Sơ lược Tiểu sử Ngài NGUYỄN TRUNG TRỰC - Thơ của Nguyễn Văn Nhựt

12 Tháng Mười 202010:43 SA(Xem: 2269)
Sơ lược Tiểu sử Ngài NGUYỄN TRUNG TRỰC - Thơ của Nguyễn Văn Nhựt
                SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGÀI NGUYỄN TRUNG TRỰC
                NHÂN LỄ KỶ NIỆM NGÀY HY SINH LẦN THỨ 152
                                  (28/8/1868 – 28/8/2020)
121342138_1228324150867332_6030023478201011225_n

















Cảm kích thay!
Nước Việt Nam có Ngài Quan Thượng,
Trung Hiếu vẹn toàn bia tượng nêu ghi.
Thà cam chết đứng hơn quỳ,
Không hàng phục giặc gan lỳ vang danh.
Quan Thượng Đẳng ngôi dành sẵn vị,
Đấng anh hùng chí khí kiên cường.
Sanh vào thời buổi nhiễu nhương,
Nhất bát tam bát (1838) niên đương khổ nàn.
Nguyễn Trung Trực quê làng Bình Định,
Nguyễn Văn Chơn, Văn Lịch cũng ông.
Từ Trung ông tiến vào trong,
Miền Nam lập nghiệp tỉnh Long An rày.
Sau hưởng ứng ơn dày Tự Đức,
Cần Vương vào chống dứt thực dân.
Đốt tàu tên Esperance,
Tại sông Nhật Tảo quỉ Thần nể kiêng.
Sau năm năm ông liền thắng tiếp,
Sơn Đá đồn đánh khiếp kẻ thù.
Cả nghĩa binh dụng kế mưu,
Ở trần quần cụt tối hu xông vào.
Dao đâm thẳng kẻ nào mặc áo,
Pháp ngủ say láo táo chết nhào.
Thành công như đúng khát khao,
Thu trăm khẩu súng lấy vào đạn bom.
Đồn lấy dễ giữ đồn lại khó,
Được năm ngày Pháp nó phản công.
Họ xua lực lượng vào trong,
Nghĩa binh đành rút về phòng Hòn Chông.
Mới lúc đầu Pháp không tiến đánh,
Chẳng bao lâu khó tránh nạn nguy.
Huỳnh Công Tấn phản tặc thì,
Nếu không đầu thú bắt đi mẹ hiền.
Cùng số dân bị xiềng, bị xích,
Cụ đành ra trói bít tay mình.
Nạp thân cho kẻ bất minh,
Thực dân mừng lắm loan tin thắng này.
Dùng mưu kế dụ Ngài đủ thứ,
Phong ông làm chức tứ, chức tam.
Cụ rằng tất cả chẳng ham,
Chỉ cầu sao được đặng kham chức nầy:
Thích chức chặt đầu Tây cho hết,
Để đáp đền có chết cũng cam.
Nhổ cho sạch cỏ Nước Nam,
Thì là mới hết người Nam chống mầy!
Thấy lòng ông chẳng chầy cho đặng,
Liền phán ngay lập trận chặt đầu.
Rạch Gía dân chúng đau sầu,
Tế Ngài tiệc cuối mới hầu lệnh tuân.

121148897_1228324120867335_4672005557599462963_n















Giờ đao phủ hành hung cũng đến,
Cụ rằng không chặt ngót bắt mầy.
Phủ thủ vươn đao châu mày,
Đầu ông rơi xuống mắt rày liếc quanh.
Mọi người kính mọp nhanh kiêng nể,
Đầu chặt xong đao để ra về.
Ba ngày sau chết thảm thê,
Pháp hay khiếp sợ mắt mờ hãi kinh.
Đầu, xác cụ chúng rinh khác chỗ,
Sợ rằng sau bùng nổ khí hùng.
Trước rơi đầu chẳng có rung.
Ngâm thơ tuyệt mạng oai hùng thăng Thiên:
 
Nguyên văn bài thơ cụ ngâm;
“THƯ KIẾM TÙNG NHUNG TỰ THIẾU NIÊN,
YÊU GIAN ĐỞM KHÍ HỮU LONG TUYỀN.
ANH HÙNG NHƯỢC NGỘ VÔ DUNG ĐỊA,
BÁO HẬN THÂM CỪU BẤT ĐÁI THIÊN.”
 
Thi sĩ Đông Hồ dịch:
“THEO VIỆC BINH NHUNG TỰ THUỞ TRAI,
PHONG TRẦN HĂNG HÁI TUỐT GƯƠM MÀI.
ANH HÙNG GẶP PHẢI THỜI KHÔNG ĐẤT,
THÙ HẬN CHAN CHAN CHẲNG ĐỘI TRỜI.”
 
Bị hành huyết người người thương tiếc,
Sớ tâu Vua để biết chuyện nầy.
Quan Thượng Đẳng phong chức vầy,
Hằng năm quí tế dân đây cúng cầu.
Ngày hai tám (28) Thần sầu quỉ thảm,
Năm Mậu Thìn tháng tám hy sinh.
Cụ ba mốt (31) tuổi đinh ninh,
Lưỡng toàn TRUNG HIẾU đẹp xinh muôn đời.
Dầu ngày tháng đổi dời đi nữa,
Tuổi tên Ngài như lửa nóng luôn.
Vang rền thể đại hồng chuông,
Vạn ngàn năm nữa luôn luôn sáng hoài.
Cầu Quan Thượng độ rày đất nước,
Vái Đại Thần tiếp rước bá gia.
Nguyện cho mưa thuận gió hòa,
Đời hưng Đạo sáng âu ca lạc nhàn./.
NGUYỄN VĂN NHỰT
(12-10-2020)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn