người hiền-đức để dự hội thi sang qua thời-kỳ Thượng Nguơn là điều mà Ngài thường nhắc-nhở:

Khoa tràng lịnh mở hội thi,
Nên Ta xuống bút dạy thì trần-gian.
Chớ mình hồn dự lâm-san,
Thảnh thơi còn xuống thế-gian là gì?
Ước mơ Thượng-cổ hồi qui,
Thế trần no ấm phú thi an nhàn.
Quân thần phụ tử vinh-vang,
Hết lo cay-đắng Khùng an phận Khùng.

H. – Việc làm thứ năm là gì?

Đ. – Việc thứ năm của Ngài là trừ con long ác-nghiệt để cứu họa-hại cho nhân-sanh trong những ngày biến-động âm-dương thê-thảm do con thú ấy gây ra mà trong Sám-giảng của Ngài cho biết trước, như:

Con sông nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có việc thảm sầu thiết-tha.
Chừng ấy nổi dậy phong-ba,
Có con nghiệt thú nuốt mà người hung.
Đến chừng thú ấy phục-tùng,
Bá gia mới biết người Khùng là ai?
Hay là:
Thâu cho được con long ác-nghiệt,
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.

H. – Việc làm thứ sáu là gì?

Đ. – Việc làm thứ sáu là Ngài vưng sắc-chỉ lập bảng Phong-Thần để phong những người có lòng trung-nghĩa với đất nước, như Ngài đã thổ-lộ trong những câu:

Thân bần-tăng mặc bộ sông nâu,
Cuộc thiên-lý một bầu đã hản.
Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh-hồn.

H. – Việc làm thứ bảy là gì?

Đ. – Việc làm thứ bảy của Ngài là đại-diện công-lý trong ngày lập hội để cầm cân thưởng phạt kẻ lành dữ đúng theo luật nhơn-quả báo-ứng, như Ngài báo tin trước trong câu:

Lão đây vưng lịnh Phật-tôn,
Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành.
Hay là:
Chờ con đầy đủ nghĩa nhân,
Ra tay tế-độ dắt lần về ngôi.
Có ngày mở rộng qui-khôi,
Non Thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân.

H. – Việc làm thứ tám là gì?

Đ. – Việc làm thứ tám là Ngài qui-hội những người có thiện-căn hiền-đức đến Hội Long-Hoa đặng phò chơn Chúa, gây lập cõi Thượng-Nguơn an-lạc. Ngài đã cáo-thị trong câu:

Khùng vâng lịnh Tây-phương Phật-Tổ,
Nên giáo truyền khắp cả Nam-Kỳ;
Hội Long-Hoa chọn kẻ tu-mi,
Người hiền-đức đặng phò chơn Chúa.
Hay là:               
Trở chơn cho kịp Long-Hoa,
Long-Hoa có mặt ấy là hiền-nhơn.

H. – Việc làm thứ chín là gì?

Đ. – Việc làm thứ chín là ngoài các điều đã kể trên, Ngài còn lãnh một trọng-trách tá-quốc an-bang gây dựng sơn-hà tạo nền hạnh-phúc cho đồng-bào nhơn-loại trong ngày Thượng-Nguơn hồi-phục, như Ngài đã tiết-lộ:

Một tay tá quốc an bang,
Nước nhà vững đặt Hớn-đàng hiển-vang.

H. – Ngài viết được bao nhiêu quyển giảng?

Đ. – Sám-giảng của Ngài gồm có bốn quyển chánh là:

1o  Sám-giảng khuyên người đời tu-niệm.

2o Kệ dân của người Khùng.

3o Sám giảng.

4o Giác mê râm kệ.

Ngoài ra Ngài còn viết quyển Khuyến thiện, Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền và Tháng năm mười tám mà người đời thường gọi là quyển năm. Còn nhiều bài thi thơ không sao kể cho hết được.

H. – Tại sao lại gọi Sám-giảng mà không gọi bằng kinh hay luật.

Đ. – Sám có nghĩa là tiên báo vị-lai, còn giảng có nghĩa giải-bài đạo-lý. Cho nên Sám-giảng có nghĩa: ngoài giảng dạy đạo-lý còn mách cho biết trước thời-cơ.

H. – Quí ông có thể cho biết đại ý quyển thứ nhứt tuyên-thuyết những gì không?

Đ. – Trong quyển Sám-giảng khuyên người đời tu-niệm, đại ước Ngài cho biết trước khi trực-tiếp giáo-độ người đời, Ngài đã phương-tiện hóa-hiện dạo lục châu giả dạng người già trẻ nam nữ, buôn bán, ăn xin, chèo đò rước khách….để có cơ đánh thức nhơn-gian chợt tỉnh giấc mê rằng có Phật Tiên xuống thế.

H. – Có câu chuyện nào minh chứng việc đó không?

Đ. – Có rất nhiều, nhưng chúng tôi xin lược kể một vài chuyện như trường hợp của Đức Ông tức thân-sinh của Ngài, mất ghe mà chính chiếc ghe ấy Ngài dùng đi dạo lục châu. Việc này, Đức Ông tưởng là chiếc ghe đó bị trộm, Ngài bèn khéo-léo cho biết trong bài thơ dưới đây:

Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu sanh du-lịch lục châu giang;
Kim-sơn thương mãi toàn lê thứ,
Thức tỉnh bá gia giấc mộng tràng.

Cũng như trường-hợp ông chủ Phối ở lòng Ông-Chưởng mà Ngài có ghé nhà đàm-đạo với Đạo Ba trong lúc đi dạo lục châu, như Ngài đã kể:

Xuống thuyền xuôi nước thẳng xông,
Ghé nhà chủ Phối xem lòng Đạo Ba.
Ngồi chơi đạo-lý bàn qua,
Mấy bà có biết lúa mà bay không?
Có người đạo-lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày,
Lúa bay về núi dành rày ngày sau.
Hỏi qua tu niệm âm-hao,
Không biết câu nào trái ý Đạo Ba.
Buồn đời Điên mới bước ra,
Tay gây chèo quế dạo mà khắp nơi.

Về sau, ông Đạo Ba đọc đến chuyện này cũng nhìn nhận là có y như vậy.

Ngoài ra còn trường-hợp của ông năm Hẳng ở làng Kiến-an thường xưng là Quan-Vân-Trường tá xác mà Ngài có ghé nhà, lúc châu-lưu thức-tỉnh người đời như Ngài đã thổ-lộ:

Thảm thương bá-tánh lắm ôi!
Bồng-Lai tiên-cảnh rao rồi một khi.
Nếu ai rảnh việc thời đi,
Còn mắc nợ thì ở lại dương-gian.
Có người xưng hiệu ông Quan,
Tên thiệt Vân-Tràng ở dưới Dinh ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ-xá thẳng xông lên nhà.
Mình người tu niệm vậy mà,
Nói chi lớn tiếng người mà khinh-khi.
Người nhà cảm-tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non Bồng.

Việc này ông năm Hẳng cũng nhìn-nhận là đúng sự thật.

H. – Quí ông có thể cho biết đại-ý quyển thứ nhì tuyên thuyết những gì không?

Đ. – Trong quyển Kệ dân của người Khùng, đại-ý đem chánh-đạo vô-vi của Đức Phật Thích-Ca đối kháng lại giáo-pháp âm thinh sắc tướng của Thần-Tú đang hiện-hành. Đồng thời Ngài chỉ-rạch máy huyền-cơ cho nhơn-sanh được biết có sớm hồi đầu trở lại.

H. – Xin quí ông giải cho tôi hiểu nội-dung quyển thứ ba.

Đ. – Đại-ý quyển Sám-giảng, đoạn đầu mách cho biết những tai nạn hãi-hùng gớm-ghiếc trong lúc biến-di, kế đó dạy cho gái trai lớn nhỏ biết cách ăn thói ở đúng theo luân-thường đạo-nghĩa. Có như thế mới mong sống sót trong những ngày lập hội.

H. – Quyển thứ tư tuyên-thuyết những gì?

Đ. – Trong quyển Giác mê tâm kệ, đại-để Ngài tuyên-giáo pháp-môn hành-đạo của Đức Phật Thích-Ca như Tứ-diệu-đề, Bát-chánh… cho người đời noi theo đó mà tu-hành cho được đắc quả.

H. – Quyển Khuyến-thiện cốt ý khuyên những gì?

Đ. – Trong quyển Khuyến-thiện, Ngài kể lại gương xuất gia tầm đạo của Phật Thích-Ca và nhơn đó Ngài khuyên người tu theo pháp-môn Tịnh-độ cầu sanh về Cực-lạc. Ngoài ra Ngài còn kể lại tám điều khổ của chúng-sanh và khuyên trừ thập ác.

H. – Quí ông có thể cho tôi biết trong quyển Những điều sơ lược cần biết của người tu hiền dạy những gì?

Đ. – Đây là quyển sách Ngài viết bằng lối tản văn khác hơn mấy quyển trên toàn bằng vận văn. Trong quyển này, Ngài giải-thích Tứ-ân, Thập-thiện, Bát-chánh và những nghi-thức hành-đạo cần biết của một người tín-đồ.

H. – Còn quyển Tháng năm mười tám đại-cương nói những-gì?

Đ. – Trong quyển này Ngài nhắc lại ngày xuống thế của Ngài sau sáu tháng dạy đạo. Trước khi trở về tâu lại với đức Ngọc-Đế, Ngài để lời khuyên bổn-đạo hành-y những lời của Ngài đã dạy, trong lúc Ngài vắng mặt dầu ai có khoe-khoang tài-phép cũng chớ vội tin.

H. – Ngoài cách dùng huyền-diệu trị bịnh và ra Sám-giảng thức-tỉnh người đời, Ngài còn dùng phương-tiện nào để gia-tăng đức-tin của người nữa không?

Đ. – Theo chỗ được biết của chúng tôi, Ngài còn hướng dẫn một số ít tín-đồ đi du-sơn để giúp cho các người ấy đủ tin nơi Ngài là một bực siêu-phàm tái-lâm cứu thế.

H. – Quí ông có thể kể một vài trường-hợp không?

Đ. – Vào lối tháng bảy năm đó, Ngài có dẫn Đức Ông thân-sinh của Ngài đi núi Tà-lơn. Điều làm cho Đức Ông kinh-ngạc là Ngài chưa từng đi núi lần nào, thế mà Ngài rất thạo đường sá am động trên núi và còn dẫn cho Đức Ông thấy nhiều việc kỳ bí, nên sau khi đi núi về, Đức Ông rất hân-hoan mà báo cho anh em đến thăm biết rằng: “Tôi đã gặp vàng thiệt rồi, các ông ôi! các ông cứ tin đi!”

Ngoài ra còn vài anh em hân-hạnh được Ngài dẫn đi để tăng-trưởng đức-tin của họ.

H. – Sau cuộc du-sơn về, Ngài thi-thiết những gì nữa?

Đ. – Ngài lần lượt đi viếng tín-đồ ở một vài thôn kế cận, phương-tiện gần-gũi chỉ bảo mọi người điều đạo-đức và nhơn đó bàn cãi lẽ mầu, ý nhiệm cho những người có duyên lành trong vùng để có cơ qui-ngưỡng. Do đó số người tín-phụng một ngày một tăng-gia, gây nên một phong-trào đạo-hạnh hy-hữu.

H. – Như thế thì cơ hoằng-pháp của Ngài chắc thuận-tiện lắm?

Đ. – Quả thật lúc đầu cũng được chút thuận-tiện, nhưng khi thấy việc truyền-bá đạo-đức của Ngài một ngày một bành-trướng, tín-đồ một ngày một qui-tụ tấp-nập, bây giờ nhà cầm quyền mới bắt đầu để ý.

H. – Rồi có chuyện gì xảy ra không?

Đ. – Khi Ngài trổ nhiều việc mầu-nhiệm, đã có người để ý rồi, nhưng người ta vẫn để cho Ngài tiến hành, cho dễ dò-la, chớ chưa can thiệp vội. Chừng khi quần-chúng ngưỡng-mộ quá đông thì nhà cầm quyền lúc bấy giờ mới quyết-định lưu-cư Ngài.

Ngày 11 tháng tư năm Canh-thìn, Ngài được nhà cầm-quyền mời qua Châu-đốc cho Ngài biết có nghị-định của quan trên không cho Ngài hoạt-động trong tỉnh nữa, nhưng Ngài được tự-do chọn lấy nơi lưu-trú.

Thế là qua ngày sau tức ngày 12 tháng tư năm Canh-thìn, Ngài lên đường đi Sa-đéc làm cho tín-đồ phải rơi lệ, vì lịnh ấy quá đột-ngột.

H. – Đối với lòng triếu-mến của tín-đồ như thế, Ngài xử trí cách nào?

Đ. – Lòng Ngài hết sức cảm-động, nên khi đến Sa-đéc Ngài có bày tỏ nỗi lòng bi-cảm của Ngài trong những dòng thi thống-thiết:

Muốn lập đạo có câu thành-bại,
Sự truân-chuyên của khách thiền-môn;
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
Ta chịu khổ, khổ cho bá-tánh.
Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
Chạm lợi quyền giàu có cạnh-tranh;
Bước chông gai đường đủ sỏi-sành,
Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẵng lấy chi buồn-bã,
Bởi sự thường của bực siêu-nhơn;
Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát.
Cơn dông tố mịt-mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ-bi;
Vì Thiên-đình chưa mở hội thi,
Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng.
Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương.
Xe rồ xăng vụt chạy bải-bươn,
Đến khuất dạng tình thương náo-nức.
Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức,
Bởi nạn tay vừa mới vấn-vương;
Chốn Liên-đài bát-ngát mùi hương,
Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức.

H. – Như thế, cuộc lưu-cư này sẽ là một bước đường trở-ngại cho sự phổ-hóa của Ngài đấy ư?

Đ. – Không, Ngài vẫn cho trường-hợp này là một dịp để Ngài phổ-thông rộng-rãi đạo-đức:

Ta còn thương, thương trò lịu-địu,

Chớ cũng mừng được dịp phổ-thông.

Mà cũng là một sự thử-thách của tạo-hóa để xem người hành đạo có vững chí đi theo nguyện-lực của mình không.

Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài,
Ấy cũng bởi thày-lay ông tạo.
Ông nhồi quả cho người hành đạo,
Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng?
Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật Thánh.

H. – Khi đến Sa-đéc, Ngài ở đó mở cơ phổ-hóa hay còn đi đâu nữa?

Đ. – Anh em tín đồ đem Ngài về đến Sa-đéc, ngỡ rằng được tạm yên ở đó, té ra nhà cầm quyền sở tại mời Ngài đến cho biết rằng đã có lịnh không cho Ngài hoạt-động ở tỉnh này.

H. – Thế rồi Ngài đi đâu?

Đ. – Sau khi biết ở đấy cũng có lịnh cấm, anh em tín-đồ ngày 17 tháng tư năm Canh-thìn đưa Ngài đi Cần-thơ, rồi thỉnh Ngài về ở nhà hương-bộ Thạnh thuộc làng Nhơn-nghĩa, rạch Sua-đũa.

H. – Đến đây Ngài thi-thiết những gì?

Đ. – Đến đây Ngài cũng độ thuốc và cho thơ bài, tiếp-tục công cuộc hoằng-hóa của Ngài như ở Hòa-Hảo. Nhân việc phát dây thông trị bịnh, Ngài có làm một bài thơ về giấy vàng có hàm ý tiên-tri về sự đổi thay thời cuộc nước nhà, như vầy:

Giấy vàng nay đã giá cao tăng,
Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn.
Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc,
Chủ nhà quét-tước lượm lăng-xăng.

Trong thời-gian lưu-trú tại Nhơn-nghĩa, Ngài thâu nhận một số tín-đồ khá đông, đúng như bài thơ của Ngài đã viết:

Nhơn-dân bá-tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều khắp chúng-sanh.
May-mắn vận thời đưa đến chốn,
Tiền-khiên dẹp gát kiếm con lành.

H. – Ngài ở đây hay còn đi đâu nữa?

Đ. – Cũng như ở Hòa-Hảo, vì thầy ảnh-hưởng của Ngài một ngày một lan-rộng, nhà cầm quyền không muốn cho Ngài hoạt-động. Ngài bèn đưa đơn xin di-cư xuống Bạc-liêu thì được nhà cầm quyền chấp-thuận. Ngày 29 tháng 6 năm Canh-Thìn, Ngài từ-giã làng Nhơn-nghĩa lên đường ra Cần-thơ, nhưng khi đến đây thì có lịnh của nhà cầm quyền giữ lại. Họ đưa Ngài vào dưỡng-đường khám bịnh rồi qua ba bốn hôm sau thì đưa Ngài đi Sài-gòn vào nằm nhà thương Chợ-quán

H. – Nhà cầm quyền đưa Ngài vào nhà thương Chợ-quán có ý-định gì?

Đ. – Theo ý-định của nhà cầm quyền đem Ngài đến đấy là để thí-nghiệm coi trong người của Ngài có mắc bịnh thần-kinh không? Vì thế mà người ta lưu Ngài ở lại đây rất lâu.

H. – Trong thời-gian đó Ngài có tiếp-tục được công việc của Ngài không?

Đ. –Ban sơ khi vào đây Ngài chưa được ai biết đến. Ngay như viên y-sĩ là ông Trần-văn-Tâm cai-quản bịnh-viện này cũng ngộ-nhận Ngài mắc bịnh thần-kinh nên chi có nói bởn rằng: Ở ngoài xé mấy tấm giấy thuế-thân của người ta rồi mới vào đây? Nhưng khi xem cử-chỉ của Ngài đoan-chánh và tiếp theo đó thấy tín-đồ của Ngài đến thăm một ngày một đông mới nghi Ngài là một ông Đạo.

H. – Sau khi nghi Ngài là một ông Đạo, ông Tâm đối với Ngài thế nào?

Đ. – Trước nhứt ông Trần-văn-Tâm đem những điều đọc trong một quyển sách viết về đạo Phật ra chất-vấn, mỗi điều được Ngài trả lời không khác trong sách đã giải. Chừng đó ông Tâm mới đem lòng kính-phục, nhưng chưa mấy tin bằng khi được Ngài cho thấy nhiều diệu-thuật mầu-nhiệm của Ngài hóa-hiện. Đến đây ông Tâm mới hoàn-toàn tín-phục, chịu thọ-giáo qui-y. Nhờ đó, Ngài mới tiếp-tục công việc hoằng-hóa của Ngài được dễ-dàng. Mỗi ngày người đến hỏi đạo và xin thuốc càng đông.

H. – Ở đây Ngài có trị bịnh nào đặc-biệt đáng kể không?

Đ. – Đáng kể nhứt là trường-hợp của mẹ anh gác cửa nhà-thương. Lúc đầu anh này rất khó-khăn đối với tín-đồ của Ngài đến thăm. Nhưng khi người mẹ của anh mắc bịnh đau mắt đã trị nhiều thầy mà không hết, nhờ chai nước lã của Ngài cho anh đem về trị lành, anh mới đem lòng khâm-phục và gọi Ngài là ông Phật sống. Từ đó anh đối xử với anh em tín-đồ của Ngài rất cảm-tình, cho lui tới tự-do.

H. – Trong lúc ở nhà-thương Chợ-quán, Ngài có chỉ giáo gì thêm không?

Đ. – Trong lúc nhà-thương Chợ quán, Ngài viết rất nhiều bài vở, nhưng đáng kể là quyển Những điều sơ-lược cần biết của kẻ tu-hiền và quyển Khuyết-thiện chỉ rạch tường-tận về pháp-môn của Ngài.

H. – Ngài nằm nhà-thương Chợ-quán bao lâu?

Đ. – Hơn một năm cầm giữ Ngài để thí-nghiệm, nhà chức-trách thấy Ngài không có gì tỏ ra mắc bịnh thần-kinh, nên xét theo lời xin trước kia của Ngài khi còn ở Nhơn-nghĩa mà chấp-thuận cho Ngài được về ở Bạc-liêu. Ngài ra nhà-thương vào thượng tuần tháng 6 năm Tân-tỵ, nhưng không đi Bạc-liêu liền. Nhà cầm quyền giữ Ngài ở sở Công-an hơn một tuần lễ mới đưa đi.

H. – Đến Bạc-liêu ở nhà ai?

Đ. – Trước kia Ngài định ở nhà hội-đồng Điều, nhưng nhà cầm quyền cho biết trừ nhà này ra, Ngài tự chọn lấy nhà khác. Sau khi đó, một tín-đồ đưa Ngài đến nhà ông Võ-văn-Giỏi. Ông này sẵn lòng nghinh-tiếp, Ngài mới trở về trình với Công-an rồi đến ở đó, song mỗi tuần đến ngày thứ hai, Ngài phải trình-diện một lần. Nhơn đó Ngài có tức cảnh làm ba bài thơ này.

Việc chi mà phải đi trình báo?
Mỗi tháng bốn kỳ nhọc cẳng ông,
Đợi máy huyền-cơ xoay đến mức,
Tính xong cuộc thế, lại non Bồng.
٭ ٭ ٭
Thứ hai hừng sáng mưa tầm-tã,
Lính đứng ngoài đường giục-giã ông.
Kiếp khách trần-gian vay lắm nợ,
Để đền trọn nghĩa với non sông.
٭ ٭ ٭
Người cười, người nhạo bảo ông điên,
Ông chẳng giận ai, cũng chẳng phiền;
Chỉ tiếc trần-gian đùa quá vội,
Chưa tường điên tục hay điên Tiên.

H. – Như đã nói, khi ở Nhơn-nghĩa, Ngài xin với nhà cầm quyền về Bạc-liêu với ý-định gì?

Đ. – Theo chỗ được biết của chúng tôi, trong lúc ở Nhơn-nghĩa, Ngài thâu nhận được một số tín-đồ ở Bạc-liêu, cho nên Ngài muốn đến đó để mở cơ hóa-độ, hơn nữa ở tỉnh này, Ngài có thể khoáng-triển nền đạo đến hạng thượng-lưu trí-thức.

H. – Thế thì ở đây sức phổ-hóa của Ngài chắc hoằng-thâm lắm?

Đ. – Thật thế! ở đây Ngài dìu-dắt nhơn-sanh đi sâu vào con đường Phật-pháp. Bằng chứng là Ngài đề-cập đến Bốn đại-đức: từ bi hỉ xả của Phật, giải về Thập nhị nhơn-duyên v.v…

H. – Ngài có độ bịnh như khi ở Cần-thơ và Chợ-quán không?

Đ. – Ở đây không như chỗ khác, nhà cầm quyền rất gắt-gao đối với việc thăm viếng đông-đảo. Nên chi Ngài chỉ tiếp những người đáng tiếp, vì thế mà việc độ bịnh của Ngài không được dễ-dàng. Ngài có làm bài thơ tự-thán như vầy:

Mấy đoạn tơ lòng mấy đoạn đau,
Muôn dân ngơ-ngác đợi mưa dào.
Thiệt-tha thiện-tín câu cầu nguyện,
Vui đẹp dạ Thấy luống ước-ao.
Lòng người muốn vậy Trời chưa vậy,
Cuộc thế xoay vần đất phụ sao?
Nhẫn nhẫn cho rồi câu bĩ cực,
Thời lai sẽ được cảnh tiêu-dao.

H. – Ngài ở đây bao lâu và có đi đâu nữa không?

Đ. – Ngài ở đây hơn một năm; kế có xe nhà binh Nhựt ở Sài-gòn xuống rước Ngài đi, hôm đó nhằm ngày mồng ba tháng chín năm Nhâm-ngọ. Khi nhà cầm quyền Pháp ở Bạc-liêu hay quân Nhựt đến rước Ngài đi một cách đột-ngột thì đánh điện về Sài-gòn. Sở Công-an Sài-gòn mới cho binh xuống chận xe chở Ngài tại Trung-lương. Vì thế mà xảy ra tai nạn đụng xe làm cho người tín-đồ theo hầu Ngài bị thương ở sóng mũi, còn Ngài chỉ thương xoàng.

H. – Sau tai nạn đó Ngài có đi trót lọt không?

Đ. – Sở Công-an bắt cả xe lại rồi áp-giải về Sài-gòn.

H. – Khi về Sài-gòn, Ngài có được trả tự-do không?

Đ. – Khi điệu Ngài về đến Sài-gòn thì có nhà binh Nhựt can-thiệp. Nhờ đó Ngài trả tự do. Nhà binh Nhựt mới đem Ngài về ở Phòng thương-mãi. Ngài lưu lại đây trong vòng hai tháng, rồi dọn về đường Lefèvre. Trước tiên Ngài ở căn nhà số 148, rồi sáu bảy tháng sau dọn qua căn nhà số 150 kế đó cho đến ngày Nhựt đảo chánh.

H. – Trong thời-gian ở đây Ngài có thi-thiết gì không?

Đ. – Việc làm đáng kể nhứt là Ngài tổ-chức Việt Nam Phật-giáo Liên-hiệp hội với tôn-chỉ liên-hiệp các tông-phái đạo Phật, các nhà sư, các tín-đồ, các nhà trí-thức có xu-hướng về Phật-giáo để:

1o Tìm cách nâng cao tinh-thần đạo Phật,

2o Tìm những phương-tiện cứu giúp kẻ nguy nàn vì thời-cuộc hiện-tại gây ra.

3o Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan hôn tang tế,

4o Binh-vực lẫn nhau trong sự tín-ngưỡng tự-do.

Để đạt những mục-đích vừa kể trên, hội có tổ-chức ba đặc-ban:

1o Ban nghiên-cứu đạo Phật: gồm có những nhà sư, những nhà thông-thái để hằng ngày tra-cứu Kinh điển, dịch sách hay viết sách nói về đạo Phật.

2o Ban huấn luyện và truyền-bá: gồm có các nhà sư, cư-sĩ trí-thức hoạt-động được hội phái đi các nơi giảng-giải đạo Phật cho đại-chúng nghe hoặc-giả mở trường dạy đạo Phật.

3o Ban chẩn-tế: gồm có các nhà hảo-tâm thiện-nam tín-nữ hoạt-động chuyên lo cứu giúp kẻ nghèo nàn đói khó, tật bịnh, hoặc-giả thành-lập các nhà dưỡng lão hay nuôi kẻ mồ-côi, người tàn-tật.

Nếu có thể được, mua trữ thuốc men, vải-sồ, lúa gạo để dành cho cuộc phước-thiện.

H. – Với những mục-đích vừa kể, hội Phật-giáo Liên hiệp chắc được thích-hợp với trào-lưu lắm?

Đ. – Theo ai cũng tưởng hội sẽ được các nhà sư hưởng-ứng, nhưng trái lại nó không được các nhà sư tán-thành, bởi lẽ thời đó cũng như hiện nay, các nhà sư cứ mãi giữ cái tinh-thần “riêng chùa riêng Phật “, xem ngôi Tam-bảo là một phần hương-hỏa cá-nhơn. Vì thế mà Việt-Nam Phật-giáo Liên-hiệp hội phải đành đình-chỉ.

H. – Như thế thì kỳ-vọng của Ngài chắc thương tổn lắm?

Đ. – Không ! Theo thế thường thì ai cũng chán-nản, nhưng Ngài vẫn kiên-trinh với kỳ-vọng của Ngài.

H. – Thế nghĩa là gì?

Đ. – Nghĩa là liền sau ngày Nhựt đảo-chánh Ngài cho ra đời Việt-Nam độc-lập vận-động hội và công-bố bản hiệu-triệu kêu gọi toàn dân đủ các giới cách-mạng trí-thức, thanh-niên, nhà nho, nhà sư, nhà thương-mãi, nông-gia, thợ thuyền… vào cuộc vận-động cho Việt-Nam được hoàn-toàn độc-lập, gây nên một phong-trào tranh-đấu cho đến ngày V. M. nắm chánh-quyền.

H. – Ngoài ra Ngài còn thi-thiết gì nữa không?

Đ. – Nhận thấy sau ngày đảo chánh, tình-thế ở các tỉnh miền tây không ổn-định do sự thay đổi quyền hành-chánh, nên Ngài, theo lời yêu cầu của nhà binh Nhựt, mời đi kinh-lý với mục-địch trấn an dân-chúng và xếp-đặt việc trị-lý cho có thể-thống qui-mô.

H. – Ngài khởi-hành bữa mấy và đi kinh-lý những tỉnh nào?

Đ. – Ngài lìa Sài-gòn hồi 2 giờ rưỡi chiều ngày mồng 9 tháng 2 năm Ất-dậu, trước hết ghé Mỹ-tho, kế Cái-lậy rồi Vĩnh-long. Chiều ngày ấy Ngài đến Cần-thơ, ở đây trong ba hôm mới đi Long-xuyên. Ngài ở Long-xuyên một hôm, rồi qua ngày 14 tháng 2, Ngài đi Châu-đốc. Qua ngày rằm Ngài về Hòa-Hảo thăm thân-sinh của Ngài, nghỉ ở đây một đêm, sáng ra trở xuống Long-xuyên ở hai ngày. Sáng ngày 19 Ngài lên đường về Sài-gòn có ghé Sa-đéc.

H. – Sau khi đi kinh-lý về, Ngài có trù-liệu gì nữa không?

Đ. – Mặc dù quân Nhựt đương bối-rối với cuộc phản-công thắng-lợi của Đồng-minh bên ngoài, nhưng đồng-thời tình-thế trong nước cũng không yên, vì đồng-bào miền Bắc đương lâm vào nạn đói quá nguy-ngập, số chết có hằng triệu.

Đứng trước tình-cảnh bi-đát ấy, Ngài cảm thấy có nhiệm-vụ thiêng-liêng đối với dân-tộc, nên chi Ngài đứng ra cổ-võ đồng-bào miền Nam chung sức nào tiền nào gạo chở ra cứu giúp. Chẳng những thế, Ngài còn đi một vòng Hậu-giang khuyến-khích tín-đồ của Ngài trông gương ngoài Bắc mà tăng-gia việc cày cấy hầu tránh nạn đói khó; và cũng là một dịp cho Ngài được gần-gũi khuyến-miễn tín-đồ bấy lâu xa cách. Cuộc kinh-hành này mang danh là cuộc Khuyến-nông kéo dài trong hai tháng, bắt đầu từ tháng tư cho đến tháng sáu.

Ngài khởi-hành từ Sài-gòn xuống Cần-thơ rồi trải qua Cái-răng, Sóc-trăng, Bãi-xào, Bạc-liêu, Cà-mau, Rạch-giá, Hà-tiên, Châu-đốc, Tịnh-biên, Tân-châu, Tri-tôn, Thới-sơn, Hòa-hảo, Hồng-ngự, Long-xuyên, Chợ-mới, Mỹ-luông, Đốc-vàng, Núi-Sập, Thốt-nốt, Sa-đéc, Cao-lãnh, Vĩnh-long, Tam-bình, An-trường, Trà-vinh, Bến-tre rồi trở về Sài-gòn.

H. – Quí ông có thể nhắc một vài điểm đáng chú ý trong vấn-đề khuyến-nông không?

Đ. – Đây là một đoạn văn trong bài khuyến-nông kêu gào nông-dân rất tha-thiết:

Giờ đây xem lại mùa-màng,
Năm rồi miền Bắc tan-hoang còn gì!
Chỉ có xứ Nam-kỳ béo-bở,
Cơ-hội này bỏ dở sao xong.
Cả kêu điền-chủ phu nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.
Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,
No dạ dày là chước đầu tiên.
Nam-kỳ đâu phải sống riêng,
Cũng còn cung-cấp cho miền Bắc Trung.
Hoặc là:
Kẻ phu-tá cũng là trọng-trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.
Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,
Chí hy-sanh dầu thác cũng cam.
Miễn sao cho cánh đồng Nam,
Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà.
Chừng ấy mới hát ca vui-vẻ,
Ai còn khi là kẻ dân ngu?
Không đem được chút công-phu,
Không đem sức-lực đền bù nước non.
Gởi một tấm lòng son nhắn-nhủ,
Khuyên đồng-bào hãy rủ cho đông.
Nắm tay trở lại cánh đồng,
Cần-lao nhẫn-nại Lạc-Long cổ truyền.

Sau khi đi Khuyến-nông về Ngài có làm một bài thơ tả cảnh Đồng-minh dội bom xuống Sài-gòn, tàn phá rất bi-thương:

Lìa Sài-gòn trong vòng hai tháng,
Khi lộn về tiệm quán tanh-banh;
Bởi chưng pháo lũy phi-hành,
Quăng bom mù-quáng tan-tành còn chi.
Động lòng của kẻ từ-bi,
Tây-phương tâu lại A-Di Phật-Đà.
Rằng bên thế-giới Ta-bà,
Chúng-sanh tàn-sát cũng là vì tham.
Di-Đà mở cuộc hội-đàm,
Cùng chư Bồ-tát quyết đam phép lành.
Tịnh-bình rưới khắp chúng-sanh,
Làm cho giác-ngộ hiền-lành như Ta.
Công-đồng hoạch định san-hà,
Nước ai nấy ở nhà nhà tự-do.

H. – Khi về Sài-gòn, Ngài có ý-định gì không?

Đ. – Điều được biết là sau khi đi khuyến-nông về, Ngài không trở lại căn nhà ở đường Lefèvre nữa mà đi thẳng lại biệt-thự số 38 đường Miche là nơi anh em tín-đồ đã xếp-đặt sẵn trong lúc Ngài đi Hậu-giang. Việc làm trước tiên của Ngài sau khi đi Khuyến-nông về là việc tổ-chức Phật-giáo Hòa-Hảo, siết-chặt khối tín-đồ của Ngài cho có qui-mô. Ban trị-sự Trung-ương được thành-lập, rồi tiếp đó các Ban trị-sự tỉnh-bộ, quận-bộ và thôn-bộ được tổ-chức khắp miền Hậu-giang, cũng như khắp vùng Sài-gòn, Chợ-lớn, Gia-định, Tân-bình…

Điều hay nhứt là Ngài còn đưa ra một tổ-chức ưu-tiên điều-động quần-chúng thành những đội Bảo-an với mục-đích:

1o Giữ việc trị-an trong làng để phòng ngừa trộm cướp, giải-tán những cuộc ấu-đả, bắt các đám cờ-bạc, giữ-gìn trật-tự;

2o Bảo vệ mùa-màng;

3o Tìm bắt kẻ gian.

Một điều nên nhắc là sau khi thành-lập Ban trị-sự Trung-ương Ngài có làm một tờ ủy-quyền cho mấy ông hội-viên, trong đó nói rõ rằng trong khi Ngài phải vắng mặt thời-gian mỗi người phải tùy theo phận-sự mà thi-hành. Lúc ấy ai cũng thắc-mắc cho cái ủy-quyền ấy và tự hỏi vì cớ gì Ngài phải vắng mặt và vắng mặt để làm gì? Về sau khi Ngài bị bọn Trần-văn-Giàu khủng-bố phải lánh mình đi miền Đông, anh em tín-đố mới hiểu ý-nghĩa của tờ ủy-quyền ấy.

H. – Trong thời-gian ở đường Miche, Ngài còn hoạt-động gì nữa không?

Đ. – Ngoài sự thành-lập Ban trị-sự Trung-ương Phật-giáo Hào-Hảo, Ngài hằng ngày tiếp xúc với những nhà trí-thức, các giới chánh-trị, cách-mạng. Kịp đến ngày mồng 7 tháng 7 năm Ất-dậu, quân Nhựt đầu-hàng vô điều-kiện. Bắt đầu từ đó Ngài hoạt-động không ngừng, một mặt phái ông Nguyễn-xuân-Thiếp đi Bắc-bộ liên-lạc với các đảng-phái chánh-trị và một mặt sai nhiều cán-bộ về miền Tây.

Ngài ở đường Miche non hai tháng mới dọn văn-phòng về số 8 đường Sohier nhằm ngày rằm tháng bảy năm Ất-dậu. Về đây, ngày cũng như đêm, Ngài tiếp-xúc các đảng phái, nay dự phiên hội này, mai chủ-tọa phiên nhóm khác.

H. – Như tôi được biết, sau khi Nhựt đầu hàng, phong-trào thanh-niên Tiền-phong làm hậu-thuẫn cho Trần-văn-Giàu lên nắm chánh-quyền Nam-bộ, thái-độ của Ngài ra thế nào?

Đ. – Vì chánh-sách độc-tài của Trần-văn-Giàu mà Ngài không tham-gia. Chẳng những không tham-gia, Ngài còn công-nhiên phản-đối giữa phiên nhóm các đảng-phái quốc-gia. Chính vì đó mà Trần-văn-Giàu mưu hại Ngài bằng cách cho đám binh thuộc-hạ đến bao-vây chặt-chẽ văn-phòng của Ngài ở đường Sohier trong đêm mồng 4 tháng 8 năm Ất-dậu.

H. – Việc bạo-hành này có hệ-lụy gì đến Ngài không?

Đ. – Điều mà ai cũng ngạc-nhiên là trước khi bao-vây, Trần-văn-Giàu dùng quỉ-kế bằng điện-thoại kêu ngay Ngài nói chuyện để biết chắc Ngài có tại văn-phòng, thế mà Ngài thoát vòng vây một cách dễ-dàng.

Sau khi bắn phá, chúng ồ vào lục soát kiếm Ngài mà không gặp, chúng bèn bắt tất cả tín-đồ còn lại đó đem về nhốt ở khám công-an, rồi vài hôm sau đưa vào nhà lao.

Sáng ngày mồng năm, Ban trị-sự Gia-định được lịnh đưa Ngài đi lánh nạn lên Biên-hòa, ở đây không đầy mười hôm, V.M. tình-nghi đến dọ-dẫm. Một tín-đồ bên đem Ngài đi Long-thành vào ở trong một cái vườn trà huế giữa rừng cách đường cái hơn một cây số. Nhưng hỡi ơi! họa vô đơn chí! Ngài lại mắc phải hàm oan. Số là trước khi anh em hộ-vệ Ngài đến thì ở trong xóm có xảy ra một vụ cướp bóc, họ nghi cho mấy anh em hộ-vệ là gian-tế nên kéo đến bao-vây. Ba bốn anh em tín-đồ bị bắt, may là Ngài được thoát khỏi. Hay tin, Ban trị-sự Gia-định đến can-thiệp và giải-oan cho mấy anh em hộ-vệ ấy. Sau đó Ngài cùng anh em hộ-vệ được đưa xuống Bà-rịa, trú tại Cỏ-may.

Khi mới đến, Ngài tạm ở trong một chiếc ghe chở muối hư, sau bị tình-nghi nên phải đi sâu trong rừng Chà-là nương náu nơi nhà một người dân-quê, mặc dầu không phải là tín-đồ nhưng tiếp-đãi Ngài một cách rất hậu.

Trong một loạt thi tứ-tuyệt tự-thân hoàn-cảnh tỵ-nạn, Ngài đã biểu-lộ nỗi lòng đau-khổ của Ngài trong mấy vần thơ:

Nước non tan vỡ bởi vì đâu?
Riêng một ta mang nặng khối sầu.
Lòng những hiến thân mưu độc-lập,
Nào hay tai họa áp bên lầu.
                 ٭ ٭ ٭
Bên lầu tiếng súng nổ vang tai,
Trời đất phụ chi kẻ trí tài;
Mưu quốc hóa ra người phản quốc,
Ngàn thu khối hận dễ nào phai.
                 ٭ ٭ ٭
Từ ấy lao mình vượt khổn nguy,
Băng rừng lội suối giả man-di;
Ngày mong ải Bắc oan này giải,
Đem sức ra nâng lá quốc-kỳ.

H. – Ngài tỵ-nạn ở Bà-rịa rồi còn đi đâu nữa không?

Đ. – Ngài ở Cỏ-may rồi ít lâu thì có anh em tín-đồ ở Cần-giờ hay tin đến ra mắt và lo liệu mọi việc ăn ở cho Ngài đến ngày trở về Sài-gòn. Gần cuối năm Ất-dậu, tình-thế ở Nam-việt trở nên rối-rắm vì bọn Trần-văn-Giàu đã đào vong. Ngài mới cùng anh em lên đường trở về. Tính ra từ ngày ngộ nạn tại đường Sohier lánh thân lên Biên-hòa, Long-thành, Bà-rịa, Cỏ-may, rừng Chà-là cho đến ngày hồi-cư có trên bốn tháng.

Ngài về đến Sài-gòn vào thượng-tuần tháng chạp năm Ất-dậu và được đưa thẳng vào Chợ-lớn trú tại một tiệm khách làm đá, ở trên lầu dựa mé sông. Sau khi ăn Tết năm Bính-tuất, Ngài bắt đầu hoạt-động trở lại, tiếp-xúc các đảng phái quốc-gia và thỉnh-thoảng đi hội-hiệp ở Bà-quẹo, nơi đây cùng các đảng phái thành-lập Mặt trận quốc-gia liên-hiệp mà Ngài được cử làm chủ-tịch, với mục-đích là mưu-đồ cuộc độc-lập cho nước nhà. Lúc ấy cũng có V.M. xin gia-nhập nhưng với định ý là phá hoại cho mặt-trận tan rã. Cuộc vận-động không thành, Ngài bèn hiệp cùng ông Nguyễn-văn-Sâm thành-lập Đảng Dân-chủ xã-hội gọi tắt là Đảng Dân-xã. Tiếp đó, để tỏ lòng vì đại-nghĩa hơn tư-thù Ngài nhận lời tham-gia Ủy-ban hành-chánh Nam-bộ với chức vụ Ủy-viên Đặc-biệt. Đồng-thời Ngài cho lập Quân đội Nguyễn Trung-Trực.

Trong khi Ngài ở miền Đông thì có nhiều báo-cáo cho biết ở miền Tây, giữa một số cán bộ V.M. và tín-đồ Hòa-Hảo từng gây ra sự xung-sát. Ngài mới thân-hành về đặng hòa-giải. Nhưng V.M. vẫn còn ác-tâm, lợi-dụng lòng tốt của Ngài mà dở thủ-đoạn hãm-hại bằng cách mời Ngài đến dự phiên nhóm trong đêm 25 tháng 2 nhuầm năm Đinh-hợi nhằm ngày 16 Avril 1947 tại làng Tân-phú ở Đốc-vàng thuộc tỉnh Long-xuyên.

H. – Cái thủ-đoạn ấy thế nào?

Đ. – Họ mời Ngài đến vị-trí đóng binh của họ cách văn-phòng của Ngài ở Phú-thành, hai chục cây số; thế mà Ngài sẵn-sàng đến dự, chỉ đem theo có bốn tên phòng-vệ. Khi vào hội, họ giữ bốn tên phòng-vệ đứng ngoài cửa, chỉ mời một mình Ngài vào trong. Trong khi bàn cãi, họ đã sắp-đặt cho binh của họ, cứ hai người giữ một tên phòng-vệ của Ngài. Còn phần Ngài thì họ đưa vào ngồi một chỗ ngay các họng súng máy của họ đặt bên ngoài. Khi họ ra ám-hiệu tắt đèn thì bên ngoài, lớp thì hạ-sát bốn tên phòng-vệ của Ngài, lớp thì nã súng nhiều loạt ngay vào Ngài.

H. – Mà Ngài có sao không?

Đ. – Ngài không hề-hấn gì cả.

H. – Tại sao súng bắn vào Ngài mà Ngài không hề-hấn gì?

Đ. – Trường-hợp này đã xãy ra nhiều lần, như lúc nọ Ngài ở miền Đông ngồi ghe đi ngang qua một cái đồn nọ kêu mà Ngài không cho ghé. Trên đồn xả súng xuống bắn vải vào chỗ Ngài ngồi. Khi ghe qua, kiểm-điểm lại thì thấy áo và nón của Ngài lủng như rổ sảo mà Ngài thì vẫn không trầy-xể một vết nào cả.

Hiện-tượng này đối với nhà liễu đạo là một sự thường, vì trong Kinh thường nói hễ người thiệt Thần Tiên khi mó đến loại kim thì nó sẽ mềm-nhũng như bùn. Điều này có thể giúp cho ta hiểu được những hiện-tượng vừa kể trên.

H. – Nhưng do đâu quí ông lại được biết Ngài không hề-hấn?

Đ. – Chúng tôi được biết rõ là nhờ có một người tín-đồ phi ngựa đem thơ của Ngài về. Nhắc lại, cuộc bạo-hành mà họ thấy Ngài không hề-hấn gì họ mới đem Ngài vào một địa-điểm phía trong đó. Lúc đó Ngài có hỏi trong đám dân-chúng có ai là tín-đồ Hòa-Hảo không thì có một người ra nhận. Ngài có hỏi người ấy có biết Ngài là ai không thì người ấy có đáp Ngài là Đức Huỳnh Giáo-chủ. Ngài bảo người ấy hãy nhận rõ Ngài rồi mang thơ của Ngài phi ngựa về trao lại cho các tướng-lãnh của Ngài đang đóng binh ở Phú-thành. Người ấy về đến Phú-thành độ 11 giờ khuya.

Phải chăng vì lòng từ-bi không muốn cho tín-đồ nóng lòng khởi binh mà trong thơ Ngài lịnh cho các tướng lãnh của Ngài án binh bất động để chờ Ngài về như lời Ngài dặn trong thơ?

Kế sáng lại một tên phòng-vệ còn sống sót chạy về thuật lại rành-rẽ cuộc mưu-hại ấy.

H. – Trong trường-hợp nào anh phòng-vệ anh thoát nạn?

Đ. – Cứ theo lời anh phòng vệ thoát-nạn kể lại rằng: khi nghe súng nổ, y cảm thấy điều bất tường xảy ra, nên chi y nằm xuống. Trong lúc đó hai người lính có bổn phận hạ sát y quờ-quạng chụp lầm nhau mà đâm. Nhờ đó mà y lăn xuống mương rồi lần ra đồng mà chạy về.

H. – Sáng ra Ngài có trở về không?

Đ. – Từ đó đến nay vẫn bặt luôn tin-tức.

H. – Nhưng quí ông có tin rằng Ngài đã bị hại không?

Đ. – Chúng tôi chẳng những không tin mà cũng vẫn không nghi rằng Ngài bị hại, vì sau đó một thời-gian, chúng tôi có được một cái tin như vầy:

Có một chiếc ghe thương buôn vào mua bán trong vùng Đồng-tháp-mười, có ghé một đêm gần trụ sở V.M. Sáng ra những người dưới ghe thấy trên bờ có quân lính rộn-rịp xôn-xao chạy lục xét khắp nọi, cả dưới thuyền trên lộ, chừng như có một việc gì quan-trọng đã xảy ra. Mấy người dưới ghe có tánh tọc-mạch thấy vậy hỏi thăm mới hay rằng trong lúc điệu Đức Huỳnh Giáo-chủ về Ủy-ban hành-chánh Nam-bộ đến đây tạm nghỉ một đêm. Họ đem nhốt Ngài trên một từng lầu, xung-quanh có rào-giậu chắc-chắn và được canh-phòng nghiêm-mật. Thế mà, sáng ra Ngài đã biến đi mất, chẳng còn biết kiếm đâu ra.

Điều này đối với tín-đồ Hòa-Hảo không còn phải là một việc lạ, vì trong lúc dạo lục-châu, Ngài đã từng nhiều lần thay hình hóa dạng một cách thần-diệu. Chẳng hạn trường-hợp Ngài thoát nạn tại đường Sohier khi bộ-hạ của Trần-văn-Giàu đến bao-vây. Trong tín-đồ của Ngài, có một số người đã được Ngài cho thấy sự mầu-nhiệm đó để tăng-trưởng đức-tin.

Nhưng ngoài ra, chúng tôi còn được biết Ngài có mầu-nhiệm mà sở-dĩ để lâm nạn là cũng bởi có nhiều lý-do.

H. – Quí ông nói lý-do mà lý-do đó như thế nào?

Đ. – Trước nhứt, Ngài đã từng cho biết sau này thế nào Ngài cũng vắng mặt một thời-gian, lúc đó không ai theo hay biết được tung-tích. Điều này những người ở gần Ngài thường được nghe mà ngay trong Sám-giảng, Ngài cũng từng bộc-lộ như câu:

Rán nghe lời dạy của Thầy,
Để chừng đến việc kiếm Thầy không ra.
Hay câu:
Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.

Lý do thứ hai, về sự âm-mưu của V.M., Ngài cũng biết trước. Bằng chứng là hôm Ngài bước chân xuống ghe đi dự hội, Ngài tỏ ra áo-não mà than Trời ba tiếng. Khi ghe đi đến làng Tân-phú, Ngài kêu hỏi một người phòng-vệ trong bốn người theo hầu Ngài rằng: Như bây giờ thả anh tại đây, anh có biết đường về Phú-thành không? Người phòng-vệ trả lời biết. Thì quả nhiên, chính người phòng-vệ được Ngài hỏi đó còn sống sót như đã trở về báo tin. Như thế đủ minh-chứng rằng Ngài đã biết trước Ngài phải thọ nạn để lấy cớ mà vắng mặt.

H. – Tại sao Ngài lấy cớ để mà vắng mặt?

Đ. – Đó là lý-do thứ ba mà chúng tôi muốn nói. Sở-dĩ phải vắng mặt là vì Ngài đã hiểu rằng thời-cơ chưa đến cho Ngài thừa-hành sứ-mang thiêng-liêng. Muốn nhẫn đợi thời-cơ thì không chi hơn là Ngài phải vắng mặt trong một lúc.

Ngài đã nhiều lần biểu ý:

Thôi cũng an lòng nơi số-phận,
Đợi chờ vận tới sẽ tuông mây.

Nên chi Ngài thường khuyên tín-đồ:

Chớ nóng-nảy sân-si hư việc,
Phải đợi thời vua Kiệt hồi qui.
Xử phân những đứa vô-nghì,
Mới là khỏa-lấp vít-tỳ ngọc son.

Lý-do thứ tư về sự vắng mặt của Ngài là vì giai-đoạn hiện nay không có thuận-tiện cho sự có mặt của Ngài nên Ngài phải buộc lòng thừa cơ vắng mặt để giữ tròn tiết-tháo của một bực siêu-nhân. Phương chi đối với tín-đồ của Ngài, đó cũng là một dịp thử thách.

H. – Thế nào là thử-thách?

Đ. – Đây là lý-do thứ năm. Trong sự vắng mặt của Ngài có một phần dụng-ý thử-thách để xem tín-đồ sau một thời-gian chịu sự giáo-hóa, trong lúc Ngài vắng mặt có thật tâm phụng-hành qui-củ đã vạch ra chăng? Như Ngài đã từng răn trước:

Nấu lọc rành mới biết vàng thau,

Ai thật tánh, ai người giả đạo?

Mà đó cũng là một phương-tiện tập cho tín-đồ không có tánh quá ỷ-lại vào Thầy mà chẳng tự độ lấy thân, cũng như Đức Lục-tổ có nói: khi mê thì Thầy độ cho, lúc ngộ rồi trò tự độ lấy.

Chuyện này trong kinh Phật cũng có thấy một tỉ-dụ nói rằng: người tu học cũng như đứa trẻ tập đi. Khi chưa biết đi thì mẹ gác cây cho con vịn mà lần đi, đến chừng khi đi vững thì mẹ lấy cây ra để cho con tự đi lấy. Vì nếu cứ để cây cho con vịn đi hoài thì nó sẽ nhút-nhát không dám buông tay. Như vậy biết bao giờ mới đi được.

Hơn nữa Ngài vắng mặt như vậy mới khiến cho tín-đồ càng đem lòng thiết-tha ngưỡng-vọng.

H. – Theo ý tôi, dầu Ngài có mặt hay không thì tín đồ của Ngài vẫn qui-ngưỡng như thường.

Đ. – Vẫn biết thế, nhưng sự vắng mặt của Ngài sẽ làm cho tín-đồ chơn-thành càng tăng lòng trông ngóng. Vả lại Ngài đã đón biết:

1o Thời-kỳ chiến-tranh còn kéo dài,

2o Tình-trạng nước nhà chưa ngã ngũ,

3o Máy huyền-cơ chưa đến mức.

Nếu Ngài có mặt thì chẳng những chưa có thể cải-tạo được trước sự hoạch-định của thiên-cơ mà còn làm cho tín-đồ sanh lòng ngờ vực, khinh-thường rồi đâm ra lờn-lã mất cả đức-tin,

Trái lại Ngài vắng mặt sẽ giữ được đức-tin của tín-đồ và làm cho họ tăng trưởng lòng mong-cầu. Tình thế càng làm cho họ đau khổ bao nhiêu thì lòng mong cầu của họ càng thêm lớn bấy nhiêu. Như thế sự trở về của Ngài sau này mới là quan-trọng.

H. – Thế thì quí ông vẫn tin Ngài trở về phải không?

Đ. – Thật như vậy, chúng tôi bao giờ cũng tin Ngài sẽ trở về.

H. – Căn cứ vào đâu quí ông tin Ngài trở về?

Đ. – Như chúng tôi đã cho biết Ngài lâm-phàm là vì có sứ-mạng của Phật-Tổ và Ngọc-Đế; mà sứ-mạng ấy Ngài phải hoàn-thành, chẳng hạn như thâu cho được con long ác-nghiệt và đưa người đến Hội Long-Hoa.

Ngài đã có sứ-mạng như thế, thảng như Ngài không trở về thì ai mới đảm-đương được cái vai-trò quan-trọng và độc nhứt ấy.

Theo chúng tôi, trường-hợp vắng mặt của Ngài không khác trường-hợp của Tiết Nhơn-Quí ẩn mình trong dinh bà Cửu-Thiên hay Khương-Thượng nhảy xuống cầu Cửu-Long.

H. – Trường-hợp của Tiết Nhơn-Quí ẩn mình ra sao?

Đ. – Cứ theo truyện Tiết Nhơn-Quí kể lại lúc người ẩn thân nơi dinh của bà Cửu-Thiên là vì bà thấy sau này người phải đương đầu nhiều tai-nạn nên cố giữ lại nơi dinh đặng truyền phép mầu trong một thời-gian.

Ngài đã mượn câu chuyện này để thổ-lộ cuộc đời của Ngài với mấy vần thơ dưới đây:

Nhớ qua hồi lúc đời Đường,
Hiền-thần Nhơn-Quí người đưong ẩn mình.
Cửu-Thiên còn giấu tại dinh,
Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày.

H. – Còn trường-hợp của Khương-thượng thì sao?

Đ. – Trong truyện Phong-Thần có kể lại rằng: Sau khi Khương-Thượng hạ san có qua giúp nhà Thương. Vua Trụ bắt ông làm đốc-công xây cất Lộc-đài. Chẳng những không khứng mà ông còn can-gián, vì thế Đát-Kỷ tâu với vua Trụ bắt ông về tội khinh-quân và xử hình ôm Bào-lạc. Khương-Thượng thấy thế bèn nhảy xuống lầu chạy đi. Vua Trụ khiến quân rượt theo; khi đến cầu Cửu-Long, ông nhảy ầm xuống nước. Lúc đó ai cũng tin chắc rằng ông đã chết, chớ nào ai có dè ông độn thủy về ở ẩn Bàng-khê mà câu cá chờ thời ra giúp nhà Châu. Đối lại, trường-hợp của Đức Huỳnh Giáo-chủ với trường-hợp của ông Khương-Thượng lúc bấy giờ nào có khác đâu!

Nên Ngài đã từng thốt ra:

Ta như Khương-Thượng ngồi câu,
Câu thời câu vận công-hầu mới nên.

H. – Nhưng quí ông có nghĩ Ngài sẽ trở về với một hình xác khác không?

Đ. – Không thể được.

H. – Vì lý-do gì mà không thể được?

Đ. – Vì rằng mỗi lần mượn xác không phải là một việc làm nhứt thời mà là một việc cần phải uốn-nắn nhiều thời-gian và cho hợp cơ-duyên. Huống chi trong thời-kỳ gấp rút của buổi Hạ-Nguơn lại càng không có đủ thì-giờ để dọn một cái xác khác.

Hơn nữa, nếu Ngài trở về với một cái xác khác thì điều nguy-hại thứ nhứt là làm cho tín-đồ hoang-mang mất cả đức-tin rồi đâm ra chểnh-mảng việc tu-hành, điều nguy hại thứ hai là làm cho kẻ bấy lâu chưa tin Ngài sanh lòng ngạo-nghễ.

Vì thế mà Ngài phải trở về với nguyên-trạng, mới vừa làm cho tín-đồ hài lòng và vừa làm cho kẻ ngoại đạo ngạc-nhiên tín-phục.

CHƯƠNG THỨ HAI: Phần Giáo-lý

Hỏi. – Tôi đã hiểu thân-thế và hành-trạng của Đức Huỳnh Giáo-Chủ, nhưng tôi chưa hiểu giáo-lý của Ngài như thế nào. Vậy xin quí ông giải cho tôi rõ.

Đáp. – Như chúng tôi đã cho biết Ngài lâm-phàm là có sứ-mạng hưng-truyền giáo-pháp của Phật Thích-Ca như Ngài đã từng thuyết:

Rút trong các Luật các Kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng này.

Câu này đủ minh-chứng Ngài đã rút tỉa tinh-lý của Phật trong Tam-tạng tức là Kinh-tạng, Luật-tạng và Luận-tạng mà nêu rõ trong Sám-giảng của Ngài.

Đồng thời, vì phương-tiện thích-ứng với trình-độ của nhơn-sanh, Ngài xiển-minh đạo Thánh Hiền để đem con người trở lại với phong-hóa thiện-mỹ cổ-lai, như Ngài đã phổ-biến:

Ta dạy thế mượn lời Phật Thánh,
Nên truyền ban cho chúng-sanh tường.
Hay là:
Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh,
Sách Thánh Hiền dạy đạo làm người.

Như thế chúng ta có thể tóm lược giáo-lý của Ngài gồm có hai quan-điểm: Nhơn-đạo và Phật-đạo.

H. – Về nhơn-đạo, Ngài chủ-trương như thế nào?

Đ. – Đứng trước xã-hội hiện-nay, cái xã-hội tiêm-nhiễm theo văn-minh vật-chất mà đa số gia-đình đã bại hoại, phong-hóa đã suy-đồi, đạo Nho đã thất bổn, Ngài lấy làm đau-đớn cho thế-đạo nhơn-tâm mà chẳng ngớt cực-lực bài-xích những thói hư tật xấu của người đời.

I. – Về gia-đình, việc loạn-luân cang-kỷ càng ngày càng thêm chất-ngất, như giữa cha con thì mất cả hiếu từ, giữa chồng vợ thì mất cả ân nghĩa, giữa anh em thì mất cả kính thuận, giữa bè-bạn thì mất cả thành thật, giữa chủ tớ thì mất cả trung tín…

Ngoài ra, giữa tôi chúa không còn trung nghĩa, giữa thầy trò mất cả kỉnh-thành. Nói tóm lại đạo luân-thường đã hư-hèn bại-hoại:

Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân;
Nào kể chi là đạo quân thần,
Tôi giết chúa, con đành sát phụ,
Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết thầy tội ấy đáng không?
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh đệ cùng nhau xâu-xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào,
Tình nhân-loại phân chia yểm-bách.

II. – Về phong-hóa thì xã-hội càng ngày càng đồi-bại, nảy sanh ra nhiều hạng người: đàng-điếm chơi-bời, gian-phi hung-ác, ích-kỷ sâu dân…

       1.-Hạng đàng-điếm chơi bời không lúc nào thạnh hành bằng từ khi có ngọn gió vật-chất thổi mạnh vào làm cho con người say mê:

a) Quen thói chè chén say-sưa vất-mả, la ó đánh đập, sanh ra lắm việc tồi-tàn;

b) Đàng-điếm đĩ-thỏa, son phấn lả-lơi, trêu hoa cợt nguyệt, bày trò dâm-loàn khả-ố;

c) Đấu kê đổ-bác, dối gạt lận lường, thua thiếu nợ-nần sanh ra cướp giựt;

d) Hút xách ghiền-gập, cạo ống vét nồi, cầm quần bán áo, làm những điều hèn-hạ nhuốt-nhơ.

Về vần-đề này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã khéo trách thiện trong mấy vần thơ dưới đây:

Ở thị-thiềng đua chen xướng-khởi,
Những tuồng hư cho bọn gái lẫn trai.
Nào hút thuốc phiện hội ve chai,
Nào trùm đĩ, ma-cô, nghề hút máu,
Ai để mắt xem đời châu đáo,
Chẳng khỏi than giùm dân-tộc hư hèn.
Diện áo quần, son phấn lấn chen,
Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa.
Mảng điểm-tô huy-hoàng nhà cửa.
Ai khốn cùng để mặc đất Trời xoay.

         2o Hạng gian-phi là những kẻ:

a) Chuyên sống về nghề khoét vách đào tường, năm này tháng nọ chẳng chịu ra sức làm ăn; ngoài ra còn bày mưu này kế nọ lường gạt kẻ làm ăn chơn chất mà lòng không chút ăn-năn cải-hối.

b) Chuyên sống về nghề mua giựt bán giành, buôn lậu đầu-cơ, lường cân tráo đấu, hại kẻ quê mùa dốt nát vì mình mà sống cơ-cực thiếu thốn.

Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ thường xuyên:

Việc bán buôn phải giữ ngang cân,
Chớ tập tánh lận lường tráo đấu.
Các công cuộc của người tánh xấu,
Ta giữ gìn chớ có nhiễm vào.

c) Chuyên sống về nghề cho vay cắt cổ, vốn một lời mười, thi-hành phát-mãi, ở đợ nát lời gây nên một cảnh-trạng bức hiếp thê-thảm cho kẻ cô thân bần tiện.

         3o Hạng hung ác là những người:

a) Chưởi cha mắng mẹ, rủa xả chòm riềng, không kiêng già cả, kêu réo Thánh Thần, miệng không ngớt lời độc ác với kẻ trong nhà cũng như người ngoài ngỏ.

b) Ỷ khôn lanh húng-hiếp những người hiền lương khờ-khật, từ miếng ăn cho đến thức mặc đều đặt trên lẽ hung tàn ác-độc.

        4o Hạng ích-kỷ là hạng người chỉ biết sống riêng, ngày tháng cứ bo-bo giữ của, không lòng bố-thí. Chẳng những thế mà lại còn tham-lam vùa hốt của người một cách sâu hiểm.

        5o Hạng sâu dân là hạng người giá áo túi cơm, phỉnh gạt dân-chúng bằng ngòi viết ngọn roi khiến cho đám dân đen phải sống dưới sự đàn-áp bóc-lột mà họ vẫn ngang-nhiên không biết xấu-xa hổ-thẹn.

Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã lắm phen thống-trách như mấy vần thơ dưới đây:

Đời cũng lắm bao người giá áo,
Nương bã vinh nhiều hạng túi cơm;
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.

     6o Hạng người ngợm là hạng người:

a) Vô-ích trong xã-hội, sống một cách trơ-trẻn dưới sự ám-ảnh của nhục-dục, chỉ biết ăn với ngủ, không khác gì đời sống của con vật.

Về hạng này trong Sám-Giảng có đoạn tả như vầy:

Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa,
Coi sự sống như Tiên nưa-nửa;
Mê mồi thơm như cá lục-châu.
Sao chẳng lo thức tỉnh quầy đầu,
Cho khỏi thẹn với người Thượng-cổ.

b) Vô liểm-sỉ, chỉ vùi đầu óc trong cuộc truy hoan dật-lạc, lo chưng diện hình vóc lả-lơi, bày trò bướm ong hoa nguyệt một cách nhơ-nhuốc tối-tăm. Chẳng những thế mà lại còn tự-phụ vào mớ học văn-minh cặn bã, trở lại phỉ-báng ông cha, khinh chê cổ-tục, không chút liêm-sỉ thẹn-thùa.

Về hạng này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ không ngớt than phiền như mấy câu thơ dưới đây:

Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày ngày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa.
Trong tâm chứa những điều tà,
Lời ăn tiếng nói thiệt là quá lanh.
Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
Chẳng trau hiền đức học hành làm chi.
Khôn ngoan thời những chuyện gì,
Cũng là lừa dối vậy thì dân quê.
Người xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ bại u-mê hơn mình.
Tự-do trai gái kết tình,
Với lo trau sửa cho mình đẹp tươi.
Gái trai đến tuổi hai mươi,
Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả lơi.
So hình sửa sắc chiều mơi,
Đặng làm những chuyện trái đời vô-liêm.
Cớ sao chê cổ trọng kim,
Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.
Thấy đời trần hạ thon-von,
Ai nuôi cho lớn mà còn khinh-khi.
Ông cha thuở trước ngu-si,
Mà ngay mà thảo hơn thì đời nay.
Học hay lợi-dụng tiền tài,
Lên quan xuống huyện ăn xài lả-lê.
Gặp ai đói rách cười chê,
Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.
Chẳng lo rèn trí lập thân,
Để làm xảo trá khổ thân sau này.

III. – Về đạo Nho thì thuyết tu tề trị bình, nền tảng luân thường đạo nghĩa của ngàn xưa, đã đến hồi suy-vi hủ-bại. Kẻ học Nho ngày nay không còn mấy người được phong-độ quân-tử, đem đạo Thánh Hiền truyền-bá trong dân-gian, chấn-chỉnh cang thường đạo nghĩa, gây nên một học-phong sĩ-khí, mà chỉ đem cái sở học ra áp-dụng vào những việc buôn y bán lễ, làm thơ cợt nhã trêu đời, coi như dưới mắt không ai, hiêu hiêu tự đắc.

Về hạng hủ nho này, Sám-Giảng có đoạn biểu-trạng như vầy:

Đàng nhu thầy lễ cũng kỳ,
Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng.
Lại thêm đờn-địch từng-tưng,
Đem con heo sống mà dưng làm gì.
Chủ gia kẻ lạy người quì,
Làm chuyện dị-kỳ giả dối hay không?
Nếu không thì trả lời không,
Bằng mà có dối thì hòng sửa đi.
Thương đời Ta luống sầu bi,
Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
Rung đùi ngâm chuyện trên Trời,
Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.
Thấy đời Ta cũng héo-von,
Học trò mà chẳng làm tròn nghĩa nhơn.
Khoe mình mà chẳng có ai hơn,
Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo.
Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,
Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha.
Hốt thời cắc bảy, cắc ba, (1)
Chúng đòi năm cắc người ta hoảng hồn.
Lành bay còn ác lại tồn,
Đến chừng lập hội xác hồn lìa xa.

_____________________

(1) Giá tiền hồi năm 1939

Nói tóm lại, đứng trước hiện-tình gia-đình bại-hoại, phong-hóa hư-hèn, đạo Nho suy-đốn vì làn sóng vật-dục lôi cuốn ồ-ạt, Đức Huỳnh Giáo-chủ đầy lòng trắc-ẩn, trước khi đem nền đạo-lý chánh-đáng đặt lên xã-hội loài người, Ngài cực-lực bài bác những phần-tử có thói hư tật xấu ấy để cách-chánh luân-thường đạo-lý.

H. – Vậy Ngài cách-chánh bằng phương-pháp nào?

Đ. – Để đối trị cái bịnh của thời-đại quá đắm say dục-lạc, trước hết Ngài đem con người trở lại với bản tâm lương thiện, bằng cách chấn-phục đạo ngũ-luân ngũ-thường và tam tùng tứ-đức đã có từ xưa.

1o Ngũ-luân.

a) Đạo quân thần là mối đạo vua tôi. Lúc bình thời thì lo củng-cố cho đất nước được phú-cường, khi có giặc phải đem thân ra ngăn đỡ cho nước nhà khỏi lọt vào tay kẻ địch, dù phải hy-sanh tánh-mạng. Hãy xem đó là cơ-hội độc nhứt cho mình đáp ơn đất nước, không hề vì quá tham sanh úy tử làm mất sự trung,

b) Đạo sư đệ là mối đạo giữa thầy trò. Phận làm trò phải kính và vâng lời dạy bảo của thầy. Đứng trước mặt thầy, lúc nào cũng giữ dung-mạo đoan-nghiêm lễ phép. Khi thầy vắng mặt cũng vẫn giữ lòng thành kính như khi có mặt.

c) Đạo phụ-tử là mối đạo giữa cha con. Làm con phải hết lòng hiếu dưỡng cha mẹ, từ món ăn thức mặc đều phải cung-phụng cho đầy đủ, chí đến việc hành-xử cũng phải làm cho cha mẹ vừa lòng.

Việc làm chánh-đáng của cha mẹ không nên trái cãi, hãy gìn giữ như vàng ngọc. Thảng như ở trong cảnh nghèo-hèn hay giàu-có cũng phải giữ lòng thờ kính cha mẹ làm gốc. Không nên để ngoại-cảnh chi-phối đến nỗi làm cho mình mất hẳn sự hiếu.

Về bổn-phận làm con trong Sám-Giảng có khuyên:

Nếu ai biết chữ tu trì,
Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
Không làm để ở lung-lăng,
Chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì.
Ở cho biết nhượng biết tùy,
Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.

Trái lại, kẻ làm cha mẹ cũng có bổn-phận trước hết là nuôi dưỡng cho con khôn lớn; đến khi khôn lớn phải gia-tâm giáo-dục những điều đạo nghĩa, cốt tạo nên con người hữu dụng trong xã-hội ở tương-lai. Khi còn lầm lỗi, hãy dùng cách khéo-léo mà cảm-hóa, chớ không nên đánh đập chưởi rủa mà làm cho con khinh-lờn và bắt chước theo, gây thành ác-tập.

Về bổn-phận làm cha mẹ, trong Sám-Giảng có dạy:

Dạy rồi những việc đức ân,
Phận làm cha mẹ xử-phân lẽ nào.
Lỗi lầm chớ có hùng-hào,
Đừng chưởi đừng rủa đừng cào đừng bươi.
Đem lời hiền đức tốt tươi,
Đặng mà giáo-hóa vàng mười chẳng hơn.
Cũng đừng gây-gổ giận hờn,
Cho con bắt chước sạ duơn mới là…

d) Đạo phu thê là mối đạo giữa chồng vợ. Giữa chồng vợ phải ăn ở với nhau cho có ân nghĩa, đối đãi với nhau cho có nhã độ và dám liều chết để cứu nhau trong lúc khốn nàn cho trọn nghĩa thỉ chung. Không nên vì hoàn-cảnh sang hèn mà thay đổi tâm ý đen bạc cho mất hẳn chữ tình.

e) Đạo huynh đệ là mối đạo giữa anh em. Phải thương yêu lẫn nhau, dạy dổ cho nhau những điều hay lẽ phải, hầu bảo-vệ danh-giá gia-đình và làm cho vui lòng cha mẹ. Hơn nữa khi gặp việc nguy biến đều phải hết lòng tương cứu tương trợ, chớ vì quyền lợi mà xâu xé lẫn nhau, gây nên thảm-trạng giữa tình cốt nhục mà để tiếng chê bai trong thiên-hạ.

Về đạo huynh đệ, trong Sám Giảng có khuyên:

                                 Anh em đừng có đổi dời,

                        Phụ-phàng dưa muối se lơi nghĩa tình.

                                Tuy là Trời đất rộng thinh.

                        Có Thần xem xét phân minh cho người.

Ngoài ra còn đạo bằng hữu là mối đạo giữa bè-bạn. Phải tương thân tương tín, sửa cho nhau những điều lỗi lầm, dạy cho nhau những việc chánh-đáng. Ngộ khi gặp việc bất thường, phải tận tâm cứu hộ, giúp đỡ lẫn nhau. Hơn nữa đối với gia-đình của bạn cũng tôn-trọng như của mình.

Nói tóm lại về ngũ-luân, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có khai-thị như vầy:

                        Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ,

                        Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương.

                        Đạo cha con chặt-chẽ chữ miên-trường,

                        Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác.

                        Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác,

                        Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì;

                        Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri,

                        Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá.

                        Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã,

                        Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan.

2o Ngũ thường

a) Nhân là lòng hiếu-đạo hay thương người mến vật mà tận tâm cứu hộ cho được mọi việc lợi-ích, không hề chán-nản hối tiếc.

b) Nghĩa là có tánh công-bằng ngay thẳng, biết tôn trọng lẽ phải, thọ ân huệ nơi người không hề quên, ra chẩn-tế người chẳng đợi trả, thấy của người không động lòng tham, giúp cho người mà không tiếc mạng và luôn luôn đối xử với bà con thân tộc có ân hậu đầy đủ.

c) Lễ là có lòng kính người trên, nhượng kẻ dưới xem người dưng như kẻ ruột thịt, dối người giàu-có cũng như kẻ nghèo-hèn, vẫn giữ cách hỏi thưa khuôn phép như nhau. Và xem thân danh của người cũng như của mình, chẳng hề có ác ý phá hoại nghĩa là không khi nào rù quến vợ con người làm những việc tồi bại cho hư thân mất tiết lỗi đạo nhơn-luân.

d) Trí là có óc minh-mẫn phân-tách rõ việc phải quấy; nói lựa lời lành, làm trọn việc chánh, sống trong tiền bạc mà không đổi tánh, ngồi giữa tiệc rượu mà chẳng loạn ngôn và lúc nào cũng được bình tỉnh sáng-suốt để phán-đoán mọi việc của người khác hay của mình, chẳng hề có sự tư-vị lầm lỡ.

e) Tín là có lòng tin thật, miệng nói thẳng, lòng xét ngay, tin người thì dụng, nghi người thì thôi, không hề để cho mình thất hứa, chẳng muốn gần gũi những kẻ sai lời và đối với người trong nhà cũng như ngoài ngỏ đều lấy lòng ngay thật chắc-chắn bày tỏ hoặc hứa-hẹn. Dù lúc nào cũng lấy chữ tín ra dò người xét việc để đi tới mục-đích.

Những phần đã kể trên đây về ngũ-luân và ngũ-thường là bổn-phận hàng tu-mi nam-tử phải suất-sử cho tròn. Đến như phận thuyền-quyên thục-nữ thì có tam-tùng và tứ-đức.

3) Tam-tùng.

   a)  Tùng-phụ là trong lúc chưa chồng tức là thời-kỳ trả ơn cha mẹ, phận làm gái phải lo hầu hạ một bên cha siêng năng và vâng giữ các việc của cha mẹ dạy bảo.

Mỗi việc chi cũng đều phải dọ hỏi cha mẹ rồi sẽ làm, riêng mình không được quyền định-đoạt một việc nào cả; nhứt là những việc có quan-hệ đến gia-tộc thì càng phải đãi lịnh của cha mẹ.

Phải biết kính trọng thân danh của cha mẹ và của mình trong một ngày kia mà hiện giờ mình phải gắng lo trau-giồi đức-hạnh hiền-lương trinh-bạch. Việc làm phải khéo-léo lẹ-làng để cho cha mẹ trông vào đẹp ý và sau khi có chồng không làm cho ngưới chê mình là kẻ hư-hèn

Không nên học thói cợt gió cười trăng, lả-lơi tánh nết, ngủ trễ ăn bừa, vụng-về biếng-nhác gieo sự tủi nhục cho tổ-tiên cha mẹ mang tiếng sanh con bất-hiếu và thân mình sau nầy cũng chẳng ra gì.

b)  Tùng-phu là sau khi về nhà chồng, mình đã thuộc quyền của chồng, mọi công ăn việc làm trong ngoài đều do người chồng chỉ bảo.

Mình phải hiểu cái nào chồng không thích để mà tránh hẳn, đừng làm hoặc nói đến điều đó. Và những khi chồng nóng giận nên tránh đi để khỏi phải sự gây-ó. Cũng như các việc quấy của chồng mình đã gặp, hãy tùy lúc vắng người dùng lời dịu-ngọt khuyên can khiến cho chồng nghe mà chừa bỏ; không nên nói đường-đột sỗ-sàng mà thêm sự rầy-rà.

Chớ giấu-giếm chồng một việc nào và tự lịnh làm điều chi, nếu điều ấy có tánh cách hệ-trọng cho gia-đình.

Tự mình phải siêng-năng và có thứ-tự ở mọi việc trong nhà, đừng để phiền đến chồng những việc quá nhỏ mọn.Nhứt là phải cho sạch-sẽ hạp vệ-sanh và đừng vì chồng quá yêu mà khinh-lờn.

Nên cẩn-thận trong khi người bạn của chồng đến thăm, nhằm khi chồng mình đi vắng, phải cho lễ-độ nghiêm-chỉnh để tiếp-đãi chào hỏi tử-tế.

c) Tùng tử là chẳng may người chồng qua đời thì mình nên thủ-tiết để bảo dưỡng con-cái cho đến ngày mình nhắm mắt theo chồng.

Thay cho chồng mà làm-lụng nuôi con cho được cơm no áo ấm và dạy-dỗ cho nó được khôn-ngoan ngay thảo. Rủi phải chạm việc khó-khăn mình cũng vẫn giữ lòng cứng-rắn để lướt qua cho trọn sự tốt lành.

Và khi con mình trưởng-thành, hãy lập cho nó cái nghề-nghiệp chánh-đáng hợp thời để nó bảo thân. Khi muốn cưới vợ gả chồng cho con đừng kén chọn chỗ giàu sang mà hãy chọn nơi cha lành con thảo là được, song cũng phải hỏi ý con, nếu như nó bằng lòng mới lo, chớ không nên ép.

Bổn-phận làm mẹ là phải treo gương tốt cho con học theo. Không nên sau khi chồng chết, chẳng những mình không giáo-dục con-cái cho nó có căn-bản nghề-nghiệp sanh sống, đạo-đức đối-xử, mà còn tha-hồ chuốc lấy mọi việc tồi-tệ hư-hèn cho con bắt chước để miệng thế khinh chê một cách nhục-nhã. Như thế sẽ làm khổ con sau này và mình cũng có lỗi với tổ-tiên trong việc khói hương.

4. – Tứ-Đức

a) Công là nấu nướng, vá may cho sắc-xảo, khéo-léo, mọi việc làm-lụng được thứ lớp và thu-xếp gọn-ghẽ kỹ-càng, không được phào-phẹt bừa-bãi.

b) Dung là trạng-mạo đằm-thắm, cử-chỉ hòa-huỡn và mỗi lúc đi đứng nằm ngồi phải dòm ngó trước sau một cách cẩn-thận. Thân-thể phải cho sạch-sẽ và hình dáng phải đoan-trang, cách ăn thức mặc giữ được chừng mực gọn-ghẽ, không được hở-hang, cách điệu quá lẽ.

c) Ngôn là thưa thốt dịu-dàng, nói-năng lễ nghĩa không hay dùng lời láo-xược chưởi rủa tục-tằn.

d) Hạnh là nết-na hiền-hậu, tánh ý ôn-hòa, hay tha-thứ kẻ lầm lỗi, giúp đỡ kẻ thiếu hụt. Chốn khuê phòng thường trau-giồi giá gương trong sạch, không xem những loại sách bất chánh cũng không gần kẻ lả-lơi trây-trúa hỗn-ẩu tham-gian để ngừa hại đến danh thể.

Ở với cha mẹ đầy lòng hiếu-thuận, với ông bà cô bác anh chị thân quyến cũng giữ mực cung kính khiêm-từ đáo-để.

Về bổn-phận làm gái, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có khuyên dạy như vầy:

Lớn lên phận gái cần chuyên,
Làm ăn thì phải cho siêng mới là…
Phải gìn dục-vọng lòng tà,
Đừng chìu theo nó vậy mà hư thân.
Nghe lời cha mẹ cân phân,
Tam-tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.
Tình duyên chẳng kíp thì chầy,
Chớ đừng cãi lịnh gió mây ngoại tình.
Đi thưa về cũng phải trình,
Công dung ngôn hạnh thân mình phải trau.
Công là phải giữ làm sao?
Làm ăn các việc tầm-phào chẳng nên.
Mình là gái mới lớn lên,
Đừng cho công việc hớ-hênh mới là.
Chữ dung là phận đàn-bà,
Vóc hình tươi-tắn đứng đi dịu-dàng.
Dầu cho mắc chữ nghèo-nàn,
Cũng là phải sửa phải sang mới mầu.
Ngôn là lời nói mặc dầu,
Cũng cho nghiêm-chỉnh mới hầu khôn ngoan.
Đừng dùng lời tiếng phang-ngang,
Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.
Hạnh là đức-tánh phải không?
Ở cùng chòm xóm đừng cho mất lòng.
Bốn điều nếu đã làm xong,
Cũng gìn chữ hiếu phục-tòng song thân.

Nhưng về mặt đạo nhân, ngoài ngũ-luân ngũ-thường tam-tùng tứ-đức, Đức Huỳnh Giáo-Chủ còn khuyên hãy hành thêm bát-nhẫn là một phương trợ-lực giúp cho người bền chí lướt qua mọi trở-ngại khó-khăn như:

Mùi đạo-diệu chúng-sanh rán kiếm,
Trễ thời-kỳ khó gặp được Ta.
Rồi hành luôn bát-nhẫn mới là,…
Thì muôn việc điều an bá tuế.
Chữ thứ nhứt nhẫn năng xử thế,
Là người hiền khó kiếm trong đời.
Lập thân danh từng trải nơi nơi,
Chờ thời-đại mới là không khéo.
Chữ nhẫn giái kỳ tâm trong-trẻo,
Khuyên dương trần giữ phận làm đầu.
Nhẫn hương-lân cùng khắp đâu đâu,
Trên cùng dưới đều hòa ý hỷ
Nhẫn phụ-mẫu gọi trang hiền-sĩ,
Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau.
Nhịn xóm chòm cô bác mới cao,
Nhẫn tâm nọ ngày ngày an-lạc.
Nhịn tất cả những người tuổi-tác,
Nhẫn-tánh lành yên tịnh dài lâu.
Giữ một lòng hiền hậu mới mầu,
Quanh năm cũng bảo toàn thân-thể.
Chữ nhẫn-đức kể ra luôn thể,
Thì trong đời vạn sự bình an.
Chữ nhẫn-thành báu quí hiển vang,
Khắp bá-tánh được câu hòa-nhã.

Khái-yếu, phương chấn-phục đạo-nhân của Đức Huỳnh Giáo-Chủ là như thế. Có chấn-phục đạo-nhân thì mới có bước sang qua nền Phật-đạo.

H. – Vậy về phương diện Phật-đạo, Ngài chủ-trương như thế nào?

Đ. – Đồng một cảnh-ngộ với đạo Nho, đạo Phật xứ ta hồi thời Đinh, Lê, Lý, Trần rất thạnh, sức tin-tưởng của toàn dân mạnh-mẽ; song từ sau ngày các vị tổ bên Trung-hoa bặt truyền y bát, phái Thần-Tú nổi lên truyền mạnh qua xứ ta, làm cho chánh tín của chúng sanh ngày càng lu mờ, họ trở lại hướng mạnh về âm thinh sắc tướng của Thần-Tú nhiều hơn. Vì thế cho nên chánh-giáo của Phật bị suy-đồi, lòng người quay theo dị-đoan tà-kiến, thành-thử trong việc tu-hành không được bao nhiêu người đắc đạo. Trái lại thấy nhiều người bị tà-thần ám-ảnh dẫn-đắt đến chỗ lầm-lạc tai-hại thảm-khốc.

Để đi đến chỗ xương-minh đạo Phật, trước nhứt Đức Huỳnh Giáo-Chủ đả-phá những lưu-tệ do phái Thần-Tú bày ra, như: làm thầy đám, bày chuông mõ, lầu phướn xá bạc, làm trai đàn mà Ngài đã chỉ tạc chỗ giả dối của họ trong một đoạn Sám-Giảng dưới đây:

Lũ thầy đám hay bày trò khỉ,
Mượn Kinh luân tụng mướn lấy tiền.
Chốn Diêm-đình ghi tội liên miên,
Mà tăng-chúng nào đâu có rõ.
Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ.
Từ xưa nay mấy có ai thành,
Phật từ-bi độ tử độ sanh.
Là độ kẻ hiền lương nhơn-ái.
Xá với phướn làm trò kỳ-quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian.
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng-chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá-tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn-nghĩa đã tròn;
Thấy lạc lầm đây động lòng son,
Khuyên bổn-đạo hãy mau tỉnh-ngộ.

Ngoài những lưu-tệ này, còn nhiều sai lầm khác nữa, như khoác áo thầy tu làm nhưn-bông tụng mướn, bày việc đốt giấy tiền vàng bạc, tượng cốt phết vàng, cúng kiếng chè xôi, bày trò hát Phật mà trong Sám-giảng của Ngài không dứt cảnh-tỉnh:

Kinh với sám tụng nghe thảnh-thót,
Lũ nhưn-bông tập luyện đã rành.
Đẩu với đờn kèn trống nhịp-sanh,
Làm ăn rặp đặng đòi cao giá.
Tâm trần-tục còn phân nhơn ngã,
Thì làm sao thoát khỏi luân-hồi.
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô-lý.
Xưa Thần-Tú bây điều tà-mị,
Mà dắt-dìu bá-tánh đời Đường.
Thấy chúng-sanh lầm-lạc đáng thương,
Cõi âm-phủ đâu ăn của hối.
Đúc Phật lớn chùa cao bối-rối,
Mà làm cho Phật-giáo suy-đồi.
Tu vô-vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng-sanh lo lót.
Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,
Nên bày ra cúng kiếng hoài-hoài;
Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,
Cúng với lạy khó trừ cho đặng,
Kẻ nghèo khó tu-hành ngay thẳng,
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?
Lập trai đàn chạy chọt lao-xao,
Bôi lem mặt bày tuồng hát Phật.
Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,
Vậy hãy mau bỏ bớt dị-đoan.

Nó tóm lại, đứng trước hiện-tượng Phật-pháp suy đồi do phái Thần-Tú gây ra, Đức Huỳnh Giáo-Chủ nối chí Phật Thích-Ca mà hưng-truyền chánh-giáo.

H. – Ngài hưng-truyền bằng cách nào?

Đ. – Muốn đưa chúng-sanh đi đến một mức cao-rộng của đạo Phật đúng theo chơn-truyền của Đức Phật Thích-Ca. Ngài dạy cho tín-đồ phải hành bốn trọng ân trước nhứt.

H. – Bốn trọng ân ấy thế nào?

Đ. – Về bốn trọng ân, Đức Huỳnh Giáo-chủ có chỉ như vầy:

 “Đức Thầy Tây-An thuở xưa thường khuyến-khích các môn-nhơn đệ-tử rằng: Muốn làm xong Hiếu-Nghĩa, có bốn điều Ân ta cần phải hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn:

– Ân tổ-tiên cha mẹ,
– Ân đất nước,
– Ân tam-bảo
– Ân đồng-bào và nhơn-loại (với kẻ xuất-gia thì ân đàn-na thí-chủ).

Ân tổ tiên cha mẹ. – Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng-thành đủ trí khôn-ngoan, trong khoản bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao nhiêu khổ nhọc: nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên, nên khi biết ơn cha mẹ cũng có bổn-phận phải biết ơn tổ-tiên nữa.

Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải, ta rán chăm-chí nghe lời, chớ nên xao-lảng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm-lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta còn phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi phải đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa-hảo trong đệ huynh, tạo hạnh-phúc cho gia-đình đặng cha mẹ vui lòng thỏa-mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước-thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh-hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh thoát đọa trầm-luân.

Còn đều ơn tổ-tiên, đừng làm điều gì tồi-tệ điếm-nhục tông-môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai-lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo-nghĩa rửa nhục tổ-đường.

Ân đất nước. – Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ; sống, ta cũng nhờ đất nước quê-hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sồng được dễ-dàng, giống nòi được truyền-thụ, ta cảm thấy có bổn-phận phải bảo-vệ đất nước khi bị kẻ xăm-lăng dày-đạp. Rán nâng đỡ xứ-sở quê-hương lúc nghiêng nghèo và làm cho trở nên được cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống-trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc-gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

Hãy tùy tài tùy sức, nỗ-lực hy-sinh cho xứ-sở.

Thảng như không đủ tài lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ giúp đỡ quê-hương, ta phải rán trách đừng làm việc gì sơ-suất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây ra sự tổn hại đến đất nước.

Đó là ta đền ơn đất nước vậy.

Ân tam bảo – Tam bảo là gì?

Tức Phật, Pháp, Tăng.

Con người nhờ tổ-tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương-diện vật-chất.

Về phương-diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm-luân khổ-hải. Thế nên, Ngài mới truyền lại giáo-pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư-tăng đặng đem nền đạo của Ngài ban-bố khắp trần-thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ-tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ-dẫn và cứu vớt quần-sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín-nhiệm vào sự-ngiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ-tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng-ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài đã hành-động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát-triển thêm ra, xây dựng một tòa lầu đài đạo-hạnh vô-thượng vô song roi truyền mãi mãi với hậu thế.

Nên bổn-phận chúng ta phải noi theo chí-đức của tiền-nhơn hầu làm cho trí huệ minh-mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn-dắt giùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp-tục khai thông nền đạo-đức đặng cái tinh-thần từ-bi bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá-tánh. Như thế, mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền-nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

Ân đồng-bào và nhân-loại. – Con người vừa mở mắt chào đời, đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung-quanh và cái niên-kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy.

Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong-vũ. Vui sướng, ta đồng hưởng với họ. Hoạn-nạn họ cùng chịu với ta. Họ và ta cũng chỉ một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một, ấy quốc-gia đó. Họ là ai? Tức những người, ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.

Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc, cùng một nòi giống roi-truyền cũng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương-trợ lẫn nhau trong cơn nguy-biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực-rỡ trong bước tiền-đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết, không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đền-đáp cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

Chẳng như thế thôi, ngoài đồng-bào ta còn có thế-giới, người đang cặm-cụi cần-lao cung-cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân-lọai, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật-liệu cần dùng chăng? Ta có thể tự-túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong-vũ nhiệt-hàn, với những lúc ốm đau nguy-biến, giữ những cuộc sống còn này chăng? Hẳn không vậy. Thế nên, dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là nhờ đến dân-tộc khác và phải biết ơn họ. hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng-chủng mình vậy.

Vả lại, cái tình từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận-thức rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân-biệt màu da không phân-biệt chủng-tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp xã-hội mà chỉ đặt vào một: Nhân-loại chúng-sanh.

Thế, ta không có lý-do gì chánh-đáng để vì mình hay vì đồng-bào mình mà gây ra tai-hại cho các dân-tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hòa, một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn-phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn-nạn.

Đối với những kẻ xuất-gia qui y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân của các đàn-na thí-chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo-tâm cung-cấp những vật-dụng cần-thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc-men đặng sanh sống. Rốt lại, họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của kẻ tốt lòng.

Với quần-sanh, họ mang cái ân rất nặng. Cho nên họ phải dìu-dắt sanh linh đi tầm chân lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu-cố của thiện-tín.”

H. – Ngoài bốn điều ân phải hành, còn yếu-pháp nào nữa không?

Đ.- Vẫn biết thiệt-hành xong bốn điều ân thì tín-đồ nhà Phật đã tiến được một bước khá xa trên con đường đạo, nhưng như thế cũng chưa đủ, còn cần phải trừ xong tam-nghiệp, vì nó là nguồn gốc của tội-lỗi.

H. – Thế nào gọi là tam-nghiệp?

Đ. – Về tam-nghiệp, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có mở đầu như vầy:

 “Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay dầu không cũng phải chịu dưới sự chi-phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào một chữ Đạo. Đạo của con người kêu bằng đạo nhân và nó là một con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết.

Muốn làm tròn nhân-đạo phải vẹn Tứ-ân. Nhưng trước hết hãy tránh tam-nghiệp và chừa thập ác, cũng như muốn làm giàu, phải tránh đừng cho thiếu nợ.

Mỗi người đều có ba nghiệp chướng như sau đây:

1o Thân-nghiệp, tội lỗi do xác thân gây nên,

2o Khẩu-nghiệp, tội lỗi do miệng lưỡi gây nên.

3o Ý-nghiệp, tội lỗi do ý tưởng gây nên.

H. – Tội lỗi của thân-nghiệp như thế nào?

Đ. – Thân-nghiệp gây ra ba điều ác:

1o Sát-sanh.

 “Những khi rượt bắt con vật để mà làm thịt, ta sẽ thấy nó chạy trốn một cách thương hại, nó sợ chết và muốn sống như ta. Ta há nỡ lòng giết nó một cách vô cớ ư!

 “Trong khi ta chưa trì trai được, vì lẽ lúc này ta còn phải làm việc sóc-vác theo khuôn-khổ của đạo nhơn nhiều hơn, thành thử buộc ta dùng một ít cá thịt vừa với sự nhu cầu để giúp cho sức khỏe của ta được có nhiều để làm công-việc khỏi bị chậm-chạp vậy thôi. Chớ ta không gì lấy miếng ăn làm thú-vị. Rồi đây ta sẽ lần-lượt từ chỗ tâm chay tiến đến thực-chay một cách tròn vẹn nếu trình-độ và hoàn-cảnh của ta cho phép ta đến đó.

 “Đối với loài vật cũng như loài người, lúc nào ta cũng phải xem-xét từ cái tít-tắc trong việc làm của ta không để phải hại đến mạng sống của nó, và ta không nuôi ý muốn giết, hoặc là vui thấy hay nghe cho kẻ khác giết nó một cách vô-cớ. Lại ta cũng không nên nuông chìu cái khẩu dục sát hại loài vật một cách quá đáng hơn sự như-cầu thường-lệ của ta “. (1)

___________________________________________

(1) Dẫn theo “Những bài thuyết-pháp ứng-khẩu trong năm Quí-tỵ” quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.

 

Về sát-sanh, trong Sám-Giảng có giải như vậy:

Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách,
Tưởng rằng mình như thế là ngoan.
Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn,
Chớ sát hại mạng người như thế.
Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.
Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.
Phải ăn-năn phước-điền tạo-tác,
Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời;
Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả.

2o Đạo-tặc.

” Phải làm lấy việc để cung vào sự sống, phải có sanh-kế để nuôi vững xác thân, song trước khi làm những việc này, ta phải kiểm-soát lại nhiều lần, thấy rằng chơn-chánh rồi sẽ thi-thiết sau.

” Giàu có không được bê-tha xa-xí cho phải nghèo cũng như người nghèo chẳng được dựa vào chỗ thiếu hụt chẳng chịu nỗ-lực làm ăn, lại sanh ra biển-lận trộm cướp của người về nuôi sống cho mình, mà quên rằng kẻ đã làm ra được của ấy họ đã phải đổ ra không biết bao nhiêu mồ-hôi công khó mới tạo ra. Nay ta lấy của họ, ta sung sướng, họ đau khổ, mà họ là đồng-bào ta, không thì cũng loài người vẫn muốn sung-sướng, sợ đau khổ và biết tiếc của như ta thì lẽ phải ta nên giúp họ nhiều hơn chớ lòng ta đâu vui xài của họ bằng cách gian-tặc như vậy được.

” Tóm lại, bất luận như thế nào, nếu không phải của ta thì nhứt định không được lấy, và ta cũng không xúi cho kẻ khác lấy, ví dầu thiếu món đó mà phải chết đi nữa thà là ta chết chớ không đành làm việc phi nghĩa có hại cho đạo-đức của ta và người khác “. (1)

Về đạo-tặc, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có thuyết-hóa như vầy:

Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
Chẳng kể công nước mắc mồ-hôi,
Phá lương dân dạ luống bồi-hồi,
Ngày làm –lụng đêm lo gìn giữ.
Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ,
Nào đào tường khoét vách khuân đồ;
Tội chập-chồng đâu biết ở mô,
Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
Nay đuốc huệ từ-bi đã rọi,
Vào thâm-tâm những kẻ gian-phi,
Hãy tu thân chừa thói vô-nghì,
Của phi-nghĩa làm chi xong chuyện.
Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả.

_____________________________________________________

(1) Dẫn theo “Những bài thuyết-pháp ứng-khẩu trong năm Quí-tỵ” quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.

3o Tà-dâm

” Sắc đẹp là món ưa thích nhứt của cả một thế-giới loài người, trái lại nó cũng chẳng kém gì hầm lửa biển sóng, giết được người dễ-dàng. Kẻ tu-hành phải tránh nó đừng đợi nó tránh mình. Thắng được nó là một việc rất khó, song không phải là không thắng được. Mà hễ khi thắng được nó rồi sẽ được nửa phần chướng ngại của sự tu học.

” Cho nên sắc đẹp đối với kẻ tu-hành lúc nào cũng cần phải thắng phục được nó đừng để nó sai khiến lại mình. Dù nam hay nữ cũng vậy, đều phải chú-trọng lẽ trinh-chánh làm gốc, sẽ coi nó là việc quan-hệ đến đời sống hiện-hữu và tương-lai của mình rất nhiều mà hết sức bảo-vệ cho trong sạch. Kẻ thắng được sắc đẹp là hạnh-phúc, bại vì sắc đẹp là khổ nhục vậy.

” Cả đến sự nằm, ngồi, đi, đứng, nghe thấy, nghĩ tưởng có thể phạm vào tội dâm được, nếu trong lúc đó nơi mình có chỗ quấy. Mà điều này, bề trái của nó rất dễ phạm tội dâm vì nó không hình và rất hại cho trí tưởng phải mờ-ám điên-đảo.

” Cho nên luật đạo răn ta không nên ve-vãn vợ con người, phải giữ sự trinh-chánh cho ta và cho kẻ khác để trách khỏi cái nhơn quả hỗn-loạn của ngày mai. Việc này dù phải nát thây cũng gắng làm cho được mới đạt đến quả phẩm siêu-việt của đạo Phật.” (1)

Về tà-dâm, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có thuyết-hóa như vầy:

Ác tà-dâm thứ năm càng tệ,
Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần:
Thì đảo-huyền tất cả quốc-dân,
Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn.
Tội ác ấy diễn nhiều thảm-trạng,
Từ xưa nay Trời đất đâu dung;
Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
Quan lấn thế dâm-ô dân khó.
Trai liều-lĩnh điều này nên rõ,
Đừng phá trinh hại tiết nữ-nhơn.
Gái lẳng-lơ tiếng quyển lời đờn,
Hoa có chủ đèo-bòng tình mới.
Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi!
Bỏ những điều điếm-nhục tông-môn.
Đấng nam-nhi học lấy điều khôn,
Lòng trung hiếu gìn theo đạo-lý.
Hàng phụ-nữ gương xưa nối chí,
Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
Niệm Phật mà gây lấy thiện-duyên,
Cho đẹp mắt tổ-tiên nòi giống.

________________________________________________________

(1) Dẫn theo ”Những bài thuyết-pháp ứng-khẩu trong năm Quí-tỵ “. Quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.

H. – Còn tội lỗi của khẩu-nghiệp như thế nào?

Đ. – Khẩu-nghiệp sanh ra bốn điều-ác:

1o Lưỡng-thiệt.

Thường thấy người đời căm-thù nhau vì một phần lớn do tánh đâm-thọc mà ra. Tánh đâm-thọc là đến người này đem chuyện người kia mà khêu-khích, rồi khi đến người kia thì đem chuyện người này mà thêu-dệt, khiến cho hai đàng hiểu lầm nhau mà đâm ra oán hờn chia rẽ, dẫn đến sự giết hại nhau. Cái tai hại chẳng những gieo trong thứ dân mà còn gây họa đến hàng quan tướng. Nước này nước nọ sanh giặc cũng đều do tội ác mồn-mép của kẻ du-thuyền bày điều đâm-thọc.

Cả đến hạng tu hành cũng vì nó mà hư cả đức-hạnh, mất luôn cả tình thân-ái giữa người đồng đạo với nhau.

Vì thế cho nên, muốn tránh khỏi mọi sự hiểu làm vì ác lưỡng-thiệt, ta phải tập nói những lời chơn-thật chánh-đáng. Nếu trừ được điều này thì trong gia-đình chẳng những được hòa thuận mà đến cả trong hương-đảng cũng không thường xảy ra việc gấu ó rầy rạc.

Về ác lưỡng-thiệt, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:

                        Ác nơi khẩu nhứt là lưỡng-thiệt.

                        Với người này dùng lời tha-thiết,

                        Đến kẻ kia đâm thọc cho gây.

                        Khá chừa đi hương-đảng bớt rầy,

                        Dùng sự thiệt giải bày tâm trí.

                        Người choảng nhau tại mình gia vị,

                        Mà cũng không hưởng được lợi-danh.

                        Sau rõ ra chúng lại ghét ganh,

                        Chiêu-cảm quả bất lành thêm nữa.

 2o Ỷ-ngôn.

Con người hay có tánh tự cao tự đắc về tài-lực của mình mà miệt-thị khinh-khi hạng người kém sức hơn. Như kẻ giàu sang thì khi dễ nghèo hèn, người trí-thức thì hủy-nhục kẻ ngu-muội, hạng quyền thế thì áp-chế đám dân đen, người khôn lanh thì nhiếc xài kẻ khờ-khật. Thậm chí đến người tu-hành cũng có kẻ ỷ mình đức nhiều trí rộng mà chê-bai kẻ kém nhân thiểu phước.

Những điều này là nguyên-do gây ra sự phản-ứng thê-thảm giữa xã-hội. Thế cho nên muốn san bằng nhơn ngã, cần phải trừ diệt cái ác ỷ-ngôn. Kẻ hữu phước được no ấm, khôn lanh thông-thái, có oai quyền, phải thương đến hạng người phước mỏng nghệp dày chịu điều nghèo khó, ngu-muội dốt-nát, yếu hèn mà dùng những lời êm đềm dịu-ngọt để an-ủi giáo-hóa họ.

Về ác ỷ-ngôn, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có thuyết hóa như vầy:

                        Ác thứ nhì ỷ-ngôn chất-chứa,

                        Đợi cho người lầm-lỗi xéo vày.

                        Của tiền nhiều tự-phu rằng hay.

                        Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.

                        Lắc-lẻo chi có ba tấc lưỡi,

                        Quan ỷ khôn mạt sát dân ngu.

                        Nghèo ỷ lanh láo-xược lu-bù,

                        Ôi! nghĩ thế lòng đau tợ cắt.

                        Khuyên bá-tánh giữ lòng cho chặt,

                        Đừng để cho quỉ dắt đường cong.

                        Dùng từ-ngôn nói tận đáy lòng,

                        Dầu trên dưới cũng không mấy khác.

                        Chúng vô phước đời này dốt nát,

                        Người khôn ngoan chỉ dẫn mới là…

                        Lời trang-nghiêm êm-ái thốt ra,

                        Đừng bao-biếm mới là nhơn thiện.

 3o Ác-Khẩu

Điều mà làm cho người ta khi nghe đến căm-tức nhứt là những lời ác-độc. Xưa nay nó thường diễn ra trong xã-hội, như con hỗn-ẩu với cha mẹ, vợ mắng nhiếc chồng, mẹ nguyền rủa con cái. Kẻ thất-phu thì chưởi gió mắng mưa, kêu réo Trời Phật, thề-thốt Thánh Thần, mời thỉnh ngũ-vị mà trù-ẻo. Người bán-buôn thì hay dùng lời xiên xỏ gay cạnh mà chống báng nhau. Đứa du-đảng khi mở miệng ra là chưởi thề nói tục không ngớt. Những hạng này làm cho mọi người nhờm gớm và gây ra một cảnh-trạng bỉ ổi trong xã-hội.

Thế cho nên, kẻ đã được giác-ngộ bao giờ cũng tránh những tiếng tục tằn thô-lỗ. Trong gia-đình đối với cha mẹ cô bác, ngoài xã-hội đối với mọi người, phải có lễ-độ và nghiêm-chỉnh trong lời ăn tiếng nói.

Về ác-khẩu, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giảng-giải như vầy:

                        Tới ác-khẩu thứ ba bày biện,

                        Tiếng tục-tằn thô-lỗ hung-hăng.

                        Nào chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng,

                        Chẳng kể đến luân-thường thảo-hiếu.

                        Ham đánh giết những người hèn yếu,

                        Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng;

                        Trong gia-đình chưởi rủa liên-miên,

                        Hết dương-thế kêu sang Thần-Thánh.

                        Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,

                        Cõi long-cung mời thỉnh tối ngày.

                        Đời âm-u tội-trạng thảm thay!

                        Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ.

                        Gương tổ-phụ còn roi lại đó,

                        Sao không theo nề-nếp gia-phong?

                        Chư Thánh Thần đâu có mất lòng,

                        Mà kêu réo Tây Đông Nam Bắc.

                        Mấy câu trên toàn là ròng rặc,

                        Những đàn-bà khe-khắc cháu con.

                        Kể từ nay phải giữ cho tròn,

                        Không chừa dứt ắt mang tai ách.

                        Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch,

                        Khi thốt ra đoan-chánh hiền từ.

                        Tích thiện thì thường có phước dư,

                        Bằng tích ác họa ương đeo-đắm.

 4o Vọng-ngữ

” Cái lỗ miệng là một tai trong tam tai (Ngó, nghe, nói). Việc nói láo là một tội ác trong bốn tội ác của lỗ miệng. Chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc đủ cho rằng thiếu, việc thiếu cho rằng đủ, đặt điều kiếm chuyện làm cho giữa người này người khác hiểu lầm nhau, giao-kết hứa-hẹn ngày kia đổi ra ngày nọ; và trước tụng-đình không biết bao nhiêu sự đôi chối lẫn nhau đến đỗi phải thề thốt đủ lẽ… giai do một phần lớn của sự nói láo mà ra.

” Lời nói của mình thường được kẻ khác tín-nhiệm, danh-giá của mình đã làm cho người kính-nể mà chỉ vì một việc nói láo là cũng đủ làm hư hại hết cả. Mà khi đã bị hư hại thì khó mà thâu hồi như cũ được.

” Cho nên kẻ ở trong đạo đã hiểu lấy cái vọng-ngữ là một cái hại cho sự tin tưởng, sự thân-ái, sự hòa nhứt giữa nhau và cũng là một cái nhân không chánh-đáng cho mình mà lúc nào cũng nhắm vào sự thật để mà nói-năng hứa-hẹn và tường-thuật với kẻ khác. Tránh tất cả chuyện mơ-hồ, sai-siển, dối-mỵ trong việc nói, dù hạng nào cũng vẫn giữ như thế.” (1)

Về vọng-ngữ, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã có giải-giáo như vầy:

                        Ác vọng-ngữ thứ tư cũng cấm,

                        Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều.

                        Ghét người thì kiếm chuyện dệt thêu,

                        Thương viện lẽ thấp cao bàu chữa.

                        Đời bất công mấy ai xem sửa,

                        Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tùng.

                        Khuyên nhơn-sanh lấy lẽ chí công,

                        Mà ăn ở nói-năng chơn-chất.

                        Phật từ-bi độ trong nhơn vật,

                        Là Luật Kinh dạy rất tinh-tường.

                        Nếu chẳng lo hồn vướng tai ương,

                        Chừng ấy mới Phật nào đón rước.

                        Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước,

                        Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn.

                        Đã tu-hành đừng có bôn-chôn,

                        Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài-cán.

                        Người hiểu rành mới càng thêm chán,

                        Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu;

                        Nói với ai cũng phải lựa điều,

                        Bằng tráo-trác cho người khinh-dể.

___________________________________________________

(1) Dẫn theo ”Những bài thuyết-pháp ứng khẩu trong năm Quí-tỵ “. Quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.

H. – Còn tội lỗi của ý-nghiệp như thế nào?

Đ. – Ý-nghiệp sanh ra ba điều ác:

1o Tham-lam

” Đối trước cái lợi, nó hay làm mờ-ám đôi mắt của người, khiến cho nước lớn xâm-chiếm nước nhỏ, khối mạnh lấn hiếp khối yếu, giàu sang bức-xách nghèo hèn và cá-nhơn này mưu hại cá-nhơn nọ gây ra nhiều cuộc nồi da xáo thịt, chém giết ghê-tởm, điều chỉ vì muốn tham lấy cái lợi cho mình mà tạo thành sự tranh-đấu khốc-liệt để phải tội lỗi tàn ác cho người và cho mình điêu-linh khổ-sở. Rốt lại nó cũng không đưa mình đến chỗ vinh-diệu trường-cửu mà chỉ thường đem lại cho mình một cái chết vô nghĩa. ” (1)

Về tham-lam, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:

                        Ác thứ tám là lòng tham-hiểm,

                        Muốn bao gồm của thế một mình.

                        Tham nhà cao cửa rộng thân vinh,

                        Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.

                        Thấy của người thèm khô nước miếng,

                        Tính làm sao lường gạt lấy đi.

                        Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,

                        Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.

                        Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,

                        Của thế-trần như mật dính dao.

                        Kẻ tham ăn kê miệng liếm vào,

                        Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.

                        Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn,

                        Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.

                        Tham tiền tài thường vướng nạn eo.

                        Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.

                        Lúc tận số nằm trơ một xác,

                        Gẫm kim-tiền bội bạc bất tài;

                        Không làm cho ta được sống dai,

                        Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.

                        Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,

                        Lo vun trồng cội phước về sau.

                        Muốn trừ tham phải liệu cách nào?

                        Phải bố-thí diệt lòng ích-kỷ.

                        Tâm chánh-niệm thường thường xét nghĩ,

                        Vật ở trần như bọt nước làn mây.

                        Thân ta còn rày đó mai dây,

                        Của ấy cũng khi tan khi hiệp.

_____________________________________________________

(1)        Dẫn theo ” Những bài thuyết-pháp ứng khẩu trong năm Quí-tỵ “. Quyển thứ nhứt của Thanh-Sĩ.

 

 2o Sân-nộ

” Đối với vua tôi hốt-nhiên lỗi trung, đối với cha mẹ hốt-nhiên lỗi hiếu, đối với chồng vợ hốt-nhiên lỗi nghĩa, đối với anh em hốt nhiên lỗi hòa, đối với bậu bạn hốt-nhiên lỗi tín, dễ gay mắt, dễ trái lại, dễ nói ra những lời cắt đứt sự thân yêu, cung kính và dẫn đến sự thoi đánh, chém giết chưởi rủa, đưa thân ra tụng-đình, dẫn mình đến chỗ tù tội; cuộc sanh-hoạt dễ bị hư hỏng tan-nát, con người mau cằn-cỗi bịnh-tật không đem lại cho ta cái khoan-nhã thư-thái nào, lại thường làm cho ta phải cuồng-táo khổ-nhục, các điều này chỉ do lòng sân-hận gây ra.” (1)

Về sân-nộ, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:

                        Ác thứ chín hận sân luận tiếp,

                        Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.

                        Nổi lôi-đình đâu có định chừng,

                        Cho ta biết mà toan giữ trước.

                        Tánh sân-nộ thường làm bạo ngược,

                        Nên loài người ở cõi thế-gian;

                        Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,

                        Mới có cuộc tranh tài đấu lực.

                        Hơn tự-đắc khoe-khoang dõngsức,

                        Phải bị người hềm-khích ghét-ganh;

                        Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,

                        Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.

                        Trong cơn giận kể gì nhơn-đạo,

                        Tỷ như con cọp dữ trong rừng;

                        Gặp thịt toan cấu xé tưng-bừng,

                        Phân từng mãnh mới là thỏa dạ.

                        Diệt được nó tâm trần thong-thả,

                        Ta thường nên tập tánh khoan-dung.

                        Thiệt-hành đi đứng có ngại-ngùng,

                        Tha thứ kẻ lỗi-lầm ngu-xuẩn.

                        Và nhẫn-nhịn đừng ham tranh-luận,

                        Khỏi mất lòng tất cả mọi người;

                        Tánh thuần-lương vẻ mặt vui tươi,

                        Vậy mới đáng tín-đồ Phật-giáo.

                        Nay ta đã qui-y cầu đạo,

                        Gây-gổ là trái thuyết từ-bi.

______________________________________________

(1) Dẫn theo ”Những bài thuyết-pháp ứng khẩu trong năm Quí-tỵ “. quyền thứ nhứt của Thanh-Sĩ.

 

 3o Mê-Si

” Những cái phải cho là quấy, cái quấy cho là phải, những cái chánh cho là tà, cái tà cho là chánh, những cái thật cho là hư, cái hư cho là thật, điều lành việc dữ luôn luôn hiểu ngược lại, làm cho sai-siển chơn-lý, gieo ra nghiệp nhân đen tối từ một người này đến một người khác, chằng-chịt trồng tréo lẫn nhau để phải buộc vào cái bánh xe luân-hồi sanh-tử trong cõi Ta-bà mà mỗi chúng-sanh từ vô thỉ đến nay đã gấp mấy muôn lần triệu kiếp mà chưa thoát thân ra được, trái lại càng ngày càng thêm siết buộc cho mình vào đường tội lỗi mà tựa-hồ như ngây như ngất chưa nhận ra đâu là sanh tử, đâu là Niết-bàn để mãi chịu thời gian giết mòn. Vô-thường vật ngã, xương thịt chồng như núi Thái-sơn, huyết lưu đỏ như biển đại-dương, nước mắt chảy dầm dề hơn suốt thác; mọi việc ấy toàn là ở trong cái luyến-ái, cái dục-lạc mà nguồn gốc của nó sanh chỗ mê-si.” (1)

Về mê-si, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải-giáo như vầy:

                        Ác thứ mười đoạn chót mê-si,

                        Nguyên tăm-tối từ hồi vô-thỉ.

                        Màn vô-minh che mờ căn-trí,

                        Nên thường khi nhận ngụy làm chơn;

                        Lo huyễn-thân vật-chất kém hơn,

                        Ít tìm biết tinh-thần đạo-đức.

                        Dệt lưới nghi đeo điều phiền-phức,

                        Bịn-rịn đời cực khổ tang thương.

                        Khi nói làm ít chịu suy lường,

                        Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.

                        Diệt mê-si phải nương thuyền-giác,

                        Muôn việc làm chánh-trực không ngoan.

                        Đừng bạ đâu tin bướn nghe càn,

                        Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp.

                        Ác trừ xong hiện ra thiện-nghiệp,

                        Lóng nguồn chơn Phật tiếp-dẫn cho.

                        Trồng cây lành vị quả thơm-tho,

                        Tuy không thấy mà sau chẳng mất.

____________________________________________________________

(1)        Dẫn theo ” Những bài thuyết-pháp ứng khẩu trong năm Quí-tỵ “. quyền thứ nhứt của Thanh-Sĩ.

 

Thể theo Đức Huỳnh Giáo-Chủ thì khi trừ xong thập-ác này tức-nhiên hiện ra mười điều lành. Tuy rằng đã trừ xong mười điều ác, chỉ hưởng được quả nhân-thiên, nhưng còn cần phải hành luôn đạo Bát-chánh mới tiến đến con đường giải-thoát.

H. – Thế nào gọi là Bát-chánh?

Đ. – Về Bát-chánh Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải như vầy:

Bát-chánh gồm có:

            1o Chánh Kiến

            2o Chánh tư-duy

            3o Chánh nghiệp

            4Chánh tinh-tấn

            5o Chánh mạng

            6o Chánh ngữ

            7o Chánh niệm

            8o Chánh định

Chánh-Kiến – Chánh: đúng sự thật. Kiến: thấy, xem thấy. Chánh-Kiến: dòm thấy, xem-xét đúng theo sự thật.

Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn trí mờ ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng-suốt, khi vì sự tư-thù, khi vì ích-kỷ khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng, nên sự phán-đoán không công-bình chánh-đáng làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục chánh-kiến dạy ta phải đem hết trí năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét, tránh sự lạc lầm trong khi phê-đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận-tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm-lạc sai chạy), khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt-mờ u-ám, giúp cho ta hiểu biết được rõ-ràng minh-bạch, cách phán-đoán được ngay thẳng công bình.

Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo, khiến ta xua đuổi các điều tà-mị, bỏ các sự say mê trở về với đạo-lý, thoát đọa hồng trần. Nó tránh cho ta tất cả những sự giả-dối và nhờ thế, nên ta khỏi bị lầm-lạc trong khi hành đạo.

Chánh tư-duy. – Tư-tưởng chơn-chánh. Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi-danh, quyền tước, nghĩa vợ, tình chồng… cái tư-tưởng rù quến tâm trí mãi mãi quây cuồng vào những sự ấy, không thể nào thoát-ly ra được. Ấy về phần tà.

Phần chánh dạy rằng: Tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình.

Vì thế hãy đặt tư-tưởng mình vào công-cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm-luân oan-nghiệt. Hãy tin-tưởng Phật Trời và cầu nguyện đấng thiêng-liêng ban bố phước lành cho nhân-chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh.

Chánh-nghiệp. – Việc làm chánh-đáng ngay thẳng.

Đối với kẻ xuất-gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công-quả cho nhà Thiền, không có làm việc chi có thể tạo thành ác-nghiệp cả.

Những kẻ tại-gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn; kẻ buôn tảo bán tần, người việc nầy việc nọ tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ bị sư sinh nhai chi-phối, song cái chi-phối ấy khác hẳn với kẻ gian-tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo-trá bất nhân. Trong những cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ nguyện bỏ những nghề-nghiệp gây tai hại cho con người như: nuôi điếm, bán á-phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ v.v…

Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm cái nghề-nghiệp ấy con người mới bị hư-hỏng trụy-lạc hoang-đàng, trà đình tửu điếm… Họ là đồng-lỏa mà phạm-nhân là những kẻ ghiền-gập say sưa.

Thế nên, mục chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.

Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô-cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.

Chánh tinh-tấn. Tín-ngưỡng chơn-chánh và lướt tới.

Phải vô-thần luận, thường cho rằng thân xác tức con người, thân còn là người còn, thân mất là người mất. Không có Thánh Thần Trời Phật, không quả-báo luân-hồi, cũng chẳng có tội, có phước có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh-đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao mánh khóe gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo-trá, bao nhiêu tàn-bạo ngược ngang đều được ra dùng cả thảy.

Vì vậy mục chánh tinh tấn này khuyên hãy rán giữ đức-tin cho mạnh-mẽ. Dầu các thị-dục có sức lực gì cám-dỗ hay bức-bách bỏ lòng tín-ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thế lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu vớt quần-sanh thoát nơi khổ hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng-trần, rằng ngày giờ nào có kẻ chúng-sanh chịu-khổ, thì ta cũng phải chịu khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần-gian bỏ những oan-trái luân-hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết ta phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-bàn tấn tới, quyết chí tu thân đắc thành đạo-quả, hầu dìu-dắt bá tánh thập phương xa miền tục-lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn, các điều tà vạy, dẹp lục-căn lục-trần và rán làm cho tinh-thần được thêm sáng-suốt, rèn luyện các đức-tánh cho thiện-mỹ: yên tịnh, hỷ lạc, nghiêm-trang… quyết gắng công-phu một lòng bước tới Niết-bàn có tế-độ chúng sanh thoát khỏi luân-hồi quả-báo.

Chánh-mạng. – Sanh mạng chân chánh trong sạch.

Ở đời, người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quí trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức-phận cao.

Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-huệ càng ngày càng thêm mờ-ám ngu đần không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.

Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh-thần bị đen tối; bỏ hết sự đài-các xa-hoa, thân mình tự-chủ để tìm chỗ bất diệt, bất sanh. Thiền-định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh-hồn nhập Liên hoa siêu-sanh vào cõi Niết-bàn.

Chánh-ngữ. – Lời nói chân thật.

Lục-căn làm người nhiễm Lục-trần. Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn-cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy cũng có nghiệp-chướng của miệng lưỡi. Lưỡng-thiệt (làm cho thiên-hạ bất hòa nhau). Ỷ-ngôn (lời chưởi mắng kẻ dưới tay), Ác-khẩu (tiếng độc-ác, tục-tằn, chưởi-rủa Thần-Thánh). Vọng-ngữ (nói láo, nói huyễn-hoặc).

Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo-ngôn tráo-chác, những tiếng thô-lỗ cộc-cằn, phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ-tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói cho phải hiền-lương đức-hạnh và những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích-lợi cho chúng-sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức. 

Chánh-niệm. - Ghi nhớ sự chân-chánh.

Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng…, thất-tình lục-dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm-cơ, bao nhiêu trí-não, phụng-sự nó. Danh-lợi, cảm-tình, uy-quyền, phú-quí … được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường không thoát khỏi vòng sanh-tử.

Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm-than hoạn-họa, hãy rán tưởng-niệm phương-pháp hành-đạo, bỏ các điều phù-phiếm, ghi nhớ công-lao Đức Phật đối với quần-sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo-thành và sớm muộn gì cũng bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được sự xúc-động, các mối dục-tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.

Chánh-định. – Suy gẫm chân-chánh.

Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sang thêm lên, được giàu thêm lên, được sung-sướng thêm lên… nghĩa là những ý-định hoàn-toàn nhỏ-nhen thấp-thỏi. Họ không hiểu cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của-cải gia-tài như phù vân trước gió, nước bọt mây bèo. Những cái sanh, cái lão, cái bịnh, cái tử, được đặt lên cuộc đời của người này đến người khác, rồi đến người khác nữa… nghĩa là tất cả nhân-loại, không thiếu sót một ai. Thế mà họ vẫn cuống-cuồng tâm-trí theo bã lợi-danh phú-quí, đi theo những vật-dụng tiểu-ti eo-hẹp.

Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù-du của trần-thế, còn có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường-tồn. Nếu lấy Thiền-định phá tan màn u-minh che phủ, thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn, hết khổ, hết quả-báo luân-hồi. Và khi ta dùng sự chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền-não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị-dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao-động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng-suốt không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi giải-thoát.

H. – Muốn thực-hành đạo Bát-chánh, phải dụng phương-pháp nào?

Đ. – Cứ theo ý-chỉ của Đức Huỳnh Giáo-Chủ, muốn đạt đến mức giải-thoát của đạo thì phải dùng phương-pháp Tứ-diệu-đề.

H. – Vậy phương-pháp Tứ-diệu-đề như thế nào?

Đ. – Theo Đức Huỳnh Giáo-Chủ thì Tứ-diệu-đề là bốn mục-đề gồm có:

            1o Tập-đề

            2o Diệt-đề

            3o Khổ-đề

            4o Đạo-đề

H. – Thế nào là Tập-đề?

Đ. – Thể theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Tập-đề có nghĩa là khi đặt bước chơn trên con đường đạo, tức là sau khi qui-y, ta phải chí-công tu-tập theo qui-điều giáo-giới của Thầy Tổ đã truyền dạy như: thường hành phu sám, trọn giữ chay lạt, giới luật chu-toàn, thường xem Kệ giảng, giữ hạnh đức tinh-minh…

Về tập-đề, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:

                        Chữ Tập-đề nay đà mở cửa,

                        Để đem vào khuôn-khổ người hiền.

                        Rán cực lòng một bước đầu tiên,

                        Sau mới được làm nên Phật Thánh.

H. – Thế nào là Diệt-đề?

Đ. – Thể theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Diệt-đề có nghĩa: phải trừ các ác-tập đã có từ trước tới giờ do thân, khẩu, ý gây ra như đã thấy ở mục thập-ác. Những ác-tập ấy chẳng khác như một món đồ đã nhuộm lâu năm, nay muốn gột rửa nó, cần phải trì chí, cương-quyết diệt-trừ mới được.

Nhứt là về mặt lục-căn lục-trần, người tu hành cần phải diệt bỏ không nên ô-nhiễm. Như mắt thì nhiễm sắc đẹp, tai thì ưa nghe những tiếng hay, mũi thì ưa những mùi thơm, miệng thì thích những vật ngon, thân thì ham sung-sướng, còn ý thì muốn quyền-tước giàu sang, toàn là những việc khó bỏ, nhưng khi trừ-diệt được thì sáu căn thanh-tịnh.

Về lục-căn lục-trần, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:

                        Lo tu tỉnh mặc ai khinh ngạo,

                        Diệt lục-căn đừng nhiễm lục-trần.

                        Chữ sắc thinh chớ có hầu gần,

                        Hương với vị xác trần nên lánh.

                        Chữ xúc pháp treo gương Hiền Thánh,

                        Tránh sáu đường cũng được về Thần.

                        Từ xưa nay chỉ dạy nhiều lần,

                        Mà lê-thứ không lo chẳng liệu.

                        Nhãn thấy sắc thường hay bận-bịu,

                        Tai ưa nghe những điệu âm thinh.

                        Mắt với tai đều chọn đẹp xinh,

                        Còn lỗ mũi ưa mùi êm dịu;

                        Đồ thơm-tho nó ưa nó chịu,

                        Chốn xạ hương hay lết lại gần.

                        Lưỡi ưa ngon là chuyện ân-cần,

                        Đồ ngọt béo nó ham nó mến.

                        Thân tham sướng muốn tiền của đến,

                        Đặng ăn xài cho phỉ tấm tình.

                        Ý thì ưa sửa sắc soi hình,

                        Với chức phận cho cao cho quí.

                        Sáu đường ấy ở trong tâm ý,

                        Ta mau mau dứt nó cho rồi.

                        Nếu tỉnh tâm nào có mấy hồi,

                        Mượn trí đạo ra tay tận sát.

                        Giết được nó ấy là giải-thoát,

                        Thì xác trần mới khỏi đọa đày.

H. – Thế nào là Khổ-đề?

Đ. – Thế theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Khổ-đề có nghĩa là sau ngày vào đạo, dầu rằng gặp sự gian-lao khổ-sở cũng phải luôn luôn kiên-tâm bền chí, không vì đó mà thối-chuyển đức-tin, sa-sút đạo-hạnh. Hãy coi sự lao-khổ như là một việc thử-thách và là một dịp trả xong nghiệp quả. Có như thể mới càng tăng cao đạo-vị.

Về Khổ-đề, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:

                        Muốn tâm tánh ngày kia sáng tỏ,

                        Thì Khổ-đề phải chịu nhọc-nhành;

                        Lòng dục tu thì phải thiệt-hành,

                        Chớ đừng có tham điều sung-sướng.

H. – Thế nào là Đạo-đề?

Đ. – Thể theo ý Đức Huỳnh Giáo-Chủ, Đạo-đề có nghĩa là khi tu-tập và diệt-trừ xong các điều hung-ác, mọi sự vọng-hoặc thì thân-tâm thanh-tịnh, tức là đạt đến mức sáng tỏ của Đạo, tức là hoàn-thành đạo Bát-chánh. Chừng đó sẽ thấu-triệt mọi lẽ nhiệm-mầu, các điều huyền-bí, tự-nhiên thoát vòng khổ-não, khỏi nẻo luân-hồi.

Về Đạo-đề. Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải:

                        Đức Phật-tổ nào đâu hẹp lượng,

                        Chịu nhọc-nhằn mới rõ Đạo-đề;

                        Thấy một đàng thẳng-bẳng mà mê,

                        Ôi! chừng đó mới là mầu-nhiệm.

Tóm lại, Tứ-diệu-đề là một phương-pháp toát-yếu để giúp người hiểu đường lối tu-tập, vừa diệt-trừ các ác-nghiệp, vừa hoàn-thành đạo Bát-chánh.

H. – Cứ theo chỗ hiểu biết của tôi, Tứ-diệu-đề của quí ông vừa giải không cùng một trình-tự như Tứ-diệu-đề của nhà Phật. Tại đâu có sự sai-biệt ấy?

Đ. – Mới nghe qua dường như Tứ-diệu-đề của Đức Huỳnh Giáo-Chủ có khác hơn Tứ diệu-đề của nhà Phật, nhưng xét ra thì cùng chung một mục-đích giải-thoát.

Theo Đức Huỳnh Giáo-Chủ.              Theo nhà phật

1o Tập-đề                                         1o Khổ-đề

2o Diệt-đề                                        2o Tập-đề

3o Khổ-đề                                        3o Diệt-đề

4o Đạo-đề                                        4Đạo-đề

Theo sự đối-chiếu này thì Tứ-diệu-đề của Đức Huỳnh Giáo-Chủ sắp theo trình-tự từ khi mới vào tu-tập cho đến diệt-trừ ác-nghiệp, nhẫn chịu khổ là đi đến chỗ thành Đạo; còn Tứ-diệu-để của Phật thì sắp theo trình-tự từ hiểu cái khổ hiện nay là do cái tập-nghiệp quá khứ gây ra, nên khi diệt xong cái tập-nghiệp đương-đời tức là đoạn cái nhân khổ vị-lai và đạt đến đạo-quả.

Phương-chi vào thời-kỳ chánh-pháp của Phật, người thiện-căn có nhiều nên cái trình-tự về Tứ-diệu-đề của Phật được thích-hợp cho sự tỏ-ngộ hơn. Đối lại thời-kỳ mạt-pháp này, chúng-sanh phần nhiều là hạ căn hạ trí, Đức Huỳnh Giáo-Chủ phải phương-tiện xếp-đặt cái trình-tự của Tứ-diệu-để cho dễ bề lãnh-hội ý-nghĩa.

Đại-để, giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ với chánh-pháp của Phật Thích-Ca, vì hoàn-cảnh xã-hội, vì căn-khí chúng-sanh, cái phương-tiện giáo-hóa có thay đổi chút ít, nhưng cứu-cánh vẫn cũng một mục-đích đưa chúng-sanh đến chỗ thành-đạo. Như thế đủ tỏ rằng tôn-yếu Phật-giáo Hòa-Hảo vẫn bắt nguồn trong giáo-pháp của Phật. Thế là giữa Kinh Luật của Phật với Sám-giảng của Đức Huỳnh Giáo-chủ, người xem càng không nên có ý câu-chấp. Để minh-chứng điều này, ngay như Đức Huỳnh Giáo-chủ đã từng biện-bạch:

                        Ta là kẻ vô-hình hữu ảnh,

                        Ần xác phàm gìn đạo Thích-Ca.

H. – Như thế là Phật-giáo Hòa-Hảo cùng một tôn-chỉ với Đạo Phật, nhưng Đức Huỳnh Giáo-Chủ xướng-xuất theo pháp-môn nào?

Đ. – Theo sự hiểu biết của chúng tôi, Ngài chủ-trương theo hai pháp-môn Thiền-tông và Tịnh-độ cùng đồng thực-hành một lượt.

H. – Pháp-môn Thiền-tông như thế nào?

Đ. – Thiền-tông là một tông do Phật Thích-Ca khai-thị, sau truyền lại cho ngài Ca-Diếp, nhẫn xuống đến Đức Huệ-Năng, kể có 33 vị tổ. Trong khoản thời-gian truyền kế, pháp-môn Thiền-tông rất thạnh-hành từ Ấn-độ qua Trung-quốc và các nước kế cận.

Tông này chủ yếu pháp vô-vi, chỉ thẳng vào chỗ kiến-tánh thành Phật, nghĩa là phải tự tu tự ngộ lấy bổn-tâm sẵn có thanh-tịnh quang-minh bất di bất dịch vĩnh-viễn trường-tồn của mình mà chứng đến quả chánh-đẳng chánh-giác, không thiên-chấp vào âm thinh sắc tướng. Song người tu pháp-môn này, muốn đạt đến cứu-cánh của đạo Bồ-đề, cần phải thiền-định, nhưng trước phải giữ giới, rồi nhân giới sanh định, do định mà phát huệ. Khi đã phát-huệ thì tâm tánh trở lại viên-minh thấy được bản-lai diện-mục. Chừng ấy thoát khỏi màn vô-minh che mờ căn-trí, tự thấy biết không lầm, hành-động đúng theo chơn-lý, tức nhiên là không còn mắc trong nẻo luân-hồi đọa-lạc nữa. Nhờ pháp-môn này mà chúng-sanh từ chánh-pháp trở lại đây, tỏ ngộ rất nhiều.

Mặc dầu vào đời mạt-pháp. Thiền-tông đại-cương vẫn còn được thích-ứng. Và đáng được thích-ứng hơn nữa là vào thời mạt-pháp này, phái ngụy truyền của Thần-Tú thạnh-hành làm cho chánh-pháp suy-vi vì mãi nghiêng theo lối huyễn-hoặc của âm thinh sắc tướng.

Vì thế mà Đức Phật-Tổ lịnh cho Đức Huỳnh Giáo-Chủ lâm-phàm đem chánh-pháp vô-vi của Ngài mà phá tan màn hắc-ám của số người mê-tín theo tà-thuyết có cơ thức tỉnh quay về con đường chánh-giác, trước là thoát khỏi tai hại của Ma-vương, sau là dọn sạch thân tâm hầu đến khi Đức Di-Lặc ra đời dưới cội Long-Hoa, nhờ phước duyên được tồn-tại mà dự vào các cuộc giáo-độ của Đức Từ-Thị.

Để chứng tỏ Đức Huỳnh Giáo-Chủ duy-trì thiền-pháp vô-vi của Phật, Ngài đã kêu gọi sư-vãi hãy mau trở lại chánh-pháp tu-hành mới thấy rõ chỗ diệu-huyền của đạo Phật và sẽ cứu mình khỏi lạc bước chỗ mê-si, như đoạn giảng dưới đây:

                        Khuyên sư vãi mau mau cải-hối,

                        Làm vô-vi chánh-đạo mới mầu.

                        Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu,

                        Hãy tìm kiếm cái không mới có.

Vả lại muôn việc gì cũng do nơi tâm mà sanh ra cả, nhưng vì mê-si mà giữa Phật và chúng-sanh có chỗ sai-thù. Nếu sớm trở về với bản-giác của tự-tâm thì chúng-sanh với Phật đâu có chỗ khác biệt, như câu: mê là chúng-sanh, giác là Phật.

Như vậy thì bất tất phải tìm kiếm ở ngoại cảnh mà bỏ luống tâm Phật của mình, rốt lại không khác như bắt bóng trong gương, mò trăng đáy nước. Do đó Đức Huỳnh Giáo-Chủ mới đánh thức những người tu hãy nhìn vào tự-tâm mà tầm Phật:

                        Làm nhơn-ái ắt tiêu bịnh tật,

                        Vậy hãy mau tầm đạo Thích-Ca;

                        Phật tại tâm chớ có đâu xa,

                        Mà tìm kiếm ở trên non núi.

                        Chúng đục đẻo những cây với củi,

                        Đấp xi-măng sơn phết đặt tên;

                        Ngục A-tỳ dựa kế một bên,

                        Chờ những kẻ tu hành giả-dối.

Cứ theo câu: Phật tức tâm, tâm tức Phật thì tâm vốn sẵn có Phật song vì vọng tưởng vô-mình gây thành nghiệp-hoặc mà thành ra tối-tăm. Bây giờ ta cứ nhắm ngay cái tâm mà đánh dẹp tất cả hôn trầm si-hoặc cho đến khi không còn một niệm ác sanh-diệt nữa, tức nhiên bao nhiêu khung-cảnh sáng mầu đền hiện rõ nơi tâm ta. Chừng ấy những điều lỗi-lầm tà-khúc nơi ta đã hết. Thế là giữa ta cùng Phật đâu còn phải cách xa nhau nữa. Như Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã minh-huấn trong hai câu:

                            Tu rèn tâm trí cho minh,

                    Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau.

Trong khoản thời-gian tu-tấn hạnh-học lòng ta vẫn trơ cứng như đinh sắt, bể ái không xao, lửa phàm đã tắt, nghĩa là tâm ta được lặng lẽ, trong sạch, tức nhiên mảnh gương trí-tuệ từ từ soi tỏ. Lúc này không một hình-ảnh tối-đen nào đến ta được nữa, tức là trí-huệ của ta đã phát. Vì thế Đức Huỳnh Giáo-Chủ có chỉ phương-pháp:

                                Nếu ai mà biết chữ tu-trì,

                            Tâm bình-tịnh được thì phát-huệ.

Khi trí-huệ của ta đã phát, mọi kiến-hoặc tư-hoặc và các tướng nhơn ngã đều diệt hết, tức thì ta sẽ trực-kiến được bản tâm vốn rổng không vắng-lặng mà ở Thánh cũng không thêm, đến phàm cũng không bớt, lại qua trên dưới không còn vướng mắc một mảy chướng-ngại nào. Vì thế mà gọi chơn tâm là chơn-không bất biến. Đức Huỳnh Giáo-chủ biểu-thị cái ý đó trong hai câu:

                            Tìm-tõi đạo-mầu trong Phật-pháp,

                            Cho đời hiểu rõ lý chơn-không.

Cái tâm đã là chơn-không thì người tu-hành càng không nên thiên-chấp vào các pháp-tướng, vì tất cả cái có đều không có tự-tánh thường-tồn mà vẫn theo định-luật sanh diệt mãi mãi. Khi không còn bị các pháp-tướng câu-thúc, tức nhiên cái thiệt-tướng thường-tại của chơn-tâm mới hiện ra sừng-sựng. Chỗ này Đức Huỳnh Giáo-Chủ có chỉ giáo trong câu:

                        Vô pháp-tướng mới là thiệt-tướng

Kết-luận, pháp-môn Thiền-tông được Đức Huỳnh Giáo-Chủ xiển-minh một cách vi-diệu xác-đáng đúng theo chơn-ngôn của chư Tổ, song nó càng vi-diệu bao nhiêu lại càng khó thực-hành bấy nhiêu nhứt là đối với chúng-sanh vào thời mạt-pháp phần nhiều là bực hạ-căn thiểu-trí, sự nhận xét thiển-cận, tiềm-lực yếu-ớt thì không thể nào lãnh-hội nổi cái giáo-lý hoàn-toàn cứu-cánh ở tự-lực, nhưng tuyệt-nhiên chẳng phải là không dùng đến; nên chi Đức Huỳnh Giáo-Chủ, đồng-thời với pháp-môn Thiền-tông khai-thị pháp-môn Tịnh-độ là một pháp-môn hoàn-toàn nương cậy ở tha-lực trợ-trưởng bằng cách chúng-sanh tự tâm niệm sáu chữ Nam-mô A-Di-Đà Phật, một cách thiết-tha ai-khẩn. Tức nhiên với cái lực-cảm này sẽ được Đức-Phật thù-ứng lại một cách vi-diệu vừa được thân-tâm thanh-tịnh vừa được đạo-huệ hoác-khai và khi lâm-chung được Phật hiện-thân đến rước về cõi Cực-lạc, tùy theo công-phu hạnh-đức mà ban cho ngôi phẩm trong chín cấp sen vàng để hường-thọ bực bất-thối.

Với pháp-môn Tịnh-độ này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã cân-nhắc một cách rõ ràng và xứng hợp với căn-cơ trình-độ chúng-sanh hiện nay. Nên chi Ngài cả-quyết kêu chúng-sanh hãy nhứt-tâm phụng-hành:

                        Môn tịnh-độ là phương cứu-cánh,

                        Rán phụng-hành kẻo phụ Phật xưa;

                        Lòng từ-bi chẳng quản nắng mưa,

                        Xông thuyền-giác rước đưa sanh-chúng.

H. – Pháp-môn do ai khai-thị mà Đức Huỳnh Giáo-Chủ tán-dương?

Đ. – Cứ theo trong kinh-điển thì chính Đức Phật Thích-Ca giới-thiệu cõi Cực-lạc của Đức A-Di-Đà và cũng chính Ngài tán-dương công-đức vô-lượng-thọ và vô-lượng-quang của Đức Phật A-Di-Đà và nguyện-lực tiếp-dẫn của Ngài, nhân đó khai-thị pháp-môn Tịnh-độ.

Sau đó chừng bảy trăm năm, chính Đức Mã-minh Bồ-tát, Long-thọ Bồ-tát và Thế-thân Bồ-tát cực-lực khuyên người tu theo Tịnh-độ, cầu sanh về cõi Cực-lạc. Từ đó pháp-môn Tịnh-độ đã được lưu-hành khắp Á-châu, nhưng tùy theo sở-nhận của mỗi người mà tu lấy chớ không có tổ-chức thành hệ-thống. Mãi cho đến đời nhà Tấn bên Trung-hoa, có Ngài Huệ-Viễn Đại-sư đã thâm-ngộ pháp-môn Tịnh-độ mới đứng ra tập-hợp các đạo-sư lập-thành hội Liên-xã, số hội-viên đầu tiên được 123 người. Bắt đầu từ đó pháp-môn Tịnh-độ được thạnh-hành khắp dân-gian.

Sau khi Ngài Huệ-Viễn Đại-sư tịch thì có các Ngài Thiện-Đạo Đại-sư, Thừa-Viễn Đại-sư, Pháp-Chiếu Đại-sư, Thiếu-Khương Đại-sư, Diên-Thọ Đại-sư… nối nhau mà hưng-truyền pháp-môn Tịnh-độ, gây nên một phong-trào niệm Phật mạnh-mẽ. Đa số người tu hành, lúc lâm-chung đều có thoại-ứng được vãng sanh về Cực-lạc.

H. – Cõi Cực-lạc như thế nào?

Đ. – Cứ theo Kinh A-Di-Đà thì cách đây 10 muôn ức cõi Phật, thuộc về hướng Tây có một thế-giới tên là Cực-lạc, do công-đức của Đức Phật A-Di-Đà lập ra để tiếp-dẫn chúng-sanh đúng theo 48 lời thệ-nguyện của Ngài. Cõi này sở-dĩ có tên Cực-lạc là vì nơi đây hoàn-toàn an-vui hơn cõi Ta-bà đầy những thống-khổ.

Trong Kinh có thấy tả cõi Cực-lạc như vầy:

I. – Về phong-cảnh

a) Cảnh địa. – Cứ theo các Kinh Vô-lượng-thọ và Kinh Quán Vô-lượng-thọ thì toàn cõi Cực-lạc tự-nhiên có bảy báu như vàng bạc, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, mã-não, xích-châu hiệp thành làm đất, rộng lớn thênh-thang không có giới-hạn. Các món báu ấy thảy đều xen lộn nhau ánh ra rực-rỡ, đẹp-đẽ phi-thường, trang-nghiêm thanh-tịnh hơn cả thập phương thế-giới. Mặt đất thì bằng-phẳng, không có gò nổng, hầm hố, cũng không có biển sông khe rạch suối ngòi, song hễ muốn được thấy thì nhờ thần-lực của Phật giúp cho được ty; lại bốn mùa: xuân hạ thu đông, chẳng nồng chẳng rét, thường điều-hòa khí-hậu.

b) Ao báu. Trên mặt đất ấy có nhiều ao báu để tắm, bề rộng có cái từ mười do-tuần chí đến trăm ngàn do-tuần, sâu cạn đều như nhau. Hễ ao bằng vàng thì đáy bằng bạc, còn ao bằng bạc thì đáy bằng vàng, hễ ao bằng lưu-ly thì đáy bằng thủy-tinh, còn ao bằng thủy-tinh thì đáy bằng lưu-ly… Trên bờ ao thì có cây chiên-đàn, hoa lá phủ mát, xông nức mùi thơm. Trong ao thì luôn luôn đầy nước, thứ nước có tám công-đức:

        1o Trừng-thanh nghĩa là lặng trong khác với nước cõi Ta-bà vẩn-đục.

        2o Thanh-lãnh nghĩa là mát mẻ khác với nước quá nóng quá lạnh.

        3o Cam mỹ nghĩa là ngon-ngọt, khác với nước mặn quá, lạt quá.

        4o Khinh-nhuyễn nghĩa là nhẹ-nhàng, khác với nước nặng chìm.

        5o Nhuận-trạch nghĩa là trơn nhuận, khác với thứ nước trớt-át, thúi-hôi, phai màu, nhợt-nhạt.

        6o An-hòa nghĩa là êm dịu khác với nước chảy mau ồ-ạt.

        7o Trừ cơ khát nghĩa là trừ đói khát, khác với thứ nước uống vào sanh lạnh bụng.

        8o Trưởng dưỡng chư căn nghĩa là nuôi lớn các căn, khác với thứ nước làm hại các căn, làm chìm đắm…

Khi các Bồ-tát và Thinh-văn xuống tắm, nếu muốn nước ngập chơn tức thời nước lên ngập chơn, muốn nước đến gối tức thời nước lên gối, muốn lên tới lưng tới cổ… thì tức nhiên nước lên như ý muốn. Khi muốn nước xuống thì nước xuống liền. Nước ao tùy theo ý muốn mà ấm mát. Khi tắm xong, thân thể nhẹ-nhàng khoan-khoái, sáng-suốt tinh-thần.

Nước không bao giờ trụ, cứ chảy qua luôn, không mau không chậm, thanh-tao diễn ra các thứ tiếng pháp: Phật, pháp, tăng, tịch-tịnh, vô-thường, đại-bi, Ba-la-mật…

Trên mặt nước có các thứ hoa sen xanh đỏ, trắng, vàng, màu chen lộn nhau, sum-sê tốt đẹp, chói tỏa đầy ao. Mỗi khi tắm xong các vị Thượng-thiện ngồi trên mấy hoa sen báu đó mà tu-tập đạo-pháp.

c/Cây báu. – Trên mặt đất có bảy thứ cây báu: vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não, hoặc có hai ba thứ báu hòa lại lam thành một cây. Hoặc có cây vàng mà hoa lá bằng bạc, hoặc có cây bạc mà hoa lá bằng vàng, hoặc có cây lưu-ly mà hoa lá pha-lê hoặc có cây pha-lê mà hoa lá bằng lưu-ly… Mỗi hoa lá có màu báu lạ; trong màu lưu-ly nảy ra ánh sáng màu vàng, trong màu pha-lê nảy ra ánh sáng màu hường, trong màu xa-cừ nảy ra ánh-sáng màu xích-châu…

Bảy lớp lưới kết bằng diệu-chơn-châu giăng trên mỗi cây báu. Trong mỗi khoản lưới hiện ra trăm ức cung điện tốt đẹp như cung điện Phạm-vương. Trong cung diện tự-nhiên có các đồng-tử. Mỗi đồng-tử có đeo chuỗi ma-ni. Mỗi hột ma-ni chiếu rọi thấu cả trăm do-tuần, ánh-sáng chiếu ra như trăm ức mặt trời mặt-trăng.

Tất cả Phật-sự trong cõi Cực-lạc đều hiện bóng trong bóng cây mà cả mười phương thế-giới cũng hiện bóng trong cây như tấm gương phản-chiếu.

d) Lầu đài đường sá. – Chung quanh ao có đường sá và lầu đài làm toàn bằng bảy báu. Những lầu đài ấy có thứ ở nửa chừng trên hư-không, có thứ ở mặt đất, trang nghiêm tốt-đẹp. Chư Thượng-thiện tùy theo công-đức lớn nhỏ mà được an-trú nơi đó, song sự hưởng-thụ về ăn mặc vẫn được bình-đẳng.

Xung quanh cung điện có cả trăm thứ hoa báu, xông ra mùi hương ngào-ngạt và thường có gió nhẹ thổi vào khiến rung-động các nhành lá mà phát ra những tiếng âm-nhạc lẫn tiếng pháp: vô-thường, khổ không, vô ngã từ-bi, hỉ-xả, Bát-nhã Ba-la-mật… Người nghe đến trong lòng vui-vẻ mà khởi lên những tiếng niệm Phật.

e) Các loài chim. Cõi Cực-lạc có nhiều loại chim, như chim hạc trắng, con công, con két, chim xá-lỵ, chim ca-lăng tần-già, chim công-mạng, có những sắc lông đẹp-đẽ, ngày đêm sáu buổi hót lên những tiếng hòa nhã, diễn ra các pháp: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ-đề phân, bát chánh đạo và nhiều pháp vi-diệu khác nữa không kể xiết. Người nghe đến đều hoan-hỷ mà xưng niệm Phật, pháp, tăng.

Cứ theo lời phát-nguyện của Đức Phật A-Di-Đà thì cõi Cực-lạc của Ngài tuyệt-nhiên không có loài ác-đạo, thế mà sở-dĩ có loài chim là vì Ngài muốn cho tiếng pháp lưu-biến khắp nơi nên hóa-hiện để trợ-niệm.

II. Chúng-sanh.

a/Liên-hoa hóa sanh. Người sanh về cõi Cực-lạc không như ở cõi Ta-bà phải đầu thai vào thai mẹ chịu sự sanh đẽ ô-uế, chín tháng cưu mang ba năm bú mớm, mà lại thần-thức gá vào hoa sen nơi ao thất bảo. Khi hoa còn búp thì ở trong thai sen chờ ngày khai nở.

Trong thời-gian ở trong đó, thần-thức cũng được hưởng-thụ mọi cảnh-tượng an vui hơn các cõi Trời.

Thời-hạn khai nở của các hoa chậm mau có khác là do ở công-đức trí-tuệ dày mỏng sâu cạn mà có sự sai-biệt. Chính vì đó mà cõi Cực-lạc có cửu phẩm liên hoa: ba phẩm thượng, ba phẩm trung và ba phẩm hạ.

Ba phẩm thượng dành cho những người trước kia tu hạnh đại-thừa, phát Bồ-đề tâm, tỏ ngộ lý vô-sanh, tự-giác giác-tha, công-đức trí-huệ sâu rộng mà phát tâm hồi-hướng về cõi Cực-lạc. Những vị này khi về cõi Cực-lạc thì được hóa-sanh trong liên-hoa bằng chất kim-cương, hoặc khai nở liền, hoặc cách một ngày một đêm mới nở.

Ba phẩm trung là chỗ hóa-sanh của hạng người trai giới tinh-nghiêm, hiếu hạnh từ thiện mà quyết tâm cầu sanh về cõi Cực-lạc. Những vị này được thác sanh vào tòa liên-hoa bằng thất-bảo hoặc nở liền hoặc bảy ngày đêm, hoặc hai mươi mốt ngày, hay bốn mươi chín ngày.

Ba phẩm hạ là chỗ hóa-sanh của hạng người không biết tu-tập, không biết làm lành, cho đến những kẻ lúc sanh thời làm những việc hung ác mà khi lâm-chung trở lại ăn-năn tự hối, tha-thiết niệm lục tự Di-Đà cầu sanh về Cực-lạc. Liên tọa và thời-hạn hoa nở giống như ở phẩm trung.

a/An vui. Một khi hóa-sanh về cõi Cực-lạc thì không còn chịu mọi sự khổ như ở cõi Ta-bà và cũng không còn thối-chuyển trong các đường ác-đạo nữa mà vẫn một mực tinh-tấn mãi đến quả Phật.

Về tám điều khổ ở cõi Ta-bà, Đức Huỳnh Giáo-Chủ đã kể lược như sau đây:

Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo,
Khổ Ta-bà nhiếp lại tám phần.
Bởi chúng-sanh mang lấy xác thân,
Đoạn thứ nhứt sự sanh là gốc.
Vào bụng mẹ chung quanh bao bọc,
Có khác nào ở chốn ngục tù;
Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu,
Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.
Ta kể lên những điều bi-thống,
Mẹ no cơm chật chội khó-khăn;
Khi ra đời đau đớn vô ngằn,
Cất tiếng khóc nếm mùi dương-thế.
Đoạn lão khổ thứ nhì xin kể,
Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân;
Hết tráng cường đến lúc mòn thân,
Răng lần rụng lưng cong gối mỏi.
Nằm đi đứng đỡ nâng chống chõi,
Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng?
Đoạn thứ ba ma bịnh làm nhăn,
Đeo hành hạ xác-thân ô-uế.
Bởi thời-tiết chuyển xoay biến thể,
Thêm uống ăn chẳng được điều-hòa.
Là nguyên-nhân căn bịnh phát ra,
Thân trằn-trọc hôn mê nhức-nhối.
Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi,
Còn mang thêm tật nọ, tật kia;
Rồi từ đây đến lúc chia lìa,
Đoạn tử khổ thứ tư phân-giải.
Trên dương-thế hữu hình tắc hoại,
Có sanh ra khổ-hải đâu chừa;
Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
Ngày kiệt sức huyễn-thân tan-nát.
Gần hấp-hối tâm-thần xao-xát,
Trí vẩn-vơ kinh sợ vô-cùng.
Rồi mòn lần đến lúc lâm-chung,
Giã cõi tạm theo đường tội phước.
Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước,
Mà cũng không thoát luật tuần-huờn;
Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
Chẳng trốn lánh Tử-thần cho khỏi.
Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tõi,
Cầu chẳng thành những việc thích ham.
Người trên đời ai cũng lòng tham,
Muốn phước thọ phẩm hàm tiền của.
Nào vợ đẹp hầu xinh là-lụa,
Không được thì bực tức ưu-phiền.
Cả tâm thần điêu-đứng đảo điên,
Vậy có phải khổ hay là chẳng?
Đoạn thứ sáu biệt-ly cay đắng,
Người mình thương bỗng lại chia lìa;
Khi khóc than nước mắt đằm-đìa,
Lúc trông nhớ ruột tầm chua xót.
Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,
Nợ gia-đình đeo-đằm căn-duyên;
Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,
Kẻ lưu lạc người chờ trông mãi.
Cuộc tan-hiệp, hiệp tan ân-ái,
Đến xong đời để lại sầu ưu;
Cái khổ này dầu lắm trí mưu,
Cũng chung chịu như người tăm-tối.
Đoạn thứ bảy khổ oan tắng hội,
Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
Thường tranh đua tiếng thấp lời cao,
Chẳng nhẫn nhịn thành ra cứu oán.
Muốn tránh xa đừng trông tăm dạng,
Cứ gặp nhau mắt tợ kim châm;
Làm cho người đau-đớn âm-thầm;
Khổ như thế diễn ra mãi mãi.
Đoạn thứ tám ưu sầu lo ngại,
Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần.
Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,
Lo đau đói liệu cơn nhà rách.
Buồn duyên số phận mình nhơ sạch,
Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười;
Giàu thì lo chen lấn với người,
Liệu cho được đầy rương đầy tủ.
Của dương-thế góp tom bảo-thủ,
Sợ gian-phi trộm cướp rình mò;
Lo tước quyền cho được thơm-tho,
Sợ kẻ khó thiếu liền chẳng trả.
Ôi! Cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
Sao nhơn-sanh cứ mãi đắm say;
Chẳng tu thân đặng dựa Phật-đài,
Cho thong-thả hưởng mùi sen báu.

Tám điều khổ này khi được hóa-sanh về cõi Cực-lạc thì không còn nữa, đổi lại thành tám điều vui. Đức Huỳnh Giáo-Chủ có giải như vầy:

Thần-thức nhập thai-sen tinh hảo,
Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.
Thân thì thân công-đức hiền lành,
Bất di dịch khỏi vì lão khổ.
Thể thanh-tịnh thường không huyên-náo,
Hết lo toan nắng lạnh gió mưa;
Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,
Ta thoát cuộc lao-đao vì nó.
Đường sanh mạng Phật ta đồng thọ,
Tánh an-nhiên bất diệt trường tồn;
Tử-thần kia đâu dám dắt hồn,
Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử.
Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
Không nhọc-nhằn lo việc sanh-nhai.
Trí an nhàn nhìn cảnh Phật-đài,
Khỏi quả khổ mưu cầu bất đắc.
Cả hải-chúng thảy đều vững chắc,
Toàn dân lành đâu có đắn-đo;
Dứt ái ân quyến thuộc chuyện trò,
Lướt sóng khổ thương yêu ly biệt.
Chữ hòa thuận kể sao cho xiết,
Tâm đồng nhau thượng-thiện vui-vầy;
Cảnh như-như chẳng có đổi thay,
Không màng biết phân chia nhơn ngã.
Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
Khỏi khổ câu oán ghét gặp nhau.
Thân tâm thường trụ hết rạc-rào,
Chất thô-trược tiêu tan mất cả.
Cõi Tịnh-độ lắm điều thanh-nhã,
Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn;
Chốn Ta-bà tim lụng dầu mòn,
Thân từ-đại của người cũng thế.
Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta rán lo toan,
Gìn giới-luật nghe Kinh trọng Phật.
Đến lâm-chung quả lành không mất,
Cõi Tây-phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu thân thiện-tín hẫng-hờ,
Chừng họa đến e cho khó tránh.

Lại cõi Ta-bà có ngũ-trược mà không một chúng-sanh nào thoát khỏi cả. Về ngũ-trược, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có kể ra như vầy:

Biển hồng-trần lao-lý diệu-vơi,
Xô đẩy mãi trong vòng ngũ-trược.
Thân hôi-tanh muỗi ruồi đón rước,
Thêm nhọt u ghẻ lác phung cùi.
Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui,
Là kiếp-trược ta xin kể trước.
Dòm việc quấy lắm điều bạo ngược,
Mắt trông vào những chỗ đê-hèn;
Nào được xem cảnh báu đài sen,
Nghĩa Kiến-trược giải ra như vậy.
Trí vẩn-vơ tưởng đó nhớ đây,
Thiết mưu-kế toan bề thắng thối.
Gây thù oán chưởng điều đáp đối,
Nên ma phiền-não trược đắm say;
Chuyển luân trong nhơn-vật các loài,
Căn mờ ám làm điều dại-dột.
Chúng-sanh trược ta đà kể nốt,
Còn thứ năm là mạng-trược trung;
Số giàu sang họa phước bần cùng,
Giàu hoa nguyệt thung-dung cẩu-thả.
Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
Sang oai quyền hối-lộ gần xa;
Nghèo a-dua bợ-đỡ nịnh-tà,
Khó trộm cướp cùng điều nhơ xấu.

Một khi thác sanh về cõi Cực-Lạc thì ngũ-trược sẽ biến thành ngũ-thiện. Như.

        1o Kiếp-trược chuyển thành Thanh-tịnh hải-hội.

        2Kiến-trược chuyển thành Vô-lượng-quang,

        3o Phiền-não trược chuyển thành Thường-tịch-quang

        4o Chúng-sanh trược chuyển thành Liên-hoa hóa-thân,

        5o Mạng-trược chuyển thành Vô-lượng-thọ.

a)Đời sống. Ở cõi Cực-Lạc vô số cung điện làm toàn bằng bảy báu nhưng tự-nhiên mà có chớ không phải gia công xây cất. Đến như vấn-đề ăn uống may mặc cũng tự-nhiên mà có, không cần phải nhọc công lo-liệu.

Đến giờ ăn, hễ lòng muốn dùng món chi, tự-nhiên món ấy hiện ra trước mặt. Mâm bàn chén bát toàn bằng thất bảo. Đồ ăn đựng trong ấy thơm ngon lạ thường vừa theo lượng của người ăn, không dư không thiếu. Sau khi ăn xong thì mâm bát ấy tự-nhiên biến mất, rồi đến khi muốn ăn thì nó lại hiện ra. Đồ ăn sau khi vào mình, tự-nhiên tiêu-hóa và xông ra theo chơn lông, không có tiêu tiểu, không có trí-trệ mà trái lại thân tâm được sảng-khoái nhẹ-nhàng.

Đến việc may mặc thì quần áo cũng tự-nhiên hiện ra theo ý muốn, vừa với thân-thể không rộng không hẹp, muốn màu gì có màu nấy.

Đã khỏi lo ăn lo mặc, mà con người lại có dung mạo đoan-nghiêm, các căn tịch-tịnh, trí-huệ đầy-đủ, thêm có thần-thông. Bởi nhờ có thần-thông, nên chúng-sanh ở  cõi ấy mỗi buổi sáng thân hành khắp mười phương cúng-dường các Phật. Những món cúng-dường ấy tùy theo lòng muốn mà hiện ra nơi hư không rồi sa xuống trước Phật. Khi cúng-dường các Phật ở mười phương xong, trở về vẫn còn trước giờ ăn.

Sau bửa ăn, mỗi vị đi khắp cõi Cực-Lạc, người thì giảng pháp, kẻ thì niệm Phật rất thung-dung tự-tại. Do đó mà nhiều vị được chứng quả tùy theo công-đức của mình.

Ngoài các điều vui đẹp vừa kể trên, những người về cõi Cực-Lạc còn hưởng thêm mười điều báu quí hy-hữu:

        1o Thường được thấy Phật, gần Phật,

        2o Chư Đại Bồ-tát thường là bạn cùng chung hội-hiệp,

        3o Luôn luôn được nghe tiếng diễn pháp-mầu không luận chỗ nào, lúc nào, nếu muốn nghe,

        4o Thường được chư Phật hộ-niệm,

        5o Sống lâu vô-lượng kiếp đồng với Phật,

        6o Không còn lo bị đọa vào ác đạo,

        7o Vĩnh-viễn thoát khỏi luân-hồi,

        8o Thọ dụng tự-nhiên khỏi lo ăn lo mặc, bê-trễ công-phu hành-đạo.

        9o Được vào chánh-định,

        10o Hiện một đời là thành Phật.

III. Phật A-Di-Đà.

Sở-dĩ có cõi Cực-Lạc là do bản-nguyện của Đức Phật A-Di-Đà. Ngài là vị giáo-chủ cõi ấy. Ngài có danh-hiệu A-Di-Đà là vì Ngài có hào-quang sáng chói khắp cả mười phương không có vật chi chướng-ngại, và tuổi thọ vô cùng vô tận không thể kể xiết.

Thân tướng của Ngài, vàng chói rất đoan-nghiêm tốt đẹp có 32 tướng chánh và 80 tướng phụ, cao một trượng sáu thường đứng trên hoa sen trắng. Giữa đôi chơn mày có lông trắng xoay bên hữu, thường phóng hào quang. Ngài thường hóa-hiện khắp nơi cứu-độ chúng-sanh.

Cứ theo lời Đức Phật Thích-Ca thì Ngài đang thuyết pháp ở cõi Cực-Lạc và luôn luôn có hai vị Quan-thế-âm Bồ-tát và Đại-thế-chí Bồ-tát theo trợ-pháp.

Thân tướng của hai Ngài cũng đoan-nghiêm trang chỉnh và có thần-thông quảng-đại, cứ mỗi bước đi đều có hoa sen kim-cương đỡ gót.

Đức Quan-thế-âm thường dùng bàn tay báu của Ngài mà tiếp dẫn chúng-sanh về nước Cực-Lạc. Ngài sở dĩ có danh-hiệu Quan-thế-âm là vì Ngài thường nghe rõ tiếng kêu cầu của các loài trong mười phương mà thân đến cứu khổ cứu nạn.

Đức Đại-thế-chí thường dùng ánh sáng trí-huệ chiếu khắp mọi loài làm cho chúng-sanh thoát khỏi tam-đồ mà thành vô-thượng-lực. Vì thế mà Ngài có danh là Đại-thế-chí.

Ở cõi Cực-Lạc còn có vô số vô biên hàng Bồ-tát và A-la-hán.

Tóm lại, cõi Cực-Lạc do Đức Phật A-Di-Đà hóa hiện ra là một cõi an vui không thể kể xiết mà bất cứ người nào được vãng-sanh về đó cũng đều nhờ chí-tâm niệm danh hiệu của Ngài thì liền được Ngài dùng thần lực nhiếp-thủ. Như thế đủ thấy rằng oai lực của Ngài không thể nghĩ bàn được. Nên chi pháp-môn niệm Phật có thể nói là pháp-môn siêu-thắng hơn hết và dễ tu hơn hết vì mọi người bất luận trí ngu phàm Thánh, tùy theo hoàn-cảnh xuất-gia hay tại gia đều có thể tu chứng được tất cả.

Vĩnh-Minh Đại-Sư cho rằng: mười người tu đều được cả mười.

Tổ Thiện-Đạo cũng nhận: ngàn người tu không sót một.

Văn-Thù Bồ-tát cũng nói: các môn tu-hành không môn nào qua môn niệm Phật. Niệm Phật là vua các pháp-môn.

Huống chi trong kinh Đại-tập có nói rằng: vào thời mạt-pháp muôn ức người tu hành khó có một người được giải thoát. Chỉ nương theo pháp-môn niệm Phật mà được thoát khỏi luân-hồi.

Những lời của các Tổ và các kinh dẫn trên đầy đủ minh-chứng pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn tu chắc-chắn hơn hết. Hễ chí-tâm niệm Phật thì sớm muộn gì cũng được vãng-sanh. Nên chi trong Vô-lượng-thọ kinh có nói: người chí-tâm niệm một tiếng Phật được tiêu-diệt tám muôn ức kiếp tội trọng sanh-tử. Huống chi niệm nhiều thì sự thành-tựu lại càng mau chóng hơn nữa. Vì rằng pháp-môn niệm Phật có năm công-đức bất khả tư-nghị:

    1o Người niệm Phật có thể vượt tắt ra khỏi tam-giới, chẳng đợi phải đoạn-trừ hoặc-nghiệp.

    2o Hễ vãng-sanh về Cực-lạc là được quả bất-thối, chẳng nhọc vượt lên lần từ cõi một.

    3o Chỉ chuyên-trì niệm Phật cũng đủ vãng-sanh, chẳng cần đến các phép thiền-quán.

    4o Chỉ thuần niệm trong một tuần là có thể thành công, chẳng đợi tu nhiều kiếp.

    5o Chỉ trì niệm danh-hiệu của Phật A-Di-Đà là được các Phật hộ-niệm.

Thêm một bằng chứng nữa, ngay Đức Huỳnh Giáo-Chủ cũng nhìn-nhận sự lợi-ích của pháp niệm Phật. Ngài cho rằng niệm Phật là kết duyên-lành với Phật như câu:

                        Niệm Phật mà gây lấy thiện-duyên,

                        Cho đẹp mặt tổ-tiên nòi giống.

Chẳng những gây được thiện-duyên mà niệm Phật còn có công-năng trừ được các vọng-niệm. Đức Huỳnh Giáo-chủ có giải như vầy:

” Phương-pháp niệm Phật là để trừ các vọng-niệm của chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mê-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền-não ngăn che, chơn-tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành-tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chừng ấy vọng-niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình dục còn đâu mà nẩy sanh ra được.

” Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trước-nhiễm trần-ai “.

Về điều này, Ngài có minh-chứng trong câu:

                        Gìn giới cấm sửa tâm ô-tạp,

                        Niệm Phật thì để dẹp lòng tà.

Niệm Phật ngoài lợi-ích cho tự-tánh, còn cứu mình khỏi nguy-nan tai biến, như bài thơ dưới đây:

                        Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời,

                        Muốn khỏi hội này, trẻ ăn chơi.

                        Lục tự trì tâm là phương phép,

                        Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời.

Hay câu:

                        Chữ lục-tự trì tâm bất viễn,

                        Thì lâm nguy có kẻ cứu mình.

Chẳng những thoát khỏi tai nàn mà lại còn được sống coi Tiên Thánh:

                        Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,

                        Thì mới được sống coi Tiên Thánh.

Và còn gần được Tòa-chương:

                        Niệm Phật nào đợi mùi hương,

                        Miễn tâm thanh-tịnh Tòa-chương cùng gần.

Tuy nhiên, Đức Huỳnh Giáo-Chủ còn nhận rằng: Niệm Phật là để làm theo bốn đại-đức của Phật, như Ngài đã khuyên: chư Phật có bốn đại-đức. Vậy ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán làm theo bốn đại-đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đại-đức ấy là: Đại-từ, đại-bi, đại-hỉ, đại-xả.

Nhưng cứu-cánh của phép niệm Phật là cầu sanh về cõi Tịnh-độ. Thế cho nên người muốn về cõi Tịnh-độ được an-dưỡng mọi cảnh khoái-lạc trường-tồn thì chỉ có nhứt-tâm niệm Phật là phương-pháp vi-diệu hơn hết. Điều nầy Đức Huỳnh Giáo-chủ không ngớt kêu gọi chúng-sanh, như đoạn giảng dưới đây:

                        Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh-độ,

                        Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh.

                        Nếu như ai cố chí làm lành,

                        Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-quốc.

                        Cả vũ-trụ khắp cùng vạn-vật,

                        Dầu Tiên phàm, ma quỉ, súc-sanh;

                        Cứ nhứt tâm tín-nguyện phụng hành,

                        Được cứu-cánh về nơi an-dưỡng.

                        Chỉ một kiếp Tây-phương hồi-hướng,

                        Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi.

                        Xét cõi trần sóng khổ giạt trôi,

                        Vô-lượng thứ ở trong thế-giái.

Như thế đủ thấy rằng pháp-môn Tịnh-độ dễ tu hơn các pháp, vì là một pháp-môn tu-tắt, cũng gọi là pháp-môn “hoành siêu tam-giới”, như con mọt đục ngang cây tre, chỉ đục ngang qua là ra khỏi, không như các pháp-môn khác khó tu khó đắc mà người ta thường gọi là pháp-môn “thụ xuất tam-giới”, như con mọt phải đục từ mắt một của cây tre, cho đến tột ngọn mới ra khỏi. Có khi đuối sức phải chết ngột trong đó.

Để chứng chắc rằng pháp-môn Tịnh-độ rất dễ tu mau thành, không pháp nào bằng, Ngài Vĩnh-Minh Thiền-sư có làm bốn bài kệ rằng:

Có Thiền-tông, có Tịnh-độ,
Như thêm sừng cho mãnh-hổ,
Hiện-tại thì làm thầy người,
Vị-lai thì làm Phật-tổ.
٭ ٭ ٭
Có Thiền-tông, không Tịnh-độ,
Mười người tu, chín người đổ (rớt).
Am-cảnh nếu thấy hiện ra,
Chỉ chớp mắt là theo nó.
٭ ٭ ٭
Không Thiền-tông, có Tịnh-độ,
Vạn người tu, vạn người đỗ (đậu).
Đã được thấy A-Di-Đà,
Còn lo gì chẳng khai-ngộ.
٭ ٭ ٭
Không Thiền-tông, không Tịnh-độ,
Địa-ngục đêm ngày đau khổ.
Muôn đời ngàn kiếp còn lâu,
Nhờ cậy ai mà tế-độ.

Tóm lại, giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ gồm cả hai pháp-môn Thiền-tông và Tịnh-độ đồng-hành nghĩa là vừa tự-lực chừa các điều ác, làm hết các điều lành và vừa cầu tha-lực của Đức Phật A-Di-Đà tiếp-dẫn về cõi Tây-phương Cực-lạc. Đành rằng phải gồm tu cả hai pháp-môn Thiền-Tịnh, nhưng ở thời-kỳ mạt-pháp này, chúng-sanh căn-tánh thiển-bạc, tội-chướng dẫy-đầy, cũng như cục đá nặng nếu không nhờ thuyền đại-đức của Phật chở-chuyên thì khó mà qua đến bờ bên kia. Vì thế mà các vị tiên-đức cực-lực khuyến-khích chúng-sanh nên tấn-tu pháp-môn Tịnh-độ.

Đó là cả giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ.

H. – Cứ theo giáo-lý của Đức Huỳnh Giáo-Chủ mà quí ông vừa trình-bày thì đồng một giáo-pháp vô-vi của Phật Thích-Ca khuyên người không thiết đến việc cạnh-tranh, thế sao tôi lại thấy có tổ-chức quân-sự như vậy có sai-biệt với giáo-pháp của Đức Phật không?

Đ. – Về câu hỏi này, Đức Huỳnh Giáo-Chủ có lần đáp như vầy:

” Theo sự nhận xét của tôi về giáo-lý nhà Phật do nơi Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã khai-sáng lấy chủ-nghĩa từ-bi bác-ái đại-đồng đối với tất cả chúng-sanh làm nồng-cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách-mạng triệt-để về tư-tưởng vì những câu “ Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh ” và ” Phật cũng đồng nhứt thể bình-đẳng với chúng sanh “. Đã có những sự bình đẳng về thế-tánh như thế mà chúng-sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình-độ giác-ngộ của họ không đồng-đều, chớ không phải họ không tiến-hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn-gian này còn có chúng-sanh tiền-tiến áp bức những chúng-sanh lạc-hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo-lý chơn-chánh ấy. Giáo-lý đó Đức Thích-Ca-Mâu-Ni không áp-dụng được một cách thiết-thực trong đời của Ngài là do nơi hoàn-cảnh xã-hội của Ấn-độ xưa không thuận tiện. Thế nên Ngài chỉ phát-dương cái tinh-thần đó mà thôi. Ngày nay trình-độ tiến-hóa của nhân-loại đã tới một mực khả-quan, đồng-thời với tiến-hóa về khoa-học thì ta có thể thực-hành giáo-lý ấy về để thực-hiện một xã-hội công-bằng và nhân đạo. Thế nên với cái-tâm-hồn bác-ái từ-bi mà tôi đã hấp-thụ, tôi sẽ điều hòa với phương-pháp tổ-chức xã-hội mới để phụng-sự một cách thiết thực đồng-bào và nhơn-loại.”

Hơn nữa như chúng tôi đã trình-bày đại-khái giáo-lý của Ngài, chủ-yếu ở chỗ học Phật tu-nhơn lấy Tứ-ân làm căn-bản để thực-hành mỗi ngày. Phương-chi tín-đồ của Ngài hầu hết thuộc vào hạng tại-gia cư-sĩ nghĩa là sống gần với quốc-dân đồng-bào, đã từng thụ-ân rất nhiều của đất nước. Vì thế mà khi nước nhà gặp cơn nguy-biến, dĩ-nhiên là họ cảm thấy có bổn phận đem thân ra bảo-vệ. Do đó mà họ vẫn vui-vẻ góp công với đồng-bào họ trong công cuộc bảo-vệ quê-hương đất nước.

Phương-chi cái lý-tưởng đạo-đức mà họ đã lãnh-thụ nó đượm-nhuần đức-độ vị-tha bác-ái, thì đây là một cơ-hội cho họ thi-hành pháp-môn vô-úy thí là một việc cao quí nhứt, khó làm nhứt trong ba môn bố-thí, tài-thí, pháp-thí và vô-úy-thí.

Như thế thì không còn ai phải lấy làm lạ khi được nghe Đức Huỳnh Giáo-chủ tuyên-bố:

” Đối với toàn-thể tín-đồ Phật-giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ-tử trung-thành của Đức Phật Thích-Ca, tôi tin chắc rằng giáo-lý giải-thoát chúng-sanh chẳng những được truyền-bá ở thiền-lâm mà còn phải thực-hiện trên trường chánh-trị “.

Chương Thứ Ba: Nghi-Thức Hành-Đạo


Hỏi. – Rất hân-hạnh được quí ông kể cho nghe thân-thế và giáo-pháp của Đức Huỳnh Giáo-chủ, tôi nhận thấy rất chơn-chánh và đúng với giáo-lý của Phật. Như thế, quí ông cũng cần cho tôi biết luôn về nghi-thức hành-đạo như thế nào để tôi có qui-y theo.

Đáp. – Chúng tôi đã nói giáo-pháp của Ngài chú-trọng ở chỗ không hình sắc, cho nên cách qui-y rất đơn-giản. Phàm một người muốn vào đạo Phật-giáo Hòa-Hảo, trước hết phải trình với Cửu-huyền Thất-tổ và xin phép cha mẹ, như vợ thì có sự ưng thuận của chồng, rồi mới được làm phép qui-y Tam-bảo. Cách qui-y có nhiều trường-hợp: hoặc đến ngay Ngài mà thọ phép qui-y, hoặc ở nhà tự thượng trang rồi nhờ hai người có đạo đến chứng kiến, hoặc tự mình qui-y nếu trường-hợp không tiện bày bố nghi-thức.

H. – Cái trường-hợp tự qui-y như thế có được Ngài chứng không?

Đ. – Ngài vẫn chứng như thường. Như có một vài trường-hợp có những tín-đồ đã tự qui-y tại nhà, thế mà khi đến Ngài còn xin qui-y với Ngài nữa thì Ngài cho biết rằng: mặc dầu tự qui-y lấy nhưng Ngài đã biết rồi, khỏi cần phải qui-y nữa. Ngài còn cho biết không một tín-đồ nào đã qui-y mà Ngài không chứng.

H. – Cách qui-y như thế nào?

Đ. – Trước hết phải học cho thuộc bài qui-y và mấy bài-nguyện, rồi sau đó mới thượng ngôi Tam-bảo mà làm lễ qui-y.

H. – Có mấy bài nguyện và những bài nguyện ấy như thế nào?

Đ. – Bất cứ người tín-đồ nào cũng phải học bài dưng hương và bài bái tạ Cửu-huyền, bài qui-y Tam-bảo và bài Tây-phương ngũ-nguyện như dưới đây:

Bài nguyện trước bàn thờ Cửu-huyền

Bài dưng hương:
Cúi kính dưng hương trước Cửu-huyền,
Cầu trên Thất-tổ chứng lòng thiền.
Nay con tỉnh-ngộ qui-y Phật,
Chí dốc tu hiền tạo phước duyên.
Bài bái tạ Cửu-huyền:
Cúi đầu lạy tạ Tổ-tông,
Báo ơn sanh dưỡng dày công nhọc-nhằn.
Rày con xin giữ Đạo-hằng,
Tu cầu Tông-tổ siêu-thăng Phật-đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
Thoát nơi khổ-hải Liên-đài được lên.
Mong chờ đức cả bề trên,
Độ con yên-ổn vững bền cội tu.

Bài nguyện trước ngôi Tam-bảo

Bài qui-y

Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-ni Phật (niệm ba lần).

Nam-mô thập-phương Phật.

Nam-mô thập-phương Pháp,

Nam-mô thập-phương Tăng.

Nam-mô Phật-Tổ Phật-Thầy, Quan Thượng-đẳng Đại-thần, chư quan Cựu-thần, chư vị Sơn-thần, chư vị Năm-non Bảy-núi cảm-ứng chứng-minh, nay con cải-hối ăn-năn làm lành dữ, nguyện qui-y theo mấy Ngài tu-hiền theo Phật-đạo.

Bài Tây-phương ngũ-nguyện
Nam-mô Tây-phương Cựu-lạc thế-giới đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.
Nam-mô nhứt nguyện cầu: Thiên-hoàng, Địa-hoàng, Nhơn-hoàng, Liên-hoa hải-hội, thượng Phật từ-bi, Phật-vương độ-chúng thế-giới bình-yên.
Nam-mô nhị nguyện cầu: Cửu-huyền Thất-tổ Tịnh-độ siêu-sanh.
Nam-mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường tăng-long phước thọ, phụ-mẫu quá-khứ trực-vãng Tây-phương.
Nam-mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm bác-ái giải-thoát mê-ly.
Nam-mô ngũ nguyện cầu: Phật-tổ Phật-thầy từ-bi xả-tội đệ-tử tiêu tai tịnh sự trí-huệ thông-minh giai đắc Đạo quả.
Nam-mô A-Di-Đà Phật.
Nam-mô Đại-thế-chí Bồ tát.
Nam-mô Quan-thế-âm Bồ-tát.

H. – Cách thờ-phượng như thế nào?

Đ. – Trong nhà chỉ được thờ Cửu-huyền Thất-tổ và ngôi Tam-bảo, trước nhà thì dựng một bàn Thông-thiên.

H. – Ví như trong nhà đã có thờ những là: Cửu-thiên huyền-nữ, Quan-thánh đế-quân, Tư-mạng Táo-quân, Tài-thần v.v… thì phải làm sao? Có nên giữ lại không?

Đ. – Những bàn thờ ấy đều phải dẹp.

H. – Dẹp như thế có lỗi với Thánh-Thần không?

Đ. – Không lỗi, là vì trước khi dẹp nên thỉnh mấy Ngài qua ngôi Tam-bảo, nếu mấy Ngài chơn-chánh.

H. – Còn miễu Thổ-thần ở ranh đất có nên để không?

Đ. – Cũng không nên để.

H. – Thế thì trong nhà chỉ được thờ có ngôi Tam-bảo và bàn thờ Cửu-huyền Thất-tổ. Nhưng thờ thế nào mới đúng cách?

Đ. – Giản-tiện nhứt là thờ nhị cấp, nghĩa là cấp dưới thờ Cửu-huyền Thất-tổ, còn cấp trên thì thờ ngôi Tam-bảo, nhưng cả hai phải luôn luôn thờ ở căn giữa.

H. – Cách trần-thiết như thế nào?

Đ. – Trên bàn Cửu-huyền Thất-tổ, ngoài lư-hương phải có ba chung nước. Còn việc cúng-kiếng thì tùy-tiện có chi cúng nấy.

H. – Còn ngôi Tam-bảo thì thờ-phượng cách nào?

Đ. – Đức Thầy có giải rõ:

Từ trước đến nay, các chùa-chiền đã tạo quá nhiều hình tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng từ-bi mới làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi-dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm như thế chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của các chùa-chiền. Cách thờ-phượng ấy tùy theo điều kiện các sư mà chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa, nên thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào-nháng bề ngoài. Từ trước, chúng ta thờ trần Điều là di-tích của Đức Phật Thầy Tây-An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần Điều tự xưng cùng tông-phái với chúng ta làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong Đạo đổi lại làm màu Dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu Dà để biểu hiệu cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết-hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng-trưng cho sự hòa-hợp của nhân loại, không phân-biệt chủng-tộc và cá-nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần vô-thượng của nhà Phật…

Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu-biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu-biểu cho sự tinh-khiết, còn nhang dùng đặng bán mùi uế-trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác cả.

H. – Còn ngoài bàn Thông-thiên thờ cách nào?

Đ. – Bàn Thông-thiên cũng như bàn Phật ngoài lư-hương còn có ba chung nước và một hay ba chung bông.

H. – Bây giờ xin quí ông chỉ cách lễ-bái. Ở bàn nào đọc những bài nào và lễ bái ra làm sao?

Đ. – Trước hết thi lễ ở bàn Cửu-huyền Thất-tổ. Ở đây đọc bài “Dưng hương” và bài “Bái tạ Cửu huyền”, rồi lễ bốn lạy và xá ba xá. Tiếp đó thi lễ ngôi Tam-bảo và đọc bài “Qui-y”. Khi đọc xong, cắm hương rồi lạy bốn lạy và xá ba xá. Sau hết đọc bài “Tây-phương ngũ-nguyện” rồi cũng lạy bốn lạy và xá ba xá.

“Đảnh lễ bàn Phật xong, ra bàn Thông-thiên cầu-nguyện bốn hướng, lấy bàn Thông-thiên là hướng chánh, trước mặt, sau lưng, hai bên vai, xoay theo chiều bên trái.

“Hướng chánh bàn Thông-thiên có nguyện bài Qui y, còn ba hướng kia chỉ nguyện bài Ngũ-nguyện, khi nguyện xong, mỗi hướng lạy bốn lạy, trường-hợp không thể lạy được thì xá ba xá cũng được.

“Lạy đứng hoặc lạy quì cũng được tùy theo lúc yếu mạnh. (Đàn-ông lạy đứng, đàn bà lạy quì)”

H. – Cứ như tôi thấy thì ở nhà thiền, người ta lạy ba lạy và xá ba xá, còn anh em tín-đồ lại lạy bốn lạy và xá ba xá là có nghĩa làm sao?

Đ. – Theo chúng tôi hiểu: ở nhà thiền lạy ba lạy, đó là lạy tam-thế Phật: Đức A-Di-Đà, Đức Thích-Ca, Đức Di-Lặc. Còn chúng tôi lạy bốn lạy là lạy tứ-ân và xá ba xá là có nghĩa xá tam-thế Phật Tây-phương Cực-lạc: Đức A-Di-Đà, Đức Quan-thế âm và Đức Đại-thế-chí.

H. – Cứ theo tôi thấy thì anh em tín-đồ lạy lật ngửa bàn tay là có nghĩa gì?

Đ. – Đức Thầy có giải như vầy:

                                Bàn tay lật ngửa vậy mà,

                        Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái-sanh.

H. – Như quí ông đã nói: muốn vào Đạo phải làm lễ qui-y; vậy qui-y có nghĩa như thế nào?

Đ. – Ngoài nghi-thức qui-y như chúng tôi đã kể, qui-y còn có nghĩa như Đức Thầy đã giải:

Qui là về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn-mẫu.

Vậy qui-y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ-thiện cách nào ta phải từ-thiện theo cách nấy. Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Cần nhứt ở chỗ giữ giới-luật hằng ngày.

H. – Sau khi cúng lạy còn hành lễ gì nữa không?

Đ. – Trong quyển Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền có giải rằng:

Cúng xong muốn niệm Phật cũng được; ngồi bán già, thẳng lưng niệm:

Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật

Hay niệm: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu, đại-tứ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.

Niệm Phật tùy theo sức mình, lúc cầu-nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm và phải thành-tâm.

Nam-mô A-Di-Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm ngồi rán niệm chớ quên, không đợi gì thời-khắc.

H. – Thế nào gọi là ngồi bán-già và ý-nghĩa nó ra làm sao?

Đ. – Ngồi bán-già có hai cách:

Một là theo tướng ngồi Kiết-tường của Đức Phổ-Hiền Bồ-tát, để ngửa chơn trái gác lên bắp về chơn mặt.

Hai là theo tướng ngồi Hàng-ma của Đức Văn-thù Sư-lợi Bồ-tát, để ngửa chơn mặt gác lên bắp vế chơn trái.

Chúng tôi hầu hết ngồi theo tướng Hàng-ma, vì ngồi tướng này thì vừa bình-định cái tâm và vừa hàng phục chư ma.

H. – Như quí ông đã nói cần phải giữ giới-luật hằng ngày, vậy những giới-luật ấy như thế nào?

H. – Mỗi người tín-đồ vào Đạo đều phải giữ Tám điều răn cấm như sau đây:

Điều thứ nhứt. – Ta chẳng nên uống rượu, cờ-bạc, á-phiện, chơi-bời theo đàng-điếm, phải giữ cho tròn luân-lý tam-cang ngũ-thường.

Điều thứ nhì. – Ta chẳng nên lười-biếng, phải cần-kiệm, sốt-sắng lo làm ăn và tu hiền chơn-chất, chẳng nên gây-gổ lẫn nhau, hãy tha-thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.

Điều thứ ba. – Ta chẳng nên ăn xài, chưng dọn cho thái quá và lợi-dụng tiền tài mà đành quên nhơn-nghĩa và đạo-lý, đừng ích-kỷ và xu-phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.

Điều thứ tư. – Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền rủa, vì Thần Thánh không can-phạm đến ta.

Điều thứ năm. – Ta chẳng nên ăn thịt Trâu, Chó, Bò và không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối-lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng-kiếng mà làm cho biết bịnh là Tà-thần, nếu ta cúng-kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu-hại ta.

Điều thứ sáu. – Ta không nên đốt giấy-tiền vàng-bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm-vương không bao giờ ăn hối-lộ của ta mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng-phí ấy mà trợ-cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn-tật.

Điều thứ bảy. – Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo-đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phân-đoán việc ấy.

Điều thứ tám. – Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu-dắt lẫn nhau vào con đường đạo-đức; nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng, về nơi cõi Tây-phương an-dưỡng mà học Đạo cho hoàn-toàn đặng trở lại cứu với chúng-sanh.

H. – Ví như người đã lỡ ghiền rượu, á-phiện và cờ-bạc có được thâu-nhận vào Đạo không?

Đ. – Về những điều này Đức Thầy có dạy như vầy:

Uống rượu. – Phải cử tuyệt, nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia-rẽ với kẻ ngoại đạo. Nếu say-sưa sẽ phải tội-lỗi.

Thuốc phiện. – Phải cử tuyệt, không được hút một điếu nào hết. Những kẻ đã hút muốn vào Đạo phải bỏ hút rồi mới được nhìn-nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác mới có thể châm-chế đặng.

Cờ-bạc. – Phải cử tuyệt; những kẻ cờ-bạc muốn vào Đạo phải thệ-nguyện bỏ cờ-bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự này, chẳng có cuộc vui nào có thể châm-chế đặng.

Riêng về cờ-bạc Đức Thầy có thức-tỉnh một nữ tín-đồ như vầy:

                        Cuộc trần, ôi quá khổ!

                        Trường đỏ đen là chỗ nhuốt-nhơ.

                        Biết bao người vì nó phải bơ-vơ:

                        Sự-nghiệp hết, gia-đình tan-nát,

                        Sớm tỉnh-ngộ lên đường giải-thoát,

                        Lánh xa trường đổ-bác chớ chen chân.

                        Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,

                        Thân trí cực, nợ lần-khân chẳng dứt.

                        Chi cho bằng:

                                    Qui-y thì khá làm y,

                           Giữ lòng thanh-tịnh từ-bi giúp đời.

H. – Khi đã giữ giới, còn có cần phải ăn chay không?

Đ. – Cứ theo qui-tắc thì mỗi tháng có bốn ngày chay; ngày 14, 15, 29, và 30, tháng thiếu thì mồng một, như Ngài đã đề-cập trong Sám giảng:

                        Chay bốn bữa ấy là qui-tắc,

                        Của kẻ Khùng chỉ dắt chúng-sanh.

Ngoài ra ai muốn ăn 6 ngày, 10 ngày… thì tùy ý.

Hằng năm đến ba ngày xuân nhựt thì ngày 29, 30 và mồng một phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay nên cúng chay, qua đến ngày mồng hai có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng ba ra mắt không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng thôi.

Về tục cúng ra mắt mồng ba, Ngài có làm thi khuyên như vầy:

                        Chúc mừng năm mới buổi xuân qua,

                        Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà.

                        Tre nêu phơ-phất không còn thấy,

                        Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba.

H. – Tôi thấy anh em tín-đồ mỗi bữa ăn đều có vái với ý-nghĩa gì?

Đ. – Mỗi khi ăn cơm mấm muối chi cũng vậy, đều nguyện-vái Cửu-huyền Thất-tổ ông-bà, cha mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu thảo. Đến ngày đơm quảy có chi cúng nấy.

H. – Khi vào Đạo, việc tang ma có nghi-thức chi khác hơn ngoài đời không?

Đ. – Về điều này Ngài dạy rất kỹ:

Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang, chúng ta vẫn giữ theo cổ-tục, chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:

Bây giờ chúng ta đã qui-y đầu Phật, thì phải do sự thành-tâm cầu nguyện và đem sức khẩn vái của anh em trong Đạo cầu nguyện cho vong-linh người chết đặng siêu sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy-tiền vàng-bạc, xá-phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn-tiền vô-ích bởi vì ta nên nhận-định rằng xác thịt là hư-hoại thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín-đáo, đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu-sự do hồi còn sanh-tiền và do sự tu-hành, sự thành-tâm, cầu nguyện mà đạt được hiếu-thuận, nhân-nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa Trời cầu Phật rồi im lặng đi chôn…

Nên lưu-ý: Tang-gia đừng nên khóc-lóc để tỉnh-tâm cầu-nguyện cho người chết, vì sự khóc-lóc làm trở ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.

Về việc cúng-kiếng ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy, trong những ngày kỷ-niệm theo như tục-lệ. Còn về việc đãi-đằng hương-đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản-tiện, ít lảng phí cứ làm.

Về điều này, Ngài đã minh-lý trong một đoạn giảng như dưới đây:

Luận xem thế-sự thấp cao,
Khuyên dân hãy bớt làm màu hiếu-nhi.
Bỏ rớt rình-rang một khi,
Nếu cha mẹ chết làm y lời này.
Là lời truyền giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
Còn mình muốn đãi làng thôn,
Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.
Gẫm trong thế-sự nực cười,
Chẳng lo cải sửa cho người tâm ngay.
Mình làm chữ hiếu mới hay,
Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.
Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.
Mục-Liên cứu mẹ bằng nay,
Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ-bi.
Ai ai hãy rán mà suy,
Thương đời ta tỏ chuyện ni rõ-ràng.
Làm tuần mà rượu xình-xoàng,
Rồi thì chưởi lộn mà an nỗi gì?
Dương trần làm chuyện dị-kỳ,
Tạo nhiều cảnh giả chơn thì chẳng theo.
Của tiền chớ có bỏ theo,
Chết rồi tế-lễ bò heo làm gì?
Nếu ai biết chữ tu-trì,
Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
Không làm để ở lung-lăng,
Chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì
Ở cho biết nhượng biết tùy,
Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.

H. – Khi anh em đồng-đạo có việc tang-ma, tư-cách của một tín-đồ phải đối xử thế nào?

Đ. – Trong lúc người đồng-đạo có việc tang-ma bổn-phận của một tín-đồ là phải đến hộ-tang.

Ngoài việc giúp đỡ, người tín-đồ còn phải cầu-nguyện cho người chết.

Mỗi người đứng trước bàn Phật, niệm:

Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-ni Phật (ba lần).

Nam-mô A-Di-Đà Phật (ba lần)

Vái: Phật-Tổ Phật Thầy, nay mình thành-tâm cầu nguyện cho tên…(tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ-bi cứu-độ vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng-sanh miền Cực-lạc.

Trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám táng đi cũng vậy, nếu có tổ-chức sắp hàng chấp tay niệm:

Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới, tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhựt vạn, cửu thiên ngũ bá, đồng danh đồng hiệu, đại-từ đại-bi tiếp dẫn vong-linh A-Di-Đà Phật. Nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc: Tiếp dẫn Đạo-sư A-Di-Đà Phật.

H. – Về tang-ma giản-tiện như thế, còn về việc hôn-nhơn như thế nào?

Đ. – Với việc này, Ngài dạy rất đơn-giản, có tánh-cách đạo-đức-hóa, như dười đây:

Bổn-phận cha mẹ phải chọn-lựa đôi bạn cho con một cách xứng đáng, bằng sự quan-sát tường tận về đức-tánh đôi trai gái. Không nên ép-uổng con mình quá đáng, vì thế, làm cho khốn-khổ chúng nó về sau; nhưng cũng không nên để cho chúng quá tự-do mà sự thiếu kinh-nghiệm làm cho đời chúng phải hư-hỏng.

Nên bỏ tục-lệ thách-giá, đòi tiền và đòi lễ-vật. Thông gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẵng nên bày ra tiệc lễ linh-đình tốn-kém nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khó.

H. – Tôi thường thấy tín-đồ đạo này chống báng đạo khác, còn anh em tín-đồ Phật-giáo Hòa-Hảo có thái độ như thế nào?

Đ. – Với tôn-giáo khác, chúng tôi không dám biết, chớ anh em tín-đồ Phật-giáo Hòa-Hảo, Đức Thầy có dạy rành như sau đây:

Đối với những người theo các tôn-giáo khác, không nên động chạm tới cách-thức tu-hành của họ, phải kính trọng sự tự-do tín-ngưỡng của họ. Nhứt là không ỷ đông hiếp-đáp hoặc nói xấu người ta. Như họ có làm dữ với mình thì mình cũng chẳng được phép vì sự dữ của họ mà trả thù và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy, dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn nhịn họ.

Đối với nhân-sanh, bao giờ cũng phải hòa-hợp với họ và làm cho đôi đàng có thiện-cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần phải hết sức giúp đỡ họ.

H. – Còn đối với nhà sư thì sao?

Đ. – Đối với nhà sư, Đức Thầy lại dạy cho những đức-độ khiêm-cung từ-tốn hơn nữa:

Tất cả bổn đạo nên cung kính các Tăng-sư tu hành chân-chính. Nếu các ông có dạy điều chánh-lý phải nghe lời. Đối với những hạng tu-hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám…) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân-chính của đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp tục làm điều tà-mị, mình phải bài-trừ triệt-để và giảng-giải cho quần-chúng cùng những tín-đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.

H. – Còn đối với chùa-chiền?

Đ. – Đối với chùa chiền thì Ngài dạy tín-đồ phải đặt tinh-thần công-cộng vào việc tôn kính Đức Phật như:

Những ngày vía của Đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo hư-rách mình giúp đỡ được càng tốt. Có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều.

Khi đến chùa cũng phải tôn-trọng sự thờ-phượng trong chùa không nên hủy-báng.

H. – Khi mình vào đạo có còn quan-thiết đến việc học không, và có nên tiếp-tục cho con đến trường không?

Đ. – Với sự học, Ngài lại càng chú-thiết hơn nữa, nên chi Ngài hằng khuyên:

Sự học-hành không làm trở ngại cho đạo-đức. Trái lại, nhờ nó nên mình được rõ-ràng giáo-lý cao-siêu của tôn-giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc-lầm, bỏ các điều dị-đoan mê-tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ các điều huyễn-hoặc, không bàn-bạc những chuyện xa vời (như tiên-đoán thiên-cơ chẳng hạn…)

Vậy hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc-ngữ…) và hãy cho con cháu vào trường học-tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng-rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa-học không cản trở sự tu-hành và nó giúp cho mình nghiên-cứu Phật-đạo một cách rành-rẽ.

H. – Cách ăn ở của mỗi tín-đồ phải như thế nào mới thích-hợp?

Đ. – Về điều này, Ngài dạy rất kỹ, đúng với phương pháp vệ-sanh:

Kẻ tu-hành ăn uống phải có điều-độ. Tránh những món ngon song nấu toàn đồ độc cho cơ-thể ăn vào sanh bịnh.

Phải giữ gìn thân-thể sạch-sẽ và từ nhà cửa cho đến cho ăn, chỗ nằm, phải biết trọng vệ-sanh. Bỏ những thói quen ăn ở dơ-bẩn, vì xác-thịt dơ-dáy thì tinh-thần không thế nào mở mang được và vì Thần, Thánh chỉ gần những kẻ trong sạch, nên nếu ai muốn được tiếp-độ phải trong sạch vừa tinh-thần lẫn vật-chất.

H. – Tôi thường thấy người tu-hành chỉ chú vào tinh-thần nhiều hơn nên đối với vấn-đề thể-dục không quan-thiết. Vậy anh em tín-đồ có phải như thế không?

Đ. – Không! Đức Thầy chẳng những chú-thiết về mặt tinh-thần mà còn quan-tâm đến vấn-đề thể-dục nữa:

Người trong bổn-đạo nam nữ bất luận, phải giữ gìn thân-thể cho khỏe mạnh. Như thế, nên luyện tập những môn thể-dục nào hợp với sức khỏe nếu mình muốn. Bởi vì xác-thịt có khỏe mạnh, tinh-thần mới sáng suốt; như vậy mới có thể làm sự đạo-nghĩa một cách đắc-lực.

H. – Tóm lại, quí ông cho tôi biết khái-yếu về việc tu-hành thường ngày của một tín-đồ như thế nào?

Đ. – Theo sự hành-đạo từ lâu của anh em tín-đồ thì chúng tôi nhận thấy gồm có hai hạnh: tu và hành.

Tu có nghĩa là trau sửa. Nó thuộc về phần khắc-kỷ. Cho nên người tín-đồ cần phải có những đức-tánh cần-yếu như:

1o Hiếu-hạnh, là đối với cha mẹ, phải biết thương yêu phụng-dưỡng từ miếng ăn thức mặc, thuốc men… Khi cha mẹ dạy-bảo điều chơn-chánh thì vui-vẻ vâng-làm. Lúc nào cũng trọng thân-danh của cha mẹ. Khi cha mẹ có lầm lỗi phải lấy lời nhỏ nhẹ khuyên can. Đến khi cha mẹ quá vãng, thì thờ cúng trang-nghiêm cũng như khi còn sanh tiền.

2o Lễ-độ là đối xử có khuôn-phép, từ cách chào hỏi đến việc nói-năng đều bặt-thiệp dầu với người quen kẻ lạ cũng thế.

Sự lễ-độ này không những của kẻ dưới đối với người trên mà kẻ có địa-vị trên đối với người dưới cũng không thất lễ.

3o Khiêm-cung là đối với ai cũng biết kính nhường nhứt là người có tuổi-tác hơn mình. Dầu có tài trí hơn người cũng không lấy đó làm kiêu mà luôn luôn chỉ tỏ ra mình có kém khuyết. Sự thành-thật tốn nhượng ấy là biểu ý của người đạo-đức chớ không phải ở lòng giả-dối.

4o Thành-thật là bất luận việc nào dù trong gia-đình hay ngoài xã-hội cũng đều cư-xử chơn-chánh. Khi giúp đỡ người không có ý dối-mị, dầu rằng việc ấy không ai hay biết. Đến như kẻ khôn ngoan hay người ngu dốt, cũng lấy thật ý mà cư-xử như nhau.

5o Trung-tín là đối với kẻ trên mình hay người dưới mình, cũng lấy lòng ngay thẳng mà đối đãi. Trong lời nói hay việc làm cũng giữ không cho sai thất. Lúc nào cũng giữ thỉ-chung như nhứt.

Đó là về phần tu-kỷ. Còn về phần hành thì người tín-đồ phải giữ trung-đạo.

H. – Thế nào gọi là trung-đạo?

Đ. – Đức Thầy có giải rõ việc Trung-đạo như vầy:

Khi Đức Thích-Ca thành Phật thì Ngài nói pháp Tứ-đế mà độ đời trước hơn các pháp và chỉ con đường Trung-đạo cho người hành theo.

Đường Trung-đạo của Phật:

1o Không trưởng-dưỡng xác thịt quá ư sung-sướng như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung-sướng thái-quá thì sanh nhiều dục-vọng mê-đắm, làm cho trí đạo tối-tăm, không thể đạt huệ được.

2o Không nên hành xác hay ép xác thịt thái-quá như: phơi nắng, dầm sương, bỏ ăn bỏ ngủ, làm lụng quá sức-lực của mình, vì ép xác quá độ thì hay sanh bịnh hoạn nhiều, người mà đã mang bệnh tật rồi, tinh-thần kém-cỏi, nhọc mệt, trí hóa lu-lờ không đủ sức mà học đạo đặng.

Nên người biết đạo chẳng ép xác thái-quá mà cũng chẳng để nó sung-sướng quá-độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa với sức mình, gìn giữ sức khỏe mới mong học được đạo-pháp.

Vậy Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ-hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, cũng chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo trình-độ và lòng nhơn của mình.

Điều cần-yếu là phải:

Làm hết các việc từ thiện.
Tránh tất cả điều độc ác;
Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.

Trên đây Đức Thầy giải về sự, còn dưới đây Đức Thầy giải về lý.

Ta hãy đem đức-tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành-động y theo lời phán dạy của Phật.

Nếu ta cứ đem đức-tin thờ-phượng tôn-giáo bằng cách sai-lầm thì rất có hại cho đời mạng của ta. Như vậy chỉ tỏ ra một người rất mê-tín (mặc dầu đạo của ta thờ là một đạo rất chánh-đáng).

Vậy đồng thời với Đức-tin là Lòng-lành phải để cho nó đi cặp luôn luôn.

Có Đức-tin (tin về Thần-quyền) mà thiếu Lòng-lành thì rất dễ bị tà-thần cám dỗ, bọn tăng-đồ lợi-dưỡng gạt lường. Bởi những kẻ ấy thường bày ra cúng-kiếng để chuộc tội hoặc bắt buộc ta thờ kính một cách phiền-phức làm cho lòng u-tối của ta càng ngày càng u-tối thêm.

Còn có Lòng-lành mà thiếu Đức-tin vào công việc từ-thiện của mình thì Lòng-lành ấy thường hay thối-chuyển vậy.

Vậy đồng thời với Đức-tin là Lòng trí lành phải đi cặp luôn luôn.

Có Đức-tin và Lòng-lành rồi thì dùng trí-huệ mà bình-đoán cái đạo của ta đang học hay sẽ học một cách xác-thực, tìm hiểu cho rõ ràng cái mục-đích ấy, như thế mới mong thoát khỏi tà-kiến gạt-gẫm ta đem Đức-tin, Lòng-lành, cống-hiến vào chỗ thấp hèn hay một ông thầy mê dốt.

Người học đạo muốn mở-mang trí-huệ cần phải tìm phương-pháp diệt cái vô-minh (tối-tăm ngu-muội).

Muốn diệt cái vô-minh trước phải điêu-luyện khối tinh-thần cho mạnh-mẽ đặng tự lập con đường rõ-ràng duy nhứt của mối đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành-kiến cố-chấp, thói quen, sự chần-chờ lòng ham muốn, tánh kiêu-ngạo, tật đố, gièm-siểm, dua-nịnh, ích-kỷ, tư-tâm, sự gay-gổ, mê-đắm trong bể dục-tình và sự phiền-não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nếu bài-trừ được nó rồi trí-huệ tất mở-mang vậy.

Người có tâm nếu không tập suy gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường-gạt.

Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nêu trí và tâm người học đạo cần tìm cách làm cho nó được phát triển cả hai để lấy tâm làm chủ-trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ-trì. Được như thế chắc-chắn ta học Đạo mau thành-công đắc-quả.

Đừng thấy ai theo mối đạo nào đông-đảo rồi ta cũng vội vàng theo đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo-lý ấy như thế nào.

Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội-vã lập bàn thờ Phật mà chưa hiểu ông Phật thể nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ cho thiên hạ thấy rõ ta mê-tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô đạo nhắm đó mà bài bác, nhạo-chê hủy-báng và cũng rất uổng cho cái công-trình thành- kính lễ-bái của ta vậy.

Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ học đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy-gẫm phán-đoán kỹ-càng; chừng hiểu biết rõ ràng ta sẽ hành theo đạo ấy, thầy ấy. Chẳng được như vậy dầu mình theo Đạo rất chánh-đáng, ông thầy rất thông-minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả.

Sự đầu tiên của người hành đạo là cốt sửa những tư-tưởng, tìm cách đánh đổ tư-tưởng xấu-xa, đem thay vào những tư-tưởng ôn-hòa đạo-đức.

H. – Đức Thầy đã bảo tâm và trí cần phải phát-triển cả hai, quí ông có thể dùng một cái thí-dụ cụ-thể cho tôi dễ hiểu không?

Đ. – Trong kinh Phật có ví-dụ cái tâm và cái trí cũng như hai con bò kéo một cổ xe. Nếu một con đi mau hay một con đi chậm quá thì cổ xe ấy không thế nào tiến mau được. Nó phải chòng-chành, lại có khi ngã lật nữa. Tâm và trí cũng vậy. Nếu có tâm mà không trí hay có trí (trí tuệ) mà không tâm (tâm đạo) thì sự tiến-tu sẽ bị thiên-trệ.

Cho nên trong kinh Niết-bàn có nói rằng: “Định đa huệ thiểu bất ly vô-minh, định thiểu huệ đa tăng-trưởng tà-kiến; định huệ đảng cố, tức danh giải-thoát”. Nghĩa là: Định nhiều huệ ít thì chẳng khỏi nghiệp vô-minh, định ít huệ nhiều thì lại thêm sự tà-kiến; định và huệ cân nhau, mới đặng giải-thoát.

H. – Như quí ông đã kể thì pháp-môn hành-đạo này xem ra rất giản-dị, vậy mà có chứng-đắc gì không?

Đ. – Người chưa tu pháp-môn này thì cho rằng nó quá giản-dị mà nghi-ngờ nó không có kết-quả, nhưng với người đã đi sâu vào giáo-pháp hoặc đã có ý tìm hiểu thì không còn ngạc-nhiên mà thấy: với một pháp-môn dễ tu, thế mà đem lại những kết-quả ngoài sức tưởng-tượng, vì rằng đã có nhiều tín-đồ từ chỗ ít học hay là không học, chỉ nhờ tu pháp-môn này mà người thì phát huệ, kẻ lại được điễn-lành, làm thi, nói pháp, hốt thuốc trị bịnh một cách phi-thường mầu-nhiệm.

H. – Câu chuyện quí ông nói nghe sao dễ dàng quá. Tại sao một pháp-môn không trường-trai khổ-hạnh, ly gia cát ái, lại có những kết-quả chưa từng thấy. Điều này quí ông có thể giải cho tôi hiểu một cách xác-đáng nữa không?

Đ. – Câu hỏi của ông, trước kia đã có nhiều người đem hỏi Đức Thầy và được Ngài phá nghi bằng cái tỷ-dụ này:

Ông có lẽ đã hiểu tổ-chức hội-tề ở làng. Nếu người nào muốn vào ban hội-tề, trước phải làm chức nhỏ như phó xã, hương tuần v.v… rồi sau mới làm hương quản, hương bộ, hương hào… Nhưng muốn lên chức chủ cả cần phải làm một khóa xã. Thảng như chức cai-tổng có khuyết người thì những người đã có làm khóa xã mới được ứng-cử. Trái lại, người nào dầu lên chức chủ cả mà không có làm xã thì không bao giờ được quyền ra tranh cai-tổng.

Việc tu-hành cũng vậy. Nếu không có hành nhơn-đạo mà tự-dưng hành Tiên-đạo, Phật-đạo thì nợ tứ ân chưa trả làm sao mà thành chánh-quả.

Thế cho nên sách xưa có câu: Dục tu Tiên-đạo, tiên tu nhơn-đạo; nhơn-đạo bất tu, Tiên-đạo viễn hỹ. Nghĩa là: Muốn tu đạo Tiên, trước phải làm tròn đạo người; đạo người mà không tròn thì đạo Tiên không thể đến được.

Về ý-nghĩa này, Đức Thầy có tóm lược trong hai câu thơ:

                        Tu đền nợ thế cho rồi,

                Ngày sau mới được đứng ngồi tòa-sen.

H. – Quí ông có thể dẫn thêm một thí-dụ cụ-thể dễ hiểu nữa không?

Đ. – Có lẽ ông đã hiểu việc học và thi-cữ thời nay. Mới vào trường, trước hết phải học từ lớp chót rồi mỗi năm mỗi lên lớp cho đến lớp nhứt. Đó là bực sơ-học. Nhưng muốn lên bực-trung học để thi bằng thành-chung phải có cấp-bằng sơ-học. Và khi thi cấp-bằng tú-tài cũng phải có bằng thành-chung.

Như thế đủ thấy rằng từ bực này lên bực khác, học-sanh phải trải qua nhiều kỳ thi, và muốn thi cấp-bằng trên phải có cấp-bằng dưới.

Việc tu-hành cũng như việc học, vẫn phải từ chỗ thấp mà đến chỗ cao. Không có ai ngang nhiên bỏ việc tu nhơn-đạo mà thành được Phật-đạo.

Phương chi trong thời-kỳ Hạ-nguơn này, căn-tánh chúng sanh rất thiển-bạc, hầu hết đều nặng nghĩa nhơn-luân, dầu có đề-xướng cái pháp-môn tối tôn tối tuyệt mà không hợp với căn-cơ trình-độ của chúng-sanh thì cũng chỉ làm cho có chừng chớ không mấy người đạt được đạo-quả.

Chương Thứ Tư: Phần Giải-Thích

Hỏi. – Sau khi đọc Sám-giảng và giáo-lý của Đức Thầy, có nhiều câu tôi không hiểu hết ý-nghĩa, nhờ quí ông giảng-giải. Như hai câu:

                        Nên ít người khảo xét kệ kinh,

                        Được dắt chúng hữu-tình thoát khổ.

Thế nào là chúng hữu tình?

Đáp. – Trong vũ-trụ vạn-hữu có hai giới: vô-tình và hữu-tình.

Giới vô-tình gồm những loài không cựa động và hiểu biết, như loài kim thạch và cỏ cây.

Còn giới hữu-tình thì gồm những loài có mạng sống và tri-giác nhưng chưa thoát khổ sanh-tử luân-hồi, cho nên kẻ đã giác-ngộ và có bi-nguyện có bổn-phận tùy nghi hóa-độ giới ấy.

H. – Tại sao cho tôn-giáo là thuốc phiện? Và câu này của ai thốt ra?

                        Cổ tục nhà phỉ-báng khinh-khi,

                        Cho tôn giáo là mùi thuốc phiện.

Đ. – Những phần-tử vô-thần thường lên án cho rằng tôn-giáo làm mê-hoặc dân-chúng phải ghiền-gập cũng như thuốc phiện vậy, mà thuốc-phiện thì có tánh-chất làm tổn-hại sinh-mạng và tài-sản, làm lụn bại cả ý-chí tranh đấu.

Chính Mã-khắc-tư, tỵ-tổ chủ-nghĩa cộng-sản ngày nay đã cho rằng:”Tôn-giáo là thuốc phiện của dân-chúng.” (1)

______________________________

(1) La religion est l’opium du peuple

H. – Ý nghĩa của hai câu này ra sao?

                        Lấy sắc thân dẹp nỗi bất-bình.

                        Bỏ đức-tín của câu nhân-quả.

Đ. – Hai câu này có ý nói phái vô-thần thường hay chủ-trương dùng tài cán của bản thân để dẹp những nỗi bất bình-đẳng hoặc đem lại hạnh-phúc trong xã-hội, không màng đến luật nhân-quả báo-ứng của Phật Thánh đã thuyết.

H. – Cái luật ấy ra làm sao?

Đ. – Nhân-quả là luật phản ứng của hành-động, hễ gieo cái nhân nào thì gặt cái quả nấy, cũng như trồng dưa thì đặng dưa, trồng đậu thì đặng đậu. Kẻ làm ác dĩ nhiên phải chịu quả ác, còn người làm lành tất hưởng quả lành.

H. – Có những câu Thánh-ngôn nào minh-chứng luật ấy không?

Đ. – Ông Chơn-Võ có để lời dạy rằng:”Tạo tác thiện thiện ác ác, báo ứng như ảnh tùy hình; mạc đạo tạo ác bất báo, trực đãi ác quán mãn dinh; mạc đạo tu thiện vô ứng, trực đãi thiện quả viên thành”. Nghĩa là: Những sự làm lành làm dữ, việc báo ứng như bóng theo hình; đừng nói làm dữ không báo, vì còn đợi chuỗi ác cho đầy đủ mới thấy; đừng nói làm lành không ứng, chỉ còn chờ quả thiện cho tròn rồi mới hay.

Trong Nhân-quả-lục có nói: “Yếu tri tiên thế nhân, kim sanh thọ giả thị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị”. Nghĩa là: Muốn biết cái nhân thuở trước, hãy coi sự hưởng thọ của ta trong cõi này; còn muốn biết cái quả ngày sau, hãy coi chỗ sở hành của ta trong ngày nay.

Lại Từ-Thọ Thiền-sư có làm bài kệ rằng:

Thế thượng đa sát sanh,
Toại hữu đao binh kiếp.
Phụ mạng sát nhữ thân,
Khiếm tài phần nhữ trạch:
Ly tán nhữ thê tử,
Tằng phá tha sào huyệt,
Báo ứng các tương đương;
Tẩy nhĩ thính Phật thuyết.
Có nghĩa:
Trên đời lắm sát sanh,
Mới có cuộc đao binh.
Thiếu mạng bị người giết,
Thiếu tiền bị đốt nhà.
Vợ con mình ly tán,
Vì đã phá nhà người.
Vay trả vẫn tương đương;
Rửa tai nghe Phật thuyết.
Tế-Điên Hòa-thượng có răn đời rằng:
Khán tận Di-Đà Kinh,
Niệm triệt Đại-bi chú;
Chưởng qua huờn đắc qua,
Chưởng đậu huờn đắc đậu.
Kinh chú bổn từ-bi,
Oan kết như hà cứu?
Chiếu kiến bổn-lai tâm,
Tố giả huờn tha thọ;
Tự tác huờn tự thọ.
Nghĩa là:
Xem hết Kinh Di-Đà,
Chú Đại-bi tụng ráo;
Trồng dưa thì được dưa,
Tỉa đậu thì được đậu.
Kính chú vốn từ-bi,
Oan kết làm sao cứu?
Soi thấy tâm bổn-lai.
Người trả do người tạo;
Ta làm thì ta mang.
Không sai luật quả-báo.

Nói tóm lại nghiệp-báo có ba cách:

1o Hiện-báo là nghiệp mình tạo ra trong lúc hiện-thế thì hoặc trả ngay trước mắt, hay phải trả sau đó nhưng cũng trong kiếp này.

2Sanh-báo là nghiệp mình làm đời trước mà đời này thọ báo, hay là mình làm đời này mà đến đời sau mới thọ báo.

3o Hậu-báo là nghiệp mình làm đời này mà đến nhiều đời sau mới thọ báo. Trong Nhân-quả-lục có nói rằng: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong; nhân duyên hội ngộ thời, quả-báo huờn tự thọ.” Nghĩa là: Dầu trăm ngàn kiếp, cái nghiệp làm ra dễ mất đâu; đến lúc nhân-duyên vừa gặp nhau thì nghiệp nào vẫn theo quả nấy.

H. – Hai câu này, ý nghĩa ra làm sao?

                        Tằm sức nhỏ còn làm nên kén,

                        Người không tu có thẹn hay không?

Đ. – Đời thường nói: loài người linh hơn muôn vật, thế mà loài tằm là con vật nhỏ nhứt còn biết làm kén để bao bọc thân mà đáp ân cho chủ. Huống chi loài người chẳng biết tu thân lập mạng để trên đền ơn tổ-tiên cha mẹ, dưới gây lấy công-đức cho mình và cho kẻ khác. Nếu chẳng làm được như thế, thử hỏi có thẹn với loài vật nhỏ mọn kia không?

H. – Trong Khuyến-thiện, Đức Thầy có viết:

                        Pháp giáo chưa biệt lập tam-thừa,

                        Thuở trung-quốc nhà Châu Chiêu-đế.

Thế nào gọi là tam-thừa? Ý-nghĩa ra làm sao?

Đ. – Sở-dĩ trong đạo Phật có chia ra làm tam-thừa là vì sau khi Phật thành đạo, Ngài bèn đem kinh Đại-thừa Hoa-nghiêm ra thuyết trọn 21 ngày mà hàng Thinh-văn không lãnh-hội nổi, nên Phật mới quán xét căn-cơ các giới chúng-sanh không đồng nhau, bèn phương-tiện biện-thuyết tam-thừa: Đại-thừa, Trung-thừa và Hạ-thừa.

Đại-thừa để độ bực có đại-căn, đại-trí lên đến quả diệu-giác.

Trung-thừa để độ bực trung-căn, trung-khí chứng đến quả đẳng-giác.

Hạ-thừa để độ bực hạ-căn, hạ trí đến quả Thánh-đạo.

Cũng có thể quyền giải tam-thừa là ba xe: xe dê, xe nai và xe trâu.

Xe dê là ví Thinh-văn-thừa, vì Thinh-văn chỉ tự tu tự lợi, không phần hóa tha, cũng như xe dê chỉ chở được một người.

Xe nai là ví Duyên-giác-thừa, vì Duyên-giác chỉ có sức tự-giác và giác-tha nhưng vì yếm sanh chán khổ nên phần giác-tha không được vô-ngại quảng-đại, cũng như xe nai chỉ chở được một vài người.

Xe trâu là ví Bồ-tát thừa, vì Bồ-tát hay dùng nguyện từ-bi thật-hành lục-độ để cứu chúng-sanh vô biên mà không biết mỏi, cũng như xe trâu có sức mạnh chuyên chở được nhiều người.

Nói tóm lại nhờ Phật thuyết tam-thừa nên mới độ tất cả chúng-sanh ngu trí tuần-tự đến chỗ giải-thoát viên-mãn.

H. – Sao quả đất chúng ta lại gọi là cõi Ta-bà và vì đâu cõi Ta-bà lại cho rằng khổ? Như câu:

                        Ta-bà khổ! Ta-bà lắm khổ!

                        Có bao người xét cho tột chỗ?

Đ. – Ta-bà, tiếng Phạm là Saha, Tàu dịch là Kham-nhẫn, nghĩa là kham chịu những sự cực khổ.

Trong cõi Liên-hoa tạng trang nghiêm có 20 từng thế-giới, mỗi thế-giới là mỗi cõi Phật. Cõi Ta-bà của chúng ta ở đây thuộc về từng thứ 13, gồm có nhiều thế-giới nhỏ (Tam thiên Đại thiên thế-giới).

Sở-dĩ cõi Ta-bà là cõi khổ là vì nó có tám điều trọng khổ mà khắp cả chúng-sanh phải nhẫn chịu. Tám điều trong khổ là: sanh, lão, bịnh, tử, ái biệt ly, oan tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh.

H. – Có thể cho biết Đức Thầy dẫn hai câu trên của ai không?

Đ. – Đức Thầy dẫn theo cổ nhơn ở câu:” Ta-bà khổ! Ta-bà khổ! Ta-bà chi khổ, thùy năng sổ?” Nghĩa là: Ta-bà cõi khổ mà cái khổ ở cõi Ta-bà mấy ai kể xiết.

Ngài Trung-Phong tổ-sư vịn theo đó làm ra bài kệ:

                        Ta-bà khổ! Ta-bà khổ!

                        Cái khổ Ta-bà thiệt vô số!

                        Người đời lại lấy khổ làm vui,

                        Đành ở vào trong chịu cô lộ.

                        Trong đãy da thúi ló đầu ra;

                        Thêm bịnh vô-minh ngày một khó.

                        Ba tấc hơi kia thoạt mất rồi,

                        Làm đống tro tàn chôn dưới cỏ.

                        Năm đường quanh lộn mãi không thôi:

                        Cay đắng biết bao đời kiếp nọ,

                        Các người ơi!

                        Chi bằng sớm sớm niệm Di-Đà.

                        Bỏ phắt cái khổ Ta-bà đó!

H. – Còn sao gọi:

                        Tịnh-độ vui! Tịnh-độ nhàn vui!

                        Thế nào gọi là cõi Tịnh-độ?

Đ. – Tịnh-độ là tương-đối của uế-độ (tức là cõi Ta-bà). Cõi ấy do nguyện-lực và công-đức của Phật A-Di-Đà hóa-hiện để tiếp-dẫn những chúng-sanh thành-tâm niệm danh-hiệu của Ngài mà cầu sanh về Cực-lạc.

Sỡ-dĩ cõi ấy được gọi Cực-lạc (tột vui) là bởi ở đó không còn tám điều trọng khổ như đã nói ở phần giáo-lý.

H. – Có thể cho biết Đức-Thầy dẫn câu “Tịnh-độ vui! Tịnh-độ nhàn vui” của ai không?

Đ. – Đức Thầy cũng dẫn theo cổ-nhân ở câu: “Tịnh-độ lạc! Tịnh-độ lạc! Tịnh-độ chi lạc thùy năng giác?”. Nghĩa là: Tịnh-độ vui! Tịnh-độ vui! mà cái vui ở nơi Tịnh-độ có ai biết đặng?

Cũng chính Ngài Trung-Phong tổ-sư vịn theo đó mà làm ra bài kệ:

                        Tịnh-độ vui! Tịnh-độ vui!

                        Cái vui Tịnh-độ ai biết được!

                        Nhơn-dân quốc-độ thảy đều hơn,

                        Không lạnh, không nắng, không đường ác.

                        Trong thai sen ấy ló đầu ra,

                        Hằng nghe Phật-pháp và thiên-nhạc.

                        Mảy trần không dính đất lưu-ly,

                        Châu báu tạo thành tòa điện-các.

                        Đồ ăn, đồ mặc, tự-nhiên sanh,

                        Thọ mạng biết bao lường tính được.

                        Các người ơi!

                        Chi bằng sớm sớm niệm Di-Đà!

                        Tìm về cái cảnh Tịnh-độ lạc.

H. – Trong hai câu:

                        Dầu ở nơi cùng cốc lâm san,

                        Chẳng trốn tránh Tử-thần cho khỏi.

Sao lại khó trốn lánh Tử-thần? Có sự-tích nào nói về việc khó trốn lánh Tử-thần không?

Xưa có bốn anh em Phạm-chí đều có phép ngũ-thông. Một hôm bốn người đều biết độ bảy ngày nữa thì mạng chung, bèn cùng nhau toan tính. Anh em chúng ta đều có phép thần-thông tự-tại, há chẳng có phương-pháp chi trốn tránh Tử-thần sao?

Người anh nói rằng: Ta ẩn vào biển to, trên không ló đầu, dưới không đụng đất; như vậy thì Tử-thần còn biết ta đâu mà bắt.

Người em thứ hai tính: Ta chẻ núi Tu-di chun vào rồi khép lại thì Tử-thần còn biết ta đâu mà tầm.

Người em thứ ba định: Ta tàng hình vào hư-không, không để dấu-tích chi hết thì Tử-thần còn biết ta đâu mà theo.

Người em thứ tư nghĩ rằng: Bây giờ ta kiếm chợ đông mà lẫn lộn thì dầu cho Tử-thần có kiếm bắt cũng không ra.

Khi ấy, Phật dùng đạo-nhãn xem thấy bốn người ấy khi mãn kiếp cùng chết một lượt, không một người nào trốn tránh Tử-thần cả.

Phật bèn thuyết bài kệ rằng:

                Phi không, phi hải trung,

                Phi nhập sơn thạch gian;

                Vô hữu địa phương sở,

                Khả thoát bất thọ tử.

Nghĩa là:

                Chẳng không, chẳng biển cả,

                Chẳng vào trong núi đá,

                Không có miếng đất nào.

                Thoát được cái chết cả.

H. – Sao gọi thân con người là thân tứ đại, như câu:

                        Chốn Ta-bà tim lụn đèn mòn,

                        Thân tứ-đại của người cũng thể.

Đ. – Theo nhà Phật, thân con người do bốn chất: đất, nước, lửa, gió hợp thành. Như xương thịt thuộc về đất, máu mủ thuộc về nước, nhiệt-khí thuộc về lửa, hơi thở thuộc về gió.

Theo định-luật sanh trụ dị diệt, thân từ-đại cứ tuần tự hao mòn cho đến ngày phải tan rã; chừng đó bốn chất sẽ trả về cho đất, nước, lửa, gió.

H. – Nên cắt nghĩa hai câu này thế nào?

                        Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm,

                        Được tâm phát Bồ-đề vững chắc.

Và thế nào là phát Bồ-đề tâm?

Đ. – Bồ-đề nghĩa là giác. Phát Bồ-đề tâm là khởi lòng cầu đạo chơn-chánh mong đến quả chánh-giác một cách kiên-cố. Song kẻ phát tâm Bồ-đề trước phải khởi lòng đại-bi nghĩa là phải rộng lòng thương khắp cả chúng-sanh để phương-tiện giúp cho khỏi khổ được vui vừa vật-chất lẫn tinh-thần lần đến giải-thoát viên-mãn.

Bởi thế trong kinh Ưu-bà-tắc có câu:”Tâm đại-bi là nguyên-nhân phát-sanh tâm Bồ-đề.”

H.- Kẻ phát tâm Bồ đề hẳn đã có phần giác ngộ, thế sao Đức Thầy còn khuyên phải giữ tâm vững chắc?

Đ. – Sở-dĩ Đức Thầy khuyên như thế là vì, sau khi đã phát Bồ-đề tâm thì các ma-quân thường hay khuấy nhiễu làm cho giải-đãi lui sụt sự tu-hành, bằng cách bọn chúng xâm-nhập vào thân, hoặc gây tạo hoàn cảnh trái ngược để cám-dỗ vào đường tà, hoặc xúi-giục theo lẽ quấy như sắc-đẹp, tài lợi, danh vị… Tuy nhiên, xưa kia khi Đức Phật còn trụ thế, sau những thời thuyết-pháp nói đến chánh-pháp của Ngài vào thời mạt-pháp ít ai tín-phụng chắc-chắn và kẻ đã tín-phụng cũng hay bị các ma-vương ám-ảnh, thì liền có các Thiên-long hộ-pháp đứng lên thệ trước mặt Phật rằng: ” Nếu vào thời mạt-pháp có những chúng-sanh nào phát Bồ-đề tâm thì bọn tôi luôn luôn ủng-hộ không cho tà-quái nhiễu-hại cho đến khi chứng quả viên-mãn “.

Như thế đủ tin rằng: hễ người nào phát tâm Bồ-đề dĩ-nhiên được chư Thần gia-hộ. Nếu có sa-ngã chỉ vì mình không thành tâm, hoặc giải-đãi nên bị các nghiệp-lực nảy nở lôi cuốn.

H. – Thế nào gọi là thập tam ma, như câu:

                        Thập tam ma diệt bằng trí kiếm,

                        Dứt xong rồi vô sự thảnh thơi.

Vì đâu khi dứt nó rồi thì được thảnh thơi?

Đ. – Thập tam ma có nghĩa mười ba con ma, tức là thất-tình và lục-dục.

Thất-tình là mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn.

Lục-dục là sắc đẹp, danh vị, tài lợi, tư vị, hư vọng và tật-đố.

Đó là những mê-tình ẩn náu trong tánh từ lâu để xúi-giục thân, khẩu ý, gây tạo những tội lỗi không ngằn, làm cho chúng-sanh cứ mãi xoay lăn trong bánh xe dục-lạc sanh-tử rất thống-khổ. Nên chi hễ dứt được nó thì các sự khổ của nghiệp oan không còn đeo đẳng; nhân khổ đã sạch, tâm cơ được khai-phát an vui. Vì thế mới gọi là thảnh-thơi vô sự.

H. Trong câu: Nguyện cùng Phật dứt duyên trần-cấu.

Sao gọi là duyên trần-cấu?

Đ. – Trần-cấu là bụi-bặm, nhơ-nhớp tức là các thú-dục, tà-kiến phiền-não làm cho tâm trí bị mờ ám quay cuồn. Hễ dứt được duyên trần đừng để cấu-tạo, tức là dứt được mọi kiến-hoặc, tư hoặc (nghe thấy lầm lẫn).

Có như thế mới gội rửa được tâm trần ô nhiễm để đạt đến thanh tịnh giải-thoát.

H. – Nên hiểu nghĩa bốn chữ: từ bi hỉ xả như thế nào, như câu:

                        Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,

                        Xuống phước rộng từ bi hỉ xả.

Đ. – Từ bi hỉ xả là bốn đại-đức của Phật, Đức Thầy có giải như vầy:

1o Đức từ: Phật đối với chúng-sanh như mẹ với con lúc nào cũng lo-lắng đến, hết lòng dìu-dắt, dạy-dỗ không nỡ để chúng-sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não.

2o Đức bi: Nếu chúng-sanh nào dạy-dỗ chẳng nghe làm điều độc ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng.

3o Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn-cảnh trái-nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn bã.

4o Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế-gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền-trần, tha-thứ hết thảy những ai tối-tăm, lầm-lỗi, chẳng còn vướng-víu chi với cuộc lợi-danh, tài-sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.

H. – Việt-đàn nghĩa là gì? như câu:

                        Khuyên bá gia bá tánh việt-đàn,

                        Chớ sát hại mạng người như thế.

Đ. – Việt là chữ Hán nghĩa là vượt qua, còn chữ đàn là tiếng Tây-vức, Tàu dịch là bố-thí, những người hay làm việc bố-thí thì chắc-chắn vượt qua khỏi bể khổ, bần cùng nên gọi là việt-đàn.

H. – Màn vô-minh là màn gì: Như câu:

                        Màn vô-minh che mờ căn-trí,

                        Nên thường hay nhận ngụy làm chơn.

Đ. – Vô-minh nghĩa là mờ-ám. Bản-lai của chúng-sanh vốn chơn-như diệu-minh, chỉ vì bất giác khởi niệm vọng-tưởng chấp trước nên bị cái tập-nghiệp ngăn che thành ra tối-tăm mê-muội. Cũng như người ngó lâu vào khoản hư-không thường thấy hiện thành hoa đớm, càng nhìn lâu thì càng thấy nhiều và cứ tiếp nối như vậy luôn, làm cho người cứ ngỡ cho là thiệt rồi tin-tưởng và theo đuổi mãi. Vì thế mới nhận ngụy làm chân mà từ vô-thỉ dĩ lai cứ quay-quần trong biển mê cảnh-giả.

Nhưng một khi chợt tỉnh ra thì những hoa đớm ở khoản hư-không ấy sẽ tự mất đi, bởi tự nó vốn không, cũng như giả-thân này vốn không phải thiệt, chỉ do nhân-duyên đất nước lửa gió cấu-thành.

Chính vô-minh ấy là mối đầu của thập-nhị nhân-duyên để dẫn từ hành thức đến sanh-tử. Cho nên trong kinh Đại-thừa khởi tín-luận của Long-Thọ Bồ-tát có nói: “Tịnh-pháp danh vi chơn-như, nhứt thiết nhiễm-nhân danh vi vô-minh”. Nghĩa là: mọi pháp trong sạch thì gọi là chơn-như, còn mọi nhân nhiễm trược thì gọi là vô-minh.

H. – Thế nào gọi là huyễn thân? Như trong câu:

                        Lo huyễn-thân vật-chất kém hơn,

                        Ít tìm biết tinh-thần đạo-đức.

Đ. – Huyễn-thân là thân mộng-ảo không thiệt, vì nó là hiện thân của nghiệp-báo, cũng là dưới sự chi-phối của nhân-duyên biến hoại không thường, đổi thay chẳng ngớt, như mới thấy trẻ đó thì đến già rồi mất.

Vì thế mà có vị Bồ-tát nói rằng:”Thân người biến đổi từ sát-na cho đến khi tan-rã”.

Ông Duy-ma-cật có nói rằng: “Cái huyễn-thân này thật là vô thường, nó không có sức, không mạnh, không bền chắc, thật là vật mau hư hoại, thật không thể tin cậy. Nó là cái ổ chứa nhóm những thứ khổ não bịnh hoạn.”

H. – Và thế nào là lưới nghi? Như câu:

                        Dệt lưới nghi đeo điều phiền-phức,

                        Bịn-rịn đời khổ cực tang thương.

Đ. – Nghi có nghĩa là do-dự, trù-trừ, không quyết đoán. Nghi là một cái độn trong năm cái độn mà Phật thường nói.

Có hai hạng nghi: hạng không tu và hạng đã tu. Hạng không tu thì nghi rằng:

        1o Không có nhân-quả báo-ứng,

        2o Không có luân-hồi.

        3Không có cảnh-giới Phật,

        4o Sau khi chết là mất.

        5o Không có sự xem xét của Thần Thánh.

Vì thế mà hạng này chỉ biết vật-chất là trên hết trong kiếp sống, nên họ có thể làm tất cả những lợi lộc cho họ mặc dầu có hại cho kẻ khác. Và mỗi khi nghe đến thuyết nhân-quả báo-ứng thì họ công-kích bài-bác. Cho nên những kẻ đã quán-liễu đạo-đức dư biết việc làm của họ sẽ trả lại cho họ hoặc kiếp này hay kiếp tới những kết-quả quá thống-khổ mà rất thương-hại.

Còn hạng đã tu thì nghi rằng:

        1o Từ trước tới giờ mình đã tạo nhiều ác-nghiệp mà chỉ tu-hành trì-niệm trong một lúc e không được sự tiếp-dẫn của Phật.

        2o Những phiền-não, sân-hận, mê-si nơi mình chưa sạch, biết niệm Phật có được vãng-sanh về Cực-lạc chăng?

        3o Trong sự tu-hành niệm Phật của mình có được ảnh-hưởng đến sự cứu rỗi tổ-tiên cha mẹ chắc-chắn không?

        4o Sau khi mạng chung biết có được Đức Phật y nguyện mà đến tiếp rước thần-thức mình về Cực-lạc chăng?

        5o Công-phu tu-hành ngày nay biết được có sự hộ-trợ của các đấng thiêng-liêng giúp mình đến Hội Long-Hoa và Hội Long-hoa có hay chăng?

Bởi đó mà hạng này cứ mãi bịn-rịn theo đời, bẩn lấy những điều thô-trược của trần-lao mà phai dần đức tin Phật-pháp. Chung qui chỉ theo định-lệ: dinh như tiêu trưởng mà giam cầm trong vòng mê-muội sanh-tử.

H. – Trong Sám-giảng, Đức Thầy thường nói đến thuyền bát-nhã, như:

                        Phải xả thân tầm bát-nhã thoàn,

                        Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt.

Hoặc giả:

                        Ước sao mà thuận gió bướm trương,

                        Đò bát-nhã rước lôi lương đống.

Hay là:

                        Bể trần sóng cuộn lao-xao,

                        Xông thuyền bát-nhã lướt vào một phen.

Bát-nhã là gì? Và tại sao gọi là thuyền bát-nhã?

Đ. – Bát-nhã nghĩa là chơn trí-huệ. Người tỏ ngộ được sự lý bát-nhã hẳn không còn sự si-mê điên-đảo, trở lại được sáng tỏ cả thảy vũ-trụ vạn-hữu không còn một nhận-định mờ-ám của trần-duyên. Bởi thế nên đoạn diệt được cả tập-nghiệp vô-minh phiền-não thì không còn bị lôi cuốn vào nghiệp sanh-tử.

Sở-dĩ đem ví tánh bát-nhã là một chiếc thuyền, vì nó có mãnh-lực đưa chở chúng-sanh đến bờ giác-ngạn khỏi bể trầm-luân. Nó là một chiếc trong sáu chiếc đò (Lục độ) của hạnh Bồ-tát.

H. – Cũng như chữ bát-nhã, trong Sám-giãng cũng thường nói đến chữ ma-ha, như câu:

                        Vậy sớm mau kiếm chữ ma-ha,

                        Thì Phật cứu khỏi nơi khỏi lửa.

Hoặc giả:

                        Tính-ngộ từ đây người gặp chủ,

                        Phủi trần tìm kiếm chữ ma-ha.

Hay là:

                        Bại rồi thành lại nên tuồng,

                        Vạn dân hưởng được nước nguồn ma-ha.

Ý-nghĩa chữ ma-ha ra làm sao? Tại đâu phải tìm chữ ma-ha?

Đ. – Ma-ha tiếng Phạm có nghĩa là rộng lớn. Sự rộng lớn ấy như hư-không, không bờ bến. Nó vẫn rổng không sáng tỏ, đồng với bản-thể của đạo-tâm. Bởi thế khi nói kiếm chữ ha-ma có nghĩa là tầm đến Đại-đạo.

H. – Đức Thầy thường khuyên:

                        Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,

                        Thì mới được sống coi Tiên-Thánh.

Hoặc là:

                        Xưa nay sáu chữ lạnh tanh,

                        Chẳng ai chịu khó niệm rành thử coi.

Thế nào là niệm Phật rành và thế nào là không rành?

Đ. – Lâu nay người niệm Phật thì nhiều mà phần đông chỉ niệm cho lấy có, kể số nhiều chớ ít ai tâm khẩu cùng niệm. Trong lúc niệm, không được mấy kẻ thành lòng tha-thiết tưởng Đức Phật như con nhớ mẹ, như kẻ đắm thuyền kêu cứu và nhứt là không được thuần-thục trong chỗ niệm. Vì thế mà thiếu mãnh-lực cảm-ứng.

Cũng có kẻ chỉ được thành tâm trong chốc lát, ngoài ra vẫn xen-tạp những ý tưởng xằng-xiên tà- khúc và không tập-trung được sáu căn cùng trong chánh-niệm.

Như thế bảo sao rành được.

Thế thì có phương-pháp niệm Phật nào rành chăng?

U-Khê tổ-sư có chỉ phương-pháp niệm Phật tam-muội như vầy: “Niệm Phật tam-muội giả, niệm Phật nhơn, dĩ tâm duyên Phật, dĩ Phật hệ tâm, tâm tâm tương tục, vô hữu gián-đoạn. Nhĩ thời nội tâm bất khởi, ngoại cảnh vô xâm, triều nguơn tự qui, phản lưu toàn nhứt. Chính bất thọ chư thọ nhi đắc hồ chánh thọ, cố xưng niệm Phật tam-muội dã. ” Nghĩa là: Phương-pháp niệm Phật tam-muội (chánh định) là người niệm Phật lấy tâm duyên Phật, lấy Phật buộc tâm, niệm niệm nối liền, không hề gián-đoạn. Lúc ấy nội tâm không dấy khởi, ngoại cảnh không xâm vào, xoay vòng không hở, trước sau như một. Chính không thọ các cái thọ mà lại được chánh thọ. Thế nên gọi là niệm Phật tam-muội.

Tóm tắt trong chỗ niệm Phật có bốn điều phải được liên-lạc chặt-chẽ, không được sót một, mới có thực nghiệm:

        1o Tiếng niệm tự tâm mà tai vẫn nghe rõ-ràng như chuông đánh.

        2o Phải tập-trung tư-tưởng vào chỗ niệm như thật.

        3o Không để ý-tưởng nào khác xen-tạp.

        4o Phải được chí-thành chí-thiết tưởng như Phật ở trước mặt.

Nếu cứ được mãi mãi như thế thì hột sen ở ao thất bửu nơi cõi Cực-lạc làm sao lại không nảy nở tươi tốt để đón lấy thần-thức ngày thiện-chung.

H. – Thế nào là ngục A-tỳ? Ngục ấy ra làm sao như trong câu:

                        Ngục A-tỳ dựa kế một bên,

                        Chờ những kẻ tu-hành giả dối.

Đ. – Ngục A-tỳ cũng gọi là A-tỳ-chỉ, Tàu dịch là ngục Vô-gián, nghĩa là chịu khổ không phút nào yên. Những người làm ác, sau lúc mạng chung, thần-thức bị đọa vào ngục ấy chịu khổ luôn luôn không hề dứt.

Trong kinh Địa-Tạng có giải về ngục A-tỳ như vầy:

Ngục Vô-gián là một cái thành bao xung quanh rộng hơn tám muôn dặm, làm toàn bằng sắt, cao một muôn dặm, trên thì lửa đốt cháy rực không phút nào tắt, trong thì các ngục khít nhau, danh hiệu có khác, chỉ có một cái ngục tên là Vô-gián.

Người đọa vào ngục này vì thọ năm nghiệp cảm:

Một là thọ tội luôn ngày luôn đêm trải vô số kiếp không có lúc nào ngớt, cho nên gọi là Vô-gián.

Hai là thân ở trong ngục một người cũng đầy mà nhiều người cũng đầy, cho nên gọi là Vô-gián.

Ba là những đồ để hành tội như chỉa ba, thiết bảng, chim sắt, rắn sắt, gấu sắt, chó sắt, lừa sắt, ngựa sắt, cối giã, cối xây, cưa đục, đồ bằm chặt, nước sôi, lưới sắt, dây sắt, đầu niền nịt da, thân xối sắt nóng, đói nuốt hoàn sắt, khát uống nước sắt, trải ngàn muôn số kiếp liên-miên chịu khổ không lúc nào hở, cho nên gọi là Vô-gián.

Bốn là chẳng luận trai gái, Mườn Mán, già trẻ sang hèn, Long thiên thần quỉ, tội nghiệp cảm đều phải đồng chịu, cho nên gọi là Vô-gián.

Năm là khi bị đọa vào ngục ấy thì từ lúc vào cho đến trăm ngàn kiếp số, cứ mỗi một ngày một đêm thì bị chết đi sống lại cả muôn lần, dầu muốn ngừng trong giây phút cũng không được, chỉ khi nào nghiệp mãn mới được thọ sanh, chịu khổ liên-miên như thế, cho nên gọi là Vô-gian.

H. – Mười ơn là những ơn gì, như tôi đọc trong câu:

                        Vẹn mười ơn mới đạo làm con,

                        Lúc sanh sống chớ nên phụ-bạc.

Đ. – Mười ơn của con phải chịu của cha mẹ là:

        1Lâm sản thọ khổ nghĩa là sanh đẻ chịu khổ,

        2o Hoài đảm thủ hộ nghĩa là bồng ẵm giữ gìn,

        3o Yến khổ thổ cam nghĩa là uống đắng nhổ ngọt,

        4o Hồi can tựu thấp nghĩa là nhường chỗ khô, nằm chỗ ướt,

        5o Sanh tử vong ưu nghĩa là khi sanh được con mừng mà quên lo rầu.

        6o Tẩy trạc bất tịnh nghĩa là rửa ráy mọi điều dơ bẩn,

        7o Nhủ bộ dưỡng dục nghĩa là bú mớm và nuôi nấng.

        8o Vị tạo ác nghiệp nghĩa là vì con mà nhiều khi cha mẹ làm điều chẳng lành.

        9o Viễn hành ức niệm nghĩa là đi xa thì nhớ tưởng.

        10o Cứu-cánh lân-mẫn nghĩa là người mẹ thương con không còn cái thương nào bằng.

H. – Mấy câu này nên hiểu thế nào?

                        Ai là người quân-tử tu-mi,

                        Phải sớm xử thân mình cho vẹn;

                        Chừng lập hội khỏi thùa khỏi thẹn,

                        Với Phật Tiên cũng chẳng xa chi.

Sao lại với Phật Tiên không xa?

Đ. – Ý Đức Thầy muốn nói kẻ tu-mi nam-tử về mặt xử thế phải vẹn lòng trung hiếu tiết nghĩa, về mặt tu thân khá trừ: sát, đạo, dâm, vọng, tửu thì ngày kia mới không thẹn với Tổ-tiên và Trời Phật trong ngày lập hội. Nếu làm được như thế thì đối lại với Tiên Phật cũng không xa khác, vì các Ngài xưa kia cũng nhờ làm xong những điều trên mà đắc quả.

H. – Nên hiểu thế nào hai câu giảng này:

                            Niệm Phật nào đợi mùi hương,

                        Miễn tâm thành kính Tòa-chương cũng gần.

Đ. – Niệm Phật cốt ở tấm lòng kính thành khẩn- thiết, dầu đến lúc đi đứng nằm ngồi cũng vẫn trì niệm không đợi giờ khắc hay hương hoa. Có thể trong sự niệm mới được thiết-tha liên-lạc không bị gián-đoạn đủ sức cảm-thông đến Tiên Phật. Nhờ đó mà các Ngài trợ lực cho mình không về được Cựu-Lạc cũng gần hầu Tòa-chương tức là ngai vị của Thánh-đế.

H. – Cầu Lam là cầu gì mà Đức Thầy cho biết phải nhờ nó để đi đến cảnh an vui, như câu:

                            Qua sông nhờ được cầu Lam,

                        Tu hành nào đợi chùa am làm gì.

Đ. – Cầu Lam là cái cầu đưa đến chỗ Tiên ở.

Tích xưa có kể rằng: Bùi-Hàng người đời Đường đi qua Lam-kiều vào quán uống nước gặp một nàng Tiên tên Vân-Anh đẹp ý muốn lấy vợ. Bà mẹ nàng ấy bảo nếu có cái chày ngọc đem lại kháp vừa cái cối ngọc thì gả cho. Bùi-Hàng trở về gặp Tiên cho chày ngọc nên lấy được Vân-Anh, rồi sau hai vợ chồng đều được thành Tiên cả.

Như thế đủ tỏ rằng gặp Tiên Phật chẳng lựa ở chùa am mà ở nơi quán xá đâu đâu cũng có thể gặp được. Như cổ-ngữ có câu: “Dâm phòng tửu xá vô phi đạo-tràng.” Nghĩa là: nơi nhà điếm quán rượu đâu chẳng là trường đạo. Vì thế mà Đức Thầy mới bảo không phải đợi vào chùa am mới tu được, chỉ yếu là ở phương-tiện chơn-chánh.

H. – Sao Tử-vi là sao gì? Và khi nó xuất-hiện có liên-quan gì đến thế-cuộc không? Như câu:

                            Trên trời xuất hiện Tử-vi,

                        Quang-minh sáng suốt vậy thì dân ôi!

Đ. – Tử-vi là một vì sao ít khi thấy mọc. Theo Tấn-thơ thì sao Tử-vi là ngôi sao của thiên-tử. Cho nên khi thấy nó xuất-hiện là điềm Thánh-vương ra đời, đem lại hạnh-phúc thạnh-trị cho dân-tộc. Thế thì con dân khi được thấy sao ấy ra đời hãy dọn mình mà đón sự giáng-lâm của Thánh-chúa bằng cách tu thân xử kỷ lập đức bồi công mới hưởng-ứng được.

H. – Trong câu:

                            Người tu như thể bá-tòng,

                        Ai ai cũng mến cũng trông cũng nhìn.

Sao lại sánh người tu như bá-tòng. Cây ấy có gì đáng mến đáng yêu mà phải sánh như vậy?

Đ. – Sở-dĩ bá-tòng được người đời mến trọng vì nó có bản sắc xanh-biếc cả bốn mùa; nhứt là mùa đông, mọi cây đều tàn cỗi mà riêng nó vẫn được sởn-sơ. Vì thế sách Ích-trí đem người quân-tử ví với bá tòng, như câu: “Bạch ngọc di ư ô nê bất năng tham chấp kỳ sắc, quân tử xứ ư trược địa bất năng nhiễm loạn kỳ tâm. Cố tòng bá khả dĩ nại tuyết sương, minh trí khả dĩ thiệp gian nguy. ” Nghĩa là: ngọc trắng vùi nơi bùn lầy mà sắc nó chẳng hề lem ố, người quân-tử ở nơi ô trược không nhiễm loạn cái tâm. Cho nên loại tòng-bá có thể chịu đựng sương tuyết mà kẻ minh-trí cũng có thể vượt trên chỗ gian nguy.

Vì cái đặc-tánh không dời đổi của nó mà Đức Thầy đem người tu để ví với nó, bởi người tu lòng vẫn được liêm-khiết trung-hậu.

H. – Sự-tích về Mạnh-Tông khóc măng như thế nào mà Đức Thầy dẫn ra trong hai câu:

                        Mạnh-Tông xưa cũng khóc măng,

                        Đất khô nảy mụt rõ lòng hiếu-nhi.

Đ. – Trong Nhị-Thập-tứ hiếu có kể rằng: Đời Ngô có anh em Mạnh-Tông thờ mẹ chí hiếu. Một hôm người mẹ nhiễm bịnh ước có măng mà ăn ắt được hết bịnh, Mạnh-Tông nghe mới rảo khắp thôn kế cận tìm không ra, vì thuộc về mùa đông nên măng không mọc. Anh liền trở về ra sau vườn ngồi bên gốc tre mà khóc sướt-mướt. Anh nghĩ rằng nếu kiếm không được măng thì bịnh mẹ phải nguy nên anh cứ khóc mãi cho đến nước mắt ướt cả đất khiến cho măng liền mọc lên. Mới biết lòng hiếu cảm-động đến Trời đất mà ông Tăng-Tử có câu: “Hiếu từ giả bá tánh chi tiên. Hiếu chí ư thiên tắc phong võ thuận thời, hiếu chi ư đại tắt vạn vật hóa thạnh, hiếu chí ư nhơn tắc chúng phước lai trăn.” Nghĩa là: Việc hiếu từ là trên hết các hạnh. Hiếu tột đến Trời thì gió mưa hòa thuận, hiếu động đến đất thì muôn vật hóa thạnh, còn hiếu cảm đến người thì các phước đều đến.

H. – Hai câu này nên giải nghĩ làm sao?

                        Sách Thánh-đạo ghi trong Tam-tự,

                        Người mới sanh tánh thiện Trời dành.

Đ. – Sách Tam-tự-kinh có viết: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện; tánh tương cận, tập tương viễn; cẩu bất giáo, tánh nãi thiên.” Nghĩa là: Người buổi sơ sanh, tánh vốn lành: vì tập nhiễm mọi tánh nết chung quanh mà nếu thiếu giáo-dục thì tánh thiện ấy sẽ đổi dời theo thói xấu. Bởi thế kẻ tu-hành nên trở về với tánh lành nguyên-bản của mình.

H. – Trong Kinh Phật thường nói đến hai chữ chơn nhơn, nay đọc Sám-giảng cũng thấy Đức Thầy nói đến như trong câu:

                        Réo những ai lợi-dụng làm xằng,

                        Cho suy sụp chơn-nhơn mờ-mịt.

Vậy ý-nghĩa hai chữ chơn-nhơn ra làm sao?

Đ. – Chơn-nhơn là cái thiệt-thân của giả-thân. Hễ người tịnh-luyện chơn-chánh nó sẽ được xuất-hiện quang-diệu. Nhược bằng tu-hành giả dối lợi-dụng tiền tài và để tâm xao-xiến mãi thì các linh-khiếu đều bị ngăn che mờ ám làm cho nó phải lu-lờ suy-sụp.

H. – Trong hai câu:

                        Lũ tam-bành trong bụng còn đeo,

                        Đoàn lục-tặc ta mau sớm giết.

Thế nào là tam-bành và lục-tặc?

Đ. – Tam-bành là ba vị-thần: Bành-Cư ở đầu Bành-Chất ở bụng và Bành-Kiểu ở chơn, hay xui người làm quấy.

Còn lục-tặc là sáu con giặc trong người như; mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, sở-dĩ gọi nó là con giặc là bởi nó thúc-giục con người đắm nhiễm: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, thân sướng, ý dục.

H. – Tại đâu cái tâm lại ví như đài nguyệt-kiếng. Đài Nguyệt-kiếng là đài gì? Công-dụng của nó ra sao? Như trong mấy câu:

                        Tâm sáng suốt như đài nguyệt-kiếng,

                        Tánh trong như nước bích mùa xuân.

Hay là:

                        Ta chí dốc tầm đài nguyệt-kiếng,

                        Cho dương-trần soi chuyện sai lầm.

Đ. – Nơi cõi u-minh, tại điện thứ nhứt của Tần-quảng-vương có một cái đài treo một tấm kiếng hình mặt-nguyệt, gọi là Đài nguyệt-kiếng để dành soi ứng việc làm tội lỗi của các linh-hồn không chịu cung khai. Nó có cái công-năng diễn lại mọi hành-động tội ác của người như một cuốn phim chớp bóng chiếu trên màn ảnh,

H. – Nên hiểu hai câu này thế nào? Và ý-nghĩa Phật-tánh ra làm sao?

                        Lời thuyết-pháp chẳng vì nhơn ngã,

                        Người nào đâu có Phật-tánh là!

Đ. – Ý nói lời thuyết-pháp của Đức Thầy chẳng hề có lòng phân-biệt người và ta trong chỗ cao thấp trí ngu mà chỉ vì lòng từ-mẫn, lấy tư-cách của một người đã giác-ngộ có bổn-phận đánh thức kẻ còn mê-muội để sớm được tỉnh giác. Vì rằng sau khi Phật Thích-Ca thành đạo, Ngài tự quán xét cả thảy chúng-sanh đều có tánh Phật như Ngài, như kinh Hoa-Nghiêm đã nói: “Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật-tánh.” Nghĩa là tất cả chúng-sanh đều có tánh Phật như nhau cả. Song vì kẻ mê người giác sớm muộn chẳng đồng nên có sự sai-biệt. Nhược bằng ai cũng dứt mê về giác thì Phật- tánh rổng sáng như một.

H. – Trong Sấm-giảng, Đức Thầy có bảo:

                        Nhìn Phật-giáo mà tìm cái lý,

                        Coi tại sao ta phải tu hành?

Nên hiểu nghĩa hai câu này thế nào?

Đ. – Ý Đức Thầy bảo ta mỗi người hãy nhìn sâu vào Phật-pháp để tìm hiểu lý-do tại đâu ta phải tu và phải hiểu một cách rõ-ràng chắc-chắn rồi nhân đó tu-tiến. Vì như ta nhận thấy: sanh trong đời, ta nặng mang bốn điều trọng ân và tám điều thống-khổ lúc nào cũng bao bọc lấy ta, nên ta phải tu, trước để thoát khổ sau hầu đền đáp những ân mà ta đã mang nặng .

H. – Trong kinh Phật cũng như trong Sám-giảng thường nói đến Niết-bàn và cho Niết-bàn là nơi cứu-cách, như:

                        Cảnh Niết-bàn là nơi cứu-cánh,

                        Về chốn ni xa lánh hồng-trần.

Hay là:

                        Điên dẹp gát âm thinh sắc tướng,

                        Tìm vô-vi kiếm cảnh Niết-bàn.

Vậy Niết-bàn là cảnh gì?

Đ. – Niết-bàn là phiên-âm tiếng Phạm Nirvana, Tàu dịch là Diệt-độ, là một cõi hoàn-toàn tịch-tịnh an-nhiên không còn hoặc-nghiệp phiền-não sanh-tử luân-hồi; lại có nghĩa viên-tịch công-đức viên-mãn trùm khắp sa-trần gọi là viên trí-huệ cụ-túc dứt sạch nghiệp-chướng khổ lụy là tịch.

Cũng chỉ sự trở lại bản-tâm viên-tịch để thoát trầm-nịch khổ-hải.

H. – Linh-Thứu nghĩa là gì mà tôi thường thấy Đức Thầy hay nói đến, như câu:

                        Ta vì vưng sắc-lịnh Ngọc-tòa,

                        Đền Linh-Thứu sơn-trung chịu mạng.

Hay là:

                        Quyết đưa chúng về nơi non Nứu.

Sao chỗ viết là Thứu, có chỗ viết là Khứu hay Nứu. Như thế có khác nhau hay đồng một chữ?

Đ. – Linh-Thứu, tiếng Phạm là Gridhrakouta, Tàu phiên-âm là Kỳ-xà-quật, dịch là Thứu-lĩnh, một cái núi ở nước Ma-kiệt-đà thuộc về Trung-bộ xứ Ấn-độ, hình nó như con kên-kên (thứu điểu). Đức Phật Thích-Ca thường ngự tại đó cu-hội đại-chúng thuyết-pháp.

Có nơi đọc Khứu hay Nứu cũng một nghĩa, nhưng được thông-dụng là Thứu.

H. – Đoạn giảng này nên hiểu thế nào?

                        Thấy đạo-lý chớ nào thấy tánh,

                        Còn ở trong tim óc xác phàm.

Sao lại không thấy tánh mà chỉ thấy đạo-lý?

Đ. – Ý nói phần nhiều người tu học chỉ thấy giáo-lý của đạo chớ ít kẻ được thấy tự-tánh của mình, bởi nó tiềm-ẩn trong tim óc của con người; ít ra phải cần soi chiếu trở lại nơi tâm một cách rõ ràng vi-tế, không để bị một nhân-duyên tập-khí nào ám-ảnh và cứ được luôn lòng như thế mới hoát-nhiên trực-kiến bản-tánh. Chừng đó ta sẽ tự thấy viên-minh tự-tại vô-ngại, không còn bị trói-trăng câu-thúc trong lẽ hư-vọng vô-minh.

H. – Hai chữ sám-hối có nghĩa như thế nào, như Đức Thầy đã nói trong câu:

                        Cuộc sám-hối vô chùa thường thấy,

                        Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần.

Thế nào là sám-hối không gian lừa, còn thế nào là sám-hối gian lừa?

Đ. – Sám có nghĩa là ăn-năn những lỗi-lầm vừa qua, hối là nguyện chừa những lỗi-lầm sắp tới, nói rõ hơn, sám-hối là ăn-năn tự-hối việc làm tội-lỗi vừa qua và sẽ tới của mình không dám tái-phạm đến nữa.

Nhưng trái lại có nhiều người sau khi lỗi-lầm cũng đến trước bàn Phật để âm-thầm tỏ bày việc quấy của mình rồi đọc một vài thời Kinh và lạy lục. Sau khi đó họ vẫn tự cho rằng lỗi trước đã hết và vẫn tiếp-tục gây những tội khác nữa. Như thế là sám-hối gian lừa.

Cũng có hạng người đã biết mình làm việc sai phạm tội ác liền đến chùa am mướn người tụng Kinh sám-hối thế cho mình. Như vậy, cũng gọi là sám-hối gian lừa.

Ngoài ra có hạng người đã phạm lỗi mà không chịu ăn-năn thú tội thì cái lỗi ấy dầu muôn kiếp cũng không do đâu mà tiêu rỗi. Liên-Trì đại-sư có làm bài kệ chê hạng người không sám-hối như vầy:

                Hữu quá như bịnh nhơn,

                Cử quá như y vương.

                Úy bịnh nhi ố y.

                Thị danh đại ngu-si.

Nghĩa là:

                Có lỗi như người đau,

                Tỏ lỗi như gặp thuốc.

                Sợ bịnh mà kỵ thầy,

                Thiệt là đức ngu-ngốc.

Thể theo nhà Phật thì có ba phép sám-hối như sau:

1o Tác pháp sám là đến trước ngôi Tam-bảo tố-trần tội lỗi của mình rồi từ đó về sau những việc làm của thân, khẩu đều y theo qui-luật chơn-chánh mà thi-hành. Sám như thế là diệt-trừ những hành tướng tội phạm.

2o Thủ tướng sám là từ chỗ định tâm mà khởi ra cái tư-tưởng sám-hối những tội lỗi của vô-lượng kiếp quá khứ, hiện-tại và vị-lai của mình một cách chí thành, cứ tự-quyết cho đến khi nào cảm được cái thoại-tướng là Phật đến xoa đầu mình chẳng hạn. Sám-hối như thế là diệt-trừ được cái tánh tội phiền-não.

3o Vô danh sám là cứ ngồi ngay thẳng nhứt-tâm chánh-niệm để quan-sát cái nguyên-lý vô-sanh bất-diệt của tự-tánh. Sám như vậy là diệt-trừ cái vô-minh chướng-ngại.

H. – Trong Sám-giảng Đức Thầy có đoạn viết;

                        Nhớ thuở trước vua Lương Võ-Đế,

                        Lập chùa chiền khắp nước tu hành;

                        Đến chừng sau ngạ tử đài-thành,

                        Phật bất cứu vì tâm còn ác.

Theo sử sách thì vua Lương Võ-Đế là người sùng ngưỡng đạo Phật, lập trong nước có đến 72 cảnh chùa, cổ-võ việc tu-hành. Như thế thì vua Lương Võ-Đế có công với Phật-pháp, người dường ấy sao lại chết đói trên đài-thành?

Đ. – Sở-dĩ Vua Lương Võ-Đế thọ báo đói khát trên đài-thành là vì tiền-kiếp ông đã phạm một tội hãm-cơ cố-sát.

Xưa kia có một vị tiều-phu thường ngày lên non hái củi đổi gạo, trong lúc ấy có đem theo một gói cơm để sau khi đốn củi xong đặng lấy ra mà ăn. Nhưng đã luôn hai lần rồi, khi đốn củi xong trở lại vồ đá để gói cơm thì gói cơm đã mất. Ông phải chịu đói trở về. Đến ngày thứ ba, ông cũng gói cơm theo để tại vồ đá rồi giả vờ xách búa lên rừng, nhưng kỳ thật lần này ông quyết tâm rình núp gần đó để tìm cho biết nguyên nhân tại đâu gói cơm hai lần bị mất. Tiếp theo đó, ông thấy một con khỉ đột men đến ôm gói cơm của ông đi. Ông mới đứng phắt dậy rược theo tới hang đá thì con khỉ chun vào mà trốn. Ông liền lấy đá lấp miệng hang lại. Vì thế con khỉ chết đói trong hang ấy.

Bởi cái nghiệp đó mà kiếp sau khi ông làm vua Lương Võ-Đế thì con khỉ ấy cũng đầu thai làm quân-sư cho ông tên là Hầu-Kiển. Chừng khi Hầu-Kiển muốn tiếm vị, gạt ông lên đài-thành, cho quân vây bọc, bỏ ông cho đến chết đói.

Như thế sự chết đói của ông hẵn bị nghiệp ác của ông đã gây trong kiếp trước mà ra.

H. – Cứ theo sự-tích đã kể, ông LươngVõ-Đế đã gây một nghiệp ác, đáng lẽ ông phải chịu khổ sở, chớ sao ông lại được làm vua là do phước nào mà ra?

Đ. – Cũng trong kiếp tiều-phu ấy, nhân lúc ông đi đốn củi gặp một cốt Phật trơ-trọi ngoài trời nắng dãi mưa chan. Ông bèn động lòng ái-truất lột cái nón lá của ông đội lên cho cốt Phật. Nhờ cái công-đức cúng dường ấy mà kiếp sau ông được phước báo làm vua.

H. – Trong hai câu:

                        Tu biết cách như đươn biết đát,

                        Đươn đát rành thì dựa xe loan.

Thế nào gọi là đươn, thế nào gọi là đát? Và thế nào là tu biết cách cũng như đươn biết đát?

Đ. – Muốn làm nên cái thúng trước hết phải đươn. Khi đươn xong thì phải đát rồi mới lận thành cái thúng. Nếu chỉ học đươn mà không biết đát thì không thành cái thúng mà trở thành cái mê.

Đó là nói tuy qui-ngưỡng theo Phật nhưng còn tu tại gia thì trách-nhiệm đối với đồng-bào quốc-thủy nhứt là trong lúc nguy-biến ta cần phải gánh-vác công việc cứu giúp, vì đó là hai cái ân trong bốn điều ân của Phật của Thầy Tổ đã dạy mà ta phải toan lo đền trả. Như vậy gọi là đươn.

Trong lúc ấy ta tự thành-tâm tín-phụng giáo-điều của Phật bằng cách trau sửa tâm-thần, giồi mài đức-hạnh bên trong, cho đến khi nước nhà hoàn-toàn phục-hưng, chừng ấy ta sẽ tự tiện tiến đến mục-đích từ-bi đại-đông của Phật để thi-thiết đạo-đức trên khắp nhơn-loại chúng-sanh. Như thế gọi là đát.

Do đó việc làm của ta mới tuân tự theo từ nấc một của đạo nhân lần đến đạo Phật một cách chặt-chẽ, cũng như đươn mà biết đát, sẽ không bỏ dở công-trình thành một cái mê.

H. – Trong Sám-giảng có đoạn viết:

Sau Quỉ-vương đi đứng nửa lừng,
Thêm tên tuổi chúng-sanh nó biết;
Làm đủ cách xuống lên tha-thiết,
Ở ngoài đường nó biết tên mình.
Tin cùng không thì cũng mặc tình,
Chớ Ta lắm công-trình dạy-dỗ.
Hồi thuở trước Thích-Ca Phật-Tổ,
Ngồi tham-thiền bị nó phá hoài.
Mà cũng không rúng-động lòng Ngài,
Nên cố oán phá đời mãi mãi.

Vì đâu Quỉ-vương cứ theo phá đời mãi mãi. Nó có thệ-nguyện gì không?

Đ. – Thuở ấy Phật Thích-Ca ngồi tham-thiền dưới cội Bồ-đề có Ma-vương tên là Ba-Tuần ở trong rừng thấy chỗ Phật ngồi chói ánh hào-quang thì nó nghĩ thầm rằng: một khi Ngài chứng quả Như-lai đem chánh-pháp mầu-nhiệm truyền-bá trong dân-gian thì đạo của nó không còn ai theo nữa, nên chi đem cả quân-binh khí-giới, sắc đẹp đến khủng-bố và cám-dỗ Ngài, nhưng lòng Ngài vẫn thản-nhiên không hề lay chuyển. Vì sự căm-tức không phá được Phật nên Ma-vương mới đứng trước mặt Phật má thệ rằng: “Nếu kiếp này tôi không hại được Ngài thì đến đời mạt-pháp tôi sẽ hiện vào làm môn-nhơn đệ-tử của Ngài mà phá hoại đạo-pháp của Ngài cho được mới thôi.” Do đó mà ngày nay bọn nó cứ theo phá đời mãi mãi.

H. – Trong Sám-giảng có câu:

                        Thú vật biết tu-hành náo-nức,

                        Còn người sao chẳng rứt hồng-trần.

Có kinh nào minh-chứng rằng thú-vật biết tu-hành không?

Đ. – Về sự tích của loài vật biết tu-hành từ trước đến nay mà trong các kinh thường nói đến , không sao kể cho hết.

Đây chúng tôi xin lược kể một vài chuyện.

Trong Tây qui trực chỉ có kể lại rằng;

Đời Trinh-Nguơn nhà Đường có Bùi-thị ở đất Hà-đông nuôi một con két thường học theo người mà niệm Phật. Một bữa nọ quá ngọ mà nó chẳng ăn, lúc gần chết, nó niệm lên mười tiếng Phật thì dứt hơi. Người chủ đem xác nó ra thiêu thì được hơn mười hột ngọc xá-lợi chiếu lòa cả mắt. Ông tăng Huệ-Quan thấy vậy mới dựng tháp mà thờ.

Lại ở đất Đàm-châu có người nuôi một con cưởng thường niệm Phật. Khi nó chết, bỗng có một đóa sen từ trong miệng nó mọc ra.

Nhơn mấy câu chuyện thú-vật biết tu-hành. Ngài Liên-Trì Đại-sư có lời rằng: giống chim két chim cưởng người dạy nó còn biết niệm Phật, huống chi người lại không biết niệm Phật, há chẳng thẹn lắm ru!

Gần đây, trong chuyện Đức Phật-Thầy Tây- An, cũng thấy nói đến các môn-đệ của Ngài thường hay giáo-phục loài thú thứt là cọp mà người ta hằng gặp nó ẩn nơi hang vắng tu-hành, đổi lại tánh hiền lành không còn hại người lên non núi nữa.(1)

______________________________________

(1) xem Đức Phật-Thầy Tây-An

 

H. – Bồ-tát có nghĩa là gì? Như trong câu:

                        Say đạo huyền-vi nước tịnh-dương,

                        Say câu Bồ-tát rưới cho thường.

Đ. – Bồ-tát là do tiếng Bồ-đề tát-đỏa, phiên âm của tiếng Phạm Bodhisattva mà ra. Trong Đại-Luận giải rằng: Bồ-đề giác, tát-đỏa là hữu-hình, là nói trên thì dùng “trí” cầu đạo Bồ-đề dưới thì dùng “bi” cứu độ chúng hữu-tình nên gọi là Bồ-đề tát-đỏa.

Cũng có nghĩa Bồ-tát là phổ-tế, như câu: “Bồ giả phổ dã, tát giả tế dã. Cứu nhơn chi cấp, tế nhơn chi nguy nãi thị Bồ-tát.”

Bồ-tát có ba bực như sau đây:

1. Bực Bồ-tát phát-âm là hạng người mới phát-tâm tu theo hạnh Bồ-tát mong cầu thành Phật, quyết chí độ sanh khi chưa chứng quả như bực Bồ-tát song cũng đủ hạnh tự-lợi lợi-tha ở trên;

2. Bực Bồ-tát đã tu là hạng người đã chứng quả vị, từng hóa-độ vô-lượng chúng sanh, giới-hạnh cụ-túc, sẽ chứng thành chánh-giác;

3. Bực Bồ-tát ứng-hiện là do các Phật hóa-hiện hoặc các Đại-sĩ diệu-dụng ứng-hóa trong hàng chánh-sĩ để trợ-đương Phật-pháp tế-độ chúng-sanh.

H. – Cội thung nên hiểu như thế nào? Như câu;

                        Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng,

                        Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung…

Và cành huyên nên hiểu như thế nào? Như câu:

                        Tổ-đường còn một cành huyên,

                        Từ đường hôm sớm võ-vàng chờ trông.

Đ. – Tích xưa có người nhìn về phương Nam chỉ cây thung cho rằng cha mình ở đó, nhìn về phương Bắc chỉ cành huyên cho rằng mẹ mình ở đó. Như thế cây thung là ám-chỉ người cha, còn cành huyên là ám-chỉ người mẹ.

Cứ theo sách Trang-Tử thì cây thung là một thừ cây sống lâu 8.000 năm. Cho nên khi nói đến cội thung là mong cho cha được sống lâu.

Về cành huyên, trong Kinh-Thi có câu: Yêu đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối, nghĩa là: ước gì có cành huyên mà trồng ở thềm phía Bắc. Cành huyên có tánh làm giải-khuây lòng người, cho nên dùng chữ huyên để nói mẹ.

H. – Tại đâu cha làm mà con chịu, như câu:

                        Bây giờ tai ách còn vương,

                        Cha làm con chịu nhiều đường gai chông.

Đ. – Đức Thầy có nói: “Vì một cái chánh-sách sai-lầm của tiền-nhân” mà di-hại đến con cháu ngày nay. Nhưng cái tai-ách ấy hầu như đã mãn, như trong một bài thơ tứ-tuyệt của Đức Thầy đã cho biết:

                        Nợ nần tiên-tổ tạo gây nên,

                        Con cháu ngày nay phải báo đền.

                        Đành thế, nhưng vừa lời với vốn,

                        Lẽ gì chịu dại trả ngông-nghênh.

H. – Trong hai câu:

                        Làng gần chí những tỉnh xa,

                        Lúc xưa thì cũng ruột-rà với nhau.

Sao lại lúc xưa thì cũng ruột-rà?

Đ. – Cứ truy-nguyên thì các Việt-sử đều nhận rằng dân-tộc Việt-Nam sản-sanh do một bào-thai của bà Âu-Cơ, vợ của Lạc-long-quân. Thai-bào ấy nở ra một trăm người con. Chính vì cùng sanh trong một bọc mà người dân Việt-Nam gọi nhau là đồng-bào. Như thế, nếu trở lại nguồn-gốc xưa kia của dân-tộc thì người Việt-Nam là dòng-dõi ruột-rà như nhau cả.

H. – Nên hiểu thế nào hai câu này:

                        Muôn năm Thiên-định khắc kỳ.

                        Ngặt ông thất-thủ Hạ-bì khó toan.

Đ. – Hai câu này có nghĩa là việc muôn năm mà Trời giúp cho một khắc thì nên, song ngặt vì vận hạn chưa đến nên gặp phải lắm truân-chuyên, cũng như Quan-Công thất-thủ tại Hạ-bì-thành, dầu phải nỗ-lực cách mấy cũng không toan sớm được.

Đây là hai câu tự-thán của Đức Thầy.

H. – Trong hai câu:

                        Thì rõ việc Phong-Thần trở lại,

                        Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương.

Nên hiểu thế nào thuyền Đông-Pha lèo-lái cánh trương?

Đ. – Tô Đông-Pha tên thiệt là Tô-Thức, người ở đất Mi-sơn nhà Tống là một nhà văn-học uyên-thâm, có tài hùng-biện. Một hôm cùng Vương An-Thạch nghị-luân, vì bất-đồng y kiến nên bị truất đi ra xứ Huỳnh-châu, cất nhà ở đất Đông-Pha; vì thế mà người đời ông là Tô Đông-Pha.

Cứ theo đây thì câu “thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương” có nghĩa là đem tài hùng-biện mà huy-trương thuyết-phục.

H. – Nên hiểu nghĩa thế nào hai câu này:

                        Từ ngàn xưa Phật-pháp gày then,

                        Nên ít kẻ tu-hành đắc-đạo.

Đ. – Sau ngày Phật Thích-Ca nhập Niết-bàn, ngôi Tổ-giáo truyền lại từ ngài Ca-Diếp đến Lục-tổ Huệ-Năng thì từ đó về sau sự truyền y bát không còn nữa, vì đã lọt vào thời mạt-pháp, chúng-sanh căn-trí thiển-bạc, nếu truyền nữa sẽ làm cho giữa môn-nhơn có sự tranh- giành mà gây hại lẫn nhau, mất hết tánh-cách từ-bi cộng-thọ của đạo Phật.

Bắt đầu từ đó về sau các Đạo-sư tăng-sĩ chỉ khẩu thọ tâm truyền để làm sở-chứng. Như thế kể như chánh-pháp đã bị gày bế then cổng nên rất ít người tu-hành đắc đạo.

H. – Đức Thầy dẫn sự-tích:

                        Xưa Châu-Xáng thanh-long phải tá,

                           Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên.

Có ý nghĩa gì chăng?

Đ. – Đoạn giảng này nhắc tích Châu-Xáng mượn thanh-long đao của Quan-Công mà ngăn Thượng Sư-Đồ để cứu Ngũ Viên-Thiệu.

Trong truyện có kể rằng một hôm Châu-Xáng nằm mộng thấy một vị thần đến báo rằng: sáng mai có người nào bị nạn chạy ngang qua đây thì hãy ra tay cứu-hộ. Quả thật sáng hôm sau, trong lúc Châu-Xáng đang lui-cui làm củi dựa mé rừng thì có một người chạy ngang qua, còn phía sau thì có quân lính rượt mà theo. Châu-Xáng hốt-nhiên chạy vào đền thờ Quan-thánh gần đó mượn cây thanh-long đao của Châu-Xương rồi la hét lên ngăn Thượng Sư-Đồ lại. Thượng Sư-Đồ lúc ấy trực ngó lại thấy giống Châu-Xương nên hoảng sợ quày ngựa lui binh.

Nhắc đến sự-tích tá thanh-long là Đức Thầy có ý cho anh em tín-đồ biết rằng dầu không có tài-ba thao lược nhưng được Thần Thánh mượn tay thì cũng làm nên việc phi-thường.

Sau này những người tu-hành chơn-chánh cũng sẽ được hưởng trường-hợp tá thanh-long đao như Châu-Xáng vậy.

H. – Xin quí ông giải rõ ẩn nghĩa mấy câu này của Đức Thầy:

                        Trời quá buổi chinh-chinh về xế,

                        Chờ ít lâu cũng lặn về Tây;

                        Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy,

                        Tìm nẻo thẳng đi về Cực-lạc.

Đ. – Đoạn văn này có ý nói thời-kỳ này như mặt trời đã xế chiều sắp đến huỳnh-hôn (chạng-vạng). Đến lúc ấy rất có nhiều đèn trí soi rọi. Dầu vậy cũng chớ vội thấy sáng mà nương theo, phải tự chọn lấy ngọn đèn soi thẳng về đường Cực-lạc mà theo thì mới không lầm-lạc.

H. – Nên hiểu thế nào cả đoạn văn này:

                        Lời văn thô ý kiến chẳng cao,

                        Nội quan cảnh tâm vô kỳ vật.

                        Đường đạo-đức bước đi từ nấc,

                        Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình;

                        Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,

                        Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.

Đ. – Đọan văn này có nghĩa: Trong thì quán xét cái bổn-tâm vốn không chứa đựng một vật nào cả, còn ngoài thì quán xét hình sắc nhưng không chấp trước một hình sắc nào. Có như thế thì vọng-tâm chẳng sanh, mà vọng-tâm không sanh thì đương-nhiên cũng chẳng cần diệt, vì vọng-tưởng vốn ở tâm mà có.

Đức Điều-Ngự Giác-hoàng tức đạo-hiệu của vua Trần Nhân-Tôn có bài kệ rằng:

            Nhứt thiết pháp bất sanh,

            Nhứt thiết pháp bất-diệt.

            Nhược năng như thị giải,

            Chư Phật thường hiện tiền.

Nghĩa là:

            Tất cả pháp chẳng sanh,

            Tất cả pháp chẳng diệt.

            Bằng rõ được như thế,

            Các Phật hiện trước mắt.

H. – Nên hiểu thế nào câu:

                        Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết,

                        Giải-thoát rồi pháp bất khả dùng.

Quí ông có thể dẫn ra một đoạn kinh Phật cùng một ý-nghĩa như câu này không?

Đ. – Bởi lẽ còn mê-muội cho nên phương-tiện dùng đến giáo-pháp để khải-ngộ, nhưng một khi đã giác-ngộ rồi thì pháp ấy không còn dùng nữa; cũng như người có bịnh phải dùng thuốc mà trị, khi bịnh lành thì thuốc ấy cùng theo bịnh mà dứt.

Cùng một ý-ngĩa, trong kinh Kim-Cang, Phật có nói rằng: “Tri ngã thuyết-pháp, như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xá, hà huống phi pháp”. Nghĩa là: Nên biết phép ta ví như chiếc bè. Pháp còn nên bỏ, huống là chẳng phải pháp.

Ông Phó Đại-sĩ có làm bài kệ rằng:

            Độ hải tu dụng phiệt,

            Đáo ngạn bất tu thuyền.

            Nhân pháp tri vô ngã,

            Ngộ lý cự lao thuyên.

            Trung lưu nhưng bị nịch,

            Thùy luận tại nhị biên.

            Hữu vô như thủ nhứt,

            Tức bị ô tâm-điền.

Nghĩa là:

            Qua biển phải dùng bè,

            Đến bến chẳng cần ghe.

            Nhơn, pháp biết vô ngã,

            Tỏ lý, nôm không nề.

            Giữa dòng vẫn bị đắm,

            Đâu luận hai bên lề.

            Có, không bằng chấp một,

            Tâm-điền bị ô nê.

H. – Bể ái-hà là thế nào? như câu dưới đây:

                        Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi,

                        Bể ái-hà rứt bỏ gian lao.

Đ. – Ái-hà có nghĩa là con sông chứa đầy sự yêu-đương ham muốn. Sở-dĩ đem sự yêu-đương ham muốn sánh với sông bể là vì ái-dục của chúng-sanh không ngằn mé giới-hạn và hễ ai mà lọt vào trong đó thì bị đắm-đuối khó mà vùng-vẫy vượt qua.

Trong Kinh Phật có nói: Ái dục là cội gốc sanh tử. Hễ trừ được ái dục thì được tự-tại giải-thoát.

Ông Duy-ma-cật có nói: cái huyễn thân này như ánh nắng dợn giữ đồng, nó do lòng khát ái của chúng-sanh mà ra; cũng đồng một ý đó.

H. – Nên hiểu thế nào hai câu:

                        Đức Khổng-thánh người sanh nước Lỗ,

                        Ngài còn xưng cuồng quyến dã hồ.

Cuồng quyến là nghĩa làm sao?

Đ. – Hai câu này Đức Thầy lấy trong Luận-ngữ: “Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất đã cuồng quyến hồ? Cuồng giả tiến thủ, quyến giả hữu sở bất vi dã.” Có nghĩa: không được người theo đúng cái đạo trung mà truyền dạy ra thì chắc phải truyền dạy cho kẻ cuồng kẻ quyến chăng? Kẻ cuồng thì tiến thủ, kẻ quyến thì không thèm làm.

Đây có ý nói người đời không bình-hành được một nhịp theo đạo của Ngài thì Ngài buộc phải dạy cho kẻ cuồng quyến.

Đối lại trường-hợp của Đức Khổng-Tử, Đức Thầy ngày nay trong khi ra mở đạo cũng gặp nhiều trường-hợp éo le: Như những tín-đồ có kiến-thức hơi rộng thì muốn vượt trên hơn phương-pháp của Ngài khai-thị, còn kẻ kém kiến-thức thì không làm y theo hoặc chỉ bo-bo câu chấp hình-thức. Hạng trên tức là hạng thuộc về kẻ cuồng, còn hạng dưới thì thuộc về hạng kẻ quyến.

Dầu vậy, ngài cũng không nản-chí hay than-van như Ngài đã thốt:

                        Bực Thánh-nhơn công-lao chẳng chán,

                        Huống chi ta nào dám than-van.

H. – Đức Thầy dẫn tich dưới đây có ẩn ý gì?

                        Quan Công-Hầu gìn chặt nghĩa ân,

                        Vượt năm ải về thăm huynh trưởng.

Đ. – Đoạn văn này Đức Thầy nhắc lại việc Quan-Công quá ngũ quan trảm lục tướng về để thăm Lưu-Bị. Nhờ cái lòng quá nhớ tưởng huynh-trưởng mà Quan-Công vượt qua năm ải và chém sáu tướng một cách dễ-dàng.

Về phương-diện đạo-đức thì câu chuyện này như Đức Thầy đã trả lời cho một ông Phán nọ đến hỏi Ngài, nó hàm ý nếu người tu-hành có lòng cương-quyết phá ngũ-uẩn, sát lục-tặc thì sẽ thấy được chơn-nhơn mà đắc đạo-quả.

Về phương-diện trì danh niệm Phật, nếu mình tha thiệt như Quan-Công nhớ Lưu-Bị thì không ma-lực nào ngăn cản được con đường về Cực-lạc của mình.

H. – Xin quí ông giải-thích cho tôi hiểu về sự-tích ông Cấp-cô-độc, như trong câu:

                        Cấp-cô-độc là nhà phú-hộ,

                        Còn đành lòng bố-thí xả-thân.

Đ. – Ông Cấp-cô-độc thiệt danh là Tu-dạt nã (Su-datta) là một trưởng-giả ở xứ Xá-vệ, có lòng bố-thí cung cấp tiền của cho những người cô-độc bần nhơn. Do tấm lòng từ-thiện đó mà người gọi ông là trưởng-giả Cấp-cô-độc. (Anathapindika).

Ngoài việc này, ông còn vì Phật-pháp, đem hết kho vàng ra lót đầy vườn của thái-tử Kỳ-Đà con cùa vua Ba-tư-nặc để mua khu vườn ấy làm Tịnh-xá cho Phật.

H. – Nên hiểu thế nào mấy chữ: Đại-hùng, đại-lực, đại từ-bi trong câu:

                        Phải chờ dậy nương dây hùng-tráng,

                        Chữ đại-hùng, đại-lực, từ-bi.

Đ. – Mấy chữ: đại-hùng, đại-lực, đại từ-bi thường để tán-tụng công-đức của Đức Phật Thích-Ca.

Dám lìa bỏ quách thành thê tử đi tu, đó là cái chí đại-hùng.

Hàng-phục được Ma-vương dưới cội Bồ-đề, đó là cái chí đại-lực.

Khi đắc đạo không đành nhập Niết-bàn vẫn trụ thế trong 49 năm thuyết-pháp độ-sanh, đó là lòng đại từ-bi.

H. – Nên hiểu thế nào là siêu-sanh, trong câu:

                        Non tuyết san rú-rừng thăm-thẳm,

                        Đem thân phàm tầm đạo siêu-sanh.

Đ. – Siêu-sanh nghĩa là vượt khỏi con đường luân-hồi sống thác.

Trong tam-giới chúng hữu-tình thảy đều ở trong vòng sanh sanh hóa hóa. Đức Phật nhận thấy sự thống-khổ của tam-giới như là nhà lửa nên Ngài động lòng từ-bi tìm ra chánh-đạo để cứu chúng-sanh khỏi cảnh đồ-lao mà hưởng kiếp trường-tồn tịnh-lạc. Có thể mới được siêu-sanh.

H. – Nên giải-thích cách nào hai câu dưới đây:

                        Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài.

                        Khó gặp chữ không không mà có.

Đ. – Vì tạng-tánh như-lai vốn không hình tướng sắc màu để chỉ được nên gọi là không. Song nó có năng-lực hàm-dung diệu-biến vũ-trụ vạn-hữu, cho nên gọi là có.

Vũ-trụ vạn-hữu gốc ở tạng-tánh như-lai nên gọi là không. Tạng-tánh như-lai là nguyên-lý của vũ-trụ vạn-hữu nên gọi là có.

Trong tạng-tánh như-lai có vũ-trụ vạn-hữu và trong vũ-trụ vạn-hữu có tạng-tánh như-lai, cho nên gọi không mà có, gọi có mà không.

Ông Huệ-Trung thượng-sĩ có làm bài kệ “vạn sự như qui” rằng:

            Tùy vô hiện hữu, hữu vô thông,

            Hữu hữu vô vô tất cánh đồng,

            Phiền não, Bồ-đề nguyên bất nhị,

            Chơn-như vọng-niệm tổng giai không,

            Thân như ảo cảnh, nghiệp như cảnh,

            Tâm nhược thanh phong, tánh nhược bồng,

            Hưu vấn tử sanh ma dữ Phật,

            Chúng tinh cũng bắc, thủy triều Đông,

Nghĩa là:

            Từ không bày có, có, không không,

            Có có không không rốt vẫn đồng.

            Phiền-não, Bồ-đề nguyên chẳng khác,

            Chơn-như vọng-niệm thảy đều không.

            Thân như cảnh mộng, nghiệp như bóng,

            Tâm tợ thanh phong, tánh tợ bồng. (cỏ bồng)

            Chớ hỏi tử sanh, ma với Phật,

            Các sao chầu Bắc, nước về Đông.

Như thế đủ tỏ Phật-pháp rất cao siêu không thể bày tỏ cùng tột, vì nó cũng không mà cũng có, không có chẳng lìa nhau, nên khó mà gặp được.

H. – Đức Thầy dẫn ở sách nào hai câu chữ Hán dưới đây? Và nghĩa lý của nó ra làm sao?

                Sách có câu: Minh-đức tân-dân,

                Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu.

Đ. – Câu minh-đức tân-dân dẫn trong sách Đại-học ở câu: “Đại-học chi đạo, tại minh minh-đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện” Có nghĩa là: Đạo của bậc Đại-học, cốt làm sáng cái đức-minh, làm cho dân mới, cho đạt đến chỗ trọn lành.

Còn thủ trụ huyền khai nhứt khiếu, có nghĩa là giữ an một khiếu huyền-quan của mình cho được khai mở.

Đại ý Đức Thầy khuyên mỗi người trước phải làm cho an-trụ cái khiếu huyền-quan của mình cho khai mở và làm cho đức mình được sáng, dân được mới và đạt đến chỗ chí thiện.

H. – Bổn-lai diện-mục là gì? Như câu:

                Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều Kinh,

                Thì cũng thấy bổn-lai diện mục.

Đ. – Bổn-lai diện-mục là thấy được bổn-lai tâm.

Muốn thấy được tâm bổn-lai, chỉ cốt phải trầm-mặc phản-chiếu tánh mình không đợi phải học biết nhiều Kinh mới tỏ ngộ chân-lý. Như trường-hợp của Lục-tổ khi nghe Ngài Hoằng-Nhẫn thuyết kinh Kim-Cang đến câu: Ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, có nghĩa là: nên trụ cái tâm ở chỗ không sanh, thì Ngài hoát-nhiên tỏ ngộ mà tự nói rằng:

            Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh-tịnh,

            Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt;

            Hà kỳ tự tành bổn tự cụ-túc,

            Hà kỳ tự tánh bổn vô đông diêu,

            Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp.

Có nghĩa:

            Chẳng dè tánh mình vốn sẵn thanh-tịnh,

            Chẳng dè tánh mình vốn chẳng sanh diệt,

            Chẳng dẻ tánh minh vốn sẵn đầy đủ,

            Chẳng dè tánh mình vốn chẳng động lay,

            Chẳng dè tánh mình hay sanh muôn pháp.

H. – Lục-thông là những gì, như tôi thường đọc:

                        Chừng ơn trên ban được lục thông,

                        Thầy mới được Tây Đông du thuyết.

Đ. – Lục thông là sáu phép thần thông:

Thiên-nhãn thông là mắt thấy khắp nơi dầu muôn ngàn cái núi ngăn che cũng soi được phủng, dầu những mảy bụi nhỏ trong hư-không cũng thấy được rõ, cho đến mười phương cảnh giới cũng thấy không bị ngăn ngại.

Thiên-nhĩ thông là tai nghe suốt tam-giới ngang dọc mười phương rất tỏ rõ, cho đến tiếng của loài vật vi-tế cũng không sót một tiếng nào.

Túc mạng thông là biết các kiếp quá khứ của mình và của cả chúng-sanh rõ như việc trước mắt.

Tha tâm thông là biết rõ ý-niệm của cả thảy chúng-sanh để tùy cơ cảm-ứng.

Thần túc thông là có phép đi lại mười phương mau lẹ không cùng.

Lậu tận thông là sạch cả phiên-não, không còn một mảy trược lậu.

Thường lệ những người trừ lục-căn, diệt lục-trần một cách viên-dung thì sẽ được lục-thông. Như có câu: “Nhân căn trần thanh-tịnh nhi lục-thông chi hiện giả dã.” Nghĩa là: Nhân sáu căn trần được thanh-tịnh thì phát hiện lục-thông.

H. – Tu đến bực nào mới có lục-thông?

Đ. – Muốn có lục-thông phải tu đến bực vô-sanh của A-la-hán trở lên.

H. – Xin quí ông giải cho tôi rõ nghĩa câu này:

                        Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi,

                        Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống.

Đ. – Bởi người cứ chấp rằng thân của mình và mọi vật trên đời là bền-bỉ, vì thế mà cứ say-sưa đeo-đắm chẳng màng đến hậu hoạn, không nghĩ đến kiếp vô-thường, cứ mải làm tôi mọi cho lòng ái-dục, nên do nghiệp-duyên ấy mà xuống lên vay trả mãi.

Thí dụ như người qua cầu làm rớt tiền xuống nước nếu còn tiếc nuối thì phải lặn xuống mà mò kiếm. Nhược bằng không tiếc đến thì khỏi trầm mình lặn hụp.

Như thế đủ chứng rằng; hễ người diệt được lòng ái-dục thì không còn phải đời đời kiếp kiếp xuống lên cõi uế-trược này nữa.

H. – Nên hiểu thế nào ý-nghĩa hai câu này:

                        Giấc mộng vàng đặng truyền Đại-đạo,

                        Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê.

Đ. – Theo hai câu nầy, Đức Thầy cho biết những người tu-hành chơn-chánh đạo-hạnh trong sạch thường chừa lỗi và tác phước, nhứt là vẫn được một niềm tin-tưởng nơi Đức Phật, do cái thông-cảm đó mà được ơn trên đến truyền pháp trong những giấc mộng vàng, hoặc dùng cách vi-diệu để đưa đến thấy được cảnh vô-sanh của chư Phật.

Trường-hợp này trong số tín-đồ của Đức Thầy đã có nhiều người hân-hạnh được hưởng. Sau khi ấy, kẻ đó hoàn-toàn đổi lại nhân-cách cũng như sự hiểu biết rất thuần-lương và sáng suốt, và chính đó cũng là cái triệu-tường của kết-quả tu-tập.

H. – Câu “thiên-lý vị nhiên” nghĩa lý ra làm sao? Đức thầy dẫn ở sách nào?

                        Giờ mắc câu thiên-lý vị-nhiên,

                        Nên còn đãi thiên-oai nấy lịnh.

Đ. – Câu này do Khổng-Minh thốt ra. Nguyên Khổng-Minh lập trận ở Thượng-phương cốc dụ binh của cha con Tư-Mã Ý vào mà đốt. Khi quân của cha con Tư-Mã Ý lọt vào vòng vây thì Khổng-Minh cho phòng hỏa chận hai đầu hang. Thế là hai cha con Tư-Mã Ý chỉ còn chờ chết, thì bỗng nhiên có đám mưa to đổ xuống làm cho lửa tắt hết. Nhờ đó mà cha con Tư-Mã Ý thoát nạn.

Khi ấy, Khổng-Minh ở trên núi thấy vậy mới than rằng: “Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên, nhơn nguyện như thử như thử, thiên-lý vị-nhiên vị-nhiên”. Nghĩa là mưu việc tại người, còn thành sự tại Trời. Người muốn đường ấy đường ấy, lẽ Trời chưa vậy chưa vậy.

Cứ theo đây thì dầu ý mình có muốn mà lẽ Trời chưa đến thì cũng phải nén lòng mà chờ đợi thiên-oai nấy lịnh.

H. – Nên hiểu thế nào câu: huờn lai bổn tánh trong câu:

                        Cỏ cây cùng điểu thú chim muông,

                        Nhơn với vật huờn lai bổn tánh.

Đ. – Thể theo ý Đức Thầy đã cho biết trong Sám-giảng thì câu này có nghĩa: đến cái phút rốt của thời mạt-hạ, cỏ cây chim-chóc thú cầm người vật trở lại cái tánh nết cũ của mình. Dù kẻ tu-hành cũng vậy, nếu chưa trừ dứt tập-khí thì khi ngộ cảnh khêu gợi thử-thách cái tánh cũ ấy nó xuất-hiện như xưa.

Đến lúc đó thì mọi đồng-tánh tự kết-tụ với nhau cũng như đá nam-châm hút sắt.

H. – Thế nào là hạnh bố-thí và trì chay, như câu:

                        Đồ lao muốn lánh sớm nghe Ta,

                        Bố-thí trì-chay giữ giới mà.

                        Phật đạo trau giồi tâm-tánh lại,

                        Giác thuyền chuyên chở lúc can-qua.

Đ. – Bố là vải ra, thí là cấp cho. Do đó bố-thí có nghĩa là đem cái sở-hữu của mình mà cứu giúp kẻ khác.

Bố-thí có ba cách:

        1o Tài thí là đem của-cải của mình mà ban cấp cho người;

        2o Pháp thí là đem lời đạo-lý trí-huệ giảng ra cho người nghe để tỉnh-ngộ tu-hành;

        3o Vô-úy-thí là phương-tiện giúp cho người khỏi sợ hãi bằng cách là đem tính-mạng đỡ-gạc hay bảo-vệ cho người được yên-ổn.

Nó tóm lại bố-thí có hai phần:

1o Sự tướng bố-thí là chỉ đem tài-vật thí ra cho người mà lòng còn phân-biệt người là kẻ thọ thí còn ta là kẻ bố-thí, khởi tâm mong cầu được tiếng khen và hậu lợi của phước báo. Nhơn đó làm cho bản-ngã càng tăng-trưởng, sự tôn-ti thêm nảy sanh, khiến cho sự bất bình-đẳng một ngày một chất-ngất để ngày kia phải chịu lấy cái quả sai-biệt.

2o Lý-tánh bố-thí là ngoài cảnh không chấp mắc, trong tâm không nhiễm ô, tham-lam, vị-ngã, sân-nộ, mê-si đều trống không dứt bặt.

Trì-chay có nghĩa là không ăn những thức thuộc về loài động-vật.

Đại-khái trì chay có hai cách:

        1o Tố thực nghĩa là ăn những thức không phạm giới sát-sanh.

        2o Tâm trai là giữ lòng trong sạch không chấp món ăn, lúc nào cũng tránh việc sát hại vô cớ. Vì sức khỏe mà phải dùng những thức vừa với nhu-cầu để làm những điều huệ-ích cho đời, nhưng không nên vịn vào cớ ấy mà giả dối, tìm cách làm thỏa-thích khẩu dục.

H. – Thế nào là pháp-thân như tôi thường thấy trong Sám-giảng:

                            Tính xong món nợ lần-khân,

                        Thoát vòng cương-tỏa pháp-thân nhẹ-nhàng.

Đ. – Pháp-thân là chơn-thân của vạn pháp, thể lượng rất rộng lớn như hư-không, chẳng có sắc tướng gì chỉ được, lúc nào cũng thường-nhiên thanh-tịnh. Hết thảy muôn loài đều có pháp-thân, nhưng vì mê-muội mà thành ra cách-biệt.

Trong kinh Phật có câu: Phật chơn pháp-thân do như hư-không, ứng vật hiện hình như thủy trung nguyệt. Nghĩa là chơn pháp-thân của Phật ví như hư-không, tùy vật mà hiện hình như trăng dưới nước.

H. – Nên hiểu thế nào hai chữ bác-lãm, như trong đoạn văn dưới đây:

                        Nào ai biết tâm ta đời bác-lãm,

                        Kiếp người đời chùm gởi bám vào cây;

                        Ở thế-gian ai rõ kẻ chơn Thầy,

                        Dắt sanh-chúng lìa nơi sông mê khổ.

Đ. – Theo câu này, bác-lãm có nghĩa là hiểu biết khắp mọi vật. Đức Thầy cho biết rằng tâm Ngài vẫn thấu triệt mọi sự chơn giả, căn-cơ của người mà mấy ai được hiểu, nhứt là Ngài hiểu rõ kiếp tạm giả của con người không được bền chắc, chẳng khác chùm gởi bám vào cây. Thế cho nên Ngài phương-tiện dùng kế mầu mà đem người ra khỏi sông mê bể khổ.

Xét theo đó thì còn có hành-động khuất-lấp nào mà qua được đời bác-lãm của Ngài.

H. – Trong câu:

                        Nỡ đâu lại vày bừa đồng-loại,

                        Cũng gốc người Thượng-đế xuống trần.

Nên hiểu thế nào câu: cũng gốc người Thượng-đế xuống trần?

Đ. – Cứ theo nguyên-lý của vạn vật thì Đức Ngọc-đế với nhơn-gian cùng đồng một khối linh-quan như nhau. Từ khi khởi ra vọng-niệm sai-lầm mới có sự thăng trầm khác biệt mà kẻ tạo phước thì được siêu rỗi lên cõi Trời, còn người tạo tội thì đọa xuống cõi thế. Nếu người biết quày đầu hướng thiện, gieo rải phước duyên thì đến lúc mạng chung sẽ được trở về cội cũ như Đức Ngọc-đế.

H. – Sáu đường là những đường nào, như câu:

                            Bể trầm-luân khô cạn sáu đường,

                            Tăng-sĩ mới trở về nơi thanh-tịnh.

Đ. – Cõi phàm có sáu đường luân-hồi. Con đường luân-hồi không nhứt-định, chỉ tùy ở nghiệp nhơn của mỗi người vào:

        1o Cõi Trời,

        2o Cõi người

        3o Cõi Thần,

        4o Ngạ quỉ,

        5o Súc sanh,

        6o Địa-ngục.

H. – Trong câu:

                        Tâm linh mắt thánh xem ba cõi,

                       Tánh hiển tai thần lóng bốn phang.

Hai tiếng “ba cõi” có đồng nghĩa với hai tiếng “tam cõi” trong câu dưới đây không?

Trung-ương tam cõi đều hòa mặt,

Ta mới thảnh-thơi trở gót hài.

Đ. – Danh-từ “ba cõi” ở câu trên là chỉ:

        1o Dục giới,

        2o Sắc giới,

        3o Vô sắc giới.

Còn danh-từ “tam cõi” ở dưới thì chỉ:

        1o Thiên hoàng,

        2o Địa hoàng,

        3o Nhơn hoàng.

H. – Xin quí ông giải-thích hai Phạn-ngữ “Nam-mô” và “Tu-rị” trong câu:

                        Cứu khổ Nam-mô vô-lượng kiếp,

                        Diệt nàn Tu-rị hữu thiên kinh.

Đ. – Nam-mô là phiên-âm của tiếng Phạn Namab, Tàu dịch có nhiều nghĩa: hoặc qui-mạng, hoặc kính lễ, hoặc cứu ngã…

Cứ theo đó thì Nam-mô có nghĩa là chúng-sanh hết lòng cung kính, nương theo Đức Phật mà yêu cầu Ngài cứu cho khỏi sự khổ não, đặng mọi sự an vui.

Tu-rị vốn là một câu chú: tu-tu-rị hoặc tu-đa-rị của nhà Phật, có cái hiệu-lực làm tiêu-tan mọi tai nàn.

H. – Tại đâu chỉ niệm Di-Đà mà tan nghiệp-chướng, như câu dưới đây:

                        Niệm chữ Di-Đà tan chướng-nghiệp,

                        Thuyền từ Thầy rước lại non Bồng.

Đ. – Trong kinh Đại-Tập có nói người chí-thành niệm một tiếng Phật sẽ tiêu-diệt tội nặng sanh tử tám muôn ức kiếp. Như vậy đủ minh-chứng rằng niệm một tiếng Di-Đà có thể làm tan mọi nghiệp chướng.

Bằng chứng là sách “cận-đại vãng sanh truyện” có kể lại việc ông Liên-Hàng phạm tội sát, nhưng nhờ chí-tâm niệm Phật và nhờ người hộ-niệm mà được vãng sanh.

H. – Sao không đem trí-tuệ sánh với vật gì khác, lại sánh với cây kiếm là một vũ-khí có tánh-cách sát-sanh, như tôi thường thấy trong Sám-giảng, chẳng han:

                        Kiếm huệ dứt xong rồi quả báo,

                        Lo gì cửa Phật chẳng chen vào.

Hay là:

                        Mài gươm trí cho tinh cho khiết,

                        Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không.

Đ. – Vẫn biết loại gươm kiếm là một thứ vũ-khí thường dùng vào việc sát hại; chính vì cái tánh bén của nó mà người tu-hành đem ví với trí-huệ sắc bén của mình trong việc sát thủ sáu giặc trong bản thân cũng như trường-hợp của một vị tướng dùng gươm kiếm để mà sát địch.

Bởi thế mà danh-từ A-la-hán có nghĩa là sát-tặc.

H. – Ngũ hương là những gì, như câu:

                        Cầu tu cho đạt ngũ hương,

                    Huơi gươm trí-huệ Ma-vương hãi-hùng.

Đ. – Trong kinh Pháp-bảo-đàn, Đức Lục-tổ có giải nghĩa ngũ-hương như vầy:

Một là Giới-hương, tức là trong tâm mình không quấy, không dữ, không ganh ghét, không tham, không gian, không cướp hại; vậy gọi là Giới-hương.

Hai là Định-hương, tức là trông thấy các cảnh-tượng lành dữ mà tâm mình chẳng loạn động; vậy gọi là Định-hương.

Ba là Huệ-hương tự tâm mình không ngăn ngại, hằng lấy trí-tuệ xem soi tự-tánh, chẳng tạo các điều ác, tuy tu các nghiệp lành mà tâm chẳng chấp trước, kính người trên, nghĩ kẻ dưới, thương xót những hạn cơ-bần; vậy gọi là: Huệ-hương.

Bốn là Giải-thoát hương, tự tâm mình không chỗ vịn-níu, chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ dữ, tự-tại không ngăn-ngại; vậy gọi là Giải-thoát hương.

Năm là Giải-thoát tri-kiến hương là tự tâm mình đã không vịn-níu theo đường thiện, đường ác, mà cũng chẳng nên đắm theo cái “không” và giữ lấy cái “vắng”, cần phải học rộng nghe nhiều, biết bổn tâm minh, suốt cả lý Phật, hòa sáng tiếp người, không tướng nhơn ngã, thẳng đến khi thành đạo Bồ-đề, chơn-tánh vẫn chẳng dời đổi; vậy gọi là Giải-thoát tri kiến hương

H. – Thế nào là giác-tánh chơn-như và thế nào là kim-thân, như câu:

                            Đem về giác-tánh chơn-như,

                        Kim-thân thị-hiện dứt trừ tử sanh.

Đ. – Chơn có nghĩa là thường-trụ, như có nghĩa là bất-biến. cho nên chơn-như có nghĩa là thường-trụ bất-biến. Tánh của nó không nhơ không sạch, không diệt không sanh, không động lay, không thêm bớt, nhưng một mực bình-đẳng, không riêng khác.

Còn kim-thân có nghĩa là thân kim-cang, tánh nó có ba đặc-thắng:

1o Không hư hoại,

2o Hơn hết trong các món báu,

3o Hơn hết các chiến cụ.

Nói tóm lại kim-thân tức là cái thân chơn-thật công đức trang-nghiêm, không hư hoại, lìa các tội lỗi của đấng Như-Lai.

H. – Nên hiểu thế nào là hồi-hướng, như câu;

                        Đem thân hồi-hướng gốc lành,

                        Làm tôi Phật-tổ chí thành chí chơn.

Đ. – Hồi là chuyển lại, hướng là ngó về. Đem tâm hồi-hướng có nghĩa là khởi lòng đại-bi cứu độ chúng-sanh, xoay chuyển công-đức căn-lành hường về ba chỗ

1o Chỗ sở chứng chơn-như thật-tướng,

2o Chỗ sở cầu vô thượng Bồ-đề,

3o Chỗ sở độ tất cả chúng-sanh.

Ngoài ra còn được hồi-hướng công-đức cho Cửu-huyền Thất-tổ được siêu-thăng Tịnh-độ.

H.- Sa-môn nghĩa ra làm sao, như câu:

                            Sa-môn chí những tín-đồ,

                        Mai-dong cản mối tựa hồ gớm-ghê.

Đ. – Sa-môn, Tàu dịch là cần-tức, nghĩa là cầu tu giới, định, huệ, tức-diệt tham, sân, si; ấy là tên chung của người xuất-gia.

H. – Nên hiểu thế nào là bờ giác ngạn, trong câu:

                            Chúc ông thoàn nhã vững chèo,

                        Qua bờ giác-ngạn sớm treo gương mầu.

Đ. – Giác-ngạn là bờ giác, đối-đãi lại mê-tân là bến mê. Lìa khỏi bờ mê vô-thường qua bến giác bất sanh-diệt gọi là đáo bỉ-ngạn, tức là thành Phật.

H. – Trong mấy câu này:

                        Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,

                        Của thế trần như mật dính dao;

                        Kẻ ham ăn kê miệng liếm vào,

                        Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.

                        Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.

Đức Thầy dẫn ở Kinh nào?

Đ. – Mấy câu này Đức Thầy dẫn theo kinh Tứ-thập-nhị chương ở đoạn thứ bảy như vầy:

“Đức Thế-tôn dạy rằng: Sắc đẹp với sang giàu, hai thứ giống như miếng mật dính trên lưỡi dao. Những người ham muốn kê miệng liếm liền bị đứt lưỡi. Người tham danh-lợi chết vì lợi vì danh bởi sự tham, lại cũng như vậy.”

H. – Trong câu:

                        Tội tiêu phước hưởng trường tồn,

                        Không còn mắc nẻo dạy khôn luân-hồi.

Thế nào gọi là luân-hồi?

Đ. – Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Chúng-sanh trong sáu đường cứ bỏ thân này lại mang thân khác, lên lên xuống xuống tiếp nối nhau luôn như sự xoay tròn của bánh xe không biết đâu là khởi đầu, chẳng qua vì cái nghiệp tội không ngằn mé của chúng-sanh mà ra. Cho nên muốn ra khỏi luân-hồi, con người cần phải diệt trừ các tội ác, tạo-tác phước-điền, mở khai trí-tuệ, lòng không còn bận mảy trần-ai, tức-nhiên quả khổ đã đoạn trừ, nhân lành đã sung-mãn thì dầu muốn luân-hồi cũng không sao có được.

Lời Bạt

Anh có tin Đức-Thầy trở lại không?

Nếu anh tin có thì những người đang hoằng-dương giáo-lý của Ngài có lẽ còn tin hơn anh nữa, bởi họ cảm-thông và nhận thấy điều ấy rõ lắm. Họ có dại gì làm trái-nghịch với ý của Ngài để khi Ngài trở về họ phải có tội.

Anh cũng đừng sợ họ làm hoại nền đạo của Ngài được, vì một khi Ngài về thì dẫu cho chướng-ngại của họ gây ra bao lớn đi nữa cũng phải tan rã.

Hơn nữa chư Thần cùng những vị Hộ-pháp có để cho họ phá hoại nền đạo của Ngài đâu, vì Ngài đã lãnh sắc-chỉ của Phật-tổ xuống trần kia mà!

Và anh cũng tin rằng nếu họ có tham vọng thay thế Ngài thì họ cũng không thành-công được, vì tín-đồ của Ngài có để cho họ đạt đến tham-vọng ấy đâu.

Như vậy thì anh đừng có nghi lầm mà ngờ-vực chia-rẽ lẫn nhau./.

 

HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn