THẤT SƠN MẦU NHIỆM

30 Tháng Bảy 20206:57 CH(Xem: 10625)
THẤT SƠN MẦU NHIỆM

THẤT SƠN MẦU NHIỆM
2020-08-31_114657
_______________________________________________
THẤT SƠN MẦU NHIỆM
Phần I: NGUỒN-GỐC, DANH-HIỆU, LỊCH-SỬ VÀ SỰ QUAN-TRỌNG CỦA THẤT-SƠN

Chương I: Nguồn-gốc và Danh-hiệu

1) NGUỒN-GỐC XA-XĂM

2) DANH-HIỆU THẤT-SƠN

Chương II: Lịch-sử Thất-Sơn qua cuộc Nam-tiến hoàn-thành

1) TRONG LÚC THẤT-SƠN CÒN THUỘC ĐẤT CHÂN-LẠP, TÌNH-HÌNH TRỊNH – NGUYỄN PHÂN TRANH VÀ BƯỚC ĐẦU CUỘC NAM-TIẾN RA SAO?

2) CHÁNH-SÁCH ” TÀM-THỰC” ĐÃ ÁP-DỤNG THỜI ẤY NHƯ THẾ NÀO?

3) MỨC CUỐI CÙNG CỦA CUỘC NAM-TIẾN, THẤT-SƠN MỚI THU VỀ ĐẤT VIỆT

4) THẤT-SƠN VỚI CON MẮT NHÀ ĐỊA-LÝ CỦA HỌ MẠC

Chương III: Sự quan-trọng của Thất-Sơn

1) QUAN-TRỌNG VỀ MẶT CHIẾN-LƯỢC

2) QUAN-TRỌNG VỀ MẶT KINH-TẾ

3) QUAN-TRỌNG VỀ MẶT ĐỊA-LÝ

4) QUAN-TRỌNG VỀ MẶT TINH-THẦN

Phần II: CÁC BẬC SIÊU-PHÀM Ở MIỀN THẤT-SƠN

Chương I: Đức Phật-Thầy Tây-An

1) HÀNH VI VÀ THÂN THẾ BUỔI ĐẦU

2) VÀO RẠCH TRÀ-BƯ

3) KHI ĐẾN XẺO-MÔN

4) BỊ DỜI VỀ AN-GIANG

5) VÀO NÚI SAM

6) GIÁO LÝ CĂN BẢN

7) NHỮNG DI-TÍCH CÓ LIÊN-HỆ ĐẾN ĐỨC PHẬT-THẦY

Chương II: Các vị Giáo-Chủ hoằng đạo sau Đức Phật-Thầy

1) ÔNG ĐẠO ĐÈN HAY ĐỨC PHẬT-TRÙM (? – 1875)

2) ĐỨC BỔN-SƯ (? – 1909)

3) ÔNG SƯ-VÃI BÁN KHOAI

4) ÔNG CỬ ĐA

Chương III: Các vị đại đệ-tử của Đức Phật-Thầy

1) ĐỨC CỐ-QUẢN (? – 1872)

2) ÔNG TĂNG-CHỦ (GIỮA THẾ-KỶ THỨ 19)

3) ÔNG BÙI-VĂN-TÂY (1802 – 1890)

4) ÔNG NGUYỄN-VĂN-XUYẾN (1834 – 1914)

5) ÔNG ĐẠO NGOẠN (1820 – 1890)

6) ÔNG ĐẠO LẬP (THẾ-KỶ 19)

7) ÔNG ĐẠO LÃNH (GIỮA THẾ-KỶ 19)

Chương IV: Vài vị đắc đạo trong phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương

1) ÔNG TRẦN-VĂN-NHU (1847 – 1914)

2) ÔNG NGUYỄN-VĂN-THỚI (1866 – 1927)

Chương V: Lược sử của Đức-Huỳnh Giáo-Chủ

1) THÂN THẾ

2) TỪ LÚC BÉ THƠ ĐẾN TUỔI TRƯỞNG THÀNH

3) ĐỨC THẦY DẠY ĐẠO ĐỘ ĐỜI

4) VỀ VIỆC ĐỨC THẦY ĐI NÚI

5) ĐỨC THẦY GIã TỪ LÀNG HÒA-HẢO

6) THÀNH TÍCH TRANH ĐẤU CỦA ĐỨC THẦY

Phần III: MẦU-NHIỆM CỦA THẤT-SƠN

Chương I: Các vị trong phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương đã nói gì về Thất-Sơn?

1) VỀ SỰ SẤM NỔ

2) VỀ SỰ XUẤT-HIỆN ĐỀN ĐÀI

3) VỀ SỰ CHIẾN-TRANH Ở MIỀN SƠN-LÃNH

4) VỀ SỰ DỜI NON ĐỔI NÚI

5) VỀ HỘI LONG-HOA TẠI THẤT-SƠN

6) VỀ VIỆC PHÂN-XỬ CÔNG-MINH

7) VỀ VIỆC LÚA BAY

8) VỀ TINH-THẦN ƯU QUÂN ÁI QUỐC

Chương II: Những sự mầu nhiệm nơi miền Thất-Sơn Tổng-kết

PHẦN PHỤ THÊM

Bài về Thất-Sơn của ông Vuơng-Thông tục gọi ông Sáu

Những bài thơ của Đức Thầy viết theo điệu khoán-thủ hoặc ẩn-từ có bốn chữ Bửu-Sơn Kỳ-Hương

 

CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC VÀ DANH HIỆU

1) Nguồn gốc xa xăm

Nước VIỆT NAM ở vào vùng cuối cùng của những khối núi vĩ đại từ trung tâm Á Châu đổ dốc xuống bờ biển Thái Bình Dương.

Vị trí đặc biệt ấy đem lại cho nước ta một cuộc diện lồi lõm, thay hình đổi dạng tùy theo miền. Từ Bắc chí Nam, nước ta có ba khu vực thiên nhiên. Trong ba khu vực ấy, núi non choán một phần lớn, bao bọc một vài thửa bình nguyên (đồng bằng):

1- Ở Bắc Việt: Những dãy núi hình rẽ quạt (cao từ 1.000 đến 2.000 thước) trên một cánh đồng hình tam giác (châu thổ của sông Hồng Hà và sông Thái Bình).

2- Ở Trung Việt: Dãy Trường Sơn trùng trùng điệp điệp (một con rắn khổng lồ trên ven biển) tục gọi là núi Giăng-Màn, từ bên thượng Lào xuyên qua, chạy xuống miền Nam khi bò ra tận bờ bể, khi len lỏi theo dòng sông Cửu Long. Ở đây, ngoài ra vùng cao nguyên lại có một vùng bình nguyên chạy dài theo bờ biển, khi thì rộng vài chục cây số, khi thì bị núi chặn đứt đoạn. Ấy là đồng Thanh Hóa và đồng Nghệ An (châu thổ của sông Mã và sông Cả) và vùng bình nguyên do phù sa sông Gianh, sông Nhựt Lệ, sông Cầu.

3- Ở Nam Việt: Địa thế nơi đây lại thay đổi hẳn. Dãy Trường Sơn, sau khi chạy dài 1.200 cây số ở miền Trung, lại hạ thấp chỉ còn vài ngọn núi lẻ loi trên những cánh đồng bát ngát, khi xưa là vùng biển được bồi lấp bởi đất phù sa.

Về phần Nam Việt, ta nhận thấy có ba miền thiên nhiên:

a– Miền Đông Bắc là một vùng đất cao gồm rừng và những núi như: Núi Dinh ở Bà Rịa (180 thước), núi Bà Đen ở Tây Ninh (884 thước), núi Chứa Chan (803) và núi Châu Thới (60 thước) ở Biên Hòa.

b– Miền Tây Bắc là một vùng đất cao gồm với những hòn núi như: núi Thất Sơn hay Bảy Núi trong đó có núi Cấm (716 thước), và núi Sam (237 thước) ở Châu Đốc, núi Sập (80 thước) và núi Ba Thê (210 thước) ở Long Xuyên.

c– Miền Trung Nam Việt là miền đất thấp trũng, bùn sình, trong ấy có Đồng Tháp Mười (châu thổ phì nhiêu do phù sa sông Cửu Long) và Đồng Cà Mau.

Dựa theo những điều đã dẫn trên đây, chúng ta có thể kết luận về nguồn gốc và địa lý xa xăm của các dãy núi trong nước ta như thế nầy:

Tất cả đều do dãy Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya) mà chạy dài xuống phía Nam, khi trồi lên, khi lặn xuống và chấm dứt ở miền Đông Bắc Nam Việt để rồi tủa gân ra miền Tây Bắc Nam Việt thành các dãy núi ở Châu Đốc và Long Xuyên sau thời kỳ địa chấn thứ ba (đời tiền sử). Thật vậy, các nhà địa lý học cho rằng miền Tây Nam Việt trước kia là vịnh biển và hòn đảo, nay được bồi lắp và trở thành ruộng rẫy với núi non.

Thuyết nầy rất đúng vì:

a- Trong vùng ruộng rẫy nói trên vẫn có chỗ còn thấp, nước đầy quanh năm như Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau.

b– Người ta cũng dùng danh từ hòn Tri Tôn mà chỉ định vùng Tri Tôn (Xà Tón) là nơi đã mọc nên dãy Thất Sơn hùng vĩ, một mầm non đầy sinh lực đối với dãy Hy Mã (hay ít ra cao nguyên Tây Tạng) cằn cỗi già nua… Điều nầy không có gì làm cho ta ngạc nhiên. Chúng ta hãy lấy hòn Sóc và hòn Đất ở Rạch Giá làm ví dụ… Trước kia mấy hòn nầy ở ngoài biển khơi, nhưng nhờ có đất phù sa nên đã dính liền với nội địa, dân chúng đã đến ở ăn lập nghiệp trên đó và chung quanh. Vùng nầy đã được nêu là xã Sóc sơn và xã Thổ sơn.

2) Danh hiệu Thất Sơn

A– Bảy núi là gì?

Nói đến Thất Sơn thì ai ai cũng có cảm giác rằng vùng nầy chứa đựng biết bao huyền bí mà người nào có háo kỳ đến đâu cũng khó mà tìm hiểu cho tận tường. Không cần nói chuyện xa vời, nội một vấn đề danh hiệu cũng đủ làm cho ta mệt trí. Ngay những người ở Châu Đốc nếu tình cờ các bạn bảo họ kể thử danh hiệu Thất Sơn thì chắc chắn sẽ có nhiều người lúng túng … Thất Sơn là Bảy núi. Nhưng Bảy núi là núi nào với núi nào?

a- Theo ông Lương Văn Phụng (tục gọi là Chín Tròn) ở thôn Vĩnh Thạnh Trung (Châu Đốc), trước kia theo tông phái Hiếu Nghĩa và nay là tín đồ P.G.H.H. thì Thất Sơn là:

1- Anh Vũ Sơn (núi Két).

2- Ngũ Hồ Sơn (núi Giài 5 giếng, ở gần núi Két).

3- Thiên Cẩm Sơn (núi Gấm hay núi Cấm).

4- Liên Hoa Sơn (núi Tượng).

5- Thủy Đài Sơn (núi Nước, một hòn núi thấp và nhỏ, gấn như đất bằng (vì cao không đầy 50 thước) ở gần núi Tượng, tại đó có cất một cái chùa).

6- Ngọa Long Sơn (núi Dài).

7- Phụng Hoàng Sơn (núi Tô).

b- Theo ông Hồ Biểu Chánh thì tuy gọi là “Bảy Núi” song đếm cho hết các chỏm cao thì thấy cả chục có đầu chứ không phải bảy. Người xưa có đặt cho mỗi chỏm cao một cái tên riêng như : núi Tà chiếu, núi Trà Nghịch, núi Tượng, núi Thốt, núi Ca Âm, núi Năm Sư, núi Khê Lập, núi Ba Xoáy, núi Ngất Sung, núi Nam Vi, núi Đoài Tốn, núi Chơn Sum .

Đó có lẽ là hồi mới khai mở tỉnh An Giang, quan Tổng Đốc viết sách địa dư dưng lên triều đình đã do theo thổ âm hoặc hình thế hay phương hướng mà đặt tên cho các ngọn núi trên đây. Mặt khác, dân chúng ở miền sơn cước nầy, vì không biết được sách địa dư nói trên, hoặc vì trọng phong tục hơn sử sách nên gọi là núi Trà Sư, núi Két, núi Dài, núi Tượng, núi Bà Đội Om, núi Ông Tô; còn mấy hòn núi cao nằm khoảng giữa (Ba Xoài, Ngất Sung, Nam Vi, Đoài Tốn) thì họ kêu chung là vùng núi Cấm.

c- Theo một nhà khảo cứu ngoại quốc thì Thất Sơn gồn có: Núi Trà Sư, núi Két, núi Bà Đội Om, núi Cấm, núi Dài, núi Tượng, núi Tô.

Giờ đây, chúng tôi xin nói sơ lược về vị trí của bảy hòn núi vừa kể trên (kể từ phía Châu Đốc đi vô):

1- Núi Trà Sư (cao 50 thước , chiều dài 600 thước, chiều ngang 300 thước) thuộc địa phận thôn Nhơn Hưng tổng Qui Đức quận Tịnh Biên, ở gần chợ nhà Nhà Bàng. Núi nầy có tên là Trà Sư là vì có lẽ một vị tu sĩ tên Trà đã lên đây tu đắc đạo .

2- Núi Két (cao 225 thước, chiều dài 1.100 thước, chiều ngang 1.000 thước) thuộc địa phận thôn Thới Sơn, tổng Qui Đức quận Tịnh Biên, ở gần chợ Nhà Bàng. Sở dĩ núi nầy lấy tên là núi Két là vì nó có một mỏm đá lớn giống hình mỏ Két (anh vũ).

3- Núi Bà Đội Om ( cao 251 thước, chiều dài 2.400 thước, chiều ngang 600 thước) thuộc địa phận thôn Tú Tề, tổng Thành Ý, quận Tịnh Biên, ở phía tả đường lộ tỉnh. Núi nầy được đặt tên như thế là gì giống hình một người đàn bà đội cái om .

4-  Núi Cấm (cao 716 thước, chiều dài 7.500 thước, chiều ngang 6.800 thước) nằm trên địa phận bốn thôn Vĩnh TrungThuyết Nạp (tổng Thành Ý, quận Tịnh Biên), Nam Qui (tổng thành Lễ, và Châu Lang (tổng Thành Nghĩa), quận Tri Tôn. Nó ở giữa núi Bà đội Om và núi Dài.

Núi nầy xưa kia lấy tên núi Gấm (Thiên Cẩm sơn = núi gấm trời, có lẽ vì các rặng cây xanh và các chỏm đá trắng trên núi bị “tứ vi ây phủ nhiễu đoanh” nên hiện ra màu gấm vóc đẹp xinh. Nhưng sau nầy, cái tên núi Cấm lại được phát hiện. Chung quanh cái tên núi nầy, nhiều giả thuyết đã được đưa ra:

a- Có người bảo rằng: Hoàng tử Nguyễn Ánh (sau nầy là Hoàng đế Gia Long) khi xưa thất trận bị quân Tây Sơn truy nã gắt gao, có đến ẩn náu trong núi nầy. Muốn cho sự ẩn lánh không bị tiết lộ, các quan (của nhà vua) ra lịnh cấm dân chúng vào núi nầy, viện lẽ nơi đó có nhiều yêu tinh và lắm độc xà ác thú. Danh từ núi Cấm được xuất hiện là vì cớ đó .

b- Có người lại nói rằng, sở dĩ tên núi Cấm được đặt ra là vì vùng nầy cao nhứt, cây cối mọc tràn lan dày bịt, đá nằm ngang dọc gồ ghề, khi trước không thấy khoảng trống, chẳng có đường mòn, khó cho nhà chức trách đến mà khám xét được. Cảnh hoang vu tịch mịch đó rất thuận tiện cho những tay “Lương Sơn Bạc” tụ tập để gây rối cho xóm làng và các vùng phụ cận. Muốn giữ được sự yên tịnh cho dân tình, nhà chức trách ở tỉnh đương thời mới đem ra lịnh cấm họ ở trong vùng nầy. (Cái thuyết nói tướng cướp Đơn Hùng Tín bị sở Mật Thám Mỹ Tho hạ sát năm 1926 – cấm dân gian bén mảng đến núi nầy, nơi hùng cứ của y, chắc là không đúng) .

c- Cũng có người cho rằng tên núi Cấm sở dĩ có là vì Đức Thầy Tây An tiên tri ngày sau tại đây sẽ có đền vàng điện ngọc của Minh Hoàng nên Ngài cấm chư đệ tử cất chùa hay ở trên núi nầy, để tránh sự làm ô uế núi non trong khi đại tiện hay tiểu tiện. Chúng tôi xin nói thêm rằng về khoảng nầy, Đức Giáo Chủ cũng có dặn tín đồ Ngài như thế .

5- Núi Dài hay núi Giài (cao 580 thước, chiều dài 8.000 thước, chiều ngang 4,500 thước), nằm trên địa phận bốn thôn Châu Lang, Lương Phi, Ba Chú , Lễ Trí, tổng Thành Ngãi, quận Tri Tôn. Người ta đặt tên như thế là vì núi nầy dài tới 8 cây số ngàn 6-  Núi Tượng (cao 145, chiều dài 600 thước, chiều ngang gần 400 thước), thuộc thôn Ba Chúc (tổng Thành Ngãi, quận Tri Tôn), ở gần núi Dài. Người ta kêu núi Tượng vì nó giống hình con voi.

7- Núi Tô hay Cô Tô, hay Ông Tô (cao 614 thước , chiều dài 5.800 thước, chiều ngang 3.700 thước), nằm trên địa phận bốn thôn Tri Tôn, Cô Tô, Ô Lâm và An Tức (tổng Thành lễ, quận Tri Tôn) và ở gần biên giới hai tỉnh Hà Tiên, Rạch Giá. Sở dĩ có tên trên đây là vì núi nầy giống hình cái tô lật úp.

Để kết luận đoạn nầy, chúng ta thử hỏi: Trong ba vị đã kể danh hiệu Thất Sơn, ai là người hữu lý hơn hết? Chúng tôi tưởng không dễ gì xét đoán, bởi vì:

a- Ông chín Tròn kể đủ bảy danh từ rất văn chương và có thi vị (dường như ông kể đúng hơn hết? Nhưng tại sao núi Trà Sư, núi Bà Đội v. v… lại không được kể tới?

b- Ông Hồ Biểu Chánh kể tới 12 danh từ lạ tai , nhưng không biết phải áp dụng danh từ nào vào núi nầy cho đúng .

c- Còn nhà khảo cứu ngoại quốc nói trên thì mặc dù kể bảy danh hiệu, nhưng chẳng biết tại sao không nói đến núi Giài 5 giếng, núi Xuân Tô, núi Tà Bác (hay núi Phú Cường), núi Nam Vi, núi Voi (Bà Khẹt) v. v…?

Âu cũng là một điều huyền bí!

B- Năm non là gì?

Ai ai cũng nói đến Năm Non Bảy Núi, nhưng bảo kể danh hiệu Bảy Núi thì ít có người kể được. Còn nói đến Năm Non thì rất ít người biết nó là gì. Theo kết quả sự tìm hỏi của chúng tôi thì Năm Non là Năm cái chỏm cao (vồ) của Núi Cấm. Năm cái vồ ấy là:

1- Vồ Bò Hong (vì khi xưa, ít người lai vãng, giống bò hong sinh nở nhiều vô số ở tại vồ nầy), cao 716 thước, ở về hướng Tây;

2- Vồ Đầu (Phải chăng vì là cái vồ đầu tiên mà người ta gặp được khi lên núi do ngã chợ Thum Chưn) cao 584, ở về hướng Tây Bắc;

3- Vồ Bà hay Phnom Barech (vì ở đây có một cái điện thờ bà Chúa Xứ) cao 579 thước, ở về hướng Nam;

4- Vồ Ông Bướm (vì xưa kia Ông Bướm Ông Vôi có về ẩn náo nơi đây), cao 480 thước, ở về hướng Bắc;

5- Vồ Thiên Tuế hay Phnom Prapéal (vì ở đây có nhiều cây thiên tuế), cao 514 thước, ở về hướng Đông.

Để kết luận đoạn nầy, chúng tôi xin nhấn mạnh về sự quan trọng nhứt của Núi Cấm, một hòn núi mà từ trên không dòm xuống ta thấy chu vi chân núi vẽ thành một cái hình tam giác ba cạnh bằng nhau .

Trong những đoạn sau, chúng tôi sẽ nói nhiều về núi nầy.


CHƯƠNG II: LỊCH SỬ THẤT SƠN QUA CUỘC NAM TIẾN HOÀN THÀNH

1) Trong lúc Thất Sơn còn thuộc đất Chân lạp, tình hình Trịnh – Nguyễn phân tranh và bước đầu cuộc Nam tiến ra sao?

Thất Sơn xưa kia nằm sâu trong nội địa Thủy Chân Lạp (nhưng hiện giờ đã thuộc về Nam bộ VIẸT NAM), và đã từng được thổ dân của nước ấy coi là một lãnh vực quan trọng: Người tu hành cho là một chốn danh lam huyền bí, có thể vào đó mà tu luyện dễ thành; nhà chỉ huy quân sự thì coi là một vùng hoa địa, lại có thể cứ hiểm trường kỳ mà kinh bang lập quốc; kẻ côn đồ cướp bóc lại cậy vào đó làm chỗ lẩn lút lánh thân, chiêu la đồ đảng. Vì thế, trên bước đường tiến thủ của dân tộc Việt, đất Hà Tiên là một xứ ở biên thùy dị vực (sau lưng dãy Thất Sơn), đã lọt vào nước ta từ năm 1714 mà mãi đến 45 năm sau (1759), mức cuối cùng của cuộc tiến binh vào Nam, Thất Sơn mới thu về đất VIỆT.

Muốn rõ được lịch sử quan trọng của vùng sơn lãnh xa xôi ấy, và để hiểu được cả miền đất đai phì nhiêu chung quanh đây đã sáp nhập vào bản đồ nước Việt từ năm nào, và như thế nào, chúng ta hãy ngược vòng lịch sử, xem xét lại tình hình chánh trị của nước ta từ 100 năm trước ngày hoàn thành cuộc Nam tiến.

Từ khi có cuộc Nam Bắc phân tranh (Trịnh Nguyễn bảy lần đánh nhau trong quãng 45 năm 1627–1672), làm cho dân gian trong nước luôn luôn đói khổ, cho nên có nhiều người bỏ xứ chạy vào vùng Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa) để khai mở ruộng đất làm ăn.

Năm Mậu Tuất (1858), ở Chân Lạp nhân có cuộc tranh chấp ngai vàng trong hoàng tộc, họ sang cầu cứu với nước ta. Chúa Nguyễn bấy giờ là Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền 1648 – 1687) còn phải bận lo công việc chống giữ họ Trịnh ở phía Bắc, nhưng vì quyền lợi của dân Việt miền Nam nên cũng chia quân sang đánh xứ Mỗi Xuy (nay thuộc tỉnh Biên Hòa), bắt được vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân. Ông Chân xin hàng và hứa sẽ binh vực người Việt sang làm ăn trong đất họ.

Năm Giáp Dần (1674), lại có cuộc giành ngôi trong hai ngành hoàng phái Chân Lạp: Nặc Ông Đài và Nặc Ông Nộn. Trong khi Nặc Ông Đài xuất ngoại cầu cứu với Xiêm La thì Nặc Ông Nộn sang cầu cứu với Chúa Hiền. Chúa Hiền sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm và Tham Mưu Nguyễn Đình Phái đem binh sang đánh Nặc Ông Đài. Binh ta phá được thành Sài Côn (1) rồi tiến thẳng lên vây thành Nam Vinh (Nam Vang: Phnompenh). Nặc Ông Đài chống không nổi quân ta, phải bỏ thành mà chạy (sau chết ở trong rừng), còn con là Nặc Ông Thu ra mặt đầu hàng. Vì Nặc Ông Thu là dòng con trưởng, nên ta cắt cho làm đệ nhứt quốc vương, đóng ở Long Úc, để Nặc Ông Nộn làm đệ nhị quốc vương, đóng ở Sài Côn. Hằng năm, hai vua phải dâng phẩm vật triều cống.

Lúc bấy giờ Chúa Trịnh ở mặt Bắc, sau khi tiến binh vào Nam lần thứ bảy (1672) không thắng được chúa Nguyễn, bèn để lại Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt ở lại làm Đô Đốc trấn thủ Hà Trung, lấy sông Linh Giang (ngày nay là sông Gianh) làm giới hạn rồi rút binh về, không xâm lấn nữa. Vì vậy, miền Nam được rảnh tay, chúa Nguyễn một mặt lo củng cố nội bộ, một mặt lo tiến lần vào Nam.

Từ đó dân ta di cư vào Chân lạp mỗi ngày một đông, thế lực mỗi ngày một mạnh . Năm Mậu Thìn (1688) nhân có sự làm loạn giữa những người khách trú do Hoàng Tiến cầm đầu (trước vào hàng Chúa Nguyễn xin làm dân Việt) chống nhau với Nặc Ông Thu (đệ nhất quốc vương Chân Lạp), Nặc Ông Thu bỏ lệ triều cống, không chịu thần phục nước ta nữa, lại đào hào đắp lũy, lập thế chuẩn bị đối địch.

Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn (1687 – 1691) hay tin xua quân vào đánh, giết được Hoàng Tiến và đồng thời vua Chân lạp cũng khiếp sợ mà xin thần phục như cũ. Những đất dân ta và người Tàu nhập tịch đã khai thác như Lộc Dã, Ba Lân (tức đất Đồng Nai, thuộc Biên Hòa), Mỹ Tho (thuộc Định Tường) được tự do làm ruộng, lập làng, mua bán.

Năm Mậu Dần (1698) Quốc Chúa là Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) thấy dân ta làm ăn thịnh vượng và đông đúc, bèn sai ông Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố ra làm dinh huyện, đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (Gia Định) rồi sai quan vào cai trị.

Mùa thu tháng 8 năm Giáp Ngọ (1714) (2), có người khách Quảng Đông tên là Mạc Cửu (3) từ lâu sang khai khẩn đất Mang Khảm (Hà Tiên), làm quan Ốc Nha (như chức Tri phủ) cho nước Chân Lạp, nay thấy nước ấy hèn yếu lại hay chia rẽ, bèn thân hành đến Phú Xuân, dâng biểu xin nạp bảy xã của mình đã khai phá được trong nước Chân Lạp (có cả hòn Phú Quốc), mà quy phục Nam Triều. Chúa Nguyễn ưng chịu và đổi tên đất Mang Khảm lại là Hà Tiên trấn (4), phong cho Mạc Bính giữ trấn Hà Tiên, lại ban ấn triện, mãng mạo và cho người đưa về trọng hậu.

Xét ra từ năm 1672 là năm đã ngưng hẳn cuộc đánh nhau với Trịnh ở Bắc, chúa Nguyễn mới tiến được vào Nam. Nhưng giai đoạn nầy cũng chỉ chiến được miền Đông, và phía Tây, thâu phục trấn Hà Tiên mà thôi, còn các vùng rừng sát hoang vu cực Nam như Lội Lạp (ngày nay là Gò Công), Tầm Bôn (ngày nay là Tân An), vùng các cửa sông như Ba Thắc (ngày nay là Sóc Trăng, Bạc Liêu), Trà Vang (ngày nay là Trà Vinh, Bến Tre) và đất Tầm Phong Long ngày nay là vùng Thất Sơn chạy dọc xuống một phần Sa Đéc), vẫn còn thuộc của người Chân Lạp cố thủ. Nhất là vùng Thất Sơn, ho Mạc về sau đã nhiều phen lăm le lấn sang, nhưng gặp phải địa thế hiểm trở và thường có sự chống trả của người Chân Lạp do Nặc Bồn từ phía Sài Mạt (Cheal Meas) chỉ huy đánh phá hai mặt (Sài Mạt ở Bắc và Thất Sơn ở phía Đông Hà Tiên), nên đành phải thôi và chỉ khai thác lần hồi trở xuống miền duyên hải Thủy Chân lạp (1739).

2) Chánh sách “tàm thực” đã áp dụng thời ấy như thế nào?

Trong khi chúa Nguyễn lo bành trướng thế lực vào Nam thì ở Bắc Hà, chúa Trịnh vì chánh sách tham tàn nên phải bị hãm vào một tình trạng bế tắc: các tầng lớp dân chúng trong xã hội từ bần nông, thương nhân đến sĩ phu đều bất bình, hoặc theo các tôn thất nhà Lê. (Lê Duy Chúc, Lê Duy Quý, Lê Duy Mật) hoặc nổi lên dấy nghĩa hô hào diệt Trịnh phù Lê, như Nguyễn Cừ ở Hải Dương (1739), Vũ Đình Dung ở Sơn Nam, Nguyễn Danh Phương (Quận Hẻo) ở Tuyên Quang (1740 – 1750), Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) ở ven bể Đồ Sơn (1743 – 1751) v.v …

Năm Giáp Tý (1744), Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) thấy thế lực miền Nam đã có cơ vững chắc, (chiến thêm đất Long Hồ Vĩnh Long 1731), và trong vòng 8 năm sau, Long Xuyên (miền Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (miền Cần Thơ) và Trấn Di (miền Bạc Liêu, Bãi Xàu), lại thấy sự suy bại của chúa Trịnh miền Bắc mỗi ngày một trầm trọng, nên sau sáu năm trị vì, chúa bèn xưng vương, lấy hiệu là Vũ Vương, rồi phong vương cho các vị tiền bối của chúa là:

1- Nguyễn Hoàng, Thái Tổ Gia Dũ (Chúa Tiên 1558 – 1613).

2- Nguyễn Phúc Nguyên, Hy Tông Hiếu Văn (Chúa Sãi 1613 – 1635).

3- Nguyễn Phúc Lan, Thần Tông Hiếu Chiêu (Chúa Thượng 1636 ­- 1648)

4- Nguyễn Phúc Tần, Thái Tông Hiếu Triết (Chúa Hiền 1648 – 1687).

5- Nguyễn Phúc Trăn, Anh Tông Hiếu Nghĩa (Chúa Nghĩa 1687 – 1691).

6- Nguyễn Phúc Chu, Hiển Tông Hiếu Minh Quốc Chúa (1691 – 1725).

7- Nguyễn Phúc Chú, Túc Tông Hiếu Ninh (Định Quốc Công 1725 – 1738).

Với chí làm việc lớn, ngài sắp đặt phẩm trật cho các quan văn võ. Quan chia ra làm 6 bộ, bộ về văn học gọi là Hàn Lâm. Đạo về vệ binh thì đặt làm Võ Lâm.

Nước chia ra làm 12 dinh:

1- Chính dinh (Phú Xuân).

2- Cựu dinh (Ái Tử).

3- Quảng Bình dinh.

4- Vũ Xá dinh.

5- Bố Chính dinh.

6- Quảng Nam dinh.

7- Phú Yên dinh.

8- Bình Khang dinh.

9- Bình Thuận dinh.

10- Trấn Biên dinh

11- Phiên Trấn dinh.

12- Long Hồ dinh.

(Dinh 7, 8, 9 đất thu được của nước Chiêm Thành – Dinh 10 , 11, 12 đất thu được của Chân Lạp).

Dinh nào cũng đặt quan Trấn Thủ cai trị, duy có đất Hà Tiên thì đặt làm trấn do Mạc Thiên Tích làm quan Đô Đốc cai trị như trước.

Lúc nầy vua Chân Lạp là Mặc Ông Tha (Sothea) nhờ Vũ Vương ủng hộ mà được làm vua ở La Bích (Lovek) (1736 – 1748) nhưng sau đó, Nặc Ông Thâm (Thomea) chú của Tha, thua chạy trốn sang Xiêm từ năm 1715 lại trở về đánh đuổi Nặc Ông Tha và cướp lấy ngôi (1748). Song chẳng bao lâu Thâm mất.

Mấy người con của Thâm tranh ngôi nổi loạn, có người sang cầu cứu với nước ta, Vũ Vương sai Nguyễn Hữu Doãn làm Thống suất, đem binh đánh dẹp và lập Nặc Ông Tha làm vua trở lại. Được vài tháng, Tha bị con của Thâm là Nặc Ông Nguyện (Ang–nguôn) viện binh Xiêm về đánh (1750). Tha bị thua, phải bỏ chạy sang Gia Định, cầu cứu với nước ta, nhưng việc chưa thành thì Tha đã chết ở đấy.

Nặc Nguyên từ khi tranh được ngôi vua thường hay đem binh lấn hiếp người Côn-Man là tàn tích dân Chiêm Thành, sang trú ngụ ở Chân Lạp từ năm 1693. Mặt Bắc lại thông sứ với chúa Trịnh Doanh (1740 – 1767) để lập mưu đánh Vũ Vương mà dành lại đất Thủy Chân Lạp.

Chúa Nguyễn biết tình thế ấy, nên mùa đông năm Quý Dậu (1753) sai ông Thiện Chính (khuyết tên) làm Thống suất, và ông Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu, điều khiển tướng sĩ năm dinh (5) đánh Nặc Nguyên. Quân tiến đến Ngưu Chữ (Bến Nghé), lập dinh trại, kén sĩ tốt, trừ bị rất nhiều để làm kế khai cương thác địa.

Đến mùa hạ năm Giáp Tuất (1754) ông Thiện Chính và ông Cư Trinh chia quân tiến lên. Quân ta trẩy đến đâu, giặc đều quy phục; đi qua đất Tần Lê (?), ra đến sông Lớn (có lẽ là sông Vàm Cỏ) cùng hội quân với ông Thiện Chính ở đồn Lô Yêm (?). Từ đó nhất tề tiến binh. Những phủ Lôi Lạp (Soi Rạp, Gò Công), Tầm Bôn (Tân An), Cầu Nam (Ba Nam), Nam Vinh đều hàng cả. Quân ta chiêu phục được người Côn Man theo về rất đông để làm thanh thế .

Nặc Nguyên bị mất cả thành trì phải chạy trốn với một ít tàn binh xuống vùng Thất Sơn, nhưng sau sợ họ Mạc và binh triều biết tin đánh úp hai mặt, lại bỏ chạy đến gần Vĩnh Long; gặp mùa nước nổi, quân ta phải ngưng đánh đuổi .

Mùa xuân năm Ất Hợi (1755), ông Thiện Chính từ Nam Vinh rút quân về đồn Mỹ Tho, dẫn theo hơn một vạn người Côn Man mới chiêu phục. Khi đi đến đất Vô Tà Ân (vùng Đồng Tháp Mười), bị quân của Nặc Nguyên bất thình lình ồ ra đánh úp, chận bắt lại người Côn Man. Quân của ông Thiện Chính đi hậu bị mắc bụi rậm, vũng lầy, không tiếp viện kịp. Ông Cư Trinh mới đem binh của ông đến cứu được lối năm ngàn người, vừa trai vừa gái rồi đem về trú ở núi Bà Đinh (bây giờ là núi Bà Đen, Tây Ninh).

Triều đình bắt tội ông Thiện Chính về việc để thất cơ binh và mất dân mới về hàng, giáng ông từ chức Thống suất xuống làm Cai đội, cho ông Trương Phúc Du vào thay thế.

Trương Phúc Du hiệp cùng Nguyễn Cư Trinh, cho người Côn Man đi tiền phong đến đánh hai phủ Cầu Nam và Nam Vinh.

Nặc Nguyên trận nầy thua to, binh tướng tan rã hết, cùng đường phải chạy sang Hà Tiên, khẩn thiết yêu cầu Mạc Thiên Tích nhờ xin hộ với Chúa Nguyễn , dâng đất hai phủ Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội và bổ vào lệ triều cống đã bỏ ba năm về trước, cùng để xin cho trở về nước làm vua lại.

Vũ Vương không cho, vì giận Nặc Nguyên đã nhiều lần phản trắc. Ông Nguyễn Cư Trinh thấy vậy dâng sớ tâu rằng:

“Từ xưa, sở dĩ dùng đến binh, chẳng qua là muốn giết đứa cừ khôi, mở mang bờ cõi mà thôi. Nay Nặc Nguyên đã hối quá, biết nộp đất, hiến của. Nếu không cho nó hàng, thì nó chạy trốn; mà từ Gia Định đến La Bích, đường xá xa xôi, không tiện đuổi đánh. Vậy muốn mở mang bờ cõi, chi bằng hãy lấy hai phủ ấy, giữ chặt phía sau cho hai dinh (Phiên Trấn và Trấn Biên). Năm xưa, đi mở phủ Gia Định, trước phải mở phủ Hưng Phúc (Biên Hòa), rồi mở đến phủ Lộc Dã (Đồng Nai), để quân dân đoàn tụ, rồi sau mới mở đất Sài Côn. Đó là cái kế  “tằm ăn dâu” đó .

“Nay từ Hưng Phúc đến sài Côn đường đi chỉ hai ngày, mà dân cư còn chưa yên tập, quân giữ cũng có đứa chưa khỏe; phương chí từ Sài Côn đến Tầm Bôn, đường đi trong vòng sáu ngày, thì binh trụ phòng, thực sự chưa đủ.

“Thần thấy người Côn Man đánh đường bộ rất tài, quân Chân Lạp cũng đã chột dạ. Nếu cho người Côn Man ở đấy, sai nó ngăn chống, cũng là kế hay. Vậy nên xin cho nước Châp Lạp chuộc tội, lấy hai phủ ấy, cho thần xem xét tình thế, đặt lũy đóng quân, cấp điền sản cho quân dân, chia địa giới, lấy châu Định Viễn để thâu cả toàn bức”.

Vũ Vương thấy lời tâu hữu lý nên thuận theo nhận lấy hai phủ (1756) và cho Nặc Nguyên về nước.

Từ đây, với kế hoạch “Tàm thực”, ông Nguyễn Cư Trinh cho người Côn Man mở đất làm ruộng và người Việt lần lần tan ra nhiều nơi. Hồi nầy, hầu hết đất Thủy Chân Lạp đã rải rác có dấu chân người Việt, duy còn có đất Tầm Phong Long, vì có vị trí then chốt của Thất Sơn, dân ta chưa tiến lên được.

3) Mức cuối cùng của cuộc Nam tiến, Thất Sơn mới thu về đất Việt

Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận (Neac Ang Nhuận) làm Giám quốc xin dâng đất Trà Vang và Ba Thắc để cầu được chúa Vũ Vương phong cho làm vua. Song liền sau đó, Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh nổi loạn giết đi mà cướp lấy ngôi vua (1758).

Bấy giờ con của Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên cầu cứu với Mạc Thiên Tích. Thiên Tích dâng sớ tâu bày các việc của nước Châp Lạp vừa xảy ra và đề nghị ủng hộ cho Nặc Tôn được về nước làm vua, kế vị cho cha. Vũ Vương bằng lòng và sai tướng sĩ Ngũ dinh tại Gia Định hợp với Thiên Tích mà lo việc ấy, Trương Phúc Du vâng lịnh đem binh đánh dẹp. Nặc Hinh thua chạy và sau bị kẻ thuộc hạ giết. Hoàng tử Nặc Non cùng một ít họ hàng nhà vua bôn đào sang Xiêm.

Mạc Thiên Tích đưa Nặc Tôn về nước rồi lập lên làm vua, và được Vũ Vương phong cho chức Phiên Vương .

Để đền lại cái ơn rất trọng hậu của Vũ Vương, Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long (1759), trong ấy có cả vùng Thất Sơn quan trọng mà ngót 100 năm (1658 – 1759) , từ khi bắt đầu có cuộc đụng chạm với người Việt, lúc nào người Chân lạp cũng: hoặc dùng làm nơi trú ẩn, hoặc nương vào vị trí hiểm trở mà tiến binh. Ngoài ra Nặc Tôn còn cắt thêm năm phủ: Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Sài Mạc (Cheal Meas), Chưng Rừm, Lình Quỳnh (vùng duyên hải từ Sré – Ambel đến Peam) để riêng tạ ơn Thiên Tích. Mạc Thiên Tích đều đem dầng về cho Vũ Vương. Vũ Vương cho sáp nhập vào trấn Hà Tiên (6).

Muốn ngăn ngừa sự khuấy nhiễu của người Xiêm La và Chân Lạp, ta lại đặt ra nhiều đồn lũy cố thủ.

Về đường bộ, miền đông và miền trung: một đạo (binh Côn Man) đóng ở Tây Ninh và một đạo đóng ở Hồng Ngự (Châu Đốc), liên lạc nhau do đường tắt biên giới (Đồng Tháp Mười), Soài Riêng (7). Miền Tây: một đạo đánh ở Tịnh Biên để án ngữ Thất Sơn và liên lạc với hai đồn binh: Giang Thành và An Giang.

Về đường thủy, lập đồn ở hai bên bờ Cửu Long Giang, gần nẻo biên thùy:

1- Tân Châu đạo ở Tiền Giang (quân đóng tại Cù Lao Giêng).

2- Châu Đốc đạo ở Hậu Giang (quân đóng ở bến An Giang, liên lạc với Tịnh Biên để phòng ngự Thất Sơn) .

3- Đông Khẩu đạo ở Sa đéc (làm hậu thuẩn cho hai đạo tiền phong: Tân Châu và Châu Đốc).

Thế là trọn một thế kỷ, đất Thủy Chân Lạp hoàn toàn thuộc về nước Việt Nam ta, và dãy Thất Sơn trùng điệp hiên ngang nằm dọc sau sông Cửu Long kia đến mức sau cùng của cuộc Nam tiến mới “chịu” nhập vào với lũy tre xanh ngàn đời, để tô đắp thêm cho giang san thanh tú của con Hồng cháu Lạc.

4) Thất Sơn với con mắt nhà địa lý của họ Mạc

Theo như những người đã biết, cái ếm ở Bài Bài, thuộc làng Nhơn Trung, huyện Tịnh Biên (Châu Đốc), do ông Phạm Thái Chung, tục gọi là ông đạo Lập, một đệ tử được phép chơn truyền của Đức Phật Thầy Tây An, khám phá ra được ở quanh miền rừng núi thiêng liêng nầy từ xưa. Nhưng ít ai để ý xem tại sao mà có, hoặc do ai làm ra với mục đích gì .

Căn cứ vào những chữ còn sót lại trên mặt các ếm nầy mà xét (vì tấm đá mòn chữ đi nhiều): Hoàng Thanh, Càn Long ngũ thất niên, trọng thu, cốc dân, thì biết được cái ếm nầy chôn vào mùa thu, tháng 8, năm Càn Long nhà Thanh thứ 57 tức là năm 1792 dương lịch. Lúc nầy chính là lúc con cháu Mạc Cửu còn trọng nhậm tại Hà Tiên (Mạc Tử Sanh, Mạc Tử Thiệm). Trừ bọn họ ra, vùng nầy thuở đó không còn có đám người Minh Hương nào khác nữa. Như thế, ta có thể nói là cái ếm nầy của bọn họ Mạc, với con mắt nhà địa lý, hoặc vì thấy vượng khí của vùng sơn lãnh linh thiêng, hoặc bởi biết có long huyệt, sợ đất Việt sẽ phát sinh thánh chúa sau nầy nên họ đã ếm trấn ngay từ khi cuộc Nam tiến của nước ta được hoàn thành (8).

Tại sao họ Mạc đã xin làm dân Việt, đã làm quan cho nước ta mà còn sợ vượng khí của non sông anh tú? Điều đó rất dễ hiểu. Xem hai câu thơ kết thúc trong bài “Lư khê nhàn điếu” của Mạc Thiên Tích:

“Hải thượng tà đầu thời độc tiếu,

“Di dân thiên ngoại nhất ngư ông (9).

Ta cũng đủ biết cái chí khí của họ Mạc bao giờ cũng nuôi mộng bá vương, chờ cơ vùng vẫy. Hơn nữa “Mạc thị sử” còn cho ta biết thêm rằng từ khi vua chúa Vũ Vương lên ngôi (1744), thị sự chia dinh định phủ được sắp đặt như thế nầy: từ Phú Xuân đến Bình Thuận: 9 dinh ; còn phần đất mới lấy được của Chân Lạp thì từ Trấn Biên đến Long Hồ: 3 dinh. Duy đất Hà Tiên vẫn để y làm trấn, họ Mạc được ba năm một lần triều cống như lệ của nước chư hầu. Như thế, tuy chưa được cái danh nghĩa cô quả, chứ thực đã có cái tư cách bá vương. Lại như nay tại Hà Tiên, trên Bình San còn có nền tế sơn xuyên, nền tế xã tắc, thì đủ biết họ Mạc bị thúc đẩy đến chỗ không muốn cho Việt Nam có Minh quân Thánh chúa ra đời tại vùng Thất Sơn (điều mà ta cho là việc dĩ nhiên, không chi làm lạ).

Hơn nữa, là sau ngày xuống cái ếm nầy lối 60 năm, vào khoảng 1849–1856 Đức Phật Thầy Tây An đã cho Đức Cố Quản Thành trồng bốn cây thẻ quanh vùng Thất Sơn. Ý chừng Ngài đã biết rõ sự trấn ếm của họ Mạc nên cấm thẻ để trấn áp cho ếm mất thiêng đi, hoặc vì sự che chở cho anh linh vượng khí hay long nguyệt nước Việt ta mà Ngài có phận sự phải làm! Hiện giờ, ếm còn thấy một cây (10) và thẻ chỉ còn một vài di tích (nay được cất dinh thờ ở Láng Linh (Châu Đốc) và người đời gọi là dinh ông Thẻ) Âu cũng là một dấu tích kỳ bí, để cho người đời còn có thể phăn ra nguồn gốc vậy.

_________________________________________________

Chú thích:

(1) Sài Côn, chữ Cao Miên là Prei–Kor (rừng bông gạo). Khi người Việt vào ở thì người Cao Miên gọi là Preinokor (rừng kinh đô). Do Sài Côn mà có tên Sài Gòn ngày nay.

(2) Việt Nam Sự Lược chép là năm Mậu Tý (1708) nhưng xét theo Mạc Thị Sử

(Nam Phong số 143 – 1929) thì năm 1714 có phần đúng hơn.

(3) Mạc Cửu không thần phục nhà Thanh, trốn sang đất Cao Miên và đến mở đất Mang Khảm trước năm 1674, đến năm 1714 mới thần phục nước ta.

(4) Hai chữ tên trấn Hà Tiên trong truyền là nhân một đêm thanh vắng, người ta thấy trên sông ở đấy (tức Đông Hồ và cửa thông ra biển Kim Dữ bây giờ) có các vị tiên nữ hiện xuống chơi, bày ra cuộc du hồ, nên mới đặt là Hà Tiên, lấy nghĩa là sông có tiên hiện xuống chơi.

(5) Thiện Chính Hầu thống lĩnh binh quyền hiệp cùng Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh làm quan tham mưu điều kiển năm dinh là Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, đồn binh tại Bến Nghé (theo sách Gia Định thông chí)

(6) Năm phủ nầy đến đời vua Tự Đức, năm 1848, đã giao trả lại cho nước Cao Miên.

(7) Hiện giờ còn có rất nhiều di tích người Chàm ở Hồng Ngự và Tây Ninh là do cuộc dồn binh nầy hồi xưa mà ta đã dùng người Côn Man đóng ở đó.

(8) Sự trấn ếm và muốn đè nén không cho dân Việt có được Thánh nhân ra đời đối với người Tàu là thường. Xem như ngày xưa, tương truyền có Rồng ở lưu vực Hồng Hà thời Hồng Thủy. Nó theo dõi đường Nam tiến để yểm trợ dân Việt. Thầy địa lý của Tàu là Cao Biền đã theo dấu đến xứ Việt Nam, dinh trấn ếm và giết cho hết, không để cho nó hun đúc tinh thần dân tộc Việt. Nào dè Rồng thiêng đã ẩn mình kịp xuống tại Vịnh Hạ Long.

(9) Dịch nghĩa:

Trên biển riêng cười cơn xế bóng,

Đem dân ngoài cõi một ngư ông.

(10) Trường hợp như cây ếm trên đây không phải là một Tương truyền rằng Đức Bổn Sư còn lấy được ở núi Nước một cái ếm khác, trên ếm có trồng 3 cây đa để che lấp đi. Khi Đức Bổn Sư phá được ếm ấy thì người Tàu ở Hà Tiên rất oán ghét Ngài. Họ mướn người theo dõi để ám hại.

CHƯƠNG III: SỰ QUAN TRỌNG CỦA THẤT SƠN

1) Quan trọng về mặt chiến lược

Nằm trong khu tam giác Tịnh Biên, Nhà Bàng, Tri-Tôn, vùng Thất Sơn choán một địa thế bề dài lối 30 ngàn thước, bề ngang độ 17 ngàn thước, (lối 1/7 diện-tích tỉnh Châu Đốc) và trở thành một pháo đài thiên nhiên vô cùng kiên cố bên cạch Miên-Quốc và Thái-Lan, án ngữ cả vùng bờ biển Hà-Tiên, Rạch-Giá.

Thật vậy, từ cổ chí kim, từ Âu sang Á, không một chiến lược gia nào có thể phủ nhận cái phần ưu thắng về tính cách địa hiểm của núi non trong việc điều binh khiển tướng.

Vua Lê Thái Tổ, nhà anh hùng áo vải ở núi Lam Sơn, trong mười năm kháng chiến với quân Minh đã phải ba lần rút về núi Chí Linh để cố thủ.

Ông Hoàng-hoa-Thám tức Đề-Thám, trong hai chục năm chống Pháp đã nổi danh là “Con hùm Yên-Thế” vì chiếm được Yên-Thế sơn làm hơi hiểm cứ.

Nguyễn-Hoàng cũng đã hiểu rõ sự quan trọng của núi non về mặt chiến lược nên trước khi mất có dặn người con thứ sáu là Nguyễn-phúc-Nguyên rằng: “Đất Thuận, Quảng nầy bên Bắc thì có núi Hoàng-Sơn, sông Linh-Giang, bên Nam thì có núi Hải-Vân và núi Bí-Sơn thật là một nơi trời để cho người anh-hùng dụng võ…”

Ngày nay, trong thế cuộc nước nhà, nếu ai chiếm được vùng Thất-Sơn thì Người Ấy sau nầy sẽ nắm phần ưu thắng trong tay, chẳng khác vua Đinh-Tiên-Hoàng (Vạn-thắng vương) đã dẹp loạn sứ quân, dựng nên nghiệp cả nhờ giữ được động Hoa-Lư, hay Trương-Lương đã rựcrỡ thành công nhờ biết lui về Ba-Thục để lập chiến khu (chiến lược nầy đã làm cho Tưởng Giới-Thạch phải than phục và học đòi bằng cách rút về Trùng-Khánh để trường kỳ kháng Nhựt).

Thật vậy, một khi ta đàng hoàng chiếm cứ Thất-Sơn làm nơi dụng võ mà địch quân nào dám bén mảng đến vùng thung lũng của vị trí nầy thì chắc chắn họ sẽ hoàn toàn thảm bại còn hơn Pháp quân ở Điện Biên-Phủ.

 

2) Quan trọng về mặt kinh tế

Đã quan trọng cho việc quốc phòng (về mặt chiến lược như trên đã nói), vùng Thất-Sơn lại còn quan trọng cho dân sinh về mặt kinh tế, vì nó bảo trợ và chi phối những vùng đồng ruộng phì nhiêu bao la bát ngát (Đồng Tháp-Mười và Đồng Cà-Mau) được thấm nhuần bởi con sông Cửu-Long và những sông ngòi kinh rạch chi-chít khắp nơi, rất tiện cho việc cho việc trồng trọt cấy cày và giao thông vận tải.

Dưới đây xin lược kê vài nguồn lợi phong phú của vùng nầy về nông sản, chăn nuôi, lâm sản, khoáng sản, giang sản và hải sản:

a. Về nông-sảnngười ta lại còn chia ra nông sản chánh và nông sản phụ.

Nông sản chánh gồm có lúa và dừa.

Lúa (món ăn căn bản của người Việt-Nam và là sản phẩm quan trọng nhứt) chiếm tám chục phần trăm (80%) các nguồn lợi. Diện tính trồng trọt ở Nam-Việt được trên 30 ngàn mẫu tây và số sản xuất hằng năm trên 4 triệu tấn. Về phương-diện lúa gạo, Việt-Nam ta đứng vào hạng nhứt nhì ở Đông-Nam-Á. Sở dĩ được vậy là nhờ các vùng đồng ruộng mênh mông thuộc châu thổ sông Cửu-Long và đồng Cà-Mau. Bởi lẽ đó, người ta gọi mấy vùng nầy là vựa lúa của nước Việt-Nam.

Dừa (một loại cây kỹ nghệ rất hữu ích) cũng được trồng trọt rất nhiều trong các vùng nầy, nhứt là ở Mỹ-Thọ và Bến-Tre.

Về nông sản phụ thì lại có cây thực phẫm và cây kỹ nghệ:

1. Ngoài ra lúa, ở vùng nầy người ta còn trồng nhiều thứ cây thực-phẫm khác như: bắp, khoai đậu, mè, mì, sắn, tiêu, mía, trái cây (cam, quít, ổi, chuối…)

2. Cây kỹ nghệ cũng có nhiều để cung cấp nguyên liệu cho các xưởng máy như: bông vải, gai, thuốc lá đậu phộng.

b. Về sự chăn nuôi tuy còn kém khuyết nhưng gà, vịt, heo, dê, trâu, bò cũng có thể gọi là đủ dùng.

c. Về lâm sản, vùng thất Sơn có rất nhiều gỗ quí như: cà chất, câm xe, cẩm lai, giá tị, trắc, sến, nu, sao… Những rừng rú điệp điệp trùng trùng lại còn cung cấp vô số củ nâu, dây trại, dây mây và vô số dược liệu như: đầu khấu, sa nhơn, chỉ xác, đổ trọng…
Ở vùng đồng bằng có các nơi ven biển như: Hà-Tiên, Rách-Giá, Bạc-Liêu, Cà-Mau lại còn có kho vô tận dừa lá, chun bầu, bần, tràm, đước, vẹt, lác, đưng… dùng vào việc xây dựng nhà cửa cho dân cư hoặc để cắt củi hầm than bán lại cho dân gian và ngoại bang tiêu thụ.

d. Về khoáng sản, nếu miền Bắc-Việt có nhiều mối lợi vô biên với những mỏ than, vàng, sắt, kẽm, bạc, thiếc, đồng, chì… thì, ngoài thứ đá làm nhà ở Châu-Đốc, Long-Xuyên và đá làm vôi ở Hà-Tiên, ai dám bảo Miền Nam, nhứt là vùng Thất-Sơn, lại chẳng có nhiều của quí sẽ tìm được sau nầy? Đức-Huỳnh Giáo-Chủ há không có nói: “Trên bảy núi còn nhiều báu lạ”? Rất đổi núi Ba-Thê ở Long-Xuyên (gần Thất-Sơn) mà còn có vàng thay, huống gì Thất-Sơn!

e. Về giang sản thì bất tất phải có nhiều, vì ai mà chẳng biết miền tây Nam-Việt chi chít sông ngòi kinh rạch có vô số cá tôm, dư sức nuôi sống mấy triệu gia đình quanh năm sống bằng lộp, câu, chài, lưới và dư sức cung phụng cá mòi, cá linh, cá cơm cho kỹ nghệ nước mắm.

g. Về hải sản, tưởng không cần phải nói nhiều về sự quan trọng của nghệ đánh cá ở vùng duyên hải Hà-Tiên, Rạch-Giá, Cà-Mau và nghề làm muối ở Bặc-Liêu.

Một ký giả ngoại quốc nói rằng tỉnh Bạc-Liêu có 4 kho vàng vô tận là: vàng vàng (lúa), vàng xanh (cây làm củi), vàng đen (than củi) và vàng xám (muối).

Chính các phú nguyên dồi dào nói trên đã làm cho một số người thèm thuồng tiếc uổng, cứ cố bám chặt như con tôm đeo dính miếng dừa, cho đến khi nào bị hất vào xuồng câu mới đành chịu nhả. Đức-Huỳnh Giáo-Chủ trong lúc đi khuyến nông tại Bạc-Liêu (năm 1945) có điểm một nụ cười mỉa-mai kín đáo khi đọc đến câu:

“Chỉ có xứ Nam-Kỳ béo bở,
Cơ hội nầy bỏ dở sao xong!”

3) Quan trọng về mặt địa lý

Bàn về địa-lý (phong-thủy) ta nên đặc biệt quan tâm đến những trọng điểm nầy:
Thất-Sơn nằm trên địa phận tỉnh Châu-Đốc và sông Cửu-Long cũng chảy qua tỉnh nầy.
Mà Thất-Sơn tức là Bửu-Sơn hay Bảo-Sơn (1) thì quí báu vô ngần, hiển linh tột bực: Nơi đây đã có nhiều vị tu hành chứng quả Phật, Tiên, Thần, Thánh. Chính phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương đã phát hiện tại vùng nầy.

_______________________________________________

(1). BỬU là quí báu, SƠN là núi, Bửu-Sơn là núi quí báu.


Còn Cửu-Long tức là Bửu-Giang hay Bảo-Giang. Con sông nầy được coi như là con sông quí báu, vì nó là con sông lớn nhứt và dài nhứt trên hoàn-cầu (hơn 4.500 cây số ngàn), phát nguyên từ bên Tây-Tạng, nơi mọc lên dãy núi Hi-Mã-Lạp-Sơn cao nhứt hoàn-cầu (8.840 th.) và là nơi Đức Phật Thích-Ca đã đắc quả chánh đẳng chánh giác. Con sông nầy chảy sang Việt-Nam, qua Nam-Việt (nhứt là tỉnh Châu-Đốc) rồi tuôn ra biển Đại-Thanh với chín cửa biển (cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Bà-Lai, cửa Hàm-Luông, cửa Cổ-Chiên, cửa Cung-Hầu, cửa Định-An, cửa Bách-Xắc, cửa Tranh-Đề), vừa kết tụ ngươn khí, vừa phát hiện đủ thứ địa hình. Dòm kỹ bản đồ Nam-Việt thì ta thấy Cù lao Kết (từ Vàm-Nao đến Nam-Vang) giống hình một con qui, mỏ day về Vàm-Nao. Mà “con qui” ấy đã nằm giữa Tiền-Giang và Hậu-Giang lại ở vào khoảng giữa (tức Trung-Ương) Thất-Sơn và Cửu-Long. Theo nguyên lý nam thất nữ cửu thì Thất-Sơn thuộc Dương, Cửu-Long thuộc Âm. Địa cuộc có âm dương tương hội thế ấy tất nhiên là địa linh. Mà địa linh tất sanh nhơn kiệt. Sông thế ấy, núi thế kia phải đào tạo được những trang hào kiệt phi thường, (Giang-sơn chung tú phi thường).
Câu: ”Khí thiêng-liêng sông núi nhiệm-mầu,
Un-đúc giống anh-hùng vang bốn bể”
của Đức-Huỳnh Giáo-Chủ dường như vừa xác nhận giá trị của khoa học địa lý lại vừa hé màn bí mật. Cụ Trạng Trình (Nguyễn-Bỉnh-Khiêm) lại nói rõ về nơi xuất hiện của vị anh hùng dân tộc tương lai một vị Thánh nhơn trong những câu sấm: 

Bảo giang Thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
Hoặc:

Bảo sơn Thiên tử suất,
Bất chiến tự nhiên thành.

Dường như muốn cho người đời sau có thể tìm hiểu đâu là: ”Thánh nhơn hương” (quê hương của vị Thánh nhơn) nên Cụ Trạng lại nói thêm:

Bắc hữu Kim-Thành tráng (1)
Nam tạc Ngọc-Bích thành (2)
Hòa thôn đa khuyển phệ (3)
Mục giả, dục nhơn canh (4)
_____________________________________________________
(1). Chỉ Thất – Sơn.
(2). Chỉ núi Kỳ-Vân ở Bà-Rịa (sẽ nói rõ ở đoạn sau).
(3). CHÚ Ý: Trong những thi, bài của Đức Huỳnh Giáo Chủ sanh trưởng tại thôn Hòa-Hảo (Châu-Đốc),  trên Cù lao Kết, chúng ta thấy có bài thi tứ cú sau đây:
“Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta,
Tạm đắt nhơn-sanh khỏi ái-hà.
Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,
Chờ thời Thiên định thiết hùng ca.”
(4). “Đa khuyển phệ” là chó sủa nhiều.


LƯU Ý: Trong điều răn cấm thứ năm, Đức-Huỳnh Giáo-Chủ có khuyên bổn đạo đừng ăn thịt trâu, chó, bò. Chó không bị ăn thịt nữa tự nhiên sanh sản rất đông và sủa rất nhiều. Ai có lại vùng H. H. sẽ thấy rõ điều nầy.

Phải chăng câu nầy nghĩa là: Vị Thánh-nhơn đó đã từng là người giữ trâu cày ruộng và khuyến nông?

Về mặt địa lý, ông A.T.Y. trong quyển “CON ĐƯỜNG NÀO?”, có dựa theo tài-liệu quyển HUYỀN-DIỆU THIÊN-THƠ mà ông đã may mắn được một dị nhơn tặng cho ở vùng Thất-Sơn (mong rằng đây là sự thật!) để nói về sự linh thiêng mầu nhiệm của niềm Nam nước Việt như vầy:


“Khoa địa lý dạy rằng: hễ một dòng sông bắt nguồn từ nơi đất địa hiển linh, núi cao ngàn năm không người ở, rừng rậm ngàn năm không ai tới lui, phóng lượn sóng nghênh ngang ngàn thu không cạn, thì con sông ấy sẽ kết tụ nơi huyệt “Long đảnh” một địa huyệt rất linh hiển, phì nhiêu về vật chất, cao siêu tột bực về tinh thần. Ngọn Cửu-Long giang là một dòng Bảo-giang oanh liệt, oai nghiêm, vừa tạo thành nên vóc vạc hoàn toàn lối 100 năm nay. Kết liên với các núi, Cửu-Long giang xuất hiện ra 12 huyệt huyền diệu, chấm đậm nét hùng vĩ trên địa-cầu nầy.


“Bắt đầu khởi kết tụ nguơn-khí âm dương xây nên địa huyệt thứ nhứt tại Thất-Sơn (Châu-Đốc). Chỗ ấy ba huyệt thiên tiên hiệp lại làm Nê-hườn-cung, xuất hiện đúng ngày linh hiển tam huê tụ đảnh mùi hương lạ kỳ bí mật bay ra từ núi Sam đến núi Tượng. Chỗ ấy là cân não, cốt tủy của Cửu-Long: tên nó được hưởng ứng theo luồng điện thiên-nhiên, oai nghiêm, từ bi, hùng vĩ đời sau gọi là Kim-Thành huyệt. Đó là huyệt Dương đã hiện, Cửu-Long kết lần với hai cốt núi âm phong, cô độc, lien hiệp thành cặp mắt Hà-Tiên và Phú-Quốc là Thủy-Trung huyệt. Tây-Ninh, núi Điện Bà là Huỳnh-Môn huyệt, hai đảnh núi ấy thuộc về Âm kết tụ ngươn khí tại Trung-Ương tạo nên Ấn-Đường huyệt (Dương) để khai mở luồng điển quang cho các huyệt kia vừa ngưng tại lối miệt Long Xuyên, Bình Mỹ (một dãy cù lao lớn chạy dài từ Bình Mỹ xuống gần đến Cần Thơ).


“Từ Kim-Thành huyệt phóng xuống mũi Cà-Mau và núi Kỳ-Vân, hai huyệt dương nữa, một bên thì thành sống mũi Cửu-Long chấm đến Cà-Mau (tức là Lâm-Huyền huyệt) một bên thì hàm rồng tại Kỳ-Vân (tức là huyệt Bích Ngọc). Đồng cân với hai huyệt âm (Thủy-Trung huyệt và Huỳnh-Môn huyệt) hiện ra một huyệt thứ sáu (Bình-Nam huyệt) tại núi Côn-Nôn là chót lưỡi của Cửu-Long.


“Sáu huyệt âm dương vừa kết tụ ngươn khí thì tại Trung-Ương huyệt, yết hầu Cửu-Long vừa khai mở gần Cần-Thơ bây giờ, gọi là Trung-Ương Cửu-Long huyệt. Lần lần ba cửa mở ra: cửa Đại, Tiểu, v.v… vừa thành tựu (năm Nhâm-Thìn 1892) khiến cho ba nguồn thủy dựng tại Bình-Nam châu chuyển động (lưỡi Cửu-Long) làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt (Vàm-Cỏ, Gò-Công, Bến-tre và các cù lao nhỏ v.v…) ba ngày ba đêm. Đó là bảy huyệt linh-thiêng chánh gốc của xứ Việt-Nam mới ngưng kết được lối 100 năm nay. Đứng giữa hoàn cầu, sự linh thiêng tân tạo là đầu Cửu-Long giang, một nguồn Bảo giang thiên-cơ đã định phải chói rạng sự huyền diệu nhứt hạng khắp bốn bể năm châu. Vì địa linh ấy mới sanh nhơn kiệt, các vị thánh tổ kim thời hễ thuộc âm mạng thì phải xuất hiện (chớ không phải giáng sanh) dạy đời trong ba huyệt Âm (Thủy-Trung huyệt, Huỳnh-Môn huyệt và Bình-Nam huyệt) còn thuộc Dương thì phải xuất hiện ở Thất-Sơn Kỳ-Vân và Cà-Mau (Kim-Thành huyệt, Bích-Ngọc huyệt và Lâm Huyền-huyệt).


Đọc đến đây, chắc sẽ có người cho rằng khoa địa lý là một môn học gồm toàn những sự mê tín dị đoan, vu vơ huyễn hoặc. Đối với những bạn đọc ấy, chúng tôi xin thưa: Nếu quả thật sự xét đoán như thế là đúng thì cụ Trạng Trình (Trạng-Nguyên Nguyễn-Bỉnh-Khiêm, tước Trình Quốc-Công) và ông Tả-Ao (tức Nguyễn-Đức-Huyện, người làng Tả-Ao huyện Nghi-Xuân, tỉnh Nghệ-An) đã chẳng được nổi tiếng và lưu danh vì giỏi khoa địa lý. Và nếu vậy thì làm gì đời Hán, Trương-Tử-Phòng phải soạn ra sách “Bình xa ngọc xích”; đời Tấn Quách-Phú phải soạn ra sách “Táng kinh”; đời Tống. Trương Tử-Vi phải soạn ra sách “Ngọc túy chơn kinh”; Trần-Đoàn phải soạn sách “Kim tỏa bí quyết”; đời Nguyên, Lưu-Bỉnh-Trung phải soạn sách “Kim-đầu quyết táng-pháp “?


Nơi đây, chúng tôi tưởng cũng nên nói thêm đôi điều về khoa địa lý (hay phong thủy). Khoa nầy thường được áp dụng trong việc lập thành quách, cất đình chùa, hoặc làm nhà cửa, để mồ mả. Đất làm nhà cửa gọi là dương cơ, còn đất để mồ mả thì gọi là âm phần. Về dương cơ, người ta ít khi kén chọn chỗ đất, mà chỉ lấy hướng cho hạp. Còn về âm phần thì người ta thường nhờ thầy địa lý đi tìm một cách cẩn thận.


Theo phép địa lý thì trước hết phải phân biệt hình đất làm năm loại chánh là: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Người ta lại còn tùy theo cuộc đất giống hình vật gì mà phân biệt các kiểu đất quí như: lục long tranh châu, phụng hoàng ẩm thủy, tê ngưu vọng nguyệt, quần tiên hội ẩm, hổ trục quần dương, v.v… Cũng có những kiểu đất hình con rùa, con cá, con voi, con ngựa, cái cờ, cái ấn, ngòi bút, thanh gươm v.v… Khi đi tìm đất thì trước phải tìm tổ sơn, rồi dò long mạch theo thế đất đặng tìm huyệt. Hễ là huyệt trường thì tất phải có tiền ám hậu chẫm, tả long hữu hổ; mặt tiền phải có minh đường thủy tụ hội, mặt hậu phải có long mạch thu thúc, mặt ngoại phải có bàng sa triều củng. Cuộc đất như thế là chỗ tụ khí tàng phong, quả là chơn huyệt.

4) Quan trọng về mặt tinh thần

Có lẽ không ai còn ngờ vực về sự núi non có ảnh hưởng to tát đối với tinh thần, chí hướng của con người.

Dòm lại lịch sử nước nhà, ta thấy phần đông những bực anh hùng dân tộc hay những thi sĩ siêu nhân hoặc những đấng siêu phàm đều có chịu ít nhiều ảnh hưởng của núi non… Đó là do khí thiêng un đúc mà cũng tại vì sự hùng vĩ của núi non rừng rú nó làm cho con người được chí tại cao sơn, tâm ư thượng đỉnh.


Ngoài trường hợp của những vị anh hùng những nhà chí sĩ cách mạng ở Nghệ An, Hà-Tĩnh (hai tỉnh có lắm núi non) chúng tôi xin kể thêm vài trường hợp khác để làm bằng chứng.


1. Vua Lê-Lợi (tức Lê Thái-Tổ) khởi nghĩa chống quân Minh ròng rã mười năm trường (và rốt cuộc đã “nên công đại định”) là một vị anh hùng áo vải ở núi Lam-Sơn.


2. Ông Nguyễn-Trãi người đã giúp mưu cơ cho vua Lê-Lợi chiến-thắng quân Minh và đã viết bài “Bình-Ngô đại cáo”, một áng văn kiệt tác, vẫn còn mãi lưu truyền trong sử sách, là người khi về già đã lên Côn-Sơn di dưỡng tính tình và an nhàn tự toại, ngâm khúc Côn-Sơn ca.


3. Cụ Trạng Trình rành khoa địa lý, lại thông biểu bộ Thái Ất Thần-Kinh, viết ra nhiều lời truyền sấm mà khi trở về già lại ẩn chốn lâm sơn tác thi dưỡng trí (thơ này góp lại thành quyển “Bạch-Vân thi tập”), sống một cuộc đời thanh bần nhàn nhã. Những câu thi dưới đây đủ chứng minh một cách hùng biện trạng thái tâm hồn của cụ lúc đó.


” Một bầu một bát vững sơn tăng.

Hoặc: ”Ba gian am quán lòng hằng mến,

Đôi chốn sơn hà mặt đã quen.”

Hay là:”Khách nhàn sơn dã dưỡng thân nhàn“.
4. Vua Quang-Trung (Nguyễn-Huệ), vị anh-hùng dân tộc đã ”lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn-Thanh, thống nhứt cả Việt-Nam vào cuối thế-kỷ thứ 18.” là người ở trại Tây-Sơn (gần đèo An-Khê, trên đường đi Pleiku-Kontum).


5. Ông Nguyễn-Quang-Thiếp tức La-sơn Phu-tử – một bực danh nho cao sĩ, chánh kiến quang minh, biết lẽ tiến thoái tồn vong nhờ thuật số học (lý học, phong thủy và sấm ký), đã được vua Quang-Trung mời nhiều lần để hỏi ý kiến và cầu sự cộng-tác – là người gốc ở huyện Nghi-Xuân, gần núi Hồng-Lĩnh (một thắng cảnh ở Hoàn-Châu và vùng quanh chơn núi đã sản xuất không biết bao nhiêu danh nho, danh tướng), sau về ngụ ở huyện La-Sơn nên người ta kêu tặng ông là La-Sơn Phu-tử. Lúc về già, ông lên ẩn náu chốn núi rừng.


Trong ” Hạnh-Am ký ” (bài ký viết trong Am-May), ông chép như vầy: (1) ”Bởi vậy, ta bỏ hết học khoa cử, chuyên đọc các sách Tính-lý, Tứ-thơ, Ngũ-kinh đại toàn. Vui cùng rừng hố. Núi sông miền Nam châu, dấu chơn có gần khắp…

Lúc ấy, ta cùng hai ba đứa học trò lớn bé, giảng dạy các việc của tiên nho. Dạo xem cảnh núi. Ngồi giải bóng trăng. Tìm suối xem mây. Thần trí khoan khoái…”
_________________________________________

(1). Đây là lời dịch của ông Hoàng-xuân-Hãn.

6. Cụ Nguyễn-Du tức Tố-Như tiên-sinh tác-giả quyển Kim-Vân-Kiều – một áng văn tuyệt tác làm cho các nhà văn trong nước và ngoại quốc nhiệt liệt hoan nghinh – là một thi nhân đã từng lê dấu chơn trên chín mươi chín ngọn núi Hồng-Lĩnh.

Trên đây là nói những bực tiền bối phần đông đã thấm nhuần thuyết tu tề trị bình của Nho-giáo và đã xa cách ta đến mấy thế kỷ. Ảnh-hưởng của núi non miền Bắc và Trung Việt đối với các vị ấy sánh lại không bằng ảnh hưởng của Thất-Sơn đối với những vị học Phật tu Nhân gần đây lối 150 năm trở lại, như: Đức Phật Thầy Tây-An, Đức Phật Trùm, Đức Bổn-Sư, Ông Sư Vãi Bán Khoai, ông Cử Đa, chư đại đệ tử của Phật Thầy Tây-An, (ông Cố-Quản Thành, ông Tăng-Chủ, ông Đình-Tây, ông Đạo Xuyến), và hiện nay, Đức-Huỳnh Giáo-Chủ.

(Trong một chương sau, chúng tôi sẽ nói về tiểu sử của các vị trên đây).

Thật vậy, nếu xưa kia Đức Thích-Ca đến Rạch Ni-Liên-Thuyền trên Linh-Khứu Sơn (trong dãy Hy-Mã-Lạp-Sơn) và ”thấy cỏ cây cảnh bắt tham thiền” nên ”ngồi khổ hạnh sáu năm bên ấy” để được đắc đạo thì ngày nay các vị Giáo-chủ hay các vị đại đệ tử trong phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương cũng phải có một thời gian tu tâm luyện tánh trong các núi non am cốc nơi chốn Thất-Sơn, ẩn mình nơi điện Tam-Thanh, điện Rau-Tần hay điện Quan-Âm chẳng hạn. Cái đó có khác nào trong truyện Tây-Du nói Tôn-Ngộ-Không đến Phương-Thốn Sơn, học Đạo với Bồ-Đề Tổ-Sư tại Linh-Đài Tà-Nguyệt Tam-tinh động hay trong truyện Phong-Thần nói Khương-Tử-Nha lên Côn-Lôn Sơn thọ giáo với Ngươn-Thỉ Thiên-Tôn tại động Ngọc-Hư…
Đến đây, chúng tôi tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc để luận giải ít điều về hai bộ truyện nầy.

Truyện Tây-Du và truyện Phong-Thần là hai bộ lịch-sử tiểu-thuyết Tàu vô cùng lý thú. Bộ Tây-Du nói về sự tu Phật của Khưu-Trường-Xuân Chơn-nhơn (tu Tiên) viết. Còn bộ Phong-Thần nói về sự tu Tiên, lại do Bạch-Vân-Thiền-sư (tu Phật) viết. Hai vị là người đồng thời và đều tỏ ra – bằng cách tưởng tượng và xây dựng chung quanh một sự kiện lịch sử – rằng người tu Tiên cũng am hiển việc tu Phật và kẻ tu Phật cũng biết rõ việc tu Tiên.

Vậy chúng ta xem truyện Tây-Du nên hiểu rằng Đường-Tăng Tam Tạng (1) thâu phục ba người học trò và con ngựa của Ngài cỡi là tượng trưng cho người tu hành (có tâm Phật) chế ngự được tâm phàm. Tôn-Ngộ-Không (ngụ ý gặp được cái lý chơn không) hay Tôn Hành Giả, (người dấn thân trên bước đường Đạo), một con người cốt khỉ, tượng trưng cái vọng tâm của người sơ tâm, nó lao chao như con vượn chuyền nhánh nầy qua nhánh họ (tâm viên). Con ngựa của Đường-Tăng cỡi, tượng trưng cái ý phóng túng, buông lung, bất định của con người mới tu, nó giống như con ngưạ khó kềm cho đứng yên được (ý mã). Trư Bát-Giát (ngụ ý tám điều răn cấm), một người cốt heo, tượng trưng sự mê ăn, mê ngủ thích nhục dục, lại ngu dốt như con heo (mê si). Sa-Tăng (ám chỉ người theo hạnh Sa-môn trong Tăng già) giết người ăn thịt, lấy sọ người đeo trên cổ, tượng trưng sự hung hăng nóng nảy (sân-nộ) v.v… Chớ sự thật không có Tôn-Hạnh-Giả, Bát-Giái hay Sa-Tăng, chỉ có thấy Trần-Huyền-Trang,

___________________________________________________
(1). Ám chỉ ba tạng kinh Phật là: Kinh, Luật, Luận.


Một tang sĩ đã phụng-mạng vua Đường đi qua ẤN-ĐỘ thỉnh kinh do Đức Thích-Ca thuyết hồi đời nhà Châu (nghĩa là hơn một ngàn năm trước nhà Đường).

Xem truyện Phong-Thần, chúng ta nên suy gẫm về chỗ nầy. Cũng thời tu Tiên mà có người thuộc phe Xiển-giáo, có người thuộc phe Triệt-giáo. Vì duyên nghiệp, căn cơ khác nhau nên mỗi vị có một định mạng khác nhau: Khương-Tử-Nha mặc dù ở non tu luyện hơn 40 năm trường nhưng cũng phải xuống thế làm quan; Đổng-Toàn mặc dù tài phép tinh thông mà không làm y theo lời Thầy (1) nên phải đứng bảng Phong-Thần; Pháp-Giái mặc dù bại trận, sắp bị mạng vong nhưng có Phật Chuẩn-Đề rước về Tây-Phương Cực-Lạc vì hạnh đức cao dày; Dương-Tiễn, Vi-Hộ, Lôi-Chấn-Tử và bốn cha con Lý-Tịnh mặc dù dày công hạn mã và có đủ điều kiện để hưởng lộc Triều-đình nhưng vẫn quyết định cáo từ về non tu luyện, sau bảy vị đều được nhục thân thành Thánh…

Tích xưa như thế, chuyện nay khác gì!

Xin đóng dấu ngoặc lại.

Để kết luận đoạn nầy, chúng tôi xin quả quyết rằng hoa địa (2) Thất sơn và trọng yếu Cà mau, Đồng Tháp thật là những vùng cực kỳ quan trọng về mặt tinh hoa dân tộc, kinh tế quốc gia và chiến lược quốc phòng.

Vậy trong cuộc tranh đấu hiện giờ, nếu vị nào nắm giữ được hoa địa và trọng địa nói trên, chắc chắn vị ấy sẽ “kiến thiết được một hồi sinh căn cứ địa là nơi thủ hiểm trường kỳ, đào tạo cán bộ, huấn luyện chủ lực quân, để thời cơ đến thì tiến ra phản công như vũ như bão”, nắm địa vị bá chủ trong tay.

___________________________________________________________
(1). Thầy của Đổng-Toàn có viết trên cửa động Bích-du hai câu như vầy: Đóng cửa tụng Huỳnh-đình, thiệt bực số thành ngôi chánh quả.Tách mình qua Tây-thổ, là người tên đứng bảng Phong-Thần.

(2). Theo một nhà khảo sử thì, đứng về phương diện khoa học quốc phòng, một quốc gia luôn luôn có hai vùng:

1. HOA ĐỊA là nơi tập trung tinh hoa của đất nước (Hoa địa của nước ta thuở xưa là núi Thới Sơn. Ngày nay, hoa địa của ta là Thất Sơn, nơi xuất hiện phái Bửu Sơn Kỳ Hương, tinh hoa của đất nước).

2. TRỌNG ĐỊA (khu trọng yếu cho cuộc quốc phòng), là nơi có đủ điều kiện kinh tế, văn hóa nhân sự để khi nước nhà gặp cơn binh lửa thì ta có thể tiến, thoái, công, thủ.

CHƯƠNG I: Đức Phật-Thầy Tây-An

I- Hành vi và thân thế buổi đầu

Đức Phật-Thầy Tây-An chính danh là Đoàn-Minh-Huyên, sanh vào giờ ngọ ngày rằm tháng mười năm Đinh-mão (1807), nhằm năm Gia-Long thứ sáu.

Ngài quê ở làng Tòng-Sơn (1), tổng An-Thạnh-Thượng, tỉnh Sa đéc. Tổ phụ ở đó từ lâu, nhưng tên họ là gì ngày nay không ai biết được. Chỉ biết trong thân tộc của Ngài, thuở Ngài mới ra đời, còn có hai người (anh chú bác) là Đoàn-văn-Điểu và Đoàn-văn-Viên (2) mà thôi. Về sau, khi hai ông nầy mất đi, con cháu vì trải qua nhiều lần tao loạn trong nước nên hoặc chết, hoặc xiêu lạc đi nơi nào mà hiện nay ở Tòng-Sơn không còn thấy roi truyền miêu-duệ.

_____________________________________________
(1) Khi xưa là làng Tòng-Sơn, đến hồi Pháp thuộc thì ba làng Mỹ-An, Mỹ-Hưng và Tòng-Sơn bị sáp nhập tại gọi là Mỹ-An-Hưng. Hiện nay cũng gọi là Tòng-Sơn.

(2). Có người nói là Đoàn-văn-Thuyên, không rõ tên nào đúng.

Căn cứ vào nhiều bậc bô-lão ở đây cho biết chắc chắn thì Đức Phật-Thầy bỏ nhà ra đi từ lúc tuổi còn nhỏ lắm. Ngài đi đâu và làm gì, cả trong làng cho đến những người thân thuộc của Ngài cũng không ai hiểu được. Lần hồi, ngày lụn tháng qua, tên tuổi và hình dạng của Ngài chôn sâu vào thời gian, người ta không còn nhớ một mảy may gì về Ngài nữa.

Một hôm, khoảng đầu năm Kỷ-dậu (1849), Ngài quá giang với một chiếc ghe buôn từ miệt trong (?) về. Lúc đến vàm rạch Tòng-Sơn. Ngài lên bộ lần theo bờ rạch mà đi (thuở ấy đuôi làng Tòng Sơn ngang làng Tịnh-Thới (Sađéc), chớ không phải lỡ còn nhỏ quá như ngày nay). Khi đến gần đình làng, gặp lúc có cây da trốc gốc ngã bật xuống sông, lấp cả đường nước, ghe xuồng qua lại đậu dồn chật cả một khúc sông, dân làng đang rũ nhau xúm lại thật đông, cột dây để kéo cây da vào bờ. Công việc nầy hì-hục đã ngót nửa ngày rồi mà vẫn vô hiệu, người ta định giải tán. Kịp khi Đức Phật-Thầy vừa tới, Ngài thấy vậy bèn ngỏ lời với dân làng xin để Ngài kéo hộ:

- Các ông hãy cột dây lại, tôi sẽ ra sức tiếp tay với các ông.
Đám dân làng cười xòa:

- Chúng tôi lực-lưỡng và đông-đảo như thế nầy mà kéo không đi, ông ốm yếu quá, làm sao tiếp nổi?

Đức Phật-Thầy cười:

- Bà con thử cột xem, tôi liệu có cách kéo được.

Thấy lời nói ôn tồn và vẻ mặt quả quyết của “người khách lạ”, mấy người dân làng lội xuống nước, cột dây lại, và sắp hàng hai bên để chờ xem ông khách bộ hành nầy định kéo thế nào.

Đức Phật-Thầy đứng giữa giơ tay lên, hô to:

- Hè . . . hãy kéo lên!

Hai hàng dây của hai tốp người vừa hơi căng thẳng, cây da từ từ xếp ngọn vào bờ, khỏi phải hè hụi ó la và nhọc công ra sức chi hết.

Những ghe xuồng đậu lại mấy hôm nay thấy trống được đường nước thì mừng rỡ ra đi. Mấy người dân làng vì mệt nhọc suốt buổi nay cũng uể oải kéo nhau về. Họ quên xem người khách bộ hành ấy về đâu, và cũng không buồn nghĩ đến chuyện cây da vì sao mà kéo vào được dễ dàng như vậy.

Xong việc, Đức Phật-Thầy lại ra đi. Khi đến đình thần làng Tòng-Sơn, Ngài ghé vào. Từ ấy người ta thấy Ngài ngụ luôn tại đây, ở mái hiên sau, ngày thì chặt sậy, làm cỏ, đêm đến lại quét lá da để nấu nước uống.

Được ít hôm, ông từ đình làng nầy thấy vậy có lòng lo sợ cho sự rủi-ro xảy ra hỏa hoạn, vì đình thuở ấy lợp bằng tranh, mà đêm đêm Đức Phật-Thầy cứ đốt củi lửa lên hoài, nếu có bề nào thì sẽ khổ cho ông về phần trách nhiệm. Ông bèn đem ý kiến ấy mà bày tỏ cùng Đức Phật-Thầy, và xin đừng đốt lửa ban đêm nữa.

Ngài điềm tĩnh niệm Phật mà trả lời:

- Tôi ở đâu thì sẽ giữ cho đó được bình yên, xin ông đừng ngại.
Năm ấy thời hành dịch tả nổi lên nhiều nơi, ở làng Tòng-Sơn cũng bắt đầu có lai rai bịnh ấy. Chức việc làng và dân chúng thấy vậy lo sợ, họ xúm nhau lại đình, làm heo gà cúng vái và đóng bè để “tống gió” ra khỏi làng.

Nghe biết được việc ấy, Đức Phật-Thầy ra trước chức việc làng. Ngài tỏ ý không muốn có công việc sát sinh hại vật mà tống gió, vì theo ý Ngài thì hãy tin tưởng Phật Trời cho thành lòng còn hơn, chứ tống như thế nầy, nếu thật có linh nghiệm thì cũng chỉ là một việc làm ích kỷ. Mình khỏi họa mà người khác mang tai thì sao?

Nhà chức-trách trong làng không tin, cho là lời nói nhảm. Ngài buồn-bã trở vào hiên sau, vừa đi vừa than:

- Các ông tống thì tôi xin rước!

Những lời biện giải đầy đạo đức và sáng suốt ấy của Đức Phật-Thầy đã không đem lại được kết quả, mà trái lại, chức việc làng cho là một điềm gở, nên vài hôm sau, họ cử ông Thị-sự (1) đến truyền lịnh không cho Ngài ở nữa, lấy cớ rằng trong làng không có quyền chứa chấp những người lạ mặt.

_________________________________________

(1). Chúng tôi không hỏi được tên họ ông Thị-sự nầy. Chỉ biết ông có người cháu tằng tôn là ông Hương-giáo Tố mới chết mấy năm nay ở Tòng-sơn.

Đức Phật-Thầy nhận lời, nhưng trước khi đi, Ngài yêu cầu ông Thị-sự mua hộ cho Ngài một đôi đèn sáp để Ngài làm lễ khai lý lịch cho làng và dân chúng nghe đã.

Vì tính háo kỳ của ông Thị-sự, và lòng tin tưởng của một ít người ở chung quanh đình, thấy Đức Phật-Thầy có nhiều cử chỉ nửa hư nửa thực, nên cuộc lễ được tổ chức một cách rất mau lẹ.

Sau khi lên đèn nhang làm lễ, Đức Phật-Thầy kể rõ ông bà cha mẹ mình là ai, bà con dòng họ có những người nào, bỏ nhà ra đi từ bé để tu hành và ngày nay được tỏ ngộ như thế nào, và sau rốt, Ngày tự xưng mình là Đoàn-Minh-Huyên.

Chức-việc và dân làng nhiều người nửa tin nửa ngờ. Họ tính ra thì trong số thân thuộc mà Đức Phật-Thầy đã kể, có ông Đoàn-văn-Điểu và Đoàn-văn-Viên hiện còn sống, và đang ở trong làng nầy, nên liền cho người mời đến.

Khi giáp mặt, ông Điểu cũng không nhận ra được Đức-Phật-Thầy. Ngài phải đem công việc gia đình đầu đuôi từ lúc ra đi thế nào mà thuật lại một mạch. Nghe xong, ông Điểu ôm Đức Phật-Thầy mà khóc oà lên và sau khi chấm dứt câu chuyện hàn huyên, ông Điểu khuyên Ngài nên ở lại quê hương làm ăn với ông, đừng đi đâu nữa để đến phải thân hình tiều tụy, già nua trước tuổi như ngày nay (1).

_____________________________________________________________

(1). Đức Phật-Thầy tuổi Mẹo, tính ra tới năm trở về Tòng-Sơn thì mới có 43 tuổi, thế mà nhiều cụ già nghe kể lại thì Ngài hồi ấy râu tóc như một ông già cho nên anh em ông Điểu không nhận ra được.

Bấy giờ ai nấy đều bừng tĩnh, vì thấu được ý nghĩa hay ho trong lẽ đạo mà Đức Phật-Thầy vừa giải, nên chi tất cả đồng yêu cầu Ngài ở lại.

Đức-Phật-Thầy không chịu. Ngài nhứt định ra đi. Ngay khi ấy, bịnh dịch đã tràn lấn tới tắp trong làng Tòng-Sơn.

 

II- Vào Rạch Trà Bư

Xuống chiếc xuồng bần, bơi bằng một miếng tre nhỏ, Đức Phật-Thầy đi ngược lòng rạch Tòng Sơn, đổ lên Cái-Tàu-Thượng.

        Thấy cầm cọng không được nữa, anh em ông Điểu và mấy người dân làng dọn xuồng đi theo Ngài. Trong chuyến đi nấy, Ngài cho người ta thấy một điều kỳ diệu nữa, là: lúc xuống đi theo Ngài thì năm người bơi năm dầm, trong khi ấy thì Ngài chỉ có một mình, lại chỉ bơi chẫm rãi bằng một miếng tre, thế mà xuồng Ngài vẫn cứ đi trước và biệt biệt xa dần, năm người nầy dù đã cố hết sức bơi nhưng cũng không tài nào theo kịp.

        Khi đến rạch Trà-Bư (thuộc làng An-Thạnh Trung, gần ranh hạt Sa đéc – Long Xuyên, cách xa chợ Cái-Tàu-Thượng lối bảy ngàn thước), Ngài lên bờ, vẹt đế sậy che một cái lều con, rồi ở luôn tại đó. Ông Điểu và mấy người dân làng Tòng-Sơn khi theo dõi đến nơi, hết sức khẩn thiết yêu cầu, lạy mà xin Ngài trở về để cứu hộ cho bá tánh đang cơn hoạn nạn.

        Đức Phật Thầy trả lời:

        – Tuy tôi đã đi khỏi làng chớ hiện giờ vẫn còn để lại “cây thẻ năm ông” tại sau hiên đình. Mấy ông cứ về thỉnh đó mà uống và tin Trời tưởng Phật thì đau căn, bịnh gì cũng mạnh.

Ông Điểu và ai nấy rất mừng, trở về thì quả thật Ngài còn để lại tại đình Tòng-Sơn một cây cờ ngũ sắc.

        Người ta tuyên bố ra, một đồn mười, mười đồn trăm, thiên hạ lúc đầu tới đình thỉnh còn được cờ, vài hôm sau hết cờ, họ đẽo tới cán cờ đem về thiêu, rồi hòa với nước mà uống, uống đâu hết đó.

        Hết cờ hết cán, dân chúng kéo nhau vô Trà-Bư yêu-cầu Đức Phật-Thầy chữa trị. Mấy hôm đầu còn có giấy vàng phát ra về sau Đức Phật-Thầy chỉ cho bằng tro nhang mà không đủ. Số người kéo đến, xuồng ghe đậu chật cả một khúc sông. Trên bờ, lau sậy bị giậm rạp bằng cả xuống mặt đất. Một cảnh tấp nập đông vầy bỗng nhiên hiện ra giữa chốn hoang vu rừng bụi, không ai ngờ được.

 

III- Khi đến Xẻo Môn

Mùa thu, tháng 8 năm Kỷ-dậu (1849), dân chúng ở quang vùng Trà-Bư như Hội-An, Mỹ-An và Tòng-Sơn… nhờ có Đức Phật-Thầy cứu độ nên bịnh thế đã yên, Ngài nghe đồn ở làng Kiến-Thạnh bịnh dịch mới phát lên bạo hành lắm; động mối từ tâm, Ngài rời Trà-Bư, bơi xuồng lên rạch Xẻo-Môn (trước là làng Kiến-Thạnh, nay đổi lại là Long-Kiến, tỉnh Long-Xuyên), để độ dân, tế thế (1).

       Một sáng kia, tại đình làng Kiến-Thạnh (hồi trước ở tại vàm Chưn-Đùn, chứ không phải chỗ đình Long-Kiến ngày nay) khi ông từ vào dâng hương trên bàn chánh, bỗng trông thấy một người lạ mặt chễm chệ giữ bàn Thần, ông từ hồn bất thủ xá, vừa la vừa chạy. Người ngồi trên bàn Thần thấy vậy kêu lên và ngoắt ông từ trở lại.

_____________________________________________________

(1). Khi còn ở Tòng-Sơn, Đức Phật-Thầy có lúc băng xuồng ngang qua rạch Cái-Dứa rồi ngược dòng vào làng Bình-Đức (ngày nay làng Bình-Đức đã sáp nhập cùng hai làng Phú-Xuân và Tân-Phước, gọi là Bình-Phước-Xuân, thuộc Cù-lao Giêng Long-Xuyên), rẽ sậy che lều ở đó ít lâu để phát phù trị bịnh. Nơi đây Ngài có thâu mấy vị đệ-tử mà chúng tôi còn nghe biết là ông Chánh-Bái Nguyễn-văn-Duyên và ông Nguyễn-văn-Kỉnh (đạo hiệu Thần-Tự-Kỉnh), tu niệm rất chí tâm. Khi Đức Phật-Thầy qua Xẻo-Môn rồi bị bắt lên An-Giang triều đình ra lịnh xuống tóc, Ngài có gởi về Cù-lao Giêng cho hai ông nầy mỗi người một lọn. Ngày nay con cháu ông Duyên không thấy còn ai, không biết bảo-vật ấy về đâu, còn ông Kỉnh thì lưu truyền mớ tóc ấy được đến bấy giờ, hiện cháu huyền-tôn của ông là ông Nguyễn-Ngọc-Chơi còn giữ. Vì không rõ được nguyên cớ và ngày tháng Đức-Phật-Thầy qua đây, nên chúng tôi không dám chép ở phần trên.

Xa xa nhìn lại, ông từ xem thấy người ấy mặt mũi có về hiền lành, không có chi đáng sợ hãi, bèn chậm chậm rề lại và hỏi:

– Ông là ai, ở đâu mà dám đến đây ngồi trên bàn Thần như vậy?

Người lạ mặt ấy đáp:

– Ta là Phật-Thầy, giáng thế đặng cứu nguy cho dân-chúng!
Ông từ suy-nghĩ một chút rồi hỏi:

– Ông xưng là Phật, vậy dân ở trong làng nầy hiện nay đang mắc bịnh ôn-dịch mà chết rất nhiều, ông có thể cứu sống người ta được không?
– Được chứ, ai mắc bịnh ấy đâu, đem lại đây, ta cứu dùm cho!

Lúc ấy, trong làng, người bị bịnh dịch chẳng thiếu chi. Ông từ cho hay ra, đang lúc ở gần đó có ông Thuông (1) bị ỉa mửa gần chết, người nhà xin cứu, quả nhiên Đức Phật-Thầy trị được.

Tiếng đồn lan ra khắp làng, người ta đến xin cứu bịnh mỗi lúc một đông, đông hơn ở Trà-Bư gấp bội, vì bịnh dịch đang lộng hành ở đây.

Ba hôm sau, chức-việc làng thấy người ta đến rần rộ quá sợ bị quan trên quở phạt, bèn xin Đức Phật-Thầy dời về cái cốc của ông Kiến (xéo rạch Xẻo-Môn, chỗ cất chùa Tây-An Cổ Tự ngày nay), cho tiện việc chữa bịnh và thờ Phật ở đình.

___________________________

(1). Ông Thuông lúc đó còn nhỏ, sau lớn lên làm Hương-cả nên người ta gọi là ông Cả Thuông.

Cũng giấy vàng, tro nhang như ở Trà-Bư mà phát ra hoài không đủ được, Đức Phật-Thầy phải dùng đến áo nhang, nước lã. Thiên-hạ chen chúc đến đông vầy, nhiều người chờ đợi đôi ba ngày mới thỉnh được thuốc, có người không chen vào được, phải lễ bái ở ngoài sân.

Hoạt cảnh nầy đã được giảng xưa diễn ra rất rõ:

Dầm trời thiên-hạ như mưa,

Ban mai đến tối phát chưa rồi bùa.

Người đi tới trước vô chùa,

Mấy người tới trễ lạy đùa ngoài sân.

Chẳng những bịnh dịch mà thôi, ngoài ra bất luận bịnh chi Ngài cũng trị được, chỉ trừ một ít người tận số:

Nói cho bá tánh tỏ tình,

Mấy người tới số Thầy xin đặng nào.

Muôn ngàn thiên-hạ xiết bao,

Đau căn Thầy độ bịnh nào cũng an.

Nơi đây, Ngài bắt đầu chỉ dạy cách tu hiền cho những người mộ Đạo, và dựng lên nghi thức thờ phượng trang hoàng, mở rộng chùa chiền, cùng thâu nhiều đệ tử.

IV– Bị dời về An Giang

        Từ khi Đức Phật-Thầy dời sang cốc ông Kiến về sau thì bịnh nhơn đến xin thuốc càng ngày càng đông, người theo về tu niệm mỗi lúc mỗi nhiều, danh tiếng đồn ra vang dội khắp nơi. Người ta mừng rỡ bảo nhau: Đức Phật-Thầy quả là một vị Phật sống, lâm phàm trợ thế.

        Lúc ấy nhà chức trách huyện Đông-Xuyên (ngày nay là tỉnh Long-Xuyên) rất kinh động, vì thấy lòng người hầu hết trong huyện đã hướng theo Đức Phật-Thầy, ấy là chưa kể đến các vùng phụ cận. Họ nghĩ rằng nếu cứ để như vậy, rủi Ngài có chủ-trương nổi lên một cuộc bạo động nào thì không phương gì dập tắt được, nên liền mật báo về tỉnh An-Giang xin quan Tỉnh liệu định lẽ nào cho họ khỏi bề trách nhiệm.

        Quan Tổng Đốc tỉnh An-Giang bấy giờ là Huỳnh-Mẫn-Đạt (1) cũng có hay biết việc ấy, nhưng chưa rõ đích xác, nay được mật tin ở huyện Đông-Xuyên báo lên quả quyết thì lấy làm lo sợ, e có sự xảy ra như vụ Lâm-Sâm và nhóm thầy chùa làm loạn ở Trà-Vinh trước đây mấy năm (Thiệu-Trị nguyên niên 1810) đó chăng! Nên ông chẳng chút chần chờ, cấp tốc sai lính tráng xuống vời ngay Đức Phật-Thầy về tỉnh.

————

1. Khi Pháp vào Nam-Kỳ thì Huỳnh-Mẩn-Đạt vì già yếu nên xin hồi hưu, đổi Phan-Khắc-Thân lên thay ở An-Giang.

Hôm ấy vào lúc giờ Ngọ; bá tánh đến thỉnh thuốc đông đảo, nhưng giờ nầy ai nấy đều im lặng, để cho Đức Phật-Thầy sửa soạn thời cúng. Bỗng từ ngoài sân có tiếng kêu vang:

– Có ông Đạo ở nhà đây không?

Đức Phật-Thầy từ trong cốc lên tiếng:

    – Có. Ai hỏi tôi có việc chi?

        – Có lịnh quan Tổng-đốc An-Giang đòi, ông Đạo phải sửa soạn đi liền theo chúng tôi bây giờ đây!

    – Mấy ông nán cho tôi cúng ngọ một chút, được không?

    – Không được, chuyện gấp lắm!


       Thế là Đức Phật-Thầy không kịp giã-từ bổn đạo, theo chân mấy tên lính xuống thuyền vượt thẳng lên An-Giang. Trong bọn nầy, nghe đâu có Cai Trung và Đội Bồng chỉ huy, nhưng Cai Trung thì xử đối với Đức Phật-Thầy ôn hòa lễ độ nên không sao, còn Đội Bồng vì xấc lấc vô lễ, nên sau đó ít ngày phải á khẩu rồi chết.

       Khi giáp mặt quan Tổng-đốc An-Giang, sau những câu hỏi chận đón để buộc tội Đức Phật-Thầy là gian đạo sĩ, họ bày ra đủ cách để thử thách Ngài. Theo như những bài lịch truyền nói về Ngài và nhiều bậc phụ lão thuật lại thì nào là lót tượng Phật Quan-Âm dưới chiếu rồi bảo Ngài ngồi lên, trong khi có nhiều tăng sãi khác đã ngồi rồi trên chiếu ấy (1). Nào là dọn cơm chay để lẫn cơm mặn rồi bảo Ngài ăn v.v… song nhứt nhứt Ngài đều ứng đáp trôi chảy, khám-phá ra được hết.

————

(1). Giảng xưa có phép chuyện quan Tỉnh An-Giang mời Đức Phật-Thầy ngồi trên chiếu, trong khi dưới chiếu ấy có lót tượng Phật. Ngài trả lời đại ý như vầy:

“Bẩm tôi xin đứng dưới nầy,

“Hòa thượng Thầy sãi ngồi rày hai bên.

” Tham ăn thấy thác một bên,

“Dưới tượng Phật-Bà Hòa-thượng ngồi trên”.

Hòa-thượng nghe nói ngã lăn.

————


        Có lần người ta thử Ngài bằng cách cùng ngồi liều với các vị Hoà-thượng khác, xem ai đủ đức tính nhẫn nại hơn. Ngài bảo rằng ngồi liều bằng ngại diệp không có chi lạ, hãy dùng chuông nướng đỏ rồi úp lên đầu, như thế mới xem được có kiên tâm hay không. Các Hòa-thượng nghe nói thất đảm, song Ngài thì vẫn điềm nhiên, đốt chuông đặt lên.

        Sau khi tìm hết cách thử thách nhà chức trách tỉnh An-Giang đã đem lòng khâm phục Đức Phật-Thầy, nhưng cũng phải tạm lưu giam Ngài để đợi lịnh triều đình định đoạt. Trong lúc lưu giam ấy, Ngài muốn ra vào tự ý, đội cai không tài nào ngăn cản được. Thế nên mấy lúc sau, người ta cho Ngài được ở ngoài tự-do, không ràng buộc nữa.

Thể theo đề nghị của quan Tổng-Đốc tỉnh An-Giang, Đức Phật-Thầy được triều đình chính thức công nhận, được tự do hành-đạo, nhưng buộc Ngài phải xuống tóc như hàng tăng sãi tu Phật ở cửa thiền.

        Tương truyền rằng trước khi Ngài thế phát, người ta có sấm sẳn cho Ngài một cái mặt kiến, một cây kéo và một cái mâm, để tỏ lòng trọng kỉnh.

        Khi xuống tóc rồi, Đức Phật-Thầy chia ra gởi cho các môn nhơn đệ tử có tâm chí giữ làm kỷ niệm. Tóc ấy hiện giờ mặc dầu đã trải qua hơn một trăm năm, vẫn còn nhiều người giữ được.

 

V– Vào núi Sam

Sau khi Đức Phật-Thầy được tha, để tránh sự hoài nghi của nhà cầm quyền, Ngài vào núi Sam ở chung một ngôi chùa sẵn có do giáo phái Lâm-tế lập ra và đã được triều-đình chứng nhận. Chùa nầy nhờ Phật cốt, gõ mõ tụng kinh, không giống cách trần thiết và nghi thức hành đạo của Ngài.

Lúc đầu, khi Đức Phật-Thầy mới vào đây, vị sư trụ trì trong chùa xem Ngài như một người thường mới vào qui y thọ phái nhưng sau đó ít lâu, vì thấy được những đạo pháp lạ thường của Ngài, các sư mới tỏ ý khâm phục và đồng xin tôn Ngài lên bậc sư-trưởng. Ngài từ chối, cho rằng trước sau như vậy, vả lại có như thế, cơ phổ hóa quần sanh của Ngài mới được phương-tiện thi-hành (1).

Từ ấy, cái bối cảnh ở Xẻo-Môn trước kia đã như tàn tạ, nay bỗng nhiên được phu diễn lại nơi đây. Người ta rầm rập tới lui, xin phù thỉnh thuốc và thọ phái quy y.

Để thực hiện cho kỳ được cái giáo pháp vô vi chân truyền mà Ngài đã mở ra từ buổi trước, Đức Phật-Thầy bắt đầu tìm những nơi hẻo lánh xa xôi.

———————

(1). Do đó mà khi Đức Phật-Thầy tịch, người ta mới khắc vào bia, cho rằng Ngài ở trong giáo phái Lâm-Tế như ngày nay ta còn thấy tại mộ phần của Ngài ở núi Sam. Và cũng chính thế mà vị Hòa Thượng Lâm-Tế hồi ấy được dân chúng suy tôn là Hòa-Thượng Tổ hay Hòa-Thượng Cố.

Để lập ra những cơ cấu tôn giáo – mà thuở ấy Ngài cho gọi là trại ruộng – để đem bổn-đạo tới đó vừa tu niệm vừa làm ăn. Bằng cách ấy, Ngài đã biểu thị tinh thần Phật-Giáo vị nhân sinh, lúc nào cũng vì đời vì người mà dùng Phật đạo để cứu khổ giác mê chớ không hề bi quan yếm thế.

Bởi vậy các trại ruộng, trại gỗ lần lần được dựng lên quanh vùng Thất-Sơn như ở Thới-Sơn, Láng-Linh, và Ngài phái các vị đại đệ tử ở đó chăm lo săn sóc công việc. Nghi thức thờ phượng thì đặc biệt theo giáo phái của Ngài là thờ trần điều, cúng nước lã, bông hoa mà thôi, chứ không phải như ở núi Sam.

Lúc nầy Đức Phật-Thầy tuy tiếng ở núi Sam chứ thật ra thì Ngài luôn luôn vân du đây đó để tùy cơ phổ độ quần sanh. Khắp vùng Thất-Sơn không đâu là Ngài không bước đến. Thỉnh thoảng Ngài đến những trại ruộng để truyền dạy đạo pháp cho tín đồ, các ông Cố-Quản, Đạo-Xuyến, Đạo Lập, Đinh-Tây, Tăng Chủ, cậu hai Lãnh v.v… đều có được Ngài truyền cho bí pháp. Bởi vậy, về sau tín đồ của các vị nầy phần nhiều cũng được đắc đạo cả.

Ngài thọ được 50 tuổi, tịch tại núi Sam vào giờ Ngọ ngày 12 tháng tám năm Bính-Thìn (1856), trong lúc không bịnh chi lắm, tinh thần vẫn bình tĩnh, sau khi đã nhắc nhở đạo đức và dặn dò công việc cho các tín đồ.

VI– Giáo lý căn bản

Để cho được thích hạp với trình độ và căn-cơ của quần chúng trong thời-kỳ Hạ-nguơn, Đức Phật-Thầy chủ-chương đem pháp-giáo vô vi của đạo Phật mà truyền dạy trong dân gian. Ngài không cho trần thiết tượng cốt, tụng đọc ó la như trong nhà thiền đã làm. Tại ngôi tam bảo chỉ thờ trần điều, tiêu biểu tinh thần vô thượng của nhà Phật mà thôi.

Ngài đặc biệt quan tâm đến vấn đề đưa ra những giáo thuyết về việc học Phật tu nhân, bởi hầu hết tín đồ của Ngài hồi ấy là hạng tại gia cư sĩ.

Về học Phật, ta thấy Ngài gom vào ba điều căn bản trong Phật pháp là Giới, Định, Tuệ.

Giới: là những sợi dây buộc ta vào chánh đạo, không cho ta phạm vào những lầm lỗi xấu xa và để ta đừng làm những điều tàn ác vô minh nữa.

Định: Suy nghĩ đến những lạc thú ở đời, cho nó đều là mỏng manh, giả ảo; diệt trừ ham muốn và nghĩ đến cuộc đời vô thường, tập trung tư tưởng để quan sát lý đạo, tìm hiểu chánh chân.

Tuệ: Hiểu thấu lý vô thường và sự khổ của con người, không bao giờ bị vô thường và sự khổ não chi phối mình nữa, nên bao nhiêu sự đau khổ đều được diệt trừ, thấy được Phật tánh (bản-lai diện mục).

Vì Ngài đã có nói:

Lọc lừa thì đặng nước trong.
Ma Phật trong lòng lựa phải tìm đâu.

Hay là: Cam-lồ rửa được tánh mê,
Nước trong thì thấy nguyệt kia xa gì.

Và: Dốc lòng niệm chữ từ-bi,

Lấy dao trí-tuệ cắt đi cho rồi.

Ngài quyết đem lại cho quần-chúng thấy được ánh sáng của cuộc đời là sống an vui, sống với lòng yêu thương nhau thân thiết chứ không phải sống để hành hạ nhau. Bởi vậy Ngài luôn luôn ở bên cạnh quần chúng để tế độ và hướng dẫn họ tới chỗ nhận thức rõ rệt sứ mạng đạo Phật không cho quần chúng hiểu lầm rằng Đạo Phật là chỗ đễ trốn nợ Đời, hay chỉ sống im lìm một mình đặng chờ ngày về cõi Niết-bàn riêng hưởng sự an vui.

Tất cả các giáo lý ấy chứng tỏ rằng Ngài có óc thực tiễn khác thường.

Về tu nhân, Đức Phật-Thầy thường khuyến khích các môn nhân đệ tử nên đền đáp tứ đại trọng ân.

Ngài nói:

Loài cầm thú còn hay biết ổ,

Huống chi người nỡ bỏ tứ-ân.

Bốn điều ân ấy, Đức-Huỳnh Giáo-Chủ có kể ra và giải nghĩa rất rõ rệt:

1.– Ân tổ-tiên cha mẹ

2.– Ân đất nước

3.– Ân tam bảo

4.– Ân đồng-bào và nhân-loại (với kẻ xuất-gia thì ân đàn-na thí chủ).

Ân tổ-tiên cha mẹ: Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ chịu biết bao khổ nhọc, nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên nên khi biết ơn cha mẹ cũng có bổn-phận phải biết ơn tổ tiên nữa.

Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn-cản. Chẳng thế, ta còn phải lo nuôi-dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau, gây sự hòa-hảo trong đệ-huynh, tạo hạnh-phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn: rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quã vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.

Còn đền ơn tổ tiên, đừng làm điều gì tồi tệ, điểm nhục tong môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.

Ân đất nước: Sanh ra, ta phải nhờ tổ-tiên cha mẹ; sống ta cũng nhờ đất nước quê hương. Hưởng những tấc đất ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy có bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp Rán nâng-đở xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo, và làm cho trở nên được cường-thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

Hãy tùy tài sức, nỗ-lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ xuất đến đổi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.
Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy.

Ân tam-bảo: Tam-bảo là gì? – Tức Phật, Pháp, Tăng.

Con người nhờ tổ-tiên cha mẹ sinh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương diện vật chất.

Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật-Pháp-Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Đạo của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ tử của đức Phật vậy. Bởi vì đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ-tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sung bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài Đạo hạnh vô thượng vô song rồi truyền mãi mãi với hậu thế.

Nên bổn phận chúng ta phải noi theo trí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

Ân đồng-bào và nhân loại: Con người vừa mở mắt chào đời, đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung quanh và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.

Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng: ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn: họ cùng chịu với ta. Họ và ta cùng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc-gia đó. Họ là ai? Tức những người ta thường gọi bằng đồng bào vậy?

Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch sử vẻ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên quan mật thiết không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng bào hay có đồng bào mà không có ta. Thể nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào ta còn có thế giới người đang cặm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm đau nguy biến, giữ vững cuộc sống còn nầy chăng? Hẳn không vậy. Thế nên, dân tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như nghĩ đến mình và đồng chủng mình.

Vả lại, cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức rất thâm huyền quảng hượt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa hết các từng lớp đẳng cấp xã hội và chỉ đặt vào một: Nhân loại Chúng sanh.

Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình vì đồng bào mình gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỷ  xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong hoạn nạn.

Xét qua giáo lý và hành động của Đức Phật Thầy, ta có thể mạnh bạo mà nói Ngài là một nhà cách mạng tôn giáo tiền phong trong lịch sử Phật Giáo Nam Việt. Vì trong lúc Ngài ra đời, đạo Phật đang đi sâu vào chỗ lu mờ suy đốn, do một số nhà sư làm lệch lạc, sai xa với Pháp giáo chơn truyền. Chính Ngài, trước hơn ai hết, đã cương-quyết đứng lên thực hành chánh pháp, phổ hóa quần sinh, gây nên một phong trào đạo hạnh sôi nổi và lan tràn mà từ xưa, lịch sử đã chứng minh chưa từng có.

Một ông Nguyễn-văn-Xuyến với chánh pháp thần thông, hóa dân trợ thế, – một ông Phạm-thái-Chung với pháp thuật cao kỳ, hoằng dương mối đạo, – Một Đức Cố-Quản Thành với tràn đầy lòng trung liệt, vì nước quên mình, – một ông Nguyễn-văn-Thới với mênh mông hồn ưu ái giang sơn tổ-quốc…, ngần ấy điều kiện, há không đủ chứng tỏ rằng giáo lý của Đức Phật-Thầy là một giáo lý cao siêu vô thượng, không quên đạo, chẳng bỏ đời (“đời đạo liên-quan rạng chói…”) đó sao?

VII- Những di tích có liên hệ đến Đức Phật Thầy

A. Ở Tòng–Sơn

Từ chợ Cái-Tàu-Thượng (Sađec) đi đổ xuống rẽ sang lộ đất lối hai ngàn thước, du khách sẽ trông thấy xa xa một ngôi đình lợp bằng ngói, ẩn hiện sau mấy chồm cổ thụ như trôm, dầu…  đó là đình làng Tòng-Sơn, một dấu-vết ở quê hương của Đức Phật-Thầy, nơi mà xưa kia, Ngài về nương náu sau mái hiên, sau bao nhiêu năm xa cách.

Trải mấy lần đất lở, đình nầy phải dời đi cất lại đến chỗ ngày nay. Trong đình, tại bàn chánh thì thờ trần điều, còn bàn Thần thì đặt ngay một hương án ở chính giữa phía trước. Hai bên: tả ban thì thờ cửu huyền, hữu ban thì thờ Đức Phật-Thầy, trên bàn có một tấm biểng bằng cây, sơn son thiếp vàng, lớn độ một thước bề ngang, một thước rưởi bề đứng, có khắc sâu những chữ: Đoàn Phật Sư ở giữ, và một đôi liễn kiến hai bên đề:

Tòng-Sơn đắc ngộ Phật,
Tây-An quả giác Sư.

Hằng năm đến ngày 12 tháng 8 là ngày vía của Đức Phật-Thầy, đình nầy có cúng kiếng long trọng như các chùa chiền vậy.

B. Ở Cái–Nai

Mộ Phật-Mẫu (thân-mẫu của Đức Phật-Thầy) hiện ở rạch Cái-Nai (thuộc thôn An-thạnh-Trung Quận Chợ-Mới, tỉnh Long-Xuyên). Rạch nầy cách chợ Cái-Tàu-Thượng lối năm ngàn bốn trăm thước. Từ vàm rạch vào đến mộ chừng hai trăm thước nữa, chung quanh mộ có trồng ô môi và có cất một cái nhà thờ, có người ở đây lửa hương phụng tự.

Tương truyền rằng khi chưa có người coi giữ mộ nầy, trâu bò cũng không dám đến gần; có khi người ta đi cho trâu ăn khuya lỡ lạc gần đó thì trâu bỗng nhiên nghinh lên rồi thục lui mà chạy, chừng như nó thấy được ai chận đuổi nó vậy. Bởi thế nên ngôi mộ nầy đến nay, dù đã trải nhiều mưa nắng, nhưng đất vẫn gò lên khách đi thuyền qua đây dòm lên còn thấy cao hơn các chỗ khác.

C. Ở Long-Kiến

Tại làng Long-Kiến (tổng Định-Hòa, Long-Xuyên), phía hữu ngạn sông Ông Chưởng, khách đi đường sẽ trông thấy một ngôi chùa lộng lẫy nguy nga, trước sân có một cây dầu, chung quanh có xây bồn bằng gạch, ấy là chùa Tây-An Cổ-Tự, một di tích của Đức Phật-Thầy. Ngày xưa Ngài có về đây để phát phù trị bịnh cho đến khi bị vời về An Giang. Nơi nầy trước kia là cái cốc của ông Kiến. Tuy đã qua mấy bận hư hao và một lần bị cháy, người ta đều sửa lại cho có chỗ thờ phượng. Đến năm 1952, chùa nầy mới được dựng lại và sửa sang đồ sộ như ngày nay.

D. Ở Núi Sam

Từ chợ Châu-Đốc đi vào năm ngàn thước thì tới núi Sam, rẽ sang phía tả, nhìn lên thấy ngôi chùa lồng lộng nằm trên triền núi, ngoài ngõ có đề ba chữ Tây-An Môn, ấy là chùa Tây-An (tục gọi là chùa chánh) ở núi Sam. Đây là nơi Đức Phật-Thầy nương náu để độ dân cho đến ngày tịch diệt. Trong chùa, Phật cốt rất nhiều, vì chùa nầy là của giáo phái Lâm-Tế như đã nói ở đoạn trước, nên không có chi là dấu vết của Đức Phật-Thầy.

Sau chùa, về phía đông, có một vòng thành vuông rộng 5 thước 45 bề dài, 4 thước 75 bề ngang, nằm trên chín cấp nấc gạch, ấy là mộ của Đức Phật-Thầy.

Mộ không có đắp nấm, trước mộ có một tấm bia khắc những chữ:

“Nguơn sanh Đinh-mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời chú sanh.

“Tự Lâm-Tế gia chư thiên phổ chánh phái tam thập bát thế, thượng pháp hạ tạng tánh Đoàn; pháp danh húy Huyên, đạo hiệu Giác-Linh chi vãn tọa.

“Tịch ư Bính-Thìn niên, bát ngoạt thập nhị nhựt, ngọ thời thị tịch diệt“.

E. Ở Thới-Sơn

Trại ruộng ở Thới-Sơn cách xa núi Sam trên 10 ngàn thước. Ngày xưa, khi lập xong, Đức Phật-Thấy giao cho ông Tăng-Chủ và ông Đình-Tây ở giữ. Nơi nầy có hai di tích: Phươc-Điền Tự và Thới-Sơn Tự. Hai chùa nầy cách nhau độ 2 ngàn thước. Khi Đức Phật-Thầy mới vào đây, Ngài để trâu (ông Sấm ông Sét) và làm ruộng tại Phước-Điền, còn Thới-Sơn (ngày xưa là trại ruộng Hưng-Thới) thì cất để thờ phượng và ở mà thôi.

Tại Phước-Điền Tự còn có hai đôi liễn thờ ở bàn chánh và dán ngoài cửa ngõ. Người ta bảo là của Đức Phật-Thầy chỉ cho tín đồ viết và lưu truyền đến ngày nay.

Liễn ở cửa ngõ:

“Nhứt trần bất nhiễm bồ-đề địa,

“Vạn thiện đồng quy bát-nhã môn”.

Liễn thờ ở bàn chánh:

“Phước bảo thiền quang thanh-tịnh vô-vì thường phổ chiếu,

“Điền kinh công đức viên dung bát-nhã biến thông truyền”.

Và một linh vị:

“Nguơn sanh Đinh-mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời hưởng dương ngũ thập tuế.

“Cung thỉnh Lâm Tế chánh tông tam thập bát thế, thượng pháp hạ tạng, tánh Đoàn, pháp danh húy: Minh-Huyên, đạo-hiệu Giác-Linh chứng minh.

“Vãng ư Bính-thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt, ngọ thời nhi chung.

Về sau, khi ông Đình-Tây tịch, trại ruộng Thới-Sơn được sửa sang lại thành một ngôi chùa nguy nga, nhưng bao nhiêu lần dâu bể, chùa ngày nay chỉ còn mấy nếp lợp thiếc và lá mà thôi. Gần chùa còn có mấy ngôi mộ của ông Tăng-Chủ và ông bà Đình-Tây là những người có công nghiệp rất to tát trong việc mở mang làng xóm dân cư ở đây ngày xưa.

G. Ở Láng–Linh

Từ vàm kinh xáng Vịnh-Tre đi vô độ mười ngàn thước thì tới trại ruộng Bửu-Hương Các ở Láng-Linh (thuộc làng Thạnh-Mỹ-Tây, tổng An-Lương, Châu-Đốc). Chỗ nầy là một di tích mà Đức Phật-Thầy xưa đã rẽ đất rạch hoang để mở cơ hoằng pháp. Ngài giao trại ruộng nầy cho Đức Cố-Quản Trần-văn-Thành coi giữ. Ngày nay, qua nhiều trận hư hao, nơi đây được chấn chỉnh lại trang hoàng, lợp ngói, vách gạch và có ông Nguyễn-văn-Tịnh, một đệ tử cũ của ông Hai Trần-văn-Nhu ở giữ gìn phụng tự.

CHƯƠNG II- CÁC VỊ GIÁO CHỦ HOẰNG ĐẠO SAU ĐỨC PHẬT THẦY

I- Ông Đạo Đèn hay Đức Phật Trùm (? – 1875)

A .Thân Thế

Ngài tên thật là chi và sanh năm nào chưa tìm ra được. Quê ở sốc Lương-Phi, núi Tà-Lôn (núi nầy trong vùng Thất-Sơn, ở góc núi Dài về phía núi Tô, gần kinh Tám-Ngàn), thuộc quận Tịnh-Biên, tỉnh Châu-Đốc.

Nghe Ngài xưng là Trùm của Phật sai xuống cứu đời, người ta gọi là Đức Phật-Trùm. Lại thấy Ngài trị bịnh hay dùng đèn sáp đễ đốt cho bịnh nhơn coi và ngửi mà hết bịnh, người ta còn gọi Ngài là ông Đạo Đèn.

Ngài vốn thật là người Cao-Miên, lúc còn là thường nhân thì đầu cạo trọc, ăn mặc theo lối Miên, nhưng khi được sáng tỏ, Ngài để tóc và ăn mặc theo người Việt.

Ngài có vợ và sanh được bồn người con gái. Hiện nay miêu duệ không thấy còn ai.

B. Trường hợp tỏ ngộ

Năm Mậu-Thìn (1868), quanh vùng Tà-Lôn, nhân-dân bị bịnh dịch mà chết vô số. Khi ấy Ngài cũng mang bịnh rồi chết. Lúc chết về đêm, gia quyến Ngài định hoàn lại sáng sớm hôm sau sẽ đem ra hỏa táng. Không ngờ trời rạng đông, Ngài tự nhiên sống lại và đi đứng mạnh giỏi như thường.
Nhiều người Cao-Miên thấy vậy xúm lại mừng rỡ hỏi thăm. Ngài không trả lời bằng tiếng Miên mà chỉ nói tiếng Việt. Ngài còn bảo vợ con từ nay hãy ăn ở nói năng theo phong tục người Việt.
Vài hôm sau, Ngài bắt đầu nói giọng nửa hư nửa thực. Có ai hỏi Ngài tại sao thế, thì Ngài trả lời đại lược rằng:

- Tuy là phần xác của Miên,
Hồn Trùm của Phật xuống lên dạy đời.

C. Bị bắt

Từ ấy Ngài bắt đầu trị bịnh. Ban đầu còn cứu người về bịnh dịch tả, sau bịnh nầy êm rồi thì người ta đem đến bịnh chi Ngài cũng trị được. Tiếng đồn vang dội khắp nơi, thiên hạ đem nhau đến để quy y cầu đạo mỗi ngày một đông không xiết kể!

Bởi thế nên có bọn người Cao-Miên ở Xà-Tón đem lòng ganh tị, nhứt là họ thấy Ngài thâu nhận nhiều tín đồ người Việt thì lại còn ganh ghét thêm. Một hôm nọ, họ đến cáo báo quân Pháp ở Châu Đốc, nói rằng Ngài hiệp cùng người Việt để mưu cuộc dấy binh chống Pháp.
Liền theo đó, Ngài bị bắt về Châu-Đốc và không cần xét hỏi hư thực, người ta đem giam Ngài vào ngục.
Theo lời ông Nguyễn-Phước-Côn – tục gọi là ông Bảy Còn, hiện ở tổng Định-Hòa (Long-Xuyên) – đã nghe kể lại thì trường-hợp nầy cũng gần giống như trường hợp bị bắt của Đức Phật-Thầy Tây-An. Mặc dầu Ngài bị giam cầm trong ngục thất, nhiều người vẫn thấy Ngài thong thả dạo chơi như người vô sự ở ngoài phố chợ. Bởi vậy, nhà cầm quyền Pháp hết sức nghi nan, họ bắt Ngài bỏ vào cũi sắt rồi đem liệng xuống sông. Thế mà khi khiêng đến bến, Ngài vẫn điềm nhiên ngồi trong cũi hút thuốc lá như thường.

Nhiều người tín đồ của Ngài giả dạng khách thương buôn để đến thăm dò tin tức; họ thấy Thầy bị hành hạ như thế thì đau lòng hết sức, định bụng rằng Ngài không còn tài nào sống được. Nhưng trái lại, một chập sau, họ thấy Ngài xả tóc, ung dung đi đứng trên đường.

Người ta hết sức thử-thách mà không chết, có lần họ đem Ngài bỏ vào vạc dầu sôi, Ngài an nhiên không chút sợ sệt, và khi đem ra, Ngài không bị một vết phỏng nào.

D. Bị đi đày

Thấy như vậy, người Pháp tuy có mến phục tài năng, nhưng thâm tâm còn sợ nỗi nếu thả Ngài ra thì quần chúng càng tin-tưởng thêm, mà chính cái tin tưởng ấy sẽ gây cho Ngài một thế lực mạnh mẽ. Vì thế nên họ cho đày Ngài ra hải ngoại.

Trong lúc ở hải ngoại, người ta bắt Ngài đi làm việc và chăn heo, cũng như những tội nhân thường phạm khác. Hễ mỗi sáng sớm, mỗi người phải lùa lên núi hai con heo cho ăn, rồi chiều đến lại lùa về.
Khác hơn các tù phạm, Ngài chỉ kêu hai con heo mà người ta đã cắt cho Ngài lại mà dặn nó sau khi đi ăn rồi phải về. Thế là hai con heo râm rấp vâng lời, khỏi phải phiền Ngài đi theo giữ như kẻ khác.

Ở đây một thời gian, Ngài bị nhà chức trách Pháp cho uống nước cường toan (eau régale) là một chất độc giết người, mà Ngài vẫn thêm mạnh. Lại xét thấy Ngài hiền lành, không có gì đáng cho là nguy hiểm lắm, họ bèn tha Ngài về.

Trước khi xuống tàu về xứ, có người tù phạm tên là Quăng – bấy lâu cũng bị đày như Ngài – than-thở rằng không biết số phận của y sẽ ra sao, và bao giờ mới được về quê quán. Ngài thấy vậy bảo Quăng đừng lo gì cho nhọc, nội trong bảy ngày nữa cũng sẽ được thả ra như Ngài vậy. Quả thật đúng y như lời Ngài nói, một tuần sau Quăng được đưa về.

E. Trở về Tà-Lôn
Sau lúc được trả tự do, Ngài được người Pháp phát cho một cây súng hai lòng để đi săn chơi, song họ buộc Ngài mỗi một tuần lễ, cứ lệ ngày thứ hai thì phải có mặt để trình diện. Ngài tuy theo lịnh nhưng vẫn còn có thì giờ trở về sốc ở Tà-Lôn mà cứu độ bịnh nhân và nhắc nhở cho người đời sớm lo tu tỉnh.

Nơi đây Ngài thường lên núi lấy sáp đem về để se đèn trị bịnh. Người ta không biết sáp ở đâu mà hễ cứ mỗi lần Ngài đi lấy thì những người đi theo không tài nào gánh hết được.

Cũng nơi vùng Thất-Sơn, có một lần Ngài sắp đặt một cuộc cúng tế có đông đủ tínđồ. Người nhà than rằng không thể nào lo được chén bát để dọn ăn cho đủ. Ngài bảo rằng không hề chi, trên non không thiếu những vật ấy.


Thế rồi hôm sau, Ngài cho ít người môn đệ đem gióng gánh theo chân Ngài lên núi để mượn đồ. Ngài dẫn đến một nơi nọ có hầm sâu, cây cối chung quanh sầm uất, rồi chỉ cho họ lấy, và dặn muốn lấy bao nhiêu tùy ý, nhưng hãy đếm để về sau hòng trả lại cho đủ.
Khi xong đám, mấy người tín đồ quảy gánh chén bát lên núi để trả lại chỗ cũ, nhưng có điều rất lạ là họ cố tìm mà không gặp được chỗ hầm đã lấy, họ đành phải gánh trở về. Sau phải nhờ Ngài dẫn lên chỉ chỗ mới trả được.


Cứ nhiều lần như vậy, nên trong tín đồ của Ngài có người đưa ý kiến chặt cây và cột gút cỏ lại để làm dấu, rồi đợi khi vắng Ngài, họ lén lên tìm coi. Nhưng họ cũng thất vọng, những dấu họ làm bữa trước không sao kiếm được, mặc dầu họ là đám người rất quen thuộc đường rừng.
Để cho phân biệt được tín đồ của Ngài và tín đồ các tôn phái khác, Ngài phát cho mỗi người đệ tử một bâu áo có hai khuy hai nút, còn những thân chủ đến trị bịnh thì Ngài chỉ cho một khuy một nút mà thôi.


G. Trường hợp tịch diệt
Ngài ra đời giáo đạo được bảy năm thì tịch diệt nhằm ngày 21 tháng mười một năm Ất – Hợi (1875). Ngày còn lưu lại cho đời một bổn “Sấm-Giảng” khuyên đời tu niệm và tiên đoán việc thời cơ.

Lúc Ngài tịch, có xảy ra một việc rất lạ, tưởng không thể bỏ sót được.
Một hôm, trước ngày tịch diệt, Ngài cho vợ con và tín đồ biết trước rằng Ngài sẽ về cõi Phật. Thế rồi Ngài bỏ nhà lên núi mà không trở về.
Sau mấy hôm quá ngày trình diện mà không thấy Ngài đến, quân Pháp cho lính vào tận sốc Lương-Phi tìm kiếm, và sau khi nghi nghe nói Ngài đã tịch rồi, họ nhứt định cho là nói dối, bèn bắt hết cả vợ con của Ngài giải về Châu-Đốc, buộc phải có mặt Ngài thì họ mới thả vợ con ra.

Trước tình-trạng rắc rối ấy, có người tín đồ trung thành của Ngài tên là ông Việm hết lòng nguyện vái rồi lặn lội lên vùng Thất-Sơn, để tìm Ngài mà cầu xin giải cứu.

Sau mấy hôm tìm kiếm hết sức vất vả, ông Việm mới gặp được Ngài đang ngồi trong hang đá, cùng nói chuyện với những bậc dị nhân.

Thấy ông Việm, chưa đợi ông nầy tường thuật, Ngài tự nhiên đã hiểu rồi. Ngài bảo ông Việm hãy về trước rồi Ngài sẽ theo sau, và dặn rằng Ngài chỉ rán độ cho một phen nầy, sau thì tự liệu lấy.

Khi đến nhà, Ngài bảo tín đồ đóng cho một cái hòm, rồi tự mình trải vào một cái khăn bằng vải rất rộng. Xong, Ngài vào nằm trong đó, sai người dậy nắp lại cẩn thận rồi đi báo cho Pháp hay.

Được tin đã kiếm được xác Ngài, quân Pháp kéo vào xem xét, thì quả nhiên, nhưng họ chưa tin rằng chết thiệt, bảo cứ gác thẻ dưới nắp hòm rồi để đó, hễ vài ba ngày thì họ vào một lần để dở ra khám nghiệm.

Sau khi đã khám nghiệm đủ cách mà không thấy Ngài còn có chút gì là người sống – mặc dầu xác Ngài vẫn không hôi-thối – nhà cầm quyền Pháp thả hết vợ con Ngài ra, rồi hạ lịnh đem chôn Ngài, trước mặt cho họ trông thấy.

Từ ấy về sau, Ngài không có trở về nhà nữa. Nhưng thỉnh thoảng Ngài có cho người ta xem thấy Ngài còn lảng vảng trong vùng Thất-Sơn.

Hiện giờ, nghe đâu Ngài còn có một người tín đồ đàn bà ở tại sốc Tức (1), – tục gọi là bà Bảy, sống hơn một trăm tuổi mà vẫn còn khoẻ mạnh, lại cứ một ngày một trẻ dần, đọ với con bà người ta thấy bà trẻ hơn nhiều. Nghe nói bà có xin phép “Ơn-Trên” để đi vào viếng cảnh trong ruột núi Cấm, nhưng chưa được lịnh, chẳng biết có quả thật như vậy không!

Trong khi đi sưu tầm tài liệu cho quyển sách nầy, vì tình thế khó khăn không cho phép, nên chúng tôi chưa đến tận mặt bà được. Xin chờ lại một dịp sau.
———————
(1).Ngã ba ông Cấm đi Ba-Chúc, đi rẽ về phía Tịnh-Biên lối một ngàn thước thì đến nhà bà Bảy.
———————

II- Đức Bổn Sư (?-1909)

A. Thân-thế

Ngài chính danh là Ngô-Lợi, lại còn có tên riêng là Hữu – . Bởi Ngài thứ năm cho nên lúc mới ra đời cứu bịnh, người ta gọi Ngài là cậu năm Hữu.

Ngài còn có biệt tài về việc đi thiếp, nên người đời gọi Ngài là năm Thiếp.

Tướng Ngài nho nhã, cách đi đứng dịu dàng. Tánh tình hòa hưởn, dễ dãi, và hay giả dạng đàn bà. Đối với tín đồ,

Ngài tùy theo lớn nhỏ mà kêu gọi bằng anh chị hay cô bác chữ không gọi bằng con.

Ngài sanh trưởng tại Dội (gần Mộc-bài), chỗ giáp giới biên thủy Miên – Việt, thuộc tỉnh Châu-Đốc. Thân-thuộc của Ngài hiện giờ tìm hỏi không thấy còn ai.

Cũng như Đức Phật-Thầy Tây-An, Ngài tự nhiên tỏ ngộ, hiểu thấu lẽ diệu huyền, không học mà thông và có rất nhiều pháp thuật.

B. Cứu bịnh

Lúc Ngài mới ra đời cứu bịnh và rời nhà ra đi trong trường-hợp nào, chưa tìm biết được, song có thể hiểu rõ rằng Ngài có đến Cù-Lao-Ba (thuộc thôn Vĩnh-Trường, tỉnh Châu-Đốc) trong khi dân chúng vùng nầy đang bị nạn dịch tả hoành hành. Ngài chỉ dùng nước lã, giấy vàng như Đức Phật-Tây-An để cứ độ bịnh nhân chứ không phải hao tốn thuốc men chi hết, thế mà bịnh nào cũng mạnh. Tiếng đồn vang khắp các nơi, dân chúng theo về quy y mỗi ngày một đông, không sao kể xiết.

Ngài ở Cù-Lao-Ba một độ rồi lên vùng Thất-Sơn, sang núi Dài, đến núi Tượng, đâu đâu Ngài cũng truyền dạy đạo đức và cứu bịnh giúp đời, thâu nhận tín đồ và dựng chùa thờ Phật.

Bởi thính thế của Ngài rất to cho nên nhà cầm quyền Pháp hồi ấy sợ lắm, thường tìm cách để bắt và tiêu diệt giáo phái của Ngài, song với cách thay hình đổi dạng của Ngài (khi đàn bà con gái, lúc trẻ nít thơ ngây), người ta không tài nào hiểu nổi tong tích Ngài ở đâu được.

C. Việc phá ếm

Chẳng những Ngài ở Cù-Lao-Ba và vào vùng núi Tượng mà thôi Ngài còn vân du truyền đạo khắp nơi. Ngài có lần xuống Láng-Linh, có hội kiến cùng Đức Cố-Quản Trần-văn-Thành trong hồi Ngài Cố-Quản đang chiêu binh chống Pháp (cuộc gặp-gỡ nầy không ngoài sự mưu tính công việc khởi nghĩa phục quốc).

Một lần nọ, Ngài cùng mấy người tín-đồ đi lang thang trong vùng núi Nước (một hòn núi nhỏ trong vùng Thất-Sơn). Trong khi ngắm xem phong cảnh, Ngài bỗng kêu tín đồ lại mà cho biết rằng tại đây có một cây ếm rất độc, có phương-hại cho tương lai của dân tộc Việt Nam. Mấy người tín đồ ngơ ngác không biết gì. Ngài mới vừa chỉ vừa bảo rằng: ”Dưới gốc ba cây da to lớn trước mặt kia, là chỗ có ếm!”

Hôm sau, Ngài dẫn đến lối bốn năm chục người đệ tử, vác rìu vác búa, có đeo theo khăn ấn để trấn áp tà ma rồi áp vào đốn hết cả ba cây đa ấy.

Khi hạ được rồi, Ngài cho móc hết gốc rễ tận dưới đất sâu, thì quả nhiên, có một cây ếm bằng đá, chữ khắc đã lu mờ song hồi ấy còn có thể nhận ra được là của bọn người khách trú.

Cái ếm ấy hiện giờ không còn thấy ở đâu, song bằng vào cái ếm để ở làng Nhơn-Hưng (quận Tịnh-Biên) mà ông Phạm-Thái-Chung đã lấy được thì sự thật vẫn hiển nhiên là có.

D. Trở về núi Tượng

Sau khi bôn ba đây đó, Ngài trở về núi Tượng mở rộng chùa chiển, quy tụ dân cư và lập nên mối đạo Hiếu-Nghĩa như chúng ta thấy còn lưu truyền đến ngày nay.

Người ta thuật lại rằng lúc ở núi Tượng, một hôm có quân Pháp kéo đến bao vây để lùng bắt Ngài cùng các tín đồ tên tuổi trong đạo. Lúc ấy Ngài đang ngồi vót nan, bổn đạo rùng rùng kéo đến rất đông, báo cho Ngài hay và yêu cầu Ngài liệu phương để đem nhau đào nạn. Ngài nghe xong vẫn ngồi điềm nhiên làm việc và nói không hề chi.

Một chập sau, quân Pháp tiến đến sát một bên bắn phá rất dữ dội. Bỗn đạo có nhiều người lo sợ quá, kêu khóc vang lên và xin Ngài hãy chạy. Thấy thế, ngài cầm mác đứng dậy dẫn đầu rồi bảo tín đồ hãy theo bóng Ngài mà đi. Liền đó, Ngài và một số người đông đảo như thế kéo ra ngang mặt quân Pháp mà không bị họ thấy được…

Thấy quân Pháp nghi ngờ và thường đến khuấy nhiểu, Ngài bèn rời núi Tượng, sang qua núi Dài, cùng với một số tín đồ sẵn có tại đây, dựng lên chùa chiền và chăm lo đạo đức.

E. Khi diệt độ

Ngày 13 tháng 10 năm Kỷ-dậu (1909), Ngài đang mạnh giỏi như thường, bỗng kêu các đệ tử lại mà cho rằng Ngài sắp diệt độ, và dặn hễ như thấy Ngài tắt thở thì hãy cứ để xác y nguyên như vậy đừng chôn, lo tu cầu và giữ gìn cho cẩn thận một thời gian thì Ngài sẽ trở lại (1).
————————

1. Có thuyết nói Ngài hẹn đúng một trăm ngày trở lại.

Thế là nội hôm ấy, Ngài tịch diệt. Tín đồ vâng theo lời dặn, giữ xác Ngài và đặt đàn tụng niệm kinh kệ luôn.

Biết Thầy đã liễu ngộ và có hẹn ngày trở lại, thấy anh em đồng đạo ở núi Dài có cái diễm phúc hơn là được giữ xác của Thầy, các ông Trò (1) ở núi Tượng bèn sắp đặt mưu lược; đang đêm kéo đến vây núi Dài, áp vào đánh đuổi những người giữ xác Đức Bổn-Sư rồi cõng Ngài đem thẳng về núi Tượng (2).

Tại núi Tượng, các ông Trò lúc đầu giữ gìn phần xác của Đức Bổn-Sư rất cẩn thận, họ để Ngài trong mùng nhiễu xanh phía sau bàn chánh trong chùa, rồi ngày đêm canh gác và tụng niệm không ngớt. Song chỉ được vài tháng như vậy, họ bắt đầu chểnh mảng dần, sự gìn giữ không được kỹ càng nữa. Vì thế mà phần xác thịt của Ngài bị chuột vào cắn mất một lóng tay (3)

————————

(1).Ông Trò là các đệ-tử của Đức Bổn-Sư, danh từ nầy trong đạo Hiếu-Nghĩa đã thông dụng.

(2). Có người nói Đức Bổn-Sư tiên tri sẽ có sự xô xác xảy ra giữa khối tín đồ của Ngài sau khi Ngài tịch, cho nên Ngài đã sai ông Trò lớn (người cầm đầu ở núi Dài), giỏi võ nghệ, đi xa để tránh sự đổ máu trong lúc tín đồ ở núi Tượng kéo sang núi Dài cướp xác Ngài.
(3). Một thuyết khác lại cho rằng Ngài tịch như vậy hai lần, một lần ở núi Tượng trước, tín đồ ở núi Tượng thấy lâu ngày bả nhả mới đem xác Ngài giấu trên Điện-Kín, nên bị chuột cắn đứt một trái tai. Rồi sau sống lại, Ngài lại sang núi Dài cũng tịch y như trên đã nói.

Một hôm, các ông Trò xúm nhau vào thăm, thấy thế họ lấy làm lo sợ tội lỗi với Thầy, nên bàn nhau đóng một cái rương, xong, họ thỉnh xác Ngài đem để kín trong đó.

Sự tranh giành phần xác của Đức Bổn-Sư do nhóm tín đồ chia rẽ nhau lâu ngày đã làm lọt đến tai quân Pháp ở Tịnh-Biên. Họ kéo vào núi Tượng bao vây, quyết phen nầy tìm cho được Ngài, mặc dầu họ đã nghe biết là xác chết.

Hôm ấy nhằm lúc chỉ còn một số ít tín đồ ở giữ tại chùa. Thình lình nghe có quân Pháp đến, họ hãi kinh, không biết làm cách nào để giấu cho kịp xác của Thầy và để cho tự mình trốn tránh. Bỗng từ ngoài có một mãnh hổ rất to, nhảy a vào, hộc lên mấy tiếng vang cả rừng núi rồi đến dở rương, cõng xác Đức Bổn-Sư chạy mất.

Từ ấy về sau, và mãi cho đến ngày nay, không ai nghe thấy được Đức Bổn-Sư ở đâu nữa. Nếu có ai tò mò đến hỏi thăm các ông Gánh (là những người hiện giữ đạo Hiếu-Nghĩa, sau lớp ông Trò) về đoạn nầy thì họ hạ giọng xuống, lắc đầu mà nói rằng :

– Chuyện ấy không thể nói được!

Ngài để lại cho đời một quyển Đồ-Thư, trong ấy có chép chuyện biến thiên của đất nước, và tại Tam-Bửu Tự ở làng An-Định, quận Tịnh-Biên, còn chạm vào cột một bài thi của Ngài. Xin chép y nguyên văn vào đây để làm dấu-tích.

Thất minh thất ám lưỡng hề nghi
Phương thốn thường tồn bất khả khi.
Mặc vị thiên cao Thần Thánh viễn,
Yêu tu tiên úy tự gia tri.
Bồ-đề niệm-niệm vĩnh vô khổ,
Đắc pháp thành thân phước phóng thùy.
Giải thoát mê trần cam lộ sái,
Ma-ha bát-nhã mật tâm trì.

III-Ông Sư Vãi Bán Khoai

  1. A. Thân thế

Ông tên thật là Mỹ, họ gì không rõ. Quê quán và lai lịch tộ tiên như thế nào hỏi không ai biết. Ông có vợ, sanh được hai con và thường đến Vĩnh-Gia thuộc kinh Vĩnh-Tế (Châu-Đốc).

Hình dạng nhỏ bé ốm yếu như người đàn bà, trước ngực thường mang một cái yếm, xa trông giống hệt một cô vãi. Lại nữa, Ông trị bịnh cho đời hay dùng vải áo, vải khăn của mình mà cho; nhân thế, người ta đặt cho Ông cái biệt danh là Ông Sư-Vãi.

Vào khoảng năm Tân-Sửu (1901) và Nhâm-Dần (1902), Ông thường giả dạng thường nhân đi bán khoai ở xứ Cao Miên và trong kinh Vĩnh-Tế, để tùy cơ khuyến thiện người đời. Thấy vậy người đời mới quen gọi Ông là Ông Sư-Vãi Bán Khoai.

Ông có nhiều pháp thuật và võ nghệ. Nội ngón tay cái của Ông, mỗi khi cần niệm kinh hay đọc chú, Ông dùng cây gõ vào thì có tiếng kêu lên cốc cốc, giống như mõ của các thầy phù thủy.

Lúc ở Vĩnh-Thông, Ông thường hay đi nhổ bàng để dệt đệm. Một hôm, Ông đang cầm mác thong đi chặt bàng trong đồng, bỗng nghe có tiếng người lẫn tiếng cọp la hét vang vầy gần đó. Ông liền cầm mác chạy tới thì thấy ông Mạnh – người cùng xóm với Ông – đang dùng một thế võ: hai tay nắm chặt bốn chân con cọp và đội thẳng bụng cọp trên đầu, nhưng vì gặp phải cọp mạnh quá, ông Mạnh không đập xuống được mà cũng không dám thả cọp ra. Ông liều cầm mác thong nhảy tới, vươn mình lên thật cao, hét lên rồi chém sả xuống một mác thật mạnh, con cọp bị đứt ra làm hai đoạn. mà ông Mạnh vẫn không bị dao phạm chút nào!

B. Vân-du dạy đời

Ông bơi xuồng giả dạng người bán khoai để cảnh tỉnh người đời. Trong sám giảng của Ông có đoạn chép:

Nào khi Sư-Vãi Bán-Khoai,
Trong kinh Vĩnh-Tế ai ai cũng lầm.
Mặt cân tôi chnẳg biết cầm,
Quê mùa già cả âm-thầm biết chi!

Ông còn dùng lời lành để kêu gọi dân chúng trở về đường tu, chẳng những ở Vĩnh-Tế, mà khắp vùng Thất-Sơn, đâu đâu cũng có Ông.

Hư nên các việc tỏ bày,
Tôi không có ép có nài chi ai.
Thương thay ông lão Bán Khoai,
Lên non xuống núi hôm mai dạy đời.
Thân sao nay đổi mai dời.
Xóm kia làng nọ khổ thay thân già!
Nam-mô Đức Phật Di-Đà,
Khiến người trở lại thảo gia của người.
Bạc bảy đâu sánh vàng mười,
Hiền lương đâu xứng với người hung hăng.
Khùng như Sư-Vãi ai bằng,
Khôn như bợm bãi nhiều thằng mang gông.
Lời khuyên khắp hết tây đông,
Chừng nào hết cá dưới sông, hết đời.

Ngoài việc khuyên đời tỉnh thân thiện niệm. Ông còn nhắc nhở bổn-phận làm người, và gợi lên tấm lòng trung quân ái quốc.

Niệm Phật thì phải chí tình,
Ơn cha nghĩa mẹ giữ mình cân phân.
Niệm Phật phải giữ Tứ-Ân,
Ơn nhà ơn nước xử phân trọn nghì.

Và :

Thảo cha ngay chúa xưa nay,
Dầu mà có thác miễu son tạc thờ.
Xem trong các truyện các thơ,
Nịnh thần có thác miễu thờ ở đâu!

Ông có đến Cù-Lao Ông Chưởng (Long-Xuyên) một lần, và sau lại, Ông trở về núi Cấm.

Chỉ nội trong khoảng hai năm Tân-Sửu và Nhâm-Dần, người ta còn nghe thấy Ông vân du để giáo dụ người đời. Nhưng từ đó về sau, không ai còn biết Ông ở đâu nữa.

Ông để lại một bổn ”Sấm Giảng Người Đời” (11 quyển) với mục đích dạy người làm lành lánh dữ và trung nghĩa với Tổ Quốc giang sơn. Bổn sấm giảng ấy ngày nay vẫn còn truyền tụng.

IV- Ông Cử Đa

A. Thân thế và sự nghiệp ở trần gian

Ông tên thật là Nguyễn-Đa. Vì đã thi đỗ võ Cử-nhân nên người đời gọi là ông Cử Đa. Lúc mới đến Thất-Sơn, nhiều người thấy tiếng nói của ông phát giọng miền Trung, cho nên cũng gọi ông là Thầy Huế. Quế ông ở làng Phù-Cát (có chỗ chép là Phú-Lạc) huyện Bình-Khê, tỉnh Qui-Nhơn, nơi đã từng hun đúc bậc đại anh hùng cứu quốc: vua Quang-Trung Nguyễn-Huệ.

Ông sanh đẻ năm nào và thi đỗ hồi khoa nào không ai được biết, có điều biết rằng khi ông vào tới Thất-Sơn thì chính là lúc ông Nguyễn-Trung-Trực đang thất bại ở miền đông, lui về ẩn náu ở Hòn-Chông, Kiên-Giang (Rạch-Giá), khoảng năm 1867-1868. Hồi ấy, có người phỏng định ông được lối 40 tuổi.

Xét ra trong sử Việt và các sách nói về binh chế Việt-Nam, thì trong khoảng trước ngày ông Cử vào Nam, thấy có những khoa thi võ vào năm Thiệu-Trị thứ 5 (1845), và năm Tự-Đức thứ 18 (1852), là hai khoa mà với niên kỷ ông Cử hồi ấy có thể thi được, nhưng không thấy chỗ nào ghi chép tên họ các thí sinh trúng tuyển. Như vậy, ta có thể hiểu được ông Cử thi đỗ vào một trong hai khoa nầy mà thôi, nhứt là khoa Thiệu-Trị thứ 5 thì có phần đúng hơn.

Từ khi ông Cử thi đỗ và sau, cánh chim bằng không ngớt tung bay đây đó, để mưu đồ hộ quốc tỳ dân. Khi đến phía Bắc miền Trung, khi vào Thuộc-Nhiêu (1) miền Nam, nhưng đến đâu ông cũng đều gặp phải cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Sau rốt, bước chân giang hồ mới dừng lại ở Thất-Sơn.

Để hiểu rõ tấm lòng ưu ái kiên trinh đối với giang sơn trong hồi nghiêng đổ, ta hãy xem ông Cử đã bộc lộ ý chí của mình trong giảng Tà-Lơn :

Lòng ta luống những ưu-phiền,
Một mình trực tiết không miền gió trăng.
Trong mình cũng biết võ văn,
Trải chơi thế cuộc tiếng văn giang hà.

Hay là :

Anh hùng nghĩa khí trung-cang,
Trải ô thủy-thạch Lãnh trang ít người.
Tang bồng hồ thỉ đổi dời…

———————

(1). Trong giảng Tà-Lơn có đoạn nói:”Quê tôi ngày rày ở tại Thuộc-Nhiêu”. Có lẽ khi mới vào miền Nam, ông Cử có ở lại Thuộc-Nhiêu một thời gian, hoặc ông có hiệp sức với ông Thủ-Khoa Huân để kháng chiến nhiều trận tại Thuộc-Nhiêu cho nên mới nói như thế.

B. Bước đường tu tỉnh

Thuở ấy tình thế Nam-Kỳ hết sức rồi ren nguy ngập. Một mặt, Pháp bội hứa sự sửa đổi hiệp-ước 5 Juin 1862 (Bonard – Phan-Thanh-Giản); một mặt họ cưỡng chiếm ba tỉnh miền Tây. Thủ-Khoa-Huân bị đày sang đảo Réunion (1864). Trương-công-Định chết ở Gò-Công (20-8-1864). Phan-Thanh-Giản tuẫn tiết ở Vĩnh-Long (7-8-1867). Chỉ còn ông Nguyễn-Trung-Trực với một ít tàn binh lẩn lút ở Kiên-Giang, với những giờ phút đầy nguy cơ, hâm dọa. Có lẽ vì vậy mà ông Cử không còn cách nào hơn là ẩn danh tu tỉnh, để chờ ngày trở lại giúp nước và dân. Vì ông đã nói:

Sao bằng giữ đặng sạch trong,
Bảng vàng chiếm đặng bướm ong sá gì.
Đem mình về chốn Kinh-kỳ,
Áo cơm khỏi tốn phước thì mẹ cha.

Và mục-đích hành đạo của ông là:

Hiếu trung hai chữ phụng-thờ,

Lâm tòng dưỡng tánh đặng nhờ tấm thân.

Khắp các ngọn núi trong vùng Thất-Sơn đều có dấu chơn của ông lui tới. Cuộc đời tu tỉnh của ông Cử tưởng cũng được yên ổn nơi đây, nhưng bỗng một hôm, tung tích của ông bị phát lộ; quân Pháp ở đồn Cây-Mít (Châu-Đốc) kéo đến bao vây; vì thương dân chúng vô tội quanh vùng nên ông không nỡ chống lại, bèn từ giã một số đệ tử chân thành, rời khỏi Thất-Sơn, ra hòn Phú-Quốc (Hà-Tiên) (1).

———————

(1). Có người nói ông Cử đi thẳng qua núi Tà-Lơn, còn ở Phú-Quốc thì trước khi về Thất-Sơn. Chưa rõ thuyết nào đúng hơn. Xin nhờ các bậc thức giả phủ chính cho.

Việc quân Pháp theo dõi ông Cử để khủng bố những người tu theo giáo phái của ông hồi ấy chắc là gắt gao lắm. Xem như giảng tà-Lơn đã chép:

Dọn thuyền hai chiếc một khi,
Sắm sửa vậy thì đồ đạc đem ra.
Hai Võ phân nói thiệt thà:
“Kinh tệ áo dà để lại chốn đây.
E khi đi có gặp Tây,
Nó coi thấy đặng, sắp bây không còn”.
Tính thôi đã một buổi tròn
Xuống thuyền ra biển hỡi còn canh hai!

Ở Phú-Quốc một độ, ông vượt đường qua Giang-Thành rồi lên núi Tà-Lơn. Tại đây, ông Cử được gặp Minh-sư chân truyền đạo pháp và đặt cho đạo-hiệu Ngọc-Thanh:

Hắc y đổi lại cà sa,
Cải tên đặt lại hiệu là Ngọc-Thanh.

Từ đây, ông Cử có thâu nhiều tín đồ ở núi Tà-Lơn, và lâu lâu lại trở về Thất-Sơn thăm các đệ tử cũ. Ông thường dặn bảo tín đồ rằng nếu không có mệnh lệnh thì không một ai được bạo động gì cả.

Thế rồi từ ấy trở đi; không còn ai biết được tăm hơi gì về ông nữa. Cho đến ngày tháng ông Cử đăng Tiên, cũng không tìm hỏi đâu ra được. Chỉ có lời truyền khẩu rằng từ ngày vắng bóng vị Giáo-chủ, thỉnh thoảng có người thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặt non mơn mởn, cỡi hổ mun, vượt rừng qua lại trong dãy Thất-Sơn. Người ta thì thầm bảo nhau: ông già ấy là ông Cử!

C. Môn-nhơn đệ tử

Trong hàng môn nhơn đệ tử cùa ông Cử ở vùng Tà-Lơn và Thất-Sơn kể ra cũng nhiều, nhưng chỉ có ông Nguyễn-Ngọc-Minh và ông Trần-Bá-Lương (tục gọi ông hai Lương, quê ở tỉnh Bến-Tre), là được phép bí truyền nhiều hơn hết, Hiện nay mộ phần của ông Nguyễn-Ngọc-Minh còn thấy ở điện Kim-quang-Thành (núi Tà-Lơn, phía trên Trung-Tòa độ bốn trăm thước). Những con cháu của tín đồ ông Cử ngày nay mỗi khi trần thiết sự thờ phượng thì không quên đặt bài vị của ông Nguyễn-Ngọc-Minh ở một bên, phía dưới bàn thờ ông Cử. Chắc sinh thời ông Minh đã kế chí Thầy tế trợ quần sinh nên mới được người đời mãi còn cảm ghi ân đức như thế.

D. Vài mẫu chuyện thử lòng

Những đệ tử nào có thành tâm tu tỉnh nhứt lại là người thường bị ông Cử thử thách nhứt.

Như trường-hợp ông Trần-Bá-Lương (một đại đệ-tử của ông Cử) sẽ kể đây là một:

Ông Lương từ khi rời nhà ra đi, lòng chí dốc tìm chơn sư để học hỏi sự tu hành, bởi ông đã phát được bồ đề tâm từ khi còn nhỏ. Ông đi khắp đó đây trong vùng Thất-Sơn, nghe đâu có ông Cử là một bậc siêu phàm nhưng lúc ấy đã về bên núi Tà-Lơn. Ông không quản ngại khó khăn, băng rừng lội suốt, lắm khi hết tiền hết gạo, ông phải làm thuê mướn dọc đường để kiếm tiền độ thân. Nhưng khi đến Tà-Lơn ông ở đó ngót năm mà không tìm đâu ra được ông Cử.

Tuy thế, ông Lương không hề thối chí, cứ thành tâm khấn nguyện với Phật Trời rồi lang thang đi tìm mãi. Bỗng một hôm, ông gặp được một cụ già có vẻ đạo mạo đang xuống lấy nước ở bờ suối. Ông Lương mừng lắm, tự nghĩ: quần nâu áo vải, độc thân ở chốn lâm tuyền lậu hạn cụ già nầy không phải là Tiên Phật thì còn ai! Bèn xin chỉ dẫn về đường đạo đức. Cụ già một mực chối từ, bảo rằng cụ cũng là một phàm nhân, không hiểu chi về việc luyện đạo. Ông Lương không nghe, xin cho ở đấy cùng tu và giúp đỡ những công việc nặng nề cho ông cụ. Túng lắm, cụ già ấy mới bằng lòng cho ở, nhưng cũng cứ một mực bảo rằng mình không phải là bậc siêunhân.

Từ đây ông Lương lấy làm vui dạ, vì tuy chưa được cụ già ấy truyền dạy điều gì, nhưng ông vẫn tin nơi ý nghĩ của mình là đúng nên cứ đặt hết lòng kính cẩn, yên trí tu trì, giúp những công việc hằng ngày cho cụ già: nào trồng khoai, gánh nước nào thổi lửa nấu cơm…

Trải một thời gian như thế ông Lương vẫn vững được lòng. Thình lình một đêm kia, cụ già kêu ông Lương lại, nói rõ gốc tích của mình từ lúc ở Trung mới vào Nam, bởi theo đuổi một chí lớn mà tấm thân cơ hồ tan nát thế nào, và khi đến Thất-Sơn ra sao, nhứt nhứt cụ kể rành mạch, rồi kết luận rằng mình là Nguyễn-Đa, bằng lòng thừa nhận ông Lương từ đây được vào hàng đệ tử.

Và dưới đây là một cuộc thử thách có huyền thuật:

Ông Cử có một người đệ tử (không rõ tên) đạo đức khá cao, cũng không kém ông Trần-Bá-Lương và ông Nguyễn-Ngọc-Minh.

Khi sắp đăng Tiên, ông Cử kêu người đệ tử ấy lại mà bảo:

– Thầy sắp về nơi tiên cảnh, vậy con ở lại rán cố chí hành đạo, khi nào thông đạt, Thầy sẽ trở về dẫn độ con.

Người đệ tử kia rất đổi hài lòng, nằm phục xuống đất van cầu thảm thiết, xin thầy cho theo.

Trước tình cảnh sư đệ sẽ phải chia ly và sự thành lòng của kẻ môn nhơn như thế, ông Cử động lòng từ bi, hứa sau ba năm sẽ trở về, nếu người đệ tử nầy hết lòng tu tỉnh thì ông hóa độ.

Từ đó, người đệ tử ông Cử cứ vâng lời Thầy, ở lại cố gắng tu trì, chuyên lo tĩnh luyện, và ngoài những thời khắc bái sám hành hương, người còn lo phát thuốc cứu đời để biểu thị cái hành động tế thế của Thầy, không cho gián đoạn.

Một hôm, cũng như thường lệ, ở dưới chân núi có chú Khách-Lác (1) lên xin thuốc uống nhưng trái hẳn ngày thường, chú Khách hôm nay với hình dáng mõi mệt, đói lả. Gặp giờ dâng cơm bữa, người đệ tử ông Cử bảo chú Khách ngồi chờ, ông cúng xong sẽ xem bịnh và giúp thuốc cho.

Thừa lúc người môn đệ ông Cử vào nhà sửa soạn đèn hương, chú Khách-Lác bưng cả mâm cơm trên bàn xuống ăn sạch. Khi trở ra người đệ tử ông Cử thấy thế cả giận, tỏ vẻ bất bình. Ngay khi ấy chú Khách đã không nhận lỗi mình, mà trái lại, còn buông ra nhiều lời cộc cằn cương câu là khác. Người đệ tử ông Cử không dằn được giận, xách roi rượt đánh chú Khách, Chú Khách chạy dài. Khi đến bờ suối, chú Khách bỗng phi thân ngang suối rồi đứng bên kia gộp đá trông qua, kêu lên:

– Hỡi đệ tử, con còn nóng quá! Hôm nay là ngày hứa hẹn. Thầy định về để dẫn độ con nhưng sự đã như thế nầy, con hãy rán kiên tâm mà tu trì thêm nữa mới được!

Nhìn sang bờ suối, chỉ thấy ông Cử nghiêm trang đứng đó mà chú Khách-Lác thì đâu mất tự bao giờ. Người môn đệ biết mình đã lầm, quì xuống van lơn. Nhưng ông Cử thản nhiên biến mất.

———————

1. Người ta gọi chú Khách-Lác vì ông nầy là người khách trú, toàn thân đều bị bịnh lác lở lói.


CHƯƠNG III: CÁC VỊ ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THẦY

I. Đức Cố Quản (? – 1872)

A. Thân thế

Ngài tên là Trần-văn-Thành, làm đến chức Chánh Quản-Cơ dưới triều Vua Thiệu-Trị và Tự-Đức. Bởi có công-nghiệp rất lớn-lao với đời và đạo, vả lại con của Ngài là Trần-văn-Nhu và cháu nội là Trần-quang-Nhơn đều là những bậc đạo hạnh cao siêu, ân nhuần thiện tín, cho nên người đời sau kỉnh trọng mà gọi Ngài là Đức Cố-Quản.

Ngài sanh năm nào không tìm ra được. Quê ở Cồn-Nhỏ, thuộc làng Bình-thạnh-Đông, tổng An-Lương, tỉnh Châu-Đốc. Ông Bà thân sinh ra Ngài vốn là nhà khá giả, có nhiều ruộng đất, nên khi Ngài vừa lớn lên thì được đi học chữ nho. Ngài có khiếu thông minh, học ít hiểu nhiều và khi trưởng thành, Ngài chuyên luyện rất rành về võ nghệ.

Tướng Ngài mập chắc không cao không thấp, nước ta trắng, lúc về già thường bịt một cái khăn xước bằng nhiễu điều, và mỗi khi ra trận, người ta thấy Ngài luôn luôn mặc ở ngoài một cái áo lá nhuộm màu dà.

Ngài cưới vợ tại rạch Sa-nhiên (Sađec). Nhũ danh của Bà Cố-Quản là Nguyễn-thị-Thạnh. Hình vóc ốm yếu, nhỏ người, (1) nhưng văn võ kiêm toàn. Bà sanh hạ được sáu người con: ba trai, ba gái. Người con trưởng nam là Trần-văn-Nhu (tục gọi Cậu Hai Nhu) và kế theo đó là Trần-thị-Hè, Trần-văn-Chái, Trần-thị-Nên, Trần-thị-Núi và Cậu Trạng Bảy. Cậu nầy sở dĩ có cái đặc danh Cậu Trạng Bảy là vì cậu thứ bảy chết hồi 7 tuổi (không ai được biết tên), và khi còn sống rất thông minh dĩnh ngộ; mặc dầu tuổi còn thơ ấu, nhưng đã tiên tri được nhiều việc.

B. Đánh giặc Tần

Nhờ cái chí khí hùng tráng sẵn có từ lúc thiếu thời, lại thêm được hun đúc nhiều bởi khí thiêng của dãy Thất-Sơn hùng-sĩ, nên khi có giặc Tần nhiễu loạn ở mạn biên thùy và Sóc-trăng, Ngài đứng lên chiêu mộ binh sĩ, rồi hiệp cùng binh lực của triều đình, dẹp loạn cứu dân.

Trong những trận đánh ở gần biên thùy Miên Việt, Ngài có chiêu phục được hai người Tướng lãnh Cao-Miên là ông Bướm và ông Vôi (2). Hai ông nầy sau tu hành đạo đức khá cao làm cho uy danh Ngài càng thêm lừng lẫy.

Trong giai đoạn đánh Tần dưới Trướng Ngài còn có ông Hai Lãnh (tục gọi là cậu hai Gò-Sặc) là người em bạn đạo, võ nghệ và phép thuật rất cao cho nên quân trẩy đến đâu, giặc đều khiếp phục đến đó.

———————–

(1). Hiện giờ còn thấy di tích một cái tay áo của Bà Cố-Quản, ngoài cửa tay độ chừng 3 ngón tay của người to lớn xỏ vào thì vừa chẹt.

(2). Trong quyển Bổn Tuồng của ông Ba Thới có đoạn chép:

Tần hữu Phật Bướm, Vôi,

Hớn đa ngôi Tiên Thánh,

C. Qui y với Đức Phật-Thầy

Khi có tin đồn Đức Phật-Thầy Tây-An là một vị Phật giáng lâm vừa mới đến Xẻo-Môn (Long Xuyên) để trị bịnh cứu đời. Đức Cố-Quản thân hành xuống đó để xem hư thật. Gặp lúc bịnh nhơn đông đảo Ngài phải ở đợi suốt ba hôm ngoài sân. Bỗng nhiên Đức Phật-Thầy cho người kêu ngay vào vui vẻ hỏi chào rồi cùng Ngài chuyện vãn rất thân mật. Ngay lúc ấy, Ngài xin quy y với Đức Phật-Thầy.

Khi trở về Bình-Thạnh-Đông, Đức Cố-Quản đem chuyện gặp được Đức Phật-Thầy là một bậc siêu phàm mà thuật lại cho gia quyến nghe, và khuyên cùng quy y theo. Cả nhà đều đồng lòng ưng chịu.

Khi Đức Phật-Thầy bị vời về An-Giang, rồi vào núi sam, Ngài thu xếp nhà cửa và giao hết ruộng vườn (hầu hết ruộng đất ở làng Bình-Thạnh Đông hồi ấy là của Ngài) lại cho Nguyễn-văn-Dõng (tục gọi là ông Tham Dõng) là người trong thân tộc rồi bỏ làng ra đi, theo đường đạo hạnh.

Có lúc Ngài đem cả gia cư lên núi Doi, và, về sau, Ngài được Đức Phật-Thầy giao cho trọng trách đi cấm bốn cây thẻ quanh vùng Thất-Sơn, cùng trở về coi sóc trại ruộng Bửu-Hương Các ở Láng-Linh.

Trên đường đạo, có thể nói Ngài là đạo đức rất cao siêu, có được nhiều bí pháp chân truyền của Đức Phật-Thầy truyền dạy. Cái áo lá dà và một cây cờ dà mà lúc nào người ta cũng thấy Ngài không rời xa, ấy là những bảo vật mà Ngài đã được Đức Phật-Thầy huệ tứ trong khi sắp dấn thân vào vòng tên đạn để phục vụ cho nước, cho dân vậy.

D. Đánh giặc Tây

Năm 1862 quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông (Biên-Hòa, Gia-Định, Định-Tường) và triều đình Huế đã ký tờ hòa ước bằng lòng nhượng đứt ba tỉnh ấy cho Pháp cai trị. Các sĩ phu và dân chúng bấy giờ uất hận nổi lên chống cự, gây nên cảnh chiến tranh vô cùng khốc liệt.

Ở miền Tây, tình thế cũng không kém phần nghiêm trọng, nhứt là tại tỉnh An-Giang, năm 1864 có vụ ông Thủ-Khoa Huân không tuân lịnh ngưng chiến của triều đình (1) nên bị bắt, Thủy-sư Đô-đốc De Lagrandière nhờ có kẻ mật báo nên hạ lịnh cho Doudart de Lagrée từ Oudong (Cao-Miên) đem tàu và đại bác đến hâm dọa nả kích vào châu thành để giành lại ông Huân. Cảnh-tượng đã gieo rắc sự kinh khủng trong dân chúng và nung nấu thêm sự bực tức trong lòng những người đầy khí phách, ái quốc ưu dân. Cho nên từ đó trở đi, Đức Cố-Quản chiêu mộ thêm các tay nghĩa dõng quanh miền, lập cản phá cầu, đúc rèn súng, đạn, thương, đao, chờ khi đối địch.

———————–

1. Thủ-Khoa Huân đánh trận Thuộc-Nhiêu (Mỹ-Tho) đại bại trong đêm tháng 9-1863 nên chạy về vùng Thất-Sơn ẩn trú, bị quan của triều đình bắt giam. Vì lúc nầy đã ký tờ hòa-ước 1862 rồi nên ra lịnh ngưng chiến, ai cải thì bị nã tróc.

———————–

Mặt khác, Ngài cho thăm dò tin-tức chiến đấu của những người đồng thời ở miền Đông như Ngài Phó Quản-Cơ Trương-công-Định, và Ngài Thiên-Hộ Võ-duy-Dương để hiểu rõ tình thế của giặc.

Đoạn nầy, trong bài ký thuật về Đức Cố-Quản, ông Vương-Thông có chép:

Các quan ẩn ảnh sơn đầu,
Chiêu binh ra đánh giải sầu một phen.
Nam-Kỳ có tướng quan Thiên (Thiên-Hộ-Dương)
Cùng quan lớn Định cầm quyền đánh Tây (Quản-Định)
An-Giang có một ông đây (Đức Cố-Quản)
Chữ dạ ngay Thầy ái quốc ưu quân.

Ngày 19 tháng 5 năm Đinh-Mão (Tự-Đức thứ 20, 1867), De Lagrandière đem 2.000 binh đến uy hiếp tỉnh Vĩnh-Long buộc ông Phan-thanh-Giản phải giao luôn ba tỉnh miền Tây là An-Giang, Hà-Tiên và Vĩnh-Long. Ông Giản phải uống thuốc độc mà tự tử. Từ đó ba tỉnh miền Tây đều lọt vào tay Pháp.

Đức Cố-Quản tuy biết thời cơ đã đưa vận nước tới chỗ suy vi, không thể nào cưỡng lại được, song vì lòng trung nghĩa, tiết tháo, nên sau mấy trận đánh quyết liệt với quân Pháp khi chúng mới đến An-Giang. Ngài rút lui về cứ hiểm ở Bảy-Thưa (giữa Long-Xuyên-Châu-Đốc) đánh cầm cự mà đợi thời:

Hơn thua cũng đánh cầm chừng,                                                                                                                                Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần.(1)
Để cho Trời Đất định phân,
Làm tôi phải trả nghĩa ân cho toàn.

Nhưng chẳng được bao lâu, quân Pháp dò biết được địa điểm đóng binh của Đức Cố Quản, nên kéo đến vây đánh. Trận nầy quân của Ngài đại bại, nhân dân nheo nhóc, binh tướng lạc loài:

Giặc vô bốn phía phủ vây,
Rập-bô nó bắn gãy cây hư đồn.
Đội cai thất vía kinh hồn,
Đâm đầu mà chạy lũy đồn tan hoang.
Lao xao dân lộn với quan,
Kẻ chạy về làng người lội xuống sông.
Con kêu mẹ sợ quên bồng,
Tai nghe súng bắn vợ chồng bôn phi.
Trời xuôi Tây thạnh Nam suy,
Biết làm sao đặng phục quy Nam trào.
Tướng binh đã dẹp đồng đao,
Người thời lên núi, kẻ thời đầu Tây.

———————–

(1). Có chỗ chép:

Thà thua xuồng láng xuồng bưng,

Nếu ra đầu giặc lỗi chung quân thần.

———————–

Sau cuộc tan rã nầy, Đức Cố Quản trở về Láng Linh, ẩn náu trong túp lều tranh, tu hành để đợi thời cơ thuận tiện:

Thân Ngài chẳng quản rách lành,
Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Người trung đứng giữa mặt trời,
Đắng cay bao quản vận thời chớ than.

Khoảng cuối năm Nhâm Thân (1872), Ngài được sắc chỉ triều đình (?) bảo phải cầm binh chống Pháp trở lại. Thừa mạng lịnh ấy, Ngài khởi nghĩa ở Bảy Thưa, và nhiều nơi khác quanh vùng Láng Linh. Nhưng thình lình, vào ngày 21 tháng 2 năm Quí dậu (1873) quân Pháp kéo đến bao vây ba mặt: mé sông Hậu Giang, miệt Trà Kiết phía Châu Đốc.

Thế rồi từ ấy trở đi, Đức Cố Quản biệt vô âm tín. Người ta không còn thấy Ngài ở đâu nữa.

Suốt đời của Ngài, chỉ nhứt tâm vì đạo vì dân; xả thân để đi tìm lẽ sống hạnh phúc cho người đời, Ngài quả là một vị đệ tử thứ nhứt của Đức Phật Thầy, đã nêu lên gương đại hùng đại lực và bác ái vị tha cho đời sau noi dấu.

 

II- Ông Tăng Chủ (Giữa thế kỷ thứ 19).

A. Thân-thế

Ông họ Bùi, tên thật là chi không ai biết được cho đến tấm bia trước mộ Ông cũng chỉ biên là Tăng Chủ Bùi Thiều Sư mà thôi.

Có lẽ vì Ông là người có công nghiệp rất lớn lao trong việc thừa mạng của Đức Phật-Thầy Tây An để lập ra làng Xuân Sơn, và đạo đức quá cao siêu, cho nên người đời quen lệ cữ kiêng mà tên Ông bị quên mất!

Thấy Ông có đủ tư cách một người thay mặt cho mình để truyền đạo, cùng coi sóc quanh vùng Hưng Thới và Xuân Sơn, Đức Phật Thầy đặt cho Ông cái đạo hiệu là Bùi-Thiền Tăng-Chủ. Nhân thế người ta gọi Ông là ông Tăng-Chủ.

Ông không vợ không con, nên chi Ông xin ông Đình Tây là con người em về làm con nuôi từ khi ông Đình vừa khôn lớn.

Ông Tăng hình vóc cao lớn, miệng rộng, tai dài, bàn tay buông xuống chí đầu gối, tay chân mọc lông rất nhiều, tiếng nói sang sảng mà tâm tinh bao giờ cũng ôn lương thuần hậu. Có người đã ví dung mạo lẫn tâm hồn Ông không khác một nhân vật đời thượng cổ.

B. Ở Trại ruộng Hưng Thới

Trong khi Đức Phật Thầy mới vào mở trại ruộng ở Hưng Thới (1) Ông Tăng là người có ông rất lớn trong việc chiêu nạp dân cư và phát phù trị bịnh. Cùng với ông Đình Tây và ông Phạm văn Lăng là những người coi sóc công việc ruộng rẫy hồi ấy, Ông Tăng còn có cái biệt tài ở chỗ thu phục được các mãnh thú, làm cho dân chúng được an ổn làm ăn, khỏi bị nạn khuấy phá.
——————

(1). Ở dưới chưn núi Két. Xưa kia có hai làng Xuân Sơn và Hưng Thới, sau sáp nhập tại gọi là Thới Sơn.

Ông thường lui tới Phước Điền Tự (1) để trông nôm mấy thửa ruộng của Đức Phật Thầy giao cho tín đồ ở làm. Ông rất siêng năng công việc: mặc dầu đã có nhiều thân chủ tình nguyện làm công quả và kính trọng Ông là một bậc sư huynh. Ông vẫn không lấy đó làm cao, phàm việc gì từ nặng nhọc cho đến nhẹ nhàng, đều có tay Ông nhúng vào tất cả. Do đó mà có sự phật lòng giữ Ông và ông Phạm văn Lăng (tục gọi là cả Lăng).

Theo lời của ông Trần văn Khánh (gọi là ông Chủ Khánh) hiện giờ đang làm Cố Vấn cho Đạo ở làng Thới Sơn kể lại thì một hôm, ông Lăng thấy Ông Tăng vác tre bèn kêu lên, nửa đùa nửa thật mà bảo:

– Ông sức lực mạnh mẽ quá mà sao vác ít như thế? Thôi hãy vào đây nghỉ với tôi, để tôi cho sắp nhỏ nó vác cũng xong!

Ông Tăng tuy ngoài miệng không nói rằng chi chứ trong bụng có ý hơi buồn. Ông buồn đây vì lẽ thấy ông bạn ngồi không lại hay ganh tị với những công tác đắc lực của mình, chứ không phải buồn vì tiếng nói. Cho nên từ ấy trở đi, ông xử sự rất dè dặt đối với ông Lăng.
—————-

(1). Nơi này là chỗ trại ruộng mà xưa Đức Phật Thầy để ông Sấm ông Sét (hai con trâu), và về sau, Ngài giao cho Bà hai Mun, nghĩa tử của Ngài đến ở.

—————-

C. Lập đình Xuân-Sơn

Năm 1859, nghĩa là sau ngày Đức Phật Thầy diệt lộ ba năm. Ông thấy dân chúng trong vùng Xuân-Sơn đã được trù mật, lại nhân có sự bất đồng ý kiến với ông Lăng, Ông bèn đến lập một ngôi Tam-bảo tại làng Xuân-Sơn, rồi cùng với ông Bùi-văn-Tây về ở (chùa nầy lúc đầu cất trước miễu sau chùa, rồi ít lâu đổi hẳn là đình).

Tuy về đây, ông Tăng vẫn tiếp tục phát phù trị bịnh, và thỉnh thoảng có tới lui nơi chùa Phước-Điền và chùa Hưng-Thới, để thăm lom công việc và nhắc nhở giáo lý của Đức Phật-Thầy cho anh em trong đạo nghe.

Cũng tại đình nầy, một hôm Ông Tăng đi thăm ruộng về, trời đã tối, khi đến gần cửa Ông trông thấy một con hổ nằm lù lù bên vệ đường. Thấy Ông, hổ đứng dậy hả miệng rồi cúi đầu tỏ vẻ đau đớn lắm.

Ông Tăng hiểu ý bèn hỏi:

– Chắc ngươi mắc xương đó phải không? Sao không tới đây cho sớm đặng ta cứu cho mà để đến nỗi ốm o quá đỗi như thế nầy vậy!

Hổ cúi đầu và phục xuống, tỏ ý là lời nói phải.
Ông Tăng bảo:

– Nếu thật mắc xương thì hãy ngay cổ ra, ta trị cho.

Hổ vâng theo lời dạy. Ông Tăng co tay đấm vào cổ con hổ một cái. Lập tức hổ khạc lên mấy tiếng rồi trong miệng văng ra một cục xương rất to.

Ông Tăng cười mà bảo:

- Thôi hết rồi, hãy đi đi, từ nay ăn uống nên cẩn thận hơn, đừng hồ đồ quá ta cứu không kịp thì nguy đa!

Hổ cúi đầu vâng lời rồi lui ra. Hôm sau, hổ bắt một con heo rừng đem đến dâng cho Ông Tăng mà đền ơn cứu bịnh (1).

Từ đó, đối với các mãnh thú trong vùng Thất-Sơn, Ông Tăng không phải là một người thường mà là một vị Thần linh, hay một ông chúa tể. Ông Tăng có thể truyền một lời ra, hầu hết hùm beo đều phải cúi đầu theo lịnh.
Ông độ đời và nhắc đạo được một thời gian khá lâu thì tịch tại đình Xuân-Sơn, vào ngày 27 tháng 10 năm Mùi, thọ được trên 80 tuổi. Hiện nay mộ Ông còn ở cách đình lối 100 thước, có dựng bia và chép:

Đại Nam quốc An-Giang tỉnh, Tịnh-Biên phủ, Qui-Đức tổng, Thới-Sơn thôn.

Nguyên Tăng-Chủ Bùi Thiền-Sư, hưởng thượng thọ, Mùi niên thập ngoạt, nhị thập nhựt nhi chung.

—————-

1. Theo lời của ông Năm Hạnh (rể ông Đình Tây) thì việc trị bịnh cho Hổ lúc Đức Phật-Thầy còn, song bằng vào lời ông Chủ Khánh và nhiều bậc phụ lão khác thì lúc đó Phật-Thầy đã tịch rồi và việc nầy xảy ra tại đình Xuân-Sơn. Vậy xin chép theo thuyết của đa số.

III- Ông Bùi Văn Tây (1802 – 1890)

Theo mộ bia và bài vị hiện giờ còn thấy tại làng Thới-Sơn (Quận Tịnh-Biên Châu đốc) thì Ông Đình-Tây chính danh là Bùi-văn-Tây sanh năm Nhâm-Tuất (1802), nhằm niên hiệu Gia-Long nguyên niên.

Sinh quán Ông ở nơi nào chưa tìm được người biết rõ. Có người nói Ông gốc ở Nhơn-Hòa, có kẻ lại cho Ông ở Năng-Gù (hai nơi đều thuộc tỉnh Châu-Đốc). Nếu căn cứ theo lời của người rể Ông là Hồ-văn-Hạnh (tục gọi năm Hạnh) năm nay 86 tuổi, thì Ông khi xưa có một người chú ruột ở tại Năng-Gù. Như vậy, thuyết ở Năng-Gù có phần đúng hơn.

Vì theo ở làm con nuôi của người bác là ông Bùi Thiền Tăng-Chủ, và được ông nầy giao cho coi sóc ngôi đình Xuân-Sơn, cho nên người đời quen gọi là Ông Đình chứ không phải chữ lót là Đình hay Ông còn có giữ chức Hương-Đình như nhiều người đã tưởng.

Ông có hai đời vợ. Bà trước (không biết tên) sanh được có một trai tên là Bùi-văn-Vẹt (ở Năng-Gù và đã chết). Khi vợ trước mất, Ông cưới Bà sau tên là Trần-thị-Của ở làng Thới-Sơn. Bà sau sanh hạ được một trai ba gái. Trưởng là Bùi-văn-Sửu, rồi thứ đến Bùi-thị-Lỹ, Bùi-thị-Cơ, Bùi-thị-Nhẫn, đều có chồng con quanh vùng Thới-Sơn.

Ông dáng người mạnh mẽ, không cao lắm, có bề ngang, gương mặt tròn, mà trắng, lúc tuổi già thì râu tốt, mặt trổ đồi mồi và lưng hơi còm.

Hồi nhỏ Ông có học chữ nho, lớn lên thì chuyên nghề ruộng rẫy. Thích ăn trầu, tánh ôn hòa nhưng quả cảm, không ưa những điều tà vạy.

Ông quy y với Đức Phật-Thầy hồi năm nào không ai rõ được nhưng khi Ngài lập trại ruộng ở Thới-Sơn, người ta thấy có Ông đến ở đó cùng với ông Tăng-Chủ và ông Phạm-văn-Lăng rồi.

A. Chữa bịnh giúp đời

Là môn sinh của Đức Phật-Thầy, Ông cũng như các vị đại đệ-tử khác, biết phát phù trị bịnh và lại còn có tài đặc biệt về cách cắt nẻ nữa. Ông cắt bằng miểng chén bể, băm xuống rất sâu, và bất luận bịnh gì cũng trị được. Nhiều bịnh tà quái đem đến, Ông chỉ cắt cho một người rồi mấy người khác xem thấy phải khiếp sợ, trốn về mà hết bịnh.

B. Việc bắt sấu thần

Nói đến tiểu sử ông Đình mà không kể qua việc Ông vâng lịnh Đức Phật-Thầy đi bắt sấu thần, tưởng là một điều khuyết điểm lớn.

Theo như nhiều người ở vùng Láng-Linh đã nghe biết và kể lại thì Đức Phật-Thầy một đêm kia thình lình kêu Ông Đình đến mà bảo rằng: “Hiện giờ ở dưới Láng có người sanh sản mà không ai tiếp giúp, vậy Ông mau tới đó mà cứu hộ người ta “.

Vâng lịnh Thầy, Ông Đình bôn-ba tìm riết đến nơi thì quả thật, có một người đàn bà đang chuyển bụng rên la trong một cái lều con giữa đồng, trong lúc chồng con không thấy một ai ở nhà hết.

Ông Đình lớp nào lo chặt lau làm giường, đốn đưng dừng vách để gấp rút giúp cho người đàn bà kia kịp có chỗ nơi sanh đẻ.

Trời rạng đông, người chồng mới về đến. Anh ta hay vợ đã sanh rồi và may nhờ có người đến kịp giúp đỡ thì chi xiết vui mừng, bèn lạy tạ ơn Ông Đình và kể rõ đầu đuôi rằng y tên là Xinh, vì nghèo quá nên phải đi bắt rùa, bắt rắn để bán kiếm tiền mà độ hồ khẩu.

Thoắt trông trong giỏ của Xinh, thấy có một con sấu con mình mẫy đỏ hết xem rất đẹp, Ông Đình liền tỏ ý muốn mua con sấu ấy về nuôi chơi, Xinh vì cảm ơn rất hậu nên không bán, xin hiến đứt cho Ông Đình.

Khi trở về, Ông Đình thuật lại công việc đi làm phước xong và đem khoe con sấu với Đức Phật-Thầy một cách sung sướng.

Xem qua con sấu, Đức Phật-Thầy biết vật ấy là sấu thần, Ngài bảo Ông Đình hãy đem mà giết đi, nếu để thì sau nầy nó sẽ gây tai hại cho trần gian vô kể.
Ông Đình nghe vậy cũng có lòng lo, song xem đi xem lại thấy sấu đẹp quá nên không đành giết, bèn lén Thầy, đem giầu sấu vào một nơi, cột dây nơi chưn chắc chắn rồi nuôi dưỡng cẩn thận.

Được ba năm săn sóc như vậy, con sấu trở nên to lớn. Bỗng một hôm đứt dây bò đi mất. Ông Đình chẳng dám giấu Đức Phật-Thầy, nên đem đầu đuôi mà bạch lại cho Ngài rõ. Nghe xong Đức Phật-Thầy than thở vô cùng, Ngài mới cấp cho Ông Đình một lưỡi câu, một sợi dây, một lưỡi mun và hai cây lao, dặn hãy giữ gìn phòng khi trừ con sấu ấy (1).

Trải một thời gian, gặp mùa nước nổi, sấu ấy có trườn lên ở vùng Láng-Linh, rượt bắt người vật làm cho dân-chúng quanh đây đều kinh khủng. Người ta đến báo với Ông Đình. Nhưng cứ mỗi lần Ông mang bửu bối đến thì sấu ấy mất tăm, không tìm đâu được.

——————

1. Hiện giờ những vật ấy còn để tại nhà ông Năm Hạnh (rể thứ tư của Ông Đình). Lưỡi câu dài một tấc bốn phân rưỡi (đo bề ngay), ngạnh bén và dài năm phân ba ly. Lưỡi mun thì bị mẻ một góc ở đít, bề dài ba tấc sáu phân, có lỗ ở hậu như cây đục tông để tra cán. Hai mũi lao nhọn và dài mỗi mũi năm tấc. Tất cả đều rèn bằng sắt. Còn sợi dây thì se tơ, đầu đũa ăn, bề dài hồi trước 16 thước, nhưng bây giờ đã đứt và mất đi nhiều.

——————

Thấy sấu sợ uy Ông Đình như vậy, cho nên hễ cứ mỗi lần nó trườn lên toan làm dữ, thì dân chúng hè nhau vừa chạy vừa hô lên:

– Bớ Ông Đình ơi! ông Năm chèo dậy (1). Mà lạ thay! Hễ nghe được bấy nhiêu lời kêu gọi thì sấu lại lặn mất, chừng như nó hết sức ghê sợ pháp thuật của Ông Đình.

Đã nhiều phen tới lui như thế mà không lần nào gặp được sấu thần. Lần chót, Ông Đình lưu lại Láng-Linh chờ đợi ngót nửa tháng mà sấu vẫn bặt tăm, Ông bèn kêu nói giữa thanh không rằng:

– Nếu sấu thần nhà ngươi chưa tới số thì từ nay hãy yên lặng, đừng nổi lên phá hại xóm làng nữa. Còn như mạng ngươi đã hết thì nên sớm chịu lịnh Trời đừng để ta phải lâu ngày nhọc công chờ đợi!

Thế rồi từ ấy trở đi, sấu không còn trườn lên nhiễu hại lương dân nữa.
——————

1. Người đời quen gọi ”ông năm chèo” là ý nói sấu ấy có năm giò, nhưng hỏi ra hầu hết các bậc phụ lão ở vùng Thái-Sơn và Láng-Linh thì chỉ nói có ba chèo mà thôi. Bởi xưa kia Ông Đình cột dây vào chưn sấu chặt quá cho nên lâu ngày dây ấy siết lần, rồi đến sau đứt hẳn đi một chưn, nên sấu mới thoát được.
Vậy ba chèo hay năm chèo, thuyết nào đúng hơn?

——————

Có người nói khi Đức Cố-Quản bại trận tại vùng Bảy-Thưa, nhằm mùa nước nổi, quân Pháp sau lưng bắn phá rất gấp mà trước mặt thì đế sậy đặc dày, ghe chống đi không được. Lúc ấy sấu thần bỗng nhiên nổi lên đi trước, rẽ đường rạp sậy cho thuyền của Ngài dò theo, nhờ vậy mà Ngài và binh sĩ trận ấy thoát thân mới kịp.

Sấu thần hiện giờ ở đâu, và bổn phận ông Đình còn phải làm gì đối với sầu ấy nữa chăng, đại đa số quần chúng đang đánh một con dấu hỏi to tướng về vấn đề nầy.

C. Lúc trở về già

Để cho tiện việc ở ăn của gia quyến, ông Đình có tạo riêng một nếp nhà tranh gần đình Xuân-Sơn (kế chỗ mộ phần của ông ngày nay) cách xa trại ruộng Thới-Sơn độ tám trăm thước.

Lúc tuổi già, ông giao lại công việc ruộng rẫy cho các con coi sóc để chuyên lo tu luyện và cứu độ người đời. Khi Pháp đến đánh chiếm tỉnh An-Giang, ông đã ngoài sáu mươi tuổi, lòng tuy nhiều phen sôi nổi vì cái nghĩa tấc đất ngọn rau, nhưng xét lại sức mòn hơi tàn, nên ông đành ôm hận mà gởi hồn vào mấy đoạn Kim-Cang, mấy thiên sách mọt.

Ngày 23 tháng 2 năm Canh-Dần (1890), ông đang mạnh, bỗng ăn uống không được trong bốn năm ngày rồi tịch, thọ được 88 tuổi (1). Trước khi tịch, ông có dặn người nhà chỉ trải một chiếc đệm trên tấm ván rồi để linh thể ông gói lại mà chôn, chứ không được tẩn liệm vào quan quách chi hết. Hiện nay mộ-phần của ông còn tại làng Thới-Sơn, có dựng bia và khắc những chữ:

Đại-Nam quốc An-Giang tỉnh, Tịnh-Biên phủ, Quy-Đức tổng, Thới-Sơn thôn.

Nguyên Bùi, húy Tây, hưởng thượng-thọ bát thập bát tuế, Canh-Dần niên, nhị ngoạt, nhị thập tam nhựt nhi chung.

Bên cạnh có mộ của Bà (bà sau), và gần đó có mộ của ông Bùi Thiền Tăng-Chủ. Khách thập phương mỗi khi đến viếng vùng Thất-Sơn và chùa Thới-Sơn, thường không quên đến viếng mộ của ông.

——————

1. Có người nói Ông tịch ở ngoài sân, trong khi đang săn sóc mấy dây trầu.

——————

 IV- Ông Nguyễn Văn Xuyến (1834-1914)

A. Thân thế

Ông Nguyễn-văn-Xuyến sanh năm Giáp-Ngọ (1834), nhằm đời Minh-Mạng thứ 15. Bởi ông được liệt vào hàng đại đệ tử của Đức Phật-Thầy Tây-An, cho nên người đời quen gọi là ông Đạo Xuyến.

Tướng ông trung người, mặt thỏn, tóc thường cạo vanh chung quanh rồi búi ở giữa, nên ông luôn luôn bịt một chiếc khăn chín chỉ phủ kín từ đầu xuống chí mép tai ông thường mặc đồ vải dà, thỉnh thoảng cũng có đi giày hàm ếch đen. Thích hút thuốc điếu, và mỗi khi có tân khách vui vầy. Ông cũng có dùng một đôi nhắm rượu.

Ông có hai đời vợ. Vợ trước ở Cái-Vừng (Phú-Thuận, Châu-Đốc) là bà Phạm-Thị, sanh được sáu người con: Nguyễn-thị-Đinh, Nguyễn-văn-Tồn, Nguyễn-văn-Giáp, Nguyễn-thị-Nhàn- Nguyễn-thị-Nhựt và Nguyễn-văn-Tờn.

Khi vợ trước mất, ông cưới bà vợ sau tên là Thị-Khoảnh, ở làng Bình-Long (Châu-Đốc) chỉ sanh được có một gái là Nguyễn-thị-Nhờ. Hiện nay miêu- duệ của ông còn thấy có một người cháu ngoại là Nguyễn-văn-Điệu (con của bà hại Đinh), ở chùa Châu-Long-Thới (Bình-Long), năm nay 72 tuổi.

Quê ông ở Ba-Giác (Quận Mỏ-Cảy, tỉnh Bến-Tre). Vì bồ-côi cha từ khi còn nhỏ cho nên ông và người em là Nguyễn-văn-Thới (1) phải nhờ sự làm lụng hết sức vất vả của mẹ mới nuôi được đến lớn khôn. Ông có học chữ nho và lúc đến cất chùa ở Bình-Long, người ta thấy ông biết làm thuốc Bắc.
————-

(1). Xin đừng lầm với ông Ba Thới.

B. Buổi thiếu thời

Năm 1817, nhân có vụ tàu Pháp bắn phá cửa Đà-Nẳng, triều đình lo sợ, chuẩn bị quân sĩ để chống lại. Lúc ấy ở các tỉnh phía Đông Nam-Kỳ, dân tráng cũng bị buộc nhập ngũ tòng quân để phòng ngự thành Gia-Định, làm cho dân chúng xôn xao, nhiều người ở miệt Định-Tường và Bến-Tre cũng mà bỏ nhà dời đi xứ khác.

Thân mẫu của ông thấy vậy rất lo sợ sẽ có sự loạn lạc xảy ra, hơn nữa, tuổi ông lúc bấy giờ cũng được lối mười ba mười bốn, thì không còn mấy năm nữa sẽ phải tòng quân, cho nên bà rời bỏ Ba-Giác, đem con thẳng lên Trà-Đư (Quận Hồng-Ngự, tỉnh Châu-Đốc) là quê quán của Bà mà tá túc với một người em ruột. Nơi đây, ông theo người cậu để làm ăn, kiếm tiền độ nhựt.

Có một hôm ông cùng với cậu bơi xuồng đi đồng. Chẳng rõ ông làm phật ý người cậu thế nào mà ông bị cậu đánh và đuổi lên bờ. Không trở về nhà, ông quá giang thuyền của một người khách thương, đỗ ra vàm Hồng-Ngự rồi thẳng xuống Đốc-Vàng Hạ (thuộc làng Tân-Phú, tỉnh Long-Xuyên), vào làm con nuôi cho một bà già kia, không con cái.

Ở đây một thời gian, gặp mùa lúa chín, ông đi coi chim gần chùa Đốc-Vàng Hạ. Nhân thường tới nghỉ trưa trong chùa, nên vị Hòa-Thượng ở chùa nầy được dịp thấy ông diện mạo khôi ngô, và hỏi thăm lai lịch. Sau khi biết rõ, vị Hòa-Thượng thân hành đến xin với bà già nuôi ông, cho ông được về ở chùa.

Từ đây, ông bắt đầu tu-niệm và học-hành kinh luật của nhà thiền. Bởi ông tánh tình hiền hậu lễ phép, nên được vị Hòa-Thượng rất thương yêu tín cậy.

Qua một thời gian lối hai năm thì vị Hòa-Thượng chùa Đốc-Vàng Hạ tịch. Trước khi tịch, vị Hòa-Thượng kêu ông đến mà bảo:

- Thầy sắp lên giàn hỏa mà diệt độ, vậy trong đống tro tàn ấy, Thầy để lại cho con một lóng tay cái, con khá lấy mà làm phép hộ thân.

Quả thật, khi vị Hòa-Thượng ấy thiêu mình xong, ông vào tìm được lóng tay như lời dặn, ông bèn may đãy mà đeo luôn vào mình, rồi từ ấy bắt đầu vân du lên vùng Thất-Sơn, luyện phép và tầm sư học đạo thêm; nhân thế, ông mới có dịp quy y với Đức Phật-Thầy.

C. Trên đường Đạo-Pháp

Năm Canh-tuất (1850), sau khi lặn lội lên vùng Thất-Sơn, ông trở về núi Sam, quy y với Đức Phật-Thầy, lúc ấy ông vừa đúng 17 tuổi.

Khác hơn các vị đại đệ-tử khác của Đức Phật-Thầy, ông không có ở trại ruộng nào và cũng không ở thường trực tại chùa Tây-An núi Sam, ông được Đức Phật-Thầy dạy đóng một chiếc xuồng nhỏ rồi chạy buồm mà đi, mỗi khi thuyền đến đâu hết gió là ghé vào truyền đạo. Do đó mà từ miệt Bà-Rịa trở xuống miền dưới, đâu đâu cũng có vết chân của ông.

Theo lời thuật của ông Nguyễn-văn-Điệu thì trong lúc giáo đạo ở miền dưới, một hôm, nhân trời tối, ông ghé vào nhà nọ để nghỉ nhờ một đêm. Người trong nhà sau khi niềm nở hỏi chào xong, bỗng quỳ phục xuống đất lạy ông rồi thú nhận rằng mình không phải là chủ nhà, mà thật ra là ma quỉ, vì phá phách lộng hành quá nên chủ nhà không ở được, phải bỏ mà đi, nay thấy ông đến, xem rõ là bậc cái thế siêu phàm nên đồng xin quy phục, ông lấy lời đạo đức vỗ về và bảo bọn yêu quái ấy từ nay nên quày đầu tu niệm, không được phá rối người đời nữa. Bọn quỷ ấy râm rấp vâng lời.

Sáng ra, ông kiếm người để nhắn cho chủ nhà hay mà trở về, song chủ nhà không tin, sợ lầm mưu yêu quái. Túng thế, ông phải tìm đến tận mặt họ để nói rõ đầu đuôi rồi dẫn trở về nhà.

Muốn cho được chắc chắn từ nay yêu quái không còn có nữa, chủ nhà yêu cầu ông ếm đối cúng kiếng và lưu lại đó ít lâu làm tin. Ông bèn cho dọn lễ vật ra làm tiệc khao, rồi kêu lên mà bảo:

- Nếu bọn yêu quái chúng bây bằng lòng đi khỏi nhà này thì hãy nhậm lễ làm tin thử nào!

Ông nói vừa dứt tiếng, tất cả đũa trên bàn đều rung động và gom vào chén, tỏ ý vâng lời. Từ ấy nhà nầy êm tịnh và dân làng theo về tu niệm rất đông.

Cứ như thế, ông đem pháp thuật để cứu đời và giáo đạo, lâu lâu lại trở về núi Sam để thăm viếng và học hỏi thêm với Đức Phật-Thầy, rồi lên Thất-Sơn để luyện thêm bí pháp.

Theo lời nhiều bậc phụ lão kể lại thì ông thường dùng cây dâu đẽo thành nhiều hình nhơn nho nhỏ rồi để vào ruột ngựa, mang lên núi để luyện phép. Đến nơi, ông vùi những hình nhơn ấy xuống đất, đoạn ngồi luyện, mãi đến khi được thiêng, những hình ấy tự mình dưới đất chui lên, đi chạy trên mặt đất ông mới thôi. Trong lúc ngồi luyện, nhiều khi có rắn rít cọp beo đến gầm thét bao vây, nhưng ông vẫn điềm nhiên không hề ghê sợ.

Ngoài những việc huyền-diệu kể trên, ông còn có nhiều phép lạ như đi trên cầu bằng sậy ngang mương mà không gãy, bắt hổ báo để cỡi đi trong núi làm vật đỡ chơn mà hổ phải cúi đầu v.v… không thể kể hết.

D. Đến Bình-Long

Thấy ông đi đây đó và lên non luyện phép mãi, Đức Phật-Thầy một lần nọ bảo ông:

- Ông muốn tu thành Phật không được đâu. Hãy lo cho quốc vương thủy thổ đã!

Lĩnh hội được ý của Thầy, ông đến Cái-Vừng cưới em ruột của ông Phạm-văn-Công – là người có quen thân từ hồi đi truyền đạo ở Bà-Rịa – về làm vợ, và về sau, ông theo chỗ đã chỉ của Đức Phật-Thầy mà dựng lên tại làng Bình-Long một ngôi chùa để mở cơ hóa độ quần sinh (1). Tại đây, bịnh nhơn đến rất nhiều, làm cho ông có dịp giúp đời và phổ truyền cái tư tưởng học Phật tu Nhân mà Đức Phật-Thầy vẫn luôn luôn nhắc nhở.

Ông tuy dựng chùa Châu-Long-Thới nhưng thường lên xuống và ở chùa Đốc-Vàng Hạ nhiều hơn. Vì theo ông, nơi đây là dấu cũ. Bởi vậy khi ông tịch rồi, bà vợ sau của ông – Thị-Khoảnh – vẫn còn giữ gìn ngôi chùa nơi Đốc-Vàng Hạ cho đến khi bà mất.

Ông cứu bịnh giúp đời đến năm 81 tuổi thì tịch. Trước khi tịch, có cô gái thứ hai (Nguyễn thị Đinh) và người rễ đến thăm, ông vui vẻ nói:

- May mắn quá! các con hôm nay đến đây là một dịp để cho Thầy (2) được thấy mặt!

Thế rồi chiều lại, ông cùng ăn thịt heo rừng và vui vẻ trò chuyện với các con trong nhà Cả Tồn (con thứ ba của ông) ở cạnh chùa Châu-Long Thới (lúc đó ông vẫn còn mạnh-khỏe như thường). Đến khuya, ông phát lên khò khè rồi nằm êm cho đến 5 giờ sáng (3) thì tịch. Hôm ấy nhằm ngày mùng 4 tháng 8 năm Giáp-Dần (1914).

————-

(1). Khi Ông cất chùa tại Bình-Long thì bà vợ trước – Phạm Thị – đã tịch rồi.

(2). Các con Ông đều kêu Ông bằng Thầy như người đường ngoài.

(3). Tại linh vị của Ông ở chùa Bình-Long thì để là Ngọ thời mạng chung, song thật ra là Dần thời (5 giờ sáng) mới đúng.

————-

Các đệ tử hay tin đều đau đớn vô cùng, thương tiếc như mất cha, mất mẹ.

Mộ phần của ông hiện giờ còn thấy tại sau chùa Châu-Long-Thới, đất đã sủng xuống, không có dựng bia. Vì trước kia đã theo lời dặn của ông mộ để bằng chứ không có đắp nấm.

Ngày nay, chùa Châu-Long-Thới là một di-tích của ông. Trong chùa có ba tượng cốt bằng đá, do chính tay ông hồi xưa đã thỉnh được trên vùng Thất-Sơn đem về thờ. Nghi-thức thờ phượng thì đúng y chân giáo của Đức Phật-Thầy.

Có một điều là khách thập phương sang đây, nếu xem kỹ, sẽ lấy làm lạ về họ của ông. Vì trong chùa có hai linh vị, một tấm lớn đề:

Quy-y Phật Tam-Bửu đạo nhơn Nguyễn-văn-Xuyến linh vị.

Và một tấm nhỏ, thờ chung với Đức Cố-Quản, đề:

Kỉnh thành Ông Đạo Trần-văn-Xuyến an tại.

Trần và Nguyễn, họ nào mới thật là họ của ông? Hỏi ra tường tận thì ông thật là họ Nguyễn, còn họ Trần là họ mà người sau đã theo lòng phái của ông để viết ra đó thôi.

 

V- Ông Đạo Ngoạn (1820-1890)

  1. A- Thân-Thế

Ông Đạo Ngoạn nguyên danh là Đặng-Văn-Ngoạn, sanh năm Canh-thìn (1802) nhằm Minh-Mạng nguyên niên. Theo quyển “Đạo-Ông giảng-tập” bằng văn nôm, chép theo thể thượng lục hạ bát, lời lẽ thận trọng đáng tin cậy nhưng không rõ tác giả là ai, thì ông Ngoạn là một trong “thập-nhị hiền-thủ” của Đức Phật-Thầy Tây-An ngày xưa. Chính thế mà thời nhân quen gọi ông là ông Đạo-Ngoạn.

Sinh quán ông tại làng Nhị-Mỹ, tổng Phong-Thạnh, quận Cao-Lãnh, tỉnh Định-Tường (nay là tỉnh Kiến-Phong). Trong lòng sông Cần-Lố, thuộc xẻo rạch Trà-Bông (Đồng Tháp-Mười).

Ông có ba đời vợ. Vợ đầu tiên tên Thị-Nhị, vợ giữa là Thị-Thu, vợ sau tên Nguyễn-Thị-Huê (?). Vợ đầu bà vợ giữa không con. Vợ sau tức là Thị-Huê, ở với ông chỉ sanh được một trai là Đặng-Công-Hứa. Hiện nay Công-Hứa còn sống, tuổi thọ được 76, nối chí cha và đang trụ trì tại chùa Trà-Bông (1).

Năm ngoài 20 tuổi, ông Ngoạn còn một mẹ già, một người anh và một em gái. Sau khi đã cần mẫn làm ăn lập được một khoảnh ruộng vườn khả dĩ nuôi sống đủ gia đình, ông xin phép mẹ cho thong thả tìm nơi dưỡng tính tu tâm, vì ông cảm thấy “lòng bồ đề của mình đã bắt đầu nảy nở”. Mẹ ông thuận cho. Ông liền vào rạch ông-Bường, lựa một nơi thanh vắng để tịnh niệm.

—————–

(1). Tài-liệu sưu tầm vào tháng giêng năm 1956.

Trong thân tộc của ông có người ghét bỏ đến cáo với làng rằng ông ngầm mưu làm chuyện bất lương chứ không phải thực tâm tu-tỉnh. Làng bắt ông ra nhà việc Cây-Me (bây giờ là Doi-Me) để tra hỏi. Anh ông là Bổn Chính hay tin phẩn nộ không cùng, Chính đến nhà làng phản đối rồi cũng bị bắt luôn.

Bấy giờ có người bà con với ông có thế lực, đang làm chức Quản-Khám tại Mỹ-Trà (Cao-Lãnh) đến can thiệp nên hai anh em ông được tha. Từ đó ông Ngoạn buồn lòng, lập chí về non tu tỉnh để tránh cuộc đời dua mị đê hèn của thế nhân chen lấn.

B. Đến núi Sam

Tháng chạp năm Canh-Tuất (1850) khi biết tin Đức Phật-Thầy Tây-An được phép nhà cầm quyền tỉnh An-Giang cho vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ giã mẹ, tìm đến tận nơi để xin quy y. Với bẩm chất từ lương điềm đạm, mới đầu ông được Đức Phật-Thầy ủy cho vào núi Voi hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân, tức Tăng-Chủ Bùi Thiền-Sư mở ruộng lập nhà, chùa rồi 14 tháng sau, ông được Đức Phật-Thầy đòi về núi Sam hiệp cùng ông Đạo Thạch để giúp Ngài trong việc phát phù trị bịnh và xem sóc trong chùa Tây-An.

Trong thời gian ở đây, ông được Đức Phật-Thầy tin yêu lắm. Đến những chuyện truyền đạo và thù tiếp với những bậc nho giả bốn phương, Đức Phật-Thầy nhiều khi giao phó cho ông được trọn quyền định liệu.

C. Trở về Trà Bông

Suốt bốn năm theo hầu hạ bên Thầy để học điều đạo nghĩa, ông Ngoạn tự thấy tâm hồn nhẹ nhỏm vui tươi. Bỗng một hôm, Đức Phật-Thầy kêu ông lại gần mà bảo phải trở về Trà-Bông để “bảo dưỡng mẹ già” và phải “tìm nơi kết tóc” để sanh con nối hậu, vì nợ trần của ông còn nặng. Tuân lịnh Thầy, nhưng ông Ngoạn còn bịn rịn, xin nán lại ít ngày để thu xếp công việc trong chùa rồi sẽ trở về quê quán.

Chuyện bay ra ngoài, Thị-Nhị là một tín-đồ của Đức Phật-Thầy, bấy lâu lo việc nấu nướng ở liêu sau, nghe tin bèn đến tận mặt ông Ngoạn nguyền xin trọn đời theo ông để ” nâng khăn sửa trấp”. Ông Ngoạn bằng lòng. Hai người dẫn nhau đến trước Đức Phật-Thầy trình bày ý định và xin Ngài cho phép đi về Trà-Bông.

Đức Phật-Thầy nói: “Việc ấy tùy ý các con. Nhưng sau nầy, riêng Đạo-Ngoạn phải chịu nhồi quả: nghèo nàn đến nổi vận khố, đi giữa chợ đông, khốn cùng, đến đỗi trèo non lội suối để trốn tránh, cho đến năm 60 tuổi mới được thảnh thơi nhàn hạ”.

Ngày rằm tháng 7 năm Giáp-Dần (1854) ông Ngoạn cùng vợ rời núi Sam, về Trà-Bông viếng mẹ rồi lập một ngôi chùa tại vàm. Từ ấy chuyên lo chữa bịnh và phổ thông mối đạo.

D. Mối oan-khiên

Một ngày kia chùa bỗng dưng phát hỏa, cháy sạch của tiền mà Thị-Nhị bấy lâu dành trữ. Kế tiếp, nạn binh lửa do Pháp vào chiếm đóng Nam-Kỳ tràn lan khắp nơi, ông Ngoạn cũng như muôn ngàn người khác, phải đem gia-đình truân-chuyên lánh nạn.

Năm 1867, quân Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh miền Tây và lập trật tự ở Nam-Kỳ, ông Ngoạn trở về dựng lại chùa xưa, bổn đạo quy tụ rất đông, sự chữa trị của ông càng linh mầu hơn trước nữa.

Phen nầy Thị-Nhị thâu thập của tiền đem về gởi cho quyến thuộc, lại còn sanh tâm chống báng với ông Ngoạn mọi điều… Tín đồ của ông Ngoạn thấy vậy không dằn được lòng căm tức, yêu cầu ông cản ngăn. Thị-Nhị thấy thế lại càng kiếm chuyện hành-hung, buộc ông Ngoạn phải giao hết chùa chiền, giao hết quần áo đang mặc trong mình chớ không được chừa lại một món chi cả. Nhị viện lý là nhờ công của mình chắc mót.

Ông Ngoạn chỉ còn tay không với một cái quần đùi, để mặc ý cho Thị-Nhị dở chùa chở đi nơi khác, ông chẳng hề hở môi phàn nàn than trách.

Tín-đồ của ông rất đổi thương tâm, xúm nhau kẻ giúp lá người cho cây và ra công cất lại cho ông ngôi chùa khác.

Nhưng oan quả vẫn chưa thôi, Thị-Nhị – sau khi dở chùa về cất tại giòng Tha-La gần đó – lại đến bắt ông về ở. Túng quá, ông Ngoạn chẳng biết làm sao với người ngoan phụ, chẳng lẽ mình tu hành mà mãi rầy rà, ông liền ẩn lánh lên miền Thất-Sơn, với ý định là mong Thị-Nhị quên ông, hay có chồng khác đi cho ông khỏi bận.

Nhưng sau đó ít hôm, Thị-Nhị dò biết được tin, bèn gom góp của tiền, lên núi Két là chỗ địa cầu của Thất-Sơn, cất am ở đó để chận đón ông Ngoạn.

E. Sang Tà-Lơn

Biết là chuyện không hiền, ông Ngoạn sau khi chu du cùng khắp Thất-Sơn, ông kết bạn với ông Tường (không rõ người gốc tích ở đâu) rồi rủ ông nầy sang Tà-Lơn tìm nơi tỉnh-dưỡng.

Trong khoảng ở Tà-Lơn, ông luyện được rất nhiều phép thuật. Có bận ông bảo ông Tường đem rỗ của ông đã đươn được trên non xuống Sốc-Thổ để đổi gạo về ăn. Ông Tường sợ lạc đường, lại sợ thú dữ nên từ chối không đi. Ông bảo ông Tường cứ đi, ông sẽ cho hùm thiêng dẫn lối. Ông Tường đánh bạo ra đi. Thế là quả thật, có cọp đi trước kêu chừng và giữ gìn cho ông Tường một cách cẩn thận.

Ở Tà-Lơn một độ. Ngày kia thình lình ông Ngoạn rơi lụy mà bảo ông Tường rằng: ”Chư thần cho tôi hay: hiện nay mẹ tôi ở nhà đau nặng, đang nguyện vái và mong mỏi tôi về. Vậy chú liệu xem có thể một mình ở lại hay cùng về với tôi?”.

Ông Tường nghe sao hay vậy chớ trong lòng bán tin bán nghi. Nhưng khi hai người về đến Trà-Bông thì quả thật, thân mẫu của ông Ngoạn còn đang trầm kha trên giường bịnh.

F. Lên núi Két

Lo thuốc thang cho mẹ vừa mạnh, ông Ngoạn lại phải nghĩ đến việc mưu sinh, vì lúc nầy, đúng y như lời Phật-Thầy mách trước ngày xưa, ông Ngoạn thật nghèo nàn vất vả, chỉ có một cái khố rách che thân mà thôi. Ông phải lên núi Két hái thuốc, nấu thuốc cao, thuốc dán để đổi kiếm chút tiền nuôi mẹ và độ hồ khẩu cho mình. Hồi nầy Thị-Nhị đã trở về giòng Tha-La, ông không còn lo vì sự trở ngại lôi thôi ở núi Két nữa.

Theo tài liệu trong “Đạo-Ông giảng-tập” thì khoảng nầy ông Ngoạn hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân ông Cả-Lăng, ông Chủ-Dương, chấn chỉnh lại chùa chiền trong làng Hưng-Thới. Và cũng chính lúc nầy ông bí truyền tâm pháp cho ông Từ-Đọt (hay từ Lão) một đệ tử của Đức Phật-Thầy–và dặn-dò công việc truyền-đạo cho ông nầy trước khi ông Ngoạn rời khỏi Thới-Sơn.

G. Dựng lại chùa Trà-Bông

Rời Thới-Sơn, ông Ngoạn trở về Trà-Bông viếng mẹ. Một hôm, mẹ bảo rằng: Mẹ nghĩ con thì tuổi một ngày một lớn; mà mẹ thì mỗi lúc một già, nay mai mẹ nhắm mắt rồi, mẹ sẽ không vui lòng mà để con ở lại với cảnh lao đao khổ cực như vầy mãi mãi. Nên mẹ đã lựa cho con một chỗ tại làng Mỹ-Long, con hãy sớm mà lo lập lại cho rồi gia thất.

Vâng lời mẹ, ông Ngoạn xuống Mỹ-Long cưới vợ. Bà ấy tên là Thị-Thu: tánh nết thuần hòa, dung tư đứng đắn. Không bao lâu bà đã lo làm lụng có một số vốn và mua muối đổi được một số lúa khá nhiều. Bà định giúp ông Ngoạn để dựng lại chùa chiền, chấn hưng đạo đức.

Nhưng Thị-Nhị với tấm lòng sâu độc, đem ghe từ giồng Tha-La xuống Cái-Sao-Hạ (Mỹ-Long) ả vào nhà chở hết lúa và muối mà bà Thu đã dày công dành dụm.

Thấy việc quá ngang trái, Hương-Chủ Sắc là người có thế lực nhứt trong vùng, đến cản ngăn và thóa mạ Thị-Nhị, nhứt quyết không cho chở lúa. Ông Ngoạn thấy vậy can ông Chủ Sắc và tự nhận là nghiệp quả của ông, vì theo lời tiên tri của Đức Phật-Thầy, đến năm 60 tuổi sắp lên ông mới được thong dong rổi rảnh. Ông Chủ Sắc không biết tính sao, vì không có nguyên cáo, ông đành để cho Thị-Nhị tự ý tung hoành.

Nhưng trời vẫn còn tựa người lành, bà Thu lại ra sức làm lụng nuôi mẹ giúp chồng, ít lâu tiền bạc có dư, bà theo ông Ngoạn về Trà-Bông cất lại ngôi chùa ngay nền ngày trước, mà ông Ngoạn vì lánh Thị-Nhị đã bỏ hư, và nổ lực vun trồng ruộng phước.

Bổn đạo nghe tiếng trở về thăm viếng và nghe thuyết Pháp rất đông. Nhưng công cuộc phổ truyền đạo đức đang tiến hành hiệu quả thì bỗng bà Thu mang bịnh ngặt mà qua đời. Ông Ngoạn lại phải một phen bận lòng lo lắng. Ông giao hết của cải của bà Thu cho hai người cháu là Hai Nhẫn và Bảy-Truyền rồi đóng cửa mà chuyên lo kinh kệ. Năm ấy ông ngoài 50 tuổi.

H. Chữa bệnh thời khí

Năm Giáp-Tuất (1874), bệnh thời khí hoành nhiều nơi làm cho nhân dân nhộn nhàng kinh sợ không làm ăn được. Hương chức làng Nhị-Mỹ thấy thế hội nhau bàn tính, rồi kéo đến chùa Trà-Bông thỉnh cầu ông Ngoạn chữa trị.

Vốn sẵn lòng đạo đức, lại giỏi về khoa cứu chữa bịnh nầy từ khi còn gần gủi bên Đức Phật-Thầy, ông Ngoạn liền đem hết năng tài thi thố. Công hiệu của sự trị bịnh và quần chúng kéo tới đông đảo thế nào, thiết tưởng đoạn văn dưới đây trong tập “Đạo Ông giảng-tập” đủ miêu tả rõ.

Ra oai Phật-lực cứu-điều muôn dân.
Chuyển xoay kinh chú như thần,
Ôn-hoàng dịch khí một lần phải kiêng.
Phù linh hay tợ thuốc tiên,
Phun đâu giải đó mạnh liền như xưa.
Tổng nào tỉnh ấy đều ưa,
Biết bao nhiêu kể người ta đông vầy.
Kẻ lui người tới dẫy đầy,
Dòng sông chật nức ghe cây chen luồn.

Sự đông đúc hiện giờ đến đổi làm cho quân Pháp ở Định-Tường kinh sợ. Họ xuống lệnh cho nhà chức-trách ở Sa-Đéc quan sát coi nếu thật là gian đạo sĩ “hội dân làm loạn thì cấp tốc bắt ngay”. Nhưng lúc này giới hữu quyền ở đây phần nhiều đều cảm-phục uy-đức của ông Ngoạn, họ mật bàn với nhau, thỉnh sắc thần đem về để sau hậu tổ chùa Trà-Bông rồi báo về tỉnh đường rằng sự tụ hội đông đảo là để cầu an bá tánh và cúng thần chớ không chi lạ. Nhờ vậy mà từ ấy sự lui tới của dân chúng mới yên. Ngày nay tại chùa Trà-Bông vẫn còn để thờ Long-Đinh, ấy là nếp cũ ngày xưa vẫn còn roi dấu.

I. Sanh còn và tịch diệt

Từ khi bà Thu là vợ giữa của ông Ngoạn mất đi, ông không hề nghĩ đến việc tục huyền nữa. Nhưng mẹ ông không nghe, thường dạy ông lấy vợ để sanh con nối hậu.

Nhớ lời Thầy xưa và tuân theo lệnh mẹ, ông Ngoạn cưới bà Nguyễn-thị-Huê ở rạch Cái-Vừng (thuộc làng Nhị-Mỹ) về coi sóc trong ngoài và sớm hôm nuôi dưỡng từ mẫu. Bà nầy đức độ thanh cao, làm ăn giỏi giắn. Trong việc giúp đỡ bịnh nhân và tiếp đãi tín đồ của ông Ngoạn lúc sau nầy, một phần lớn nhờ ở bàn tay của bà giúp sức.

Căn cứ theo bài du ký Đế-Thiên (có lẽ là của ông Đặng-Công-Hứa) thì năm ông Ngoạn đúng 60 tuổi, tức là năm Canh-Thìn (1880), ông nằm mộng thấy có Khổng-tước bay đỗ vào lòng, rồi trong năm ấy bà Huê thọ thai và sanh hạ một trai. Nhân thấy điềm ứng chim công, ông Ngoạn theo đó mà đặt tên con là Đặng-Công-Hứa. Cuộc đời sóng gió của ông Ngoạn trước kia từ nay không còn có nữa. Ông sớm chiều thong thả giảng đạo xem kinh, tịnh niệm và tu bồi công đức.
Tết Canh-Dần (1890), giữa lúc có tín đồ tựu về lễ Phật đông đủ, ông Ngoạn vui vẻ nói: “Trong năm nay, chúng đệ tử sẽ không còn gặp mặt ta nữa. Vậy mỗi người cứ trì tâm đạo tác phước điền, chớ khá vì chẳng ai nhắc nhở mà lãng xao bổn phận”. Tín-đồ nghe nói biết là lời trối nên đau đớn bịn rịn chẳng chịu ra về, ông phải đem thuyết “hữu hình tắc hoại” ra giảng giải, ai nấy mới chịu an lòng nghe theo.

Ngày 19 tháng 2 năm ấy, ông tắm gội sạch sẽ rồi ngồi niệm Phật mà tịch diệt, thọ được 70 tuổi. Tín đồ xúm nhau chôn cất và thương xót vô cùng, có người ở lại Trà-Bông đến ba năm để săn sóc và bồi đắp chung quanh nắm xương tàn của người liễu ngộ cho thỏa lòng luyến tiếc.

Qua mười năm khói lửa, ngôi chùa Trà-Bông đến giờ hãy còn giữ được nguyên vẹn phong độ uy nghiêm, mặc dù cây cối quanh chùa đã phải nhiều phen đương đầu với sự tàn-phá của miểng bom oanh-tạc.

VI– Ông Đạo Lập (Thế kỷ 19)

A. Lai Lịch

Tên thật là Phạm-thái Chung, pháp danh Sùng-đức-Võ, danh từ Ông Đạo Lập mà người ta quen gọi, là ông có đứng ra thành lập một ngôi chùa mang tên Bồng-Lai tại Bài-Bài, thuộc xã Nhơn-Hưng, quận Tịnh-Biên (Châu-Đốc).

Trong một bài vị để thờ tại chùa Bồng-Lai, còn ghi thêm, ông Đạo-Lập có một biệt hiệu nữa là Bồng-Lai La-Hồng.

Sinh quán của ông Đạo Lập tại xã Đa-Phước, bên kia thành phố Châu-Đốc, một nơi có phong cảnh nên thơ còn mang một danh xưng khác là Cồn-Tiên.

Khi Đức Phật Thầy Tây-An bị nhà đương cuộc thời Tự-Đức dời về tỉnh lỵ An-Giang, ông Đạo lập đã tìm đến thăm viếng và sau đó, ông quy y với Đức Phật-Thầy.

Trong số các đại tử của Đức Phật Thầy, phải nói ông Đạo Lập là một danh nhân quan trọng, có tài ba, huyền thuật dị kỳ. Ông có thể đi mây về gió, làm lắm điều khác lạ với thế nhân mà ở quanh vùng Thất-Sơn không mấy ai là không biết danh.

Bóng dáng của ông, từ Hà-Tiên đến Châu-Đốc, từ núi Tà-Lơn đến miền Đồng-Tháp, thoạt đó thoạt đây, thường xuyên không vắng suốt một thời gian vài mươi năm, khoảng từ 1856 đến 1877.

Đi trên bộ ông đội nón to vành, phất phơ đôi tay áo rộng. Đi qua sông, ông thả nón làm thuyền, lấy gậy làm chèo hoặc xăn tay áo mà bơi qua.

Phật pháp của ông cao thâm. Tín đồ của ông đông đảo. Tất cả giáo điều tu nhân, học Phật mà ông lãnh giáo được nơi Phật-Thầy, ông đều đem đi hoằng dương khắp nơi. Trong những lúc đi vân du hóa chúng, truyền rằng có không biết bao nhiêu huyền sử kinh dị bao trùm chung quanh ông. Chúng tôi chỉ xin chọn lọc và kể lại với tất cả sự e dè.

B. Ông Đạo Lập canh-bối

Bối là bọn kẻ trộm, thường cỡi xuồng nhẹ, chuyên ăn cắp của ghe thương hồ đỗ nghỉ vào các bến sông về đêm. Trong các dịp vân-du, ông Đạo Lập thỉnh thoảng cũng có giang trên một thương thuyền để nghỉ chân trên một vài chặn đường. Theo lời thuật của Mộng-Tuyết Thất Tiểu Muội, thì có một bận, ông Đạo Lập lãnh phần canh bối cho “bạn” ngủ. Có kẻ trộm mò vào, ông cứ để cho chúng cứ tự nhiên. Ông tựa mình vào cửa mui ngồi yên, lim dim như ngủ. Thấy ông không động đậy, kẻ trộm tự nhiên dọn đồ qua thuyền. Khi chúng dọn được một mớ và toan lấy thêm, bây giờ ông Đạo mới tằng hắng, lên tiếng bảo:

- Thôi chớ! bấy nhiêu đã đủ cho “ở nhà” đền cho chủ ghe rồi!

Kẻ trộm hoảng kinh, nhè nhẹ chèo lui mất.

Sáng ra ông kể chuyện cho bạn chèo ghe nghe ai nấy đều hậm hực, tức vì không bắt được bối, để cho chúng một trận đòn. Nhưng ông đạo cười bảo:

- Các người chớ nóng. Tuy vậy mà từ đây các người sẽ được ngủ yên, khỏi phải thức mà canh chừng bối nữa.

Ai nấy đều tức mình, nhưng không dám cải và cũng chưa biết tại sao từ nay lại khỏi sợ bối!

Nhưng rồi đúng như lời của ông Đạo, không rõ ông đã làm gì mà từ đó lại sau, tuyệt nhiên trên chiếc ghe nầy không hề bị bối, dù rằng chủ ghe hay bạn ghe đều không có một ai thức canh.

C. Ông Đạo Lập luyện phép và làm phép

Trong lúc vân du, ông Đạo thường dẫn theo một người đệ tử tên là Huỳnh-văn-Thiện. Mỗi lần lên núi, ông Đạo kiếm chỗ cho đệ tử tạm ngụ rồi tự mình tìm chỗ u tịch ngồi thiền hoặc luyện phép.

Theo lời ông Huỳnh-văn-Thiện thường kể thì có ông Trương-hồ-Ngạc, cũng là một đệ tử của ông Đạo, có tính hiếu kỳ, nên một lần lén thầy, rình xem coi thầy đã làm gì ở nơi thanh vắng. Ông Ngạc đã trông thấy ông Đạo làm một chiếc tàu nhỏ thả trên mặt nước rồi niệm chú. Ông Đạo có diệu thuật khiến chiếc tàu ấy chạy tới chạy lui theo ý muốn của mình.

Biết được cách đó và học lén được những câu chú của thầy, ông Ngạc mới bắt chước làm theo. Kết quả ông đã thành công. Nhưng liền sau đó ông Ngạc ngã lăn ra chết. Ông Huỳnh-văn-Thiện được chứng kiến cảnh ấy, đau khổ vô cùng vì lúc đó vắng Thầy. Ông phải ngồi thâu canh bên xác ông Ngạc để chờ Thầy về liệu tính xem sao!

Sáng ra ông Đạo về một tay xách gói và một tay xách chiếc đệm bàng. Ông Đạo không chờ ông Thiện trình bày tự sự đã nói ngay trước:

–  Thì ta đã lo sẵn đồ vật, để xem về đây chôn nó!

Những câu chuyện như thế được truyền ra, danh của ông Đạo Lập càng lớn. Người ta đến nhờ ông cứu bịnh và lãnh phái quy y cùng lúc càng đông. Nên để có chỗ nơi an trụ và quy ngưỡng, các đệ tử của ông hợp nhau dựng lên một ngôi chùa. Người ta đến làm công quả thật đông và nhất là ngày khánh thành, ghe xuồng đậu chật cả một khúc sông trên kinh Vĩnh-Tế.

Cũng bằng những diệu thuật như trên, ông Đạo từng lấy một cây ếm tại Ton-hon do người Tàu chôn. Cây ếm bằng đá trên mặt có khắc chữ: “Càng-Long, ngũ thất niên trọng thu, cốc dán“. Người ta đã nghĩ rằng cây ếm ấy do họ Mạc đã ếm với mục đích bí ẩn! Cây ếm ấy bây giờ vẫn còn tại Bài-Bài, miền biên giới xa xôi.

D. Ông Đạo Lập qua hải

Theo một bài nhan đề ông Đạo Lập, tác giả là bà Mộng-Tuyết Thất Tiểu Muội, đã thuật lại một cách tin tưởng và cho rằng bác của tác giả, người thường kể lại chuyện ông Đạo-Lập, vốn là người có học, không hề chịu tin những chuyện quàng xiên, thì ông Đạo đã qua biển một cách dễ dàng. Đầu đuôi câu chuyện được chúng tôi rút gọn như sau:

– Ông cố của tác-giả vốn là nhà hàng hải, từng đi buôn sang Xiêm. Ông vừa đóng xong một chiếc thuyền buôn đặt tên “Minh-Thuận”, và định cho xuất cảng với những hồ tiêu, sáp ong, hải sâm, đồi mồi thì vừa đúng vào lúc ông Đạo Lập ghé chơi nhà. Sau lễ cúng kiếng, ông cố tác giả hỏi xin ông Đạo một điềm may mắn, một phép bình an cho chuyến khai trương đặc biệt đó.

Ông Đạo Lập đưa ra cho ba lá bùa, nói:

– Chuyến đi nầy rồi cũng may mắn phát tài. Duy có vướng chút lo sợ. Nhưng cũng sẽ bình an vô sự. Vậy bùa nầy, khi ra khỏi cửa Hà-Tiên đốt đi một lá, lá thứ nhì để lúc nào có một con cá to định làm hại thì đốt. Còn là thứ ba dành đốt khi vào cửa sông Bắc Nam.

Tất cả trên thuyền có mười người phần đông là Minh-Hương. Khi thuyền ra giữa vời, thình lình ở trước mũi thuyền sóng chỉ bắn lên cao. Một con cá to nhảy bổng lên khỏi mặt nước bằng một tầm người đứng. Vị thuyền trưởng nhớ lời dặn của ông Đạo Lập, đem lá bùa thứ hai thả tàn xuống biển. Thuyền bình yên, lại vượt khơi trên biển.

Một buổi chiều trước mũi thuyền bổng vụt hiện một vật gì to như hòn đảo. Cả thuyền kinh ngạc tưởng chừng tàu bị lạc vào một đảo hoang nào. Nhưng không, hòn đảo ấy biết cử động và khi đến gần, mới rõ đó là một cái kỳ của một con kinh ngư khổng lồ đang đùng đùng lướt sóng chận đầu thuyền. Khi biết rõ đó là một vật ăn thịt người thì cả thuyền hoảng kinh bối rối. Vị thuyền trưởng bây giờ mới sực nhớ lại lá bùa thứ nhì đã đốt là lầm. Chắc-chắn nó phải được đốt vào lúc nầy để ngăn chận con kình ngư sát nhân mới đúng. Lúc túng-cùng, vị thuyền trưởng đành phải đem đốt lá bùa thứ ba và nó hoàn toàn vô hiệu. Cá lướt tới càng nhanh hơn, dễ thường cái quẩy nhẹ của nó cũng đủ làm thuyền lật úp được. Mọi người trên thuyền đều trông rõ được từng cạnh khía của cánh vi cá khổng lồ. Vị thuyền trưởng ra lịnh cho thuyền đảo trịt một bên để tránh vật dữ, nhưng sóng bủa trùng trùng, tràn lên ngập cả sàn thuyền. Cánh vi và cánh buồm thuyền đã song song ngang nhau, cách khoảng không hơn mười thước. Lưng cá cọ vào sườn thuyền, mình thuyền nghiêng về một bên. Phút nguy ngập đã tới.

Tuy nhiên con cá không hành hung. Đợi khi thuyền qua vừa khỏi, nó quạt đuôi một cái thôi thuyền quay tròn mấy vòng và mọi vật trong thuyền xô đổ. Rồi thuyền mới từ từ yên lại.

Từ hôm ấy cho đến khi trở về, thuyền được bình yên không có gì trở ngại nữa. Nhưng khi thuyền về tới Mũi-Nai, thuyền trưởng lên bờ, thì đã thấy có ông Đạo-Lập đứng sẵn dưới đám dừa bên mé nước.

Ông Đạo Lập cười nói:

- Ở nhà đoán biết bữa nay cậu thuyền trưởng về, nên ghé lại đón mừng… Chà! Bữa chiều hôm đó, ở ngoài vời Thổ-Châu, cậu thuyền thường sợ đã xanh mặt. Khi đó ở nhà ở trên chót cột buồm chớ đâu! Nếu ở nhà không giữ cho thuyền vững lại và không đuổi con quái ngư đi, nó sẽ cấn đến và đội lật cho thuyền chìm, thì các người tất đều vào bụng nó rồi! Các người đã chẳng thấy từ xa nó hướng thẳng về mũi thuyền đó hay sao!

Thuyền trưởng nghe nói thì hoảng hốt trở lại như hồi đang lâm nguy giữa biển. Còn ông Đạo Lập thì nói tiếp:

– Chỉ tội nghiệp cho con cá bè bỗng dưng chịu chết oan! Vì lá bùa thứ hai của ở nhà cho, đáng lẽ phải để mà diệt con quái ngư ấy!

Nghe qua tự sự ai nấy thảy kinh hồn.

E. Ông Đạo Lập ném dao

Vì thích sống giang hồ, ông Đạo thường không ở nơi nào lâu. Do đó mà ông hay có giang trên các ghe buôn cho đỡ chân. Một lần ông Đạo Lập có giang trên một ghe bán mía. Ngồi buồn trên ghe, ông lấy dao ra róc mía thì gặp phải cây dao lụt quá, róc không sạch vỏ mía. Ông Đạo liền vứt cây dao xuống sông và phàn nàn:

– Dao lụt thế nầy không bỏ còn để làm gì!

Người chủ nghe thấy thế không được bằng lòng nhưng làm thinh không nói

Sáng hôm sau, ghe đến một chợ nhỏ. Bạn ghe lên bờ đi chợ mua về một rổ cá. Bấy giờ chủ ghe mới có dịp lên tiếng hờn mát.

– Mua cá làm chi? Có dao rựa đâu mà làm cá!

Bấy giờ ông Đạo Lập ngồi trong khoang ghe, lên tiếng:

– Liệng xuống hôm qua chỗ nào thì hãy lặn chỗ đó mà mò lên. Đã mất mát đi đâu!

Nói rồi ông bước ra, chỉ mặt nước, chỗ cách mũi ghe một sãi, bảo người bạn ghe lặn xuống đó mà lấy dao lên. Quả nhiên cây dao yếm mà ông Đạo Lập liệng xuống nước bữa trước được lấy lại. Cần để ý rằng chiếc ghe mía mà ông Đạo Lập có giang, từ chỗ ném dao cho đến chỗ mò dao, cách xa một ngày rưỡi đường, thế mà cứ chỗ đánh dấu của ông Đạo Lập, lại tìm lại được một cách dễ dàng.

Càng lạ lùng hơn cây dao lụt trước, nay được sáng trưng, bén ngót như có ai mài sẵn.

F. Ông Đạo Lập tàng hình

Trong buổi đầu thuộc Pháp, không rõ ông Đạo Lập đã góp tay vào các nghĩa đảng thế nào, mà thực dân thường theo dõi tìm bắt ông luôn. Trong các đệ tử Đức Phật-Thầy Tây-An, ngoài Cố-Quản Trần-văn-Thành chắc chắn có ông Đạo Lập là người có đứng hoạt động cứu quốc.

Một lần ông Đạo Lập đến Hà-Tiên, vào thăm nhà quen thì cũng đúng là khi thực dân dò ra tung tích ông Đạo Lập nên tìm đến vây bắt.

Ông Đạo đang ngồi uống trà tại một vườn cam với chủ nhân, chợt nghe có tiếng động, ông liền đứng lên cắp nón, cầm gậy, xô cửa tầu khậu – một cái nhà ngoài dùng chứa hàng hóa – bước vào rồi bảo chủ nhân khóa chặt lại.

Chủ nhân trở vào nhà trên thì một bọn người Pháp đang lục soát kiếm tìm ông Đạo-Lập. Sau khi tìm khắp nơi, họ bắt phải mở tầu khậu cho xem. Và kết quả là ông Đạo-Lập đã đi đâu mất, không hề một ai trông thấy bóng dáng gì!

Thêm một câu chuyện tàng hình khác: Trong đảng Cần – Vương, có ông Học-Sanh-Thái người Châu-Đốc. Ông Thái về sau kết thông gia với nhà Cách-Mạng Nguyễn-Thần-Hiến ở Hà-Tiên. Ông Thái lại cũng có kể một câu chuyện tàng hình về ông Đạo-Lập như sau:

Khi đảng Cần-Vương còn hoạt-động, ông Thái vốn được trong đảng tín nhiệm, ông giữ một tờ mật chiếu của Triều đình. Ông Thái lấy làm lo sợ bại lộ tờ mật chiếu là một tang chứng thật nguy, nên ông mới đem giấu tại một cái miểu thờ Thần Nông bí mật, không một người thứ hai hay biết.

Nhưng ít lâu sau, tờ chiếu mật mất. Một điều lạ là ông Thái rất thận trọng ông đã nhét mật chiếu vào sau tờ giấy đỏ có viết chữ thần to tướng lại bàn chánh rồi dán kỹ lại thì ai biết và ai mà dám động tới chỗ tôn nghiêm kia! Ông Học-Sanh Thái rất lo sợ bại lộ cơ mưu. Nhưng thời gian qua, vẫn bình yên không có gì lạ. Một hôm ông gặp ông Đạo Lập. Ông Đạo Lập hỏi ngay.

– Chú có làm mất cái gì không?

– Không! Tôi chẳng có gì mà mất. Ông Đạo Lập nói:

– Thử nhớ lại xem, vật không quý, bỏ thì thương, vương thì tội!

Bấy giờ ông Thái mới nhớ ra và nói rõ nỗi lo âu của mình bấy lâu nay. Ông Đạo Lập cười:

– Ở nhà đốt đi rồi chớ mất đi đâu! Chúng ta mưu đồ là vì đại nghĩa chứ đâu phải vì bổng lộc!

Bây giờ ông Thái mới tỉnh ngộ và hỏi:

– Thế sao ông biết tôi giấu ở miễu mà hủy bỏ?

Ông Đạo Lập không đáp thẳng câu hỏi mà bảo ông Thái cố nhớ lại xem có gì lạ khi đem giấu tờ mật chiếu trong miễu. Ông Thái liền thuật lại là khi giấu xong đi ra, nghe tiếng động dưới cỏ, ông giật mình ngó xuống thì thấy con rắn bò sát bên chân. Ông Đạo Lập cười bảo:

– Ở nhà đó chớ rắn rít gì. Không hóa rắn, làm sao theo dõi để biết rõ chuyện bí mật của chú được!

Khi trở về già, ông Đạo Lập về Bài-Bài cư ngụ và tịch diệt tại đây. Không thấy bài vị ghi rõ ông mất năm nào. Chỉ biết được ngày 29 tháng 9 hằng năm là ngày cúng vía của ông.

Mộ ông được chôn cất tại xã Vĩnh-Ngươn, cũng theo căn tích của Đức-Phật Thầy, không có đắp nấm.

VII- Ông Đạo Lãnh (Giữa thế kỷ 19)

A. Gốc tích

Trong cuộc dẹp loạn Chân-Lạp của ông Quản Thành (1) (tức về sau là Đức Cố Quản) dưới triều vua Thiệu-Trị, Đức Cố Quản có một thuộc tướng rất tài ba và lạ lùng, làm người Chân-Lạp phải lắm phen kinh sợ; thuộc tướng ấy là ông Hai Lãnh (và bây giờ người ta gọi là ông Đạo Lãnh).

Ông Hai Lãnh gốc người Việt-Nam (2); không rõ họ gì. Ông còn có một tên nữa là cậu hai Gò-Sặt. Hai Lãnh võ-nghệ rất cao, có thuật gồng, thông bùa thư và thông nho học.

Khoảng năm Tân-Sửu (1841), Hai Lãnh gặp ông Quản-Thành tại An-Giang (Châu-Đốc) và xin tùng quân. Từ đó, ông và ông Quản-Thành là đôi bạn chí thân, thường gần gũi bên nhau để đàm văn, luận võ.
———————

(1). Ông Quản-Thành là một chiến sĩ cách mạng Cần-vương đã kháng Pháp quyết liệt vào hậu bán thế kỷ 19. Muốn biết rõ xin xem cuốn Cuộc khởi nghĩa Bảy-Thưa TÂN-SANH xuất bản hay xem bài Trần-Văn-Thành của Nguyễn-Văn-Hầu đăng trên Bách-khoa số 64 ngày 1-9-59.

(2). Có người nói ông Hai-lãnh là người cha Việt mẹ Miên, không rõ thuyết nào đúng hơn.

———————

B. Khả năng

Năm Quí-Mão (1843), ông Quản-Thành mang binh đi dẹp quân phiến loạn Chân-Lạp ở miền Thất-Sơn. Tại trận Láng-Cháy, ông Hai-Lãnh giúp ông Quản-Thành thành công rực-rỡ là ông đã dùng tiếng Cao-Miên để giảng-dụ hai tướng giặc lợi hại là Bướm và Vôi về hàng.

Cũng trong năm ấy, ông Hai Lãnh cầm quân dẹp loạn Phủ Kép (1) ở Giang-Thành, ông bắt sống được nhiều tướng giặc bằng cách đi tay không một mình vào trận, không sợ gươm đao. Ông bắt giặc và trói giặc bằng một vài miếng đấm, đá xem ra như bỡn, nhưng quân giặc phải chịu thúc thủ quy hàng.

Có khi lương-thực tiếp tế thiếu thốn, ông đang đi dọc đường, đói lả, thấy bên trong Sóc Thổ có người nấu bánh tét trong trã to đang sôi sụt gần chín, ông ghé lại, mò tay vào trã nước sôi để lấy bánh, thế mà không chút phỏng da. Người Thổ tưởng ông là thần, gọi là Tà Lãnh.

Tuy vậy, có một bận ông đi đánh giặc bị thua lạc đường, tưởng chừng mất tích, đã gây cho người thân của ông một cản tang tóc đau thương. Chuyện ấy hơi dài, sẽ kể ở sau.
———————

(1). Giặc nầy nổi lên trước tiên ở Kép (Kampot) rồi lần lần lấn ra nhiều nơi, cùng chung một khẩu hiệu tranh đấu và cùng chịu một mạng lệnh chỉ huy.

C. Bị giặc bắt

Một ngày vào khoảng năm Ất-Tỵ (1845), ông Hai Lãnh (2) thừa lịnh ông Quản-Thành dẫn một tốp binh đi tuần sát ở mạn biên thùy Miên-Việt.

Để nhẹ bớt sự băng rừng lướt bụi, tốp binh nầy được dùng thuyền đua theo đường kinh Vĩnh-Tế đến đuôi làng Vĩnh-Ngươn. Khi lên bộ đi được một quảng đường, thình lình bị một toán người Cao-Miên rất đông ồ ra tập kích. Bởi vùng nầy đã được an ổn từ lâu nên quân Việt không có ý đề phòng. Bị đánh bất ngờ, binh sĩ mất tinh thần, lớp chết, lớp bỏ chạy tan vỡ hết. Riêng ông Hai Lãnh còn kẹt lại một mình, ra sức đánh chém tứ tung, nhưng quân Cao-Miên càng lúc càng đông, làm sao ông không sao thoát khỏi vòng vây được.
———————

(1). Vì không tìm được đích xác phẩm trật của ông Hai Lãnh là gì nên chỉ xin chép nguyên danh.

———————

Màn đêm buông phủ. Tiếng la ó rền vang của quân Cao Miên lùng kiếm ông Hai dội vào mấy khu rừng già rồi tan ra thành một thứ âm thanh kinh khủng. Ông Hai Lãnh một mình thất thiểu chạy đi.

Sáng ra, ông thấy mình bị lạc rất xa vào lĩnh-vực Cao-Miên, không thể nào theo đường cũ mà trở về được, nên ông giả dạng thường nhân, vào xóm xin ăn rồi lang thang đi mãi (1).

———————

(1). Nhiều người nói ông Hai Lãnh sở dĩ có tên ” Cậu hai Gò-Sặt ” là do trận chạy lạc nầy ông lên tận Gò-Sặt (Pursat: sử cũ chép là Phú-Túc) ở đó một thời gian khá lâu. Song cũng có người lại nói ông Hai từ nhỏ đã lên Gò-Sặt. Không rõ thuyết nào đúng?

Tốp binh chạy thoát được về đến An-Giang báo cho ông Quản-Thành hay thì trời đã sáng.

Ông Quản-Thành hỏa tốc điểm binh kéo vào cứu viện. Nhưng đến nơi, quân dân Cao-Miên đã tan mất tự bao giờ, còn ông Hai Lãnh tìm kiếm khắp nơi không thấy. Quản-Thành cho lịnh cấm trại ở đó để dò nghe tin tức. Song thất vọng. Vài hôm sau, ông buồn rầu kéo binh trở về.

Bà Hai (vợ ông Hai Lãnh), sau khi hay được tin nầy, bà cùng với người con gái dẫn nhau lên tận Cao-Miên tìm kiếm ông Hai. Ngót mấy tháng vượt rừng lội suối mà tuyệt nhiên không thấy tăm hơi, bà nghĩ ông Hai đã chết, nên sau rốt, bà trở về núi Phi-Lai (núi Doi), ở đó chờ đợi lâu nữa rồi tự thiêu mình mà chết.

Ngày nay, những lúc đêm thâu canh vắng, khách thập phương vãn cảnh nơi vùng Thất-Sơn, thỉnh thoảng còn nghe trong các chùa, am, miếu, quán, hoặc dưới những túp lều tranh lụp xụp lưa thưa văng vẳng đưa ra những câu vè thơ êm ái như ru :

… Bà Hai am tự thâm tình

Hỏa thiêu thân thể, ấn hình Phi-Lai…

Khách sẽ ngậm-ngùi mà nhớ ngay rằng đồng hào miền sơn cước xa xôi nầy vẫn còn ghi mãi cái chết đau đớn của bà Hai.

D. Quy y và chứng quả

Nhưng ông Hai lại trở về.

Từ khi chạy lạc lên đất Cao-Miên, ông Hai Lãnh phải sống vất vả với chuỗi ngày đe dọa, lầm than. Sau ông chạy lên tận Gò-Sặt (Pursat) nương náu với vài người bạn quen ở đây cho đến tháng chạp năm Bính-Ngọ (1846), khi vua Cao-Miên dâng biểu tạ tội với nước ta, ông mới được sống tự do và lần hồi dò đường về nước.

Lúc nầy giặc giã đã yên, lại gặp cảnh vợ con tan tác, ông Hai cảm thấy lòng mình buồn nản vô cùng, ông quyết xin với ông Quản-Thành cho được về thong thả tìm nơi dưỡng tính tu tâm, mặc dầu ông Quản-Thành tỏ ra không đành rời ông một phút.

Sau đó, ông Quản-Thành quy y với Đức Phật Thầy Tây An và được tôn xưng là Đức Cố Quản; còn ông Hai Lãnh cũng trở thành đồ đệ của Đức Phật Thầy với danh hiệu là ông Đạo Lãnh. Hai vị thường có cơ hội gặp nhau ở núi Sam, trước mặt Phật Thầy Tây An, cho đến năm Bính-Thìn (1856) trở đi, nghĩa là sau ngày Phật Thầy Tây-An tịch diệt, thì không còn ai gặp ông Hai Lãnh ở đâu nữa. Người ta bảo nhau rằng ông đã được chứng quả trên non Tiên.

Giờ đây, đọc lại ít vần thơ cũ của ông Hai, trình trong bài thập thủ liên hườn ta sẽ hiểu qua trích thái lẫn tâm hồn ông trong những ngày chót ở chốn núi sâu rừng thẳm.

Thấy những phiền cho cuộc ở đời,
Xa tầm non nước một phương trời.
Hoa tươi trước mặt thơm-tho nực,
Thú dữ bên mình nhả-nhớn chơi,
Nghiêng chén hải lan vui chốn chốn,
Cụm cây trăng sở dạo nơi nơi.
Quên năm Giáp-Tí năm nào cả,
Luyện thuốc linh-đơn tế-độ người.
Độ người thẳng tới cõi thiên-thai,
Chẳng nhuộm màu đời có mấy ai?
Giày cỏ đến lui trời đất rộng,
Áo sen xài-xạc núi sông dài.
Cảnh vui ý hiệp son dồi phấn,
Thú lạ tình ưa đá chẳng phai.
Nghiêng ngửa cội tùng nghe tiếng gió,
Dọc ngang mặt thích thế không hay,
Thế không hay có bậc người lành,
Trên đảnh mình ngâm chữ thái-bình,
Một tấm lòng nhân mây sắc trắng,
Trăm đường tục lợi nước màn xanh,
Dạy đời hằng giữ câu vi thiện,
Tưởng đạo vui theo dạ chí thành,
Cửa Phật trau-giồi công đức lớn,
Ngâm tầm mùi đạo rất tinh-minh.

Cũng có người nói rằng mấy bài nầy là do Đức Phật Thầy đọc cho ông Đạo Lãnh chép lại – Điển nầy chưa có gì để kiểm chứng được (1).

———————

(1). Chưa biết chắc được Ông Đạo Lãnh có phải là 1 trong 12 đại Đệ Tử Đức Phật Thầy không. Cho nên theo sự dè dặt thường lệ, chúng tôi xin đặt tiết nầy ở phần cuối chương.


CHƯƠNG IV: VÀI VỊ ĐẮC ĐẠO TRONG PHÁI BỬU SƠN KỲ HƯƠNG

I- Ông Trần Văn Nhu (1847 – 1914).

A. Thân-Thế

Ông Trần-văn-Nhu là con trưởng nam của Đức Cố-Quản Trần-văn-Thành và Bà Nguyễn-thị-Thạnh, sanh lại làng Bình-Thạnh-Đông, tổng An-Lương, tỉnh Châu-Đốc năm Đinh-Mùi (1847), cuối đời vua Thiệu-Trị (năm thứ bảy) và vào khoảng vua Tự-Đức mới lên ngôi. Bởi ông thứ hai cho nên hồi còn thanh-niên người ta kêu là Cậu Hai, và khi có tuổi thì gọi là ông Hai.

Ông Hai hơi nhỏ người, hình vóc ốm yếu, nước da trắng, trán cao, tóc hơi dợn sóng, cạnh hàm bên hữu có một nút ruồi, lúc trở về già thì râu thưa, bạc hoa râm nhưng răng còn chắc.

Ông cưới vợ tại Thị-Đam, làng Bình-Thạnh-Đông (Châu-Đốc), tên là gì, dọ hỏi chưa thấy ai biết. Ông bà sanh được hai người con: một trai, một gái. Trai trưởng tên là Trần-quang-Nhơn (tục gọi là cậu Hai cả) và người gái tên là Trần-thị-Xinh.

Bản sinh trong một nhà danh gia vọng tộc, ông Hai được học hành rất giỏi về chữ nho; khi Đức Cố-Quản cầm binh chống Pháp, ông Hai có tập luyện nhiều về võ nghệ và theo cha đánh giặc.

B. Tạo Bửu-Hương Tự

Từ khi Đức Cố-Quản bị quân Pháp bao vây và mất tích (năm Quí-Dậu 1873), tấm thân ông Hai thật là truân chuyên vất vả, nào lo phụng dưỡng mẹ già, nào lo tìm đường ẩn tích mai danh. Vì Pháp quân thuở ấy nã tróc ông rất gắt, họ truyền rao ai bắt được thì trọng thưởng chức tước bạc vàng, nên ông phải nay ở nơi nầy, mai dời chỗ nọ, không lúc nào được yên.

Trải một thời gian gần 20 năm như vậy, tình thế mới lần lần êm dịu. Ông Hai bèn trở về trại ruộng Bửu-Hương Các, tiếp tục thi hành sứ mạng đạo đức mà Đức Phật-Thầy và Đức Cố-Quản đã làm ngày xưa.

Mùa thu năm Đinh-Dậu (1897), một hôm ông Hai đang ngồi trên võng, thình lình nằm phệt xuống rồi lịm đi như người đi thiếp, luôn như thế ngót ba ngày không ăn uống nói năng chi hết. Khi tỉnh dậy, hào quang chiếu sáng tỏa khắp trên mái nhà. Nhiều người xúm lại mừng rỡ và hỏi han, ông Hai bảo: “Phật dắt hồn tôi đi dạy Đạo và cho tôi lập chùa thờ Phật”.

Thế là sau ngày ấy, ông Hai sửa soạn cây cối và qua năm Tân-Sửu (1901), ông bắt đầu dựng ngôi chùa.

Để khỏi phải quyên tiền của bá tánh thập phương, ông Hai bán chiếc ghe sáu bổ (tục gọi là ông Sầm) của Đức Cố Quản và vàng vòng của Bà Cố để tiêu dùng vào việc cất chùa. Chùa nầy rất rộng, bề dài 20 thước, ngang 18 thước. Khi xong, lấy tên là Bửu Hương Tự.

Trong một dịp có đông đủ tín đồ sau khi chùa dựng xong, ông Hai có tiên đoán:“Tôi cất chùa đây là cất lấy nền, chớ sau nầy chỉ còn đá gạch mà thôi”.

Từ đây ông Hai dùng cái ấn Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Cố Quản, do Đức Phật Thầy ban cho, mỗi năm in phái phát ra một lần cho các tín đồ và đồng thời phát phù trị bịnh, tế độ quần sinh. Mặt khác, ông tìm cách dưỡng nuôi che chở các chiến sĩ cần vương ngày xưa đã tùng chinh theo Đức Cố Quản, để những người ấy được an ổn tu hành khỏi phải trôi nổi lạc loài nữa.

C. Ông Hai lâm nạn

Ngoài một số tín đồ lớn lao rải rác theo các tỉnh miền Tây Nam Việt, ông Hai thuở ấy còn có nhiều người con nuôi thân tín ở thường trực tại chùa. Trong số con nuôi ấy, nay chỉ còn biết được có sáu người là Văn Đẩu, Văn Bính, Văn Huyện, Văn Chánh, Văn Qui và Văn Đăng. Những người nầy chất phát làm ăn, chăm lo tu tỉnh nên được ông Hai tin cậy, giao phó cho coi sóc những công việc quan trọng ở trong chùa. Vì vậy mà có tên Nguyễn văn Phẩm (tục gọi Sáu Phẩm) là cháu của ông Hai (cháu ngoại của Đức Cố Quản, con bà sáu Trần thị Núi) đem lòng ganh tị, thường nghĩ ngầm mưu nầy thế nọ để phá hoại công việc của ông Hai.

Ngàt 21 tháng 2 năm Quí Sửu (1913), nhân có cuộc lễ kỷ niệm ngày chiến đấu anh dũng của đạo binh Gia Nghị, và cũng là ngày Đức Cố Quản mất tích, Phẩm bèn lẻn ra Châu Đốc, nhờ Xã Mão và Đội Khôi (là những kẻ làm việc cho Pháp thuở ấy) làm giùm đơn, đoạn thẳng vào tỉnh đường báo với nhà cầm quyền Pháp rằng ông Hai hiện đang quần tụ tín đồ đông đảo để mưu cuộc khởi nghĩa phục quốc, nếu kéo quân vào bao vây mà không có, Phẩm cam đoan sẽ chịu tử tội.

Thế là trưa hôm ấy, vào giờ Ngọ (1), ông Hai đang hành lễ, bỗng một tốp lính tráng đông vầy kéo đến từ bao giờ vây chặt quanh chùa trong khi có hàng trăm người tụ hợp.

Thấy số người đông đảo quả thật như lời Phẩm báo, bọn lính không cần hỏi tra hư thật, áp vào bắt trói được 56 người (2), rồi soát chùa chiền tìm kiếm ông Hai và những người đệ tử có tên tuổi khác. Lúc ấy ông Hai nhờ có Trần văn Chánh (tục gọi hai Chánh, là con nuôi của ông Hai) thừa lúc lộn xộn đông người, lén cõng ra cửa sau thoát được.

Trong tốp người bị bắt, có ông Nguyễn-văn-Tuất là con trưởng của ông Ba Thới, và ông Chủ Khả người đứng xin phép cất chùa, đều bị giải về Châu-Đốc tống giam (3)

(1). Có người nói là giữa đêm 21 rạng 22.

(2). Theo lời ông Nguyễn văn Tịnh thì trong vụ nầy bị bắt 83 người, nhưng ông Nguyễn văn Tuấn là người có bị bắt trong lúc ấy thuật lại thì chỉ có 56 người mà thôi. Có lẽ trong lúc bắt quả thật 83 người, song khi về tỉnh thì được tha bớt, nên khi vào khám ông Tuấn chỉ thấy có 56 người đó chăng?

(3). Tòa Châu-Đốc kêu án mỗi người 13 tháng tù ở, trong đó có 36 người chịu án. Còn lại 20 người kia chống án (có ông Tuấn) đều bị đày ra Côn đảo. Khi mãn tù có ông Chủ Khả vì trách nhiệm nên đứng ra dở chùa, đúng như lời tiên đoán của ông Hai hồi trước.

C. Bước bôn-đào của ông Hai

Khi ông Hai nhờ có Trần-văn-Chánh cõng ra khỏi vòng vây. Thầy trò cũng rẽ sậy lần đường chạy xuống ẩn vào một góc bảy thưa, cách xa chùa một đổi để lánh nạn và chờ nghe động tịnh. Nơi đây, ông Hai có nhận được một lọn tóc của sáu Phẩm gởi xuống tỏ lòng ăn năn, hối tiếc việc làm của mình là bậy và xin thề với ông Hai: thật tâm Phẩm không có ý muốn hại ông. Nhưng ông Hai gạt đi mà rằng:”Nó chặt đầu cũng không tin được đừng nói chuyện cắt tóc…”

Hôm ấy không người đem cơm nước, ông Hai phải nhịn đói suốt ngày, ông ôn lại chuyện tan vỡ vừa rồi và chạnh nhớ đến những lời của mẹ (1) mà mủi lòng rơi lệ.

———————–

(1). Đức Phật-Thầy ngày xưa có tiên tri với Đức Cố-Quản rằng: “con ông sau nầy sẽ có người làm rạng rỡ cho nền Đạo tín đồ rất đông, nhưng có lần bị nạn, phải nhịn đói suốt ngày tại góc bảy thưa”. Bà Cố-Quản lúc sinh thời thường đem chuyện ấy mà nhắc nhở ông Hai, nay đúng y như thế ông Hai nhớ lời mẹ mà tủi lòng.

———————–

Ở nhà cô Phan-thị-Lới hai ngày thì bị người lẻo mạch, ông Hai phải dời sang nhà ông Lê-văn-Nhượng, rồi đến nhà ông Hương-Sư Nguyễn-văn-Ca, sau nhờ có nhiều người môn đệ trung thành là Phan-văn-Cậy, Bếp Lang, Chín Chức, Tư Oai mưu tính cùng nhau, dọn thuyền đưa ông Hai thẳng lên Nam-Vang lánh mặt. Hồi nầy, Pháp ra lịnh tìm bắt ông Hai rất gắt, nên mặc dù lên tận Nam-Vang, ông Hai cũng còn phải cải trang, mặc đồ chệt và mua một chiếc ghe của người khách-trú để ở cho khỏi sự nghi ngờ.

Ngày rằng tháng tư (năm 1913), liệu ở Nam-Vang lâu không tiện, ông Hai lại cùng ông Nguyễn-văn-Tịnh (1) trở về Cần-Thơ, nương ngụ nơi nhà ông Nguyễn-văn-Dị. Ở đây được gần một tháng lại dời về nhà Phó-Xã Tám trong ngọn Bình-Thủy, và sau rốt, đến nhà sáu Ngộ ở Ba-Ngọn, thuộc quận Trà-bang, tỉnh Rạch-Giá.

———————–

(1). Ông Nguyễn văn Tịnh, tục gọi ông Năm Tịnh, là tín đồ của ông Hai hiện còn mạnh giỏi và đang ở giữ Bửu Hương Các.

———————–

D. Tịch ở Trà-Bang

Khoảng mùa hè năm Quí-sửu (1913), ông Hai về nhà sáu Ngộ ở Trà-Bang. Vì thời thế bắt buộc, ông đành phải mai danh ẩn tích luôn ở đây. Lúc ấy, trừ một số tín đồ tâm chí ra, không còn ai biết được gì về tin tức của ông nữa.

Đầu xuân năm Giáp-Dần (1914), ông Hai kêu ông Nguyễn-văn-Tịnh lại gần mà nói rằng:

– Sau nầy ta chết, không có chết bậy. Thuở xưa Đức Phật-Thầy trước khi tịch có sưng hai chưn. Ngài cho kêu ông chủ chùa (?) vào rồi viết một chữ « tử » mà hỏi là chữ gì. Ông chủ chùa đáp là chữ tử. Ngài nói luôn:”Hễ tử thì táng nghe!”

Thuật xong câu chuyện của Đức Phật-Thầy, ông Hai nói tiếp:

– Thầy Vân-Tiên xưa cho Vân-Tiên ba điệu Phù mà thôi, còn Thầy ta cho ta đến bảy điệu.

Những câu nói ấy nào hay là lời di chúc. Ba tháng sau, ngày 25 tháng 3, ông kêu hết mấy người tín đồ tòng vong lại mà cho hay rằng ông sắp tịch, vậy khi tịch rồi thì hãy bó lại bằng bảy miếng tre rồi chôn mà thôi, đừng sắm hòm rương chi hết.

Tình Thầy nghĩa tớ, bơ vơ trong cảnh xứ lạ quê người, anh em bổn đạo chẳng nở chôn cất ”lõa lồ“, cho nên đồng chịu lỗi với Thầy rồi cho cô năm Trà-Bang đi ra Cái-Răng nhắc hòm đem về chôn cất.

Sau hai ngày chờ đợi đi mua và sơn hòm, xác thịt ông Hai vẫn dịu mềm như người đang ngủ, trong miệng lại có mùi thơm bay ra ngát cả chung quanh.

Khi sửa soạn tẩn liệm, thình lình trong hòm đang để ngoài sân có tiếng nổ lên vang dậy. Ai nấy kinh hồn, mới hay rằng vì cải lời Thầy cho nên mới có điềm bất lành ứng hiện như vậy, bèn kéo vào trước linh thể ông Hai, xin thọ tội mà làm theo lời dặn (1).

Xác thịt tuy đã trả về cho đất, nhưng công đức và sự nghiệp của ông Hai vẫn còn tồn tại mãi với non sông. Lúc thanh niên ông khoác mảnh nhung y để bảo trì cương thổ. Khi về già lại đem đạo giúp đời, cứu độ muôn dân. Ông thật là một bậc quán thế siêu phàm phát tích tại vùng Thất-Sơn trong khoảng đầu thế kỷ thứ 20 vậy.

Ngày nay, ngôi chùa Bửu-Hương Tự được trùng tu và trở thành đồ sộ uy nghiêm. Cuộc lễ khánh thành ngày 11-9-1954, chứng tỏ rằng sự nghiệp của ông Hai vẫn được người đời hinh hương tưởng niệm.

———————–

(1). Có thuyết nói vì hồi ấy Pháp đang còn truy-tầm ông Hai khắp chốn cho nên tin-đồ tuy nghe lời bó bảy miếng tre, nhưng rồi lại cũng để vào hòm mà chôn như người thường cho khỏi tiết lậu tung tích. Nhưng theo lời ông năm Tịnh là người có ở tại chỗ trong lúc ấy, được mục kích rõ ràng thì cái hòm đã đem trả lại cho chủ trại, sau một ả xẩm ở Cái Răng chết, được mua chôn.

II- Ông Nguyễn Văn Thới (1866 – 1927)

A. Thế hệ

Thân sinh của ông là ông Nguyễn-văn-Đỏ, thân mẫu là bà Nguyễn-thị-Buôn, sanh được bốn người con: hai trai hai gái. Người trưởng là Nguyễn văn Chơi thứ là Nguyễn-văn-Thới (tức ông Ba đây) rồi thứ nữa là Nguyễn-thị-Tánh và Nguyễn-thị-Kẹo

Quê-quán ở làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec), ông Ba tướng người cao lớn nước da trắng, râu tóc nhiều mỗi khi tóc buông ra thì chấm đất có dư, khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng nảy thích ngắm kiểng xem hoa, thường hút thuốc điếu và một đôi khi cũng có ăn trầu.

Thuở nhỏ ông có học vừa hiểu biết chữ nho, lúc trưởng thành thì làm nghề thợ mộc rồi sau lại, cũng biết làm thợ chạm.

Bởi sống trong một gia đình cần lao kiệm phác cho nên ông Ba đã quen sự chịu khó nhọc từ buổi thiếu thời. Bình sinh việc chi ông không làm thì thôi, nếu đã làm thì làm cho kỳ được, không hề bỏ dở. Mặc dầu nóng tính, ông Ba vẫn có được một bộ óc thẩm mỹ cùng đôi bàn tay rất tinh xảo.

B. Phát đạo tâm

Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba bỗng nhiên phát đạo tâm, ông từ giã gia đình rồi thẳng lên vùng núi Sam, vô trại ruộng Thới-Sơn (cạnh Thất-Sơn) để tầm sư học đạo (1). Đâu đâu ông cũng nghe người đời ca tụng đạo-đức cao siêu của ông Hai Trần-văn-Nhu. Ông bèn trở xuống Láng-linh để tìm cho tận mặt, và sau khi biết rõ được giáo lý, ông xin quy y với ông Hai.

Trở về nhà ăn Tết xong, mùa xuân năm Đinh-Mùi (1907), ông Ba dời cả gia đình về Láng cất nhà gần chùa Bửu-Hương Tự. Ở đây, ông siêng năng trau giồi hạnh đạo, chất phát làm ăn, được ông Hai coi là đại đệ tử.

Một ngày nọ, ông Ba phát ra ngây ngây, ông bảo bà Ba dọn dẹp cho ông một căn phòng sạch sẽ, rồi ở luôn trong đó. Ngót ba năm dài đăng đẳng, ông Ba không đi đâu hết. Thậm chí sự tắm rửa hay đại tiểu tiện, ông để đêm đến mới đi ra. Chính trong khoảng nầy, ông cũng viết được ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-Từ, Cổ Vãng Kim La, mà ngày nay nhiều người vẫn còn biết.

Ngày mùng một tháng giêng (Tết năm nào không nhớ), ông ba ra khỏi buồng. Trước khi đến viếng ông Hai, ông Ba sắm một bộ khay hộp, trong có để ba trái ớt hiểm và ở trên có để ba cây roi rồi mới bưng vào trước mặt ông Hai mà quì xuống thọ tội, vì lẽ năm qua Ông không làm tròn hiếu nghĩa đối với Thầy.
——————-

(1). Có thuyết nói ông Ba nhân đi bán cá trên miền Láng, nghe danh ông Hai đạo đức cao siêu mà quy y theo. Nhưng theo lời ông Nguyễn-văn-Tuấn là trưởng tử của ông Ba thì ông tự nhiên phát đạo tâm rồi đi tầm sư học đạo như trên đã nói.

Nghiêng vai lãnh bức tờ mây.

Trung vương thổ giã Thầy ở lại (1)

Từ đây ông Ba rất sáng suốt thấu được lẽ diệu huyền của Phật pháp, ông có một bổn phận quan trọng đối với nhà chùa.

C. Bửu-Hương tự bị bao vây

Vì có sự tị hiềm của Nguyễn-văn-Phẩm, nên chùa Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Lúc ấy tuy ông Ba thoát khỏi được, nhưng ông Hai thì phải xiêu lạc khổ sở còn con trưởng của ông là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.

Thấy tình đời đen bạc, vả lại đứng trước cảnh sư đệ rã rời, phụ tử chia ly, nên ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt hoảng, chiều tối lại chở lên nhà thương Châu-Đốc điều trị. Nơi đây, người ta thấy tóc ông đanh nhiều nên cắt đi cho gọn rồi băng bó thuốc men nhưng ông quyết định không dùng một món chi của người Pháp. Ông cự tuyệt và gỡ bỏ hết.

Độ vài tháng sau liệu bịnh tình ông Ba không thể chữa được, lương y cho đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.
——————-

(1). Ý nói ông vì có sứ-mạng phải lãnh bức thư vẽ mây chép sự trung thành cùng quốc vương thủy thổ cho nên mới phải giã Thầy một thời gian ấy.

Thấy chùa Bửu-Hương Tự bị Pháp nghi nan dò xét mãi, và liệu ở đấy không yên được nên vào khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.

Hồi nầy, người ta có thấy ông Ba lên xuống nhà thờ Cù-lao-Giêng ba lần để tiếp-xúc với vị Linh-mục nơi đây, và nhờ can-thiệp với nhà cầm quyền Châu-Đốc đặng minh oan cho công việc của Thầy mình (ông Hai Nhu) và anh em đồng đạo (1) đã bị tên Phẩm vu cáo. Nhưng việc ấy nhà cầm quyền Pháp ở Châu-Đốc làm lơ.

(1). Lúc nầy ông Hai Nhu đã tịch rồi ở Trà-Bang, song công việc hành đạo của giáo phái Phật-Thầy bị dòm ngó rất gắt và bổn đạo tên tuổi nhiều người phải bị bắt, bị đày.

D. Ông Ba với chuỗi ngày tàn

Tình Thầy nợ Nước, mênh mang bao mối cảm hoài, khiến tâm hồn ông Ba trong chuỗi ngày tàn hầu như tan nát. Ông ký thác lòng mình vào những quyển: Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ-Đại và Thừa Nhàn, mà ngày nay, mỗi khi đọc qua, ta cảm thấy ngập-tràn bao nỗi bi thương ưu ái.

Dưới đây là một ít lời lẽ về tâm trạng của ông Ba hồi ấy :

Đêm năm canh thổn-thức chẳng yên,
Ngày sáu khắc sầu riêng mỗi đạo.
Tưởng ái quốc cơ-đồ sáng tạo,
Nhìn lẽ dân cường-bạo đa đoan.
Chúa mỏi lòng chúa nghỉ thân an,
Tôi mệt dạ còn mang nạn cả.
Thời quân nhược quả kia báo quả,
Thế thần cường giày-giã trung cang.

Hay là :

Bước chân ra đoái lại nước nhà,
Chim xanh vỡ ổ rừng già thiết tha!
Ai đi,
Nỡ chẳng tưởng quốc gia ngay thảo,
Dạ nào vong Tam-Bảo giáo truyền.
Thầy ôi!
Nước nghiêng-nghèo vận khiến đảo-điên,
Phân ly diện sầu tuôn đoạn đoạn!

Ngoài việc sáng tác những tác phẩm kể trên ra, ông Ba còn đươn một tấm thành vọng (mặt khại), chính giữa có ba chữ triện: Quốc (hàng trên) và Thần Vọng Sư (hàng dưới), dựng ngay trước bàn thờ để biểu lộ tấm lòng ưu ái giang sơn Thầy-Tổ. Tấm thành vọng nầy ngày nay còn thấy tại nhà con ông ở Láng-Linh.

Sau mười bốn năm, kể từ khi chùa Bửu Hương Tự bị bao vây, vết thương nơi cổ ông Ba vẫn chưa lành hẳn, nó gom lại bằng mút chìa vôi nhưng trong mình ông vẫn mạnh. Một đêm kia, ông Ba kêu người nhà mà hỏi thăm giờ. Người nhà cho biết là mười giờ đêm. Ông bảo: “Bây giờ đến năm giờ sáng thì còn lâu quá!”

Thế là đúng năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), ông Ba tịch. Lúc ấy ông hưởng thọ vừa đúng 61 tuổi, sau khi đã để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo đức lẫn văn chương, và một tấm gương tiết tháo kiên trinh bất hoại.

Hiện giờ, mộ phần của ông Ba còn tại doi Lộ-Lở, được bồi đắp và có người ở săn sóc cẩn  thận. Tại nền nhà cũ của ông (cũng ở Lộ-Lở gần ngôi mộ), có dựng lên một cái đền thờ rộng lớp, uy nghi, hằng năm, đến ngày mùng chín tháng tư thì có hội, bá tánh thập phương đến chiêm bái rất đông.

Ngoài các bậc siêu-phàm trong vùng Thất-Sơn mà chúng tôi đã chép trên đây, còn có nhiều vị khác nữa như: bà Hai Mun, nghĩa tử của Đức Phật-Thầy Tây-An, có tài trị bịnh và nuôi con (mộ phần nay còn ở sau Phước-Điền Tự), – ông Đạo Sang, lấy cốt trầu phun ra mà chữa bịnh và có lắm thần thông (ở đình ngã ba Cái-Dầu, Châu-Đốc), – ông Đạo Thạch, tịch ở đình Thạnh-Mỹ, khi tịch có hào quang, – ông Sáu Bình, đệ tử của ông Hai Nhu có phép đốt chưn cháy thành than rồi đạp vào chỗ đau của người bịnh… Nhưng chúng tôi chưa tìm ra được tài liệu chính xác.

Chúng tôi đã và đang còn sưu tầm thêm nữa, để cho tiểu sử của các bậc siêu phàm quanh miền rừng núi linh thiêng nầy mỗi ngày càng thêm đầy đủ. Vậy ở đây, chúng tôi xin hẹn lại một kỳ tái bản sau.


CHƯƠNG V: 
Lược sử (1) của Đức Huỳnh Giáo Chủ

I- Thân thế

Bậc vĩ-nhân ấy là ông HUỲNH-PHÚ-SỔ mà người đời gọi là ÔNG TƯ HÒA HẢO hay ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ, còn anh em tín-đồ thì tôn xưng là ĐỨC THẦY. Ngài sanh năm Kỷ-Mùi (1919) và là con trai của ĐỨC ÔNG HUỲNH-CÔNG-BỘ và ĐỨC BÀ LÊ-THỊ-NHẬM, gia-cư tại thôn Hòa-Hảo, gần Vàm-Nao lối 3 cây số ngàn.

Xưa kia, khi Đức Phật Thích-Ca giáng-sinh thì trước hết Ngài có quan sát năm việc như dưới đây:

1. Quan sát cơ-duyên của chúng sanh đã thuần thục hay chưa thuần thục.

2. Quan sát thời kỳ đã đến hay chưa đến.

3. Quan sát hết thảy trong các quốc độ coi nước nào là trung tim cõi Ta-bà nầy.

4. Quan sát chủng tộc nào quí thạnh hơn hết.

5. Quan sát nhơn duyên trong đời quá khứ coi người nào chơn chánh đáng làm cha mẹ.

Ngày nay, muốn hiểu rõ Đức Thầy, hãy xem những điều Ngài đã quan sát như dưới đây:

1. Nghiệp-quả của chúng-sanh đã mùi rồi, vì Đức Thầy có nói: “Đến ngày trả quả ầm ỳ biết bao”,

2. Trong bài “Lịch-sử của Thầy” Đức Thầy có câu: “Vì thời-cơ đã đến, lý Thiện-Đinh hoạch-định…”,

3. Trong bài “Diệu-pháp quang-minh” Đức Thầy viết: “Cõi Trung-Ương luân-chuyển phương Nam”,

4. Trong bài “Nang thơ cẩm tú” Đức Thầy có câu: “Giống Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp”, 

5. Xưa kia vua Tịnh-Phạn vương và Hoàng-hậu Ma-Da đầy lòng nhân đức mới sanh được Đức Thích Ca thì ngày nay Đức Ông và Đức Bà hẳn cũng phải là bậc nhân từ đức hạnh mới sanh được Đức Thầy. Vả lại, nếu không thế thì sao toàn thể anh em tín đồ và người ngoài tôn giáo lại tôn xưng là Đức Ông, Đức Bà?

——————

I. XIN LƯU Ý: Đây chỉ là LƯỢC SỬ của Đức Thầy. Tìm đọc quyển “TIỂU SỬ của ĐỨC-HUỲNH GIÁO-CHỦ” đầy đủ hơn.

II- Từ lúc bé thơ đến tuổi trưởng thành

Sau khi đậu cấp bằng tiểu học (Certificat d’études élémentaires) tại Tân-Châu, Ngài đã phải thôi học trở về nhà giúp đỡ mẹ cha trong công việc cày bừa ruộng rẫy.

Về đức tính thì Ngài có chỗ hơn người trong mọi trường hợp. Từ lúc bé thơ đến lúc vị thành niên, Ngài không bao giờ thích đờn địch ca xang, cải lương, hát bộ. Ngài ít trửng giỡn nói cười, thường tìm nơi thanh vắng để mặc tưởng trầm tư.

Khi gần đến tuổi thành niên, Ngài rất hổ thẹn và phản đối ngay khi nghe nói chuyện kiếm người nội trợ cho Ngài.

Lại nữa đã từ lâu, nhiều cơn sốt rét dữ dội làm cho Ngài ẻo lả xanh xao, mất ăn mất ngủ. Thỉnh thoảng bịnh nầy trở lại với chứng di tinh làm cho thân hình Ngài trở nên mảnh khảnh tiều tụy, da mặt mét xanh.

Đức Ông và Đức Bà đã hết phương chạy chữa. Nghe lương y, phù-thủy nào hay cũng đến, biết đạo nhân, đạo sĩ nào giỏi cũng tìm. Trong số những ông thầy ấy có ông Lê-hồng-Nhựt tục gọi Thầy Xom hay Đạo Xom ở núi Trà-Sư, một tu sĩ pháp thuật cao cường và ông Trương-anh-Tuấn tức Ba Ngoan, một tay lão luyện về khoa bùa ngải của Thổ và Xiêm, đã từng để dấu chân trên núi Tà-Lơn và các núi ở Cao Miên giáp ranh Xiêm-quốc. Nhưng hai ông nầy đều đành thúc thủ khi gặp trường hợp của Đức Thầy.

Thế là trong mấy năm trường (từ 15 đến 21 tuổi) Đức Thầy mắc một chứng bịnh trầm kha mà không lương y ở vườn, ở chợ hay một ông tu sĩ ở núi, ở am trị được. Thì ra đó là những cơ hội cho các đấng thiêng liêng dọn xác Đức Thầy để cho Ngài tiếp những điển quang mạnh mẽ tinh khiết sau nầy. Ngài có nói với một tín đồ trọng yếu ở Bạc-Liêu câu nầy: “Ơn trên” làm như mình súc ve cho sạch vậy!

 

III- Đức Thầy dạy Đạo độ Đời

Thế rồi ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão (1939), ngày đáng ghi trong lịch sử cách mạng nước nhà một cuộc lễ đã cử hành tại nhà Đức Ông để cho Đức Thầy “đền Linh-Khứu Sơn-Trung thọ mạng”.

Lúc ấy lối 6 giờ chiều. Đức Thầy sắp hai hàng ghế bên bàn thông-thiên. Xong rồi Đức thầy mời Đức Ông ra chứng kiến cho Ngài thắp nhang mời thỉnh các đấng Thiêng-Liêng về chứng cho Ngài “chịu lịnh Tây-Phương thọ ký“. Đoạn Ngài lạy bốn hướng. Sau rốt, Ngài day qua hướng Tây lạy 4 lạy.

Thuở ấy, Đức Thầy được 21 tuổi. Mặc dầu còn bịnh, Ngài vẫn đẹp đẽ khôi ngô và trở thành một bực thông minh đĩnh ngộ, văn võ song toàn, quán thông mọi việc. Ta có thể nói rằng Ngài là một bực “thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung quán nhân sự”. Kể từ ngày ấy, Đức Thầy khởi sự chữa bịnh, thuyết pháp và ra kệ giảng.

 A. CHỮA BỊNH

Nhiều bịnh dị kỳ, nhiều bịnh tà, bịnh điên hoặc bịnh nan y đã được Đức Thầy chữa lành hẳn, chẳng khác nào Đức chúa Jesus hay Đức Thầy Tây An thuở xưa. Vì vậy mà số người đến xin trị bịnh càng ngày càng đông. Kẻ ở xa xôi như Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Bạc Liêu, Sóc Trăng, cũng như những người ở mấy tỉnh gần (Long xuyên, Sa Đéc, Rạch Giá, Cần Thơ, Vĩnh Long), đua nhau đi đến nhờ Ngài trị bịnh. Nhà của Đức Ông và của Đức Bà không bao giờ ngớt khách.
Phương pháp của Đức Thầy dùng để trị bệnh không có chi phiền phức. Tùy theo người bịnh, Ngài cho uống nước lã, cho phép huệ linh bằng dây chuối hoặc bằng chỉ xe nhiều tao gọi là “niệt”, cho bùa uống bằng giấy nhựt báo hay giấy vàng, cho uống thuốc thang bằng vài thứ lá cây (lá xoài, lá ổi, lá mít, lá bưởi, vân vân… hoặc vài thứ bông (bông trang, bông vạn thọ) hay vài thứ rễ (rễ chanh, rễ chòi mòi).

Điều đáng để ý là mỗi khi trị bịnh cho người nào là Ngài khuyên họ nên niệm Phật tưởng Trời và van vái Thần, Thánh, tin tưởng các đấng Thiêng Liêng , bởi vì ” Thành lòng nước lã nên hồ, hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban”.

Số người được Đức thầy chữa bịnh kể sao cho xiết! Chỉ nhắc lại vài trường hợp đặc biệt dưới đây cũng đủ làm cho giới y học suy nghĩ nhiều:

1- Chữa bịnh trùng ở Hưng Nhơn.

Ai ở Hưng Nhơn, Hòa Hảo và Phú An cũng biết rằng gia quyến ông Hương chủ Hùng ở làng Hưng Nhơn rất lấy làm khổ tâm vô phước bởi 31 người trong thân tộc đều chết yểu vì bệnh “Trùng”. Bịnh nầy do hồn ma về nhập xác bà con phá quấy, làm đau ốm để cướp hồn! Thầy Sành ở làng Hiệp Xương và ông Đức Minh ở núi Cấm cũng phái bó tay chịu là bất lực.

Những Pháp sư nào cao tay ấn mà lại đây chữa bịnh thì sẽ thấy. Thay vì sợ sệt trước mặt Pháp sư, người bịnh “lên” liền. Pháp sư nào cả gan dám đụng tới cái trang thờ bà Phạm Thị Hiền là “chúa trùng” của gia quyến này thì lập tức bị ngã lăn, chết giấc!

Muốn làm chấn động dư luận mấy vùng lân cận, Đức Thầy nhứt định chữa cho người con gái của ông Hùng hiện đang mắc chứng bịnh ác nghiệt ấy. Ngài bèn lấy vành thúng vấn vải tây đỏ ở ngoài, làm một cái “càn khôn quyện” bảo ông Ngô Ngọc Chơn đem tròng vào đầu người bịnh (lúc đó đã được đem ra nhà bà Hai Đào ở Hòa-Hảo). Tức thì cô gái nầy ríu-ríu đi ngay lại nhà Đức Ông.

Thuở ấy, Đức Ông thấy có nhiều sự thượng đồng cỡi xác nên chưa hoàn toàn tin tưởng vào Đức Thầy. Vì vậy Đức Ông rầu buồn lắm và không bằng lòng chứa bịnh tại nhà. Đức Thầy phải gởi bịnh nhơn tại nhà bà Hai Đào, rồi mỗi bữa người bịnh đi lại cho Đức Thầy chữa.

Khi cô gái nầy đến, Đức Thầy ra sân giậm chơn kêu: “Mấy ông lục ở đâu?”. Một chập sau, như được tin vô tuyến truyền thanh, mấy phần xác ông lục ở các vùng lân cận (cách ba, bốn trăm cây số) hối hả chạy đến. Đức Thầy quất roi điều binh khiển tướng sai mấy ông lục vô chữa bịnh. Ngài lấy dây chuối làm bùa đeo và lấy nước lã cho bịnh nhơn uống.

Thế là cô gái nầy được lành mạnh.

Cô ở tại Hòa-Hảo ba bữa rồi lại nhà cảm tạ và từ giã Đức Thầy. Nhưng, vừa tới cửa, cô ta “lên” lại. Thì ra, trong lúc đi ngang qua một vũng nước, cô ấy ngó vào, thành ra vì tinh thần còn yếu nên bị “Đàng-Bố “ nhập vào khuấy phá!

Đến đây chúng tôi xin mở dấu ngoặc để kể lại chuyện Đàng-Bố mà Đức Thầy đã thuật cho nghe.

Đàng-Bố là một trong những tướng sĩ nhà Minh bị quân nhà Thanh uy hiếp nên phải trốn sang Việt-Nam, đậu thuyền tại Đà-Nẵng. Vua ta không bằng lòng cho trú ngụ tại đó và ra lịnh cho xuôi thuyền vào vùng Phú-quốc. Đàng-Bố, sau khi được yên thân bèn trở về Tàu dắt bè lũ của hắn qua để toan mưu xâm chiếm Việt-Nam. Chàng ta bị bắt và đem ra giết. Vốn là một phù thủy đại tài, Đàng-Bố bèn dùng pháp thuật của mình để tự vệ nên triều đình giết y không được. Sau có người biết chuyện, mách rằng nên đem y xuống nước mới xử trảm được. Chàng ta vong mạng bẳng cách xử ấy. Tuy vậy, hồn còn phẩn uất nên vẫn theo phá khuấy, làm dật dờ, đau ốm, xanh xao những phụ nữ yếu tinh thần đi tắm hoặc giặt quần áo dưới sông.

Bây giờ chúng tôi xin đóng dấu ngoặc lại để nói tiếp vụ con gái Hương-chủ Hùng bị Đàng-Bố nhập.

Thấy vậy, Đức Thầy bèn kêu ông Ngô-ngọc-Chơn tục gọi “Đạo Năm“ lại để sai “tướng núi“ trị bịnh nầy. “Sơn-thần độc tướng” nghe lịnh Đức Thầy liền “vào” chữa bịnh cho cô gái ấy bằng các đánh võ với Đàng-Bố. Đàng-Bố chạy đi mất. Nhưng sau khi đó, tay Chúa trùng Phạm-thị-Hiền lại kéo “binh âm” đến! Đức Thầy phải ra sức với họ một hồi. Sau khi “binh gia” của Phạm-thị-Hiền rút mất, Đức Thầy đem linh phù bằng giấy vàng bạc để trên trang thờ Phạm-thị-Hiền và trên bàn thông-thiên, bảo Phạm-thị-Hiền quy y đầu Phật. Xong xuôi, Đức Thầy ra lịnh dẹp miễu Thổ-thần, đem trang khánh tại nhà ông Hùng xuống đốt hết.

Thế rồi từ năm 1939 đến nay, cô gái nầy vẫn mạnh giỏi như thường. Trong thân quyến ông Hùng mọi người đều quy y đầu Phật và không còn ai đau bịnh trùng nữa.

2. Chữa bịnh tê liệt, thổ tả

Danh tiếng Đức Thầy càng vang lừng thì bịnh nhân càng đến nhiều. Bữa nọ, một người đau bịnh hết sức trầm trọng (ngồi dậy không nổi, thổ tả liên miên) được chở lại. Đức Bà tỏ ý không vui vì sợ e Đức Thầy làm không xong. Vả lại ai mà chẳng nhờm gớm sự dơ dáy?

Đức Thầy bèn lên nhà trên, ra trước bàn Phật, nghiêm mình hét: ”Quan Thượng Đẳng Đại Thần! Hết…! ” Ở dưới nhà dưới, người bịnh lồm cồm ngồi dậy, riu ríu đi xuống ghe, rồi lần lần dứt bịnh.

3. Chữa bịnh ngoài da

Ông Tạ-quốc-Bửu, cựu Hương-cả làng Hòa-Bình (Bạc-Liêu) mắc không biết chứng bịnh gì mà phân nửa cái mặt nổi sần lên và lở như lác. Nhiều phương thuốc Đông, Tây đã được dùng mà không hết bịnh.

Lúc Đức Thầy ở tại nhà ông Hương-bộ Thạnh (làng Nhơn-Nghĩa, tỉnh Cần-Thơ) ông cả Bửu có đến viếng Ngài. Đức Thầy chỉ cho ông uống một ly nước lã. Vài ngày sau, mặt ông liền da như xưa. Cách một ít lâu, ông Ngô-phong-Điều (Hội-đồng Điều) ở Bạc-Liêu lên thăm Đức Thầy. Thấy ông, Đức Thầy liền hỏi:

”Ông cả Bửu đã lành bịnh rồi phải không? “

4. Chữa bịnh dư ruột

Bà Chung-bá-Khánh, tín đồ ở Bạc-Liêu, đau bịnh dư ruột. Bác-sĩ Cao-triều-Lợi bảo phải lên Sài-Gòn lập tức đặng mổ.

Khi đến Sài-Gòn, bà nằm nhà thương Saint-Paul. Mấy vị Bác-sĩ ở đây đều công nhận là bịnh dư ruột và phải mổ. Người ta tiêm thuốc cho gom mủ đặng bữa sau mổ.

Lúc ấy (1943) Đức Thầy ở Sài-Gòn hay được nên phái người vào thăm bà Khánh và gởi cho một trái cam, dặn rằng ăn hết trái cam nầy thì hết bịnh. Thần diệu thay! Bữa sau cái quầng đỏ có gom mủ nơi bụng hôm qua tiêu mất! Thế là bà khỏi bị mổ và lành mạnh như thường trong khi các vị bác sĩ bóp trán nghĩ suy, băn khoăn tự hỏi!

5. Chữa bịnh câm

Đức Thầy lại còn trị được bịnh câm mới là thần kỳ chớ!

Số là lúc Đức Thầy còn ở Bình-Hòa (miền Đông), Ngài có làm cho một đứa trẻ gái hết câm. Đứa bé nầy (là cháu của ông chủ nhà mà Ngài tạm trú) đã bốn tuổi rồi mà nó không biết nói chuyện. Nó chỉ biết «ư, ư» mà thôi!

Muốn đền ơn ông chủ nhà, Đức Thầy nhứt định chữa bịnh cho nó. Bữa nọ, Ngài lấy roi dọa nó, chận đón nó. Sợ quá, nó chạy vô kẹt bồ lúa. Đức Thầy hét lớn làm cho nó hoảng kinh la lên, và tiếng nói đầu tiên của nó là tiếng kêu “má”. Sau khi đó thì nó biết nói luôn. Nó biết kêu “máy bay” chỉ những phi cơ của quân đội Pháp bay ngang qua đó.

Mẹ đứa trẻ mừng vui chẳng xiết và nói: “Ông Tư giỏi quá!”

– Không phải! Đức Thầy đáp lại. “Tại nó sợ tôi, và cũng tại thiếm không biết cách dạy nó“.

Ngoài ra những chứng bịnh trên đây, Đức Thầy còn dùng huyền diệu để bỏ (cai) á phiện và rượu cho những người ghiền hai độc được nầy (người bịnh cũng chỉ van vái Phật Trời và uống nước lã).

Về việc trị bịnh, Đức Thầy có cho biết rằng bây giờ trị bằng cách cho giấy vàng cũng chưa mấy gì thần hiệu. Ngày sau chỉ rảy nước vào mặt người bịnh là đủ và như thế mới kịp! Độc giả nên suy nghiệm lời tiên tri nầy…

Đọc đến đây, chắc có người sẽ tự hỏi: Tại sao Đức Thầy không dùng toàn huyền diệu của tiên gia để trị bịnh trùng ở Hưng-Nhơn mà lại lập đàn bố trận như một ông đạo sĩ (thầy pháp) hay một nhà phù thủy?

Sở dĩ Ngài phải làm như thế là vì có vậy mới kích thích được tánh háo kỳ của quần chúng, thường “trông cho lâm bịnh dị kỳ nó coi“, mới lôi cuốn họ tới cho đông để tùy duyên mà hóa độ. Vả lại, có làm như thế mới giúp sức cho sự tin tưởng của người ít thiện căn và mới làm cho nhà chức trách Pháp thời ấy lầm tưởng Đức Thầy chỉ là một đạo sĩ hoặc một thầy phù thủy mà không vội làm khó dễ cho Ngài. Chớ thật ra, nếu người đau hay kẻ nuôi bịnh (trường hợp cha mẹ nuôi con đau ốm) có đủ đức tin nơi sự ủng hộ của các đấng Thiêng-Liêng thì họ chỉ tự lấy giấy vàng uống với nước lã sau khi khấn vái là được rồi (Có mang bịnh tật vào thân, giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô).

Thế mà có nhiều người không chịu hiểu như vậy. Họ cố nài nỉ Đức Thầy mó tay vào những mảnh giấy vàng đã rọc sẵn hoặc “chứng” vào mớ giấy vàng nầy (bằng cách ngó sơ qua) mới được. Một vài khi chúng tôi thấy Đức Thầy tỏ vẻ bức rức vì có một số tín đồ không hiểu ý nghĩa lời dặn bảo của Ngài.

Chính Ngài đã nói với chúng tôi rằng có hai hạng người đau: người thì đau căn, kẻ lại đau quả. Đau căn thì chữa được chớ đau quả thì không có ông thầy nào trị hết khi quả báo đã mùi (karma mur).

 B. THUYẾT PHÁP

Sau ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mảo, Đức Thầy nói nhiều hơn xưa. Gặp ai là Ngài nói nấy. Ngài nói về sắc diện, tánh tình và tương lai. Sau rốt Ngài khuyên người làm lành lánh dữ, trau sửa tâm lành, kỉnh tin Trời Phật.

Ngài nói thật trúng, thật hay. Rất khiêm tốn, rất bình dân, Ngài không bao giờ chịu phân biệt kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn. Đãi ngộ họ như nhau, Ngài không hề khuất phục kẻ cường quyền nào và bỉ bạc một người khốn khó nào…Vì vậy nên thuở ấy người ta kêu Ngài là “Ông tướng bình dân”.

Nhiều người có xu hướng cộng sản lại chất vấn Ngài. Họ lấy làm khâm phục vì Đức Thầy nói thấu ”ruột gan” họ, và nói đến những việc ở bên cái xứ xa xôi kia, ở tại cái xứ phát huy những tư tưởng khuynh tả ấy…

Thế là trong số bá tánh thập phương tới viếng Đức Thầy, ngoài những người xin thuốc, xin bùa, xin trị bịnh lại còn có nhiều người đến để nghe Ngài giảng giải giáo lý của Đức Thích-Ca mà Ngài có sứ mạng truyền bá:

” Ta thừa vưng sắc-lịnh Thế-Tôn,
Xuống hạ-giới truyền khai Đạo-pháp “.

Nhiều khi Ngài phải thuyết pháp cả ngày lẫn đêm. Thính giả tựu họp để nghe đông vô số kể. Như thế cho đến ngày 12 tháng tư năm Canh-Thìn (1940) là ngày mà nhà đương cuộc Pháp ở Châu-Đốc dời Ngài đi Sa-Đéc. Ngôi nhà Đức Ông bỗng nhiên biến thành một ngôi chùa. Vì thế nên có lần Đức Thầy nói với Đức Ông đi lên quận xin phép đổi nó ra làm cái chùa, lấy danh hiệu là ”Kim-Sơn-Tự“.

Với một giọng nói thanh tao êm dịu, khi bỗng lúc trầm, lưu loát mà rõ ràng, khi cao siêu khi giản dị, Ngài giảng giải cho quần chúng nghe giáo lý nhà Phật và phương pháp tu hành. Ngài thuyết pháp không vấp không ngưng. Thật là: ”miệng nhích môi đầy văn tao nhã, hạ bút thần thơ đã đề khai“.

Một nhà viết báo ở Sài-thành (ông Hiền-Sỉ) nói về Đức Huỳnh Giáo-Chủ trong hơn 30 bài báo, có phê bình tài hùng biện và khoa ngôn ngữ của Ngài bằng câu « thao thao bất tuyệt » và cho rằng Ngài ”chiếm giải quán quân về phương diện diễn thuyết “. Nhà lãnh tụ ”Nhóm Tranh-Đấu” là Tạ-thu-Thâu chưa chắc có thể so sánh với Đức Thầy về môn diễn thuyết và nói chuyện trước công chúng được!

Lại nữa, lời văn của Đức Thầy còn có mãnh lực hấp dẫn quần chúng một cách phi thường nên thính giả nhiều khi mủi lòng rơi lụy, liền phát bồ đề tâm, quy y đầu Phật.

Nhiều nho sĩ văn gia, nhiều trí thức tân học đỗ cao (cử nhơn, tiến sĩ) đều bái phục Đức Thầy vì tài ba, vì đức hạnh. Thật Ngài là một bực thượng trí anh tài, một bực « sinh nhi tri » vậy!
Trong số những tay cự phách của làng nho hoặc những nhà quyền quí thời Pháp thuộc đã đến đọ sức thử tài hoặc tìm hiểu sở năng sở kiến của Đức Thầy, chúng tôi thường nghe kể những vị dưới đây:

1. Thầy Ba Thận

Ông nầy ở làng Phú-Lâm (Tân-Châu) và là học trò của ông Tú-tài Thường (cựu học) ở làng Phú-Thuận (Tân-Châu). Ông có làm hai bài thơ mà ông tự cho là khéo léo vừa ý lẫn văn, tính đến thử Đức Thầy. Khi ông vừa đến thì Đức Thầy đã biết ý định của ông và trả lời ngay những điền mà ông muốn hỏi mặc dù ông chưa kịp xuất trình hai bài thơ ấy cho Đức Thầy.

2. Ông Lương-văn-Tốt tức Thầy bảy Tốt

Ông nầy ở làng Mỹ-Hội-Đông (Long-Xuyên). Lúc ấy, ông thường đến làm thi bằng Hán-văn với Đức Thầy. Bữa nọ, làm không kịp Đức Thầy và nột quá ông phải rút trọn một câu trong sách thuốc Thọ-Thế. Điểm mặt ông, Đức Thầy vừa cười vừa nói rằng: ”Ông hết rồi nên mới rút tới câu đó!”

Một hôm nọ, nhơn đọc bài ”Diệu pháp quang minh” (của Đức Thầy) thấy câu ”Trần-Di ngủ say câu thành tựu” ông bèn nói với Đức Thầy: ”Bạch Ngài, tôi e cho chữ thành tựu chưa có ai dùng. Phải chăng Ngài đã lầm lộn?” Đức Thầy bảo ông về xem lại bộ ”Tứ Thơ” sẽ thấy chữ thành tựu. Ông về tìm kiếm tở mở nhưng không không thấy. Sau Đức Thầy có cho ông biết chữ thành tựu rút ở trong hàng chữ châu con nhứt nhứt thành tựu (thuộc đoạn nào, bài nào Ngài có chỉ rõ).

3. Ông Huỳnh-Hiệp-Hòa

Ông Hòa ở làng Bình-Thủy (Long-Xuyên) và cũng là một bực đại gia văn chương. Ông có làm thơ dưới đây mà nếu chiết tự sáu câu đầu, chúng ta sẽ thấy ông có ẩn ý hỏi coi Đức Thầy có phải là Trạng-Trình, Cử Đa, Đề-Thám chăng?

Đây là bài thi của ông Huỳnh-hiệp-Hòa:

Phiến ngôn đại chấn điểm Nam cương,
Khẩu tụng Văn-vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tùng nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
Thị vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn-chương.

Liền đó, Đức Thầy đáp họa như dưới đây:

Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng Cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp,
Phật-lý vi khai đại-hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn-lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

Bài thơ của Đức Thầy đáp họa có hàm súc một cách khéo léo danh hiệu của Ngài.

4. Ông Nguyễn-Kỳ-Trân tức Chín Diệm

Ông nầy ở làng Định-Yên (Long-Xuyên), và là một bực túc nho đầy lòng ưu ái giang sơn. Thấy nước nhà đang bị nạn xâm lăng mà Đức Thầy lại đem mùi tôn giáo khuyến dụ nhơn sanh nên ông lấy làm hoang mang khó hiểu. Ông mới làm bài thi dưới đây, đại ý nói với Đức Thầy như vầy: Giặc mạnh xâm lăng nước nhà đã mấy mươi năm rồi. Vậy chẳng biết Ngài vị Tiên chi xuống trần? Chứ ngày nay những bực như ông Trần-Hi-Di (Trần-Đoàn), ông Khương-Thượng Tử-Nha v.v…đều ẩn khuất tất cả nơi đất Bắc trời Nam, chỉ thấy hiện giờ con cá đỏ đuôi (ám chỉ lá cờ tam sắc) ở cùng khắp đất nước. Nếu Ngài thật là bực anh triết thì xin Ngài hãy đả nó một cây roi thần (1).

Cường khấu xâm-lăng kỷ thập niên,
Vị trí đại-đức giáng, hà tiên?
Hi-Di ngũ quí kim an tại,
Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc-Nhãn sa-đà tàng Bắc-địa,
Liên-Mi chơn mạng ẩn Nam-thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ Tổ tiên (2)

—————–

(1). Phải chăng là cây roi của ông Tổ-Địch?

(2). Ông Nguyễn-Kỳ-Trân còn làm một bài nữa và Đức Thầy cũng có đáp họa đủ, nhưng ở đây chúng tôi chỉ chép bài thứ nhứt thôi.

—————–

Đức Thầy mới lập tức đáp họa như dưới đây:

Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên,
Sơn-Trung hồi dả bí danh tiên.
Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Dị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.

Đại ý bài thơ nầy Đức Thầy trả lời từ câu bài thơ trên và có nói rõ danh hiệu của Ngài. Trong hai câu chuyện kết, Ngài còn nói rằng: Thời kỳ của minh đế chưa tới, chớ khi ngày giờ đã đến thì chẳng những có một cây roi, mà sẽ có biết bao nhiêu cây…

5. Ông Nguyễn-Văn Lễ ở Tân-Châu

Ông nầy là chủ-quận Tân-Châu thời ấy.

Khi ông vừa đến để nghe Đức Thầy thuyết-pháp thì Ngài chào và nói một cách thẳng thắn rằng: ”Tôi chào đây là tôi kỉnh cái đức của song thân ông (Đức Thầy kêu ông quận bằng ông chớ không kêu bằng quan lớn như người khác) vì song thân ông có tu nhơn tích đức nên nay ông mới được chức trọng quyền cao. Vậy ông nên lập công bồi đức nếu ông muốn hưởng phước được lâu dài, cũng như ông chỉ có 100 đồng bạc mà muốn đi ghe đến Saigon thì dọc đường phải lo sanh phương kiếm lợi mới có thể đi đến nơi đến chốn, chớ nếu không làm gì hết sợ e ghe vừa tới Chợ-Mới là tiền đã hết rồi!“

Xin nói thêm rằng trước khi đến Hòa-Hảo nghe Đức Thầy thuyết pháp, ông Chủ-quận có cho người đem xe hơi đến rước Đức Thầy lên Tân-Châu thuyết Đạo cho ông nghe. Gặp một ông thầy khác có lẽ người ta sẽ hãnh diện tự đắc vì có mấy khi được quan Chủ-quận mời rước bằng xe hơi. Nhưng Đức Thầy lại khác. Ngài từ nan (mặc dầu bà Chủ-quận đã là tín-đồ từ lâu rồi), nói rằng: ”Nếu ông quan đem xe hơi lại rước mà tôi đi thì tôi phải làm thế nào đối với những người đem ghe xuồng lại mời tôi? Tôi đâu có thể thiên vị kẻ giàu mà phụ bạc kẻ nghèo!”.

6. Ông Chủ-quận Chợ-Mới (Lê-tấn-Nầm)

Ông nầy cũng có phận sự đến Hòa-Hảo tìm hiểu về Đức Thầy.

Sau khi chào sơ ông Chủ-quận, Đức-Thầy ngồi dựa ngửa trên ghế cố ý làm cho ông khách bực tức.

Ông quận Chợ-Mới làm vẻ bình tĩnh họi Đức Thầy: ”Ông đã dạy bổn đạo tu vô vi mà tại sao còn bảo họ uống giấy vàng?” – Đức Thầy đáp bằng một câu vừa để trả lời câu hỏi vừa để nói ngay tâm lý người đối thoại: ”Tại họ thiếu đức tin!“

Mà thật đấy, vì họ thiếu đức tin nên phải dĩ huyễn độ chơn.

Sau khi ra về, ông quận Chợ-Mới gởi lên Thượng-cấp của ông một bản phúc trình do đó Đức Thầy phải bị dời khỏi làng Hòa-Hảo, điều mà Đức Thầy mong ước vì:

Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông.

Ngoài những bực trí thức muốn đến dò xét học lực và sở kiến của Ngài, có nhiều nhà thân hào hoặc nhiều người đã tu niệm từ lâu cũng đến coi Ngài là ai và có quyền năng gì? Trong số những vị nầy ta có thể kể:

1. Ông Cả Đô ở làng Tân-An (Tân-Châu)

Thầy Đức Thầy chỉ ngồi trên 2 cái ghế trong số 8 cái để hai bên chiếc bàn dài nên thừa lúc Đức Thầy đi ra ngoài đường, ông nầy liền đổi cái mà Đức Thầy thường ngồi (cũng giống hệt mấy cái ghế kia). Xong, ông đi theo Đức Thầy ra ngoài lộ và hỏi: ”Bạch Thầy, người ta phải dùng nhiều tôi lương đống mời an bá tánh được, tại sao Thầy lại nói:

Như đời xưa có-gã Tử-Phòng
Xem thời-cơ người đã rõ thông,
Dùng tôi thiểu mà an bá-tánh.

- ”Tôi nói láy đấy! Tôi thiểu là tiêu thổi!” Đức Thầy đáp lại.

Thầy trò nói chuyện một chập lâu liền trở vào nhà, đi lại hai hàng ghế. Đức Thầy dòm ông Cả Đô và vừa nói chuyện với ông, Đức Thầy cũng vừa nhắc cái ghế mà Đức Thầy thường ngồi, đổi lại cái ghế mới thay vào khi nãy, và sau khi dứt câu chuyện, Đức Thầy ngồi trên cái ghế quen một cách tự nhiên như không có gì xảy ra.

2. Ông Phan-văn-Cơ ở làng Phú-Lâm (TânChâu)

Thấy trong Sấm-Giảng của Đức Thầy có câu:

”Ngôi tam bảo phải thờ trần đỏ,

Tạo làm chi những cốt với hình” thì ông này nghĩ rằng có lẽ Đức Thầy muốn nhắc nhở Đảng Hồng-Nhựt của cụ Trạng Trình khi xưa. Ông định đến hỏi Đức Thầy coi có phải như vậy chăng? Khi gặp Đức Thầy ông chưa kịp hỏi thì Ngài đã trả lời với ông như vầy: ”Ông đã biết rồi. Tưởng như vậy là phải rồi, hỏi làm chi nữa? “

3. Ông Nguyễn-duy-Hinh (tức xã Hinh) ở Hòa-Hảo

Ông nầy ở cách nhà Đức Thầy không đầy 300 thước và thường tới lui nhà Ngài.

Ông thuật lại rằng ông có nghe nói trong một đêm thanh tịnh nọ, Đức Thầy, sau khi ngồi kiết dà, có tụng kinh (tụng thuộc lòng) bằng tiếng lạ (có lẽ là tiếng Nam-phạn, Bắc-phạn hoặc tiếng Tây-Tạng) nhưng ông chưa đủ tin.

Một đêm kia, ông nói với Đức Thầy: ”Ông làm sao cho tôi tin thì làm thử coi!“. Không cần trả lời, Đức Thầy giơ một cánh tay lên trước tấm kiếng treo gần đó. Lạ kỳ thay! Trong kiếng lại hiện ra tới hai cánh tay. Đức Thầy nói với ông Xã Hình: ”Ông coi có phải khác hơn người ta chăng?“

4. Ông hai Dùng (1) ở Hòa-Hảo

Bữa nọ ông Dùng (ở phía dưới nhà Đức Ông, lại nhà Đức Thầy và trong một câu chuyện về mùa màng, ông có nói: ”Lúa năm nay (1939 – Kỷ-Mão) tốt quá, lên cao nghệu! Chắc sẽ trúng mùa”.

– Coi vậy mà ít ngày nữa sợ e xuồng đi trong đồng không được! Đức Thầy đáp lại.

– Phải mà! Xuồng đi sao được vì lúa tốt quá đã cao mà còn dày đặc! Ông Dùng đáp lại với một giọng ngạo nghễ.

Thế rồi, trong một ít lâu, nước lên mau quá làm ngập lút cả lúa. Đồng ruộng linh láng như biển cả thành thử xuồng nhỏ không dám mạo hiểm đi trong đồng sợ sóng gió nhận chìm (Năm ấy có một ghe đi đám cưới bị sóng đánh chìm, làm thiệt mạng hơn 10 người trong đồng).


—————–

(1). Xin lưu ý. – Ông nầy không phải là ông Đạo Dùng ở Phú-Lâm.

5. Ông Nguyễn-văn-Vàng tức cựu Hương-sư Vàng ở Hòa-Hảo

Một bữa nọ, ông nầy có khoe với Đức Thầy rằng: ”Tôi có cuốn giảng 11 hồi (1), xin đọc cho ông nghe“. Đức Thầy bảo ông cứ đọc. Sau khi ông đọc một đoạn, Đức Thầy nói: ”Bây giờ để tôi đọc tiếp cho ông nghe“. Nói xong, Ngài dang ra xa đọc một hồi như trước mắt có cuốn giảng ấy, và nói tiếp: ” Tôi viết cuốn nầy mấy chục năm về trước hồi còn ở trên Cao-Miên!“

—————–

(1). Ấy là quyển ”SẤM-GIẢNG NGƯỜI ĐỜI” của ông Sư-Vãi Bán Khoai.

—————–

6. Ông Đạo Dùng ở Phú lâm

Ông Dùng là người tu niệm khá lắm. Thuở ấy (1939) tuổi ông lối 25. Lúc ông đến viếng Đức Thầy thì Ngài cười và nói với ông rằng: ”Bộ bị Nhựt-Bổn rượt nên mới chạy qua đây chớ gì!“.

Trong khi đàm luận về việc tu hành, ông rất khâm phục Đức Thầy. Sau rốt, Đức Thầy dặn ông: ”Ông hãy cố gắng tròn chớ đừng làm méo thì ngày sau gặp tôi!“

Sau khi ông ra về, Đức Thầy nói cho những người có mặt lúc đó biết rằng ”phần” của ông khi trước có đi qua bên Tàu ở tu và bỏ xác luôn bên ấy cho nên lúc đến viếng Đức Thầy ông mặc áo chệt.

7. Ông Nguyễn-phước-Còn tức Bảy Còn ở làng Long Kim (Long Xuyên).

Ông nầy ở gần chợ Cà-Mau, thuộc làng Long-Xuyên (cù-lao Ông-Chưởng) và là cháu nội của ông Đạo Thắng (đệ-tử của Phật-Thầy Tây-An).

Lần sau, ông nằm chiêm bao thấy chư Thần cho biết: Ngày nay Thầy đã trở về Hòa-Hảo rồi, sao không lên tìm? Thế mà ông vẫn chưa chịu tin.

Trong lúc đó thì ở Hòa-Hảo Đức Thầy khuyên ông Huỳnh-văn-Quốc tức Út Quốc (chú của phần xác Ngài) nên tu hiền như Đức Thầy đã dạy. Ông Út vì khi trước thường nhờ ông Bảy Còn trị bịnh cho mấy người con và đang tu theo giáo lý mà ông Bảy Còn đã được nội tổ truyền lại nên trả lời với Đức Thầy: để thủng thẳng sẽ tính. Đức Thầy nói quả quyết: ”Ông cứ lo tu đi! Ông Bảy Còn sẽ lên đây cho mà coi!“

Quả thật, trong một buổi đi dạo sáng, ông Bảy Còn buồn ngủ một cách lạ kỳ. Khi trở về nhà, ông nằm mê, chiêm bao thấy như lần trước. Và lần nầy ông bị chư Thần quở trách. Ông nhứt định lên Hòa-Hảo một chuyến để thử Đức Thầy.

Ông Bảy lên nhà ông Út trước. Đức Thầy bước qua nắm tay ông và nói: ”Ông đợi chư Thần đòi ba lần mới chịu lên! Thôi mời ông qua nhà và đêm nay ngủ với tôi“.

Ông Bảy theo Đức Thầy qua nhà Đức Ông. Đức Thầy lấy viết, viết ra bài thơ bát cú dưới đây:

Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận
Đạt Đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.
Nga-Du thế-giới hoàn sanh-chúng,
Quí tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
Châu Di phục thỉ an bá tánh,
Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
Viễn Cận chư châu qui nhứt thống,
An cư lạc nghiệp phước vô biên.

Sau khi nghe Đức Thầy đọc bài thơ nầy, ông Bảy vừa sửng sốt vừa thán phục, bởi vì Đức Phật-Thầy Tây-An có dặn kín nội tổ ông Bảy là ông Thắng rằng sau nầy nếu có ai viết lại được bài thơ khoán thủ cách cú: Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận (viết ra chữ Hán thì tất cả 8 chữ nầy đều thuộc bộ xước) thì là Ngài trở lại.

Đức Thầy lại còn viết thêm bài ”Bát nhẫn” mà Đức Phật-Thầy Tây-An đã dán ở đầu giường và nội tổ ông Bảy chép lại trong khi vào phòng Phật Thầy để quét dọn.

Bài thơ ”Bát Nhẫn” ấy như vầy:

Bát Nhẫn (1)

Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên.
Nhẫn giã hương lân hòa ý hỷ,
Nhẫn thành phu phụ thuận phì duyên.
Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,                                                                                                                              Nhẫn đức bình an tiêu vạn sư,
Nhẫn thành phú quí vĩnh miên miên.
—————–

(I). Trong quyển « GIÁC MÊ TÂM KỆ », Đức Thầy cũng có giảng giải về Bát Nhẫn.

—————–

Sáng lại, ông Bảy thức sớm, và lời mà ông nói trước nhứt với ông Út là câu nầy: ”Phải rồi! Không còn ai khác nữa! Không còn nghi ngờ nữa được! Từ đây sẽ qui nhứt thống“.

Nói về đoạn Đức Thầy thuyết pháp giảng đạo mà không nói đến việc Ngài hay dùng cách nói láy và đồng âm dị tự tức là còn sơ-sót vậy. Nếu cụ Trạng Trình ngày xưa có dùng cách nói láy trong lời tiên tri của cụ (1) thì ngày nay Đức Thầy cũng ưa dùng cách nầy trong những câu chuyện hay trong sấm giảng của Ngài.
—————–

(1). Ví dụ: Tiên-tri rằng cha con thằng Khả ngày sau sẽ làm ngã mộ bia của Ngài, cụ Trạng có viết sẵn phía sau tấm bia câu nầy: Cha con thằng Khả làm ngã bia tao; làng bắt đền tam quán. Chừng bia ngã, hàng chữ lộ ra, người ta mới biết là Cụ Trạng đã tiên tri việc nầy. Suy ra họ biết Cụ Trạng nói láy và dặn bắt đền một quan tám.

—————–

Với cách nói láy trên đây, Đức Thầy đã dùng chữ: thầy tăng, tối thiểu và nhứt là câu ”Tôi là thầy tu” để nói chuyện với viên Tham-biện, Chánh Chủ-tỉnh Cần Thơ (tất nhiên là người Pháp) năm 1940.

Về sự dùng đồng âm dị tự, chúng tôi xin kể sau đây vài giai thoại.

2. Lúc Đức Thầy ở Sài-Gòn, gần sở Hiến-Binh Nhựt, có vài tín đồ ỷ lại nơi sư che chở của quân Phù-tang nên dường như không dè dặt trong mọi hành động. Đức Thầy nói: ”Hễ ỷ thì ướt” (ỷ lại thì mang tai).

3. Ra kệ giảng. Đã thuyết pháp, chữa bịnh, Đức Thầy còn lại còn viết ra nhiều cuốn sấm giảng. Những tác phẩm ấy, phần nhiều thuộc loại văn vần. Ngài viết một mạch không cần suy nghĩ và khỏi dùng giấy nháp. Ta có thể nói rằng Ngài viết mau lẹ và dễ dàng hơn ông Alcyone Krisnhamurti viết cuốn ”Aux Pieds du Maitre” (1).

Dưới đây, xin kể sơ những tác phẩm của Đức-Huỳnh Giáo-Chủ:

1. Cuốn thứ nhứt nhan đề «Sấm-giảng khuyên người đời tu niệm» viết theo điệu thượng lục hạ bát hồi tháng 9 năm Kỹ-Mão (1939) tại Hòa-Hảo và gồm 910 câu, khởi đầu bằng câu:

”Hạ-ngươn nay đã hết đời“.

Trong quyển nầy, Đức Thầy đánh thức bá tánh vạn dân bằng cách tiên tri những cảnh lầm than khốn khổ mà nhân loại phải trải qua trong thời kỳ can qua binh lửa. Ta hãy đọc mấy câu sau đây thì rõ:

Thấy đời ly-loạn bất an,
Khắp trong các nước nhộn-nhàng đao binh.
Ngồi buồn nói chuyện bông-lông,
Khắp trong trần-hạ máu hồng nhuộm rơi.
Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.
Mèo kêu bá-tánh lao-xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần-hạ nhiều bề gian-lao.

Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
Đời còn chẳng có mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia.
—————–

(1). Ông A.Krisnhamurti mỗi đêm phải xuất vía đến cho Thầy (một vị chơn Tiên) dạy một đoạn. Sáng ra ông chép lại những lời dạy ấy. Nhiều lần như vậy mới rồi quyển sách nói trên.

—————–

Dưới đây, xin kể vài người (trong số nhiều người) đã chứng minh những sự hóa hiện nói trong quyển sấm giảng trên đây:

1. Ông Cựu Hương-chánh Cao-văn-Viết ở thôn Bình-Thạnh-Đông (Châu-Đốc) nhìn nhận có thấy người cùi gây lộn bằng tiếng Tây tại Châu-Đốc y như câu ”Giả ra gây lộn nói tiếng tây!” trong quyển thứ nhứt.

2. Anh Tôi ở Hòa-Hảo bơi xuồng theo không kịp một ông già chèo ghe khẳm mà đi nước ngược. Ông già nầy có kêu anh mà nói: ”Mầy ăn thịt trâu nhiều quá, chèo theo tao sao nổi!” Xem lại quyển thứ nhứt, ta thấy những câu:

Ghe điên vốn thiệt ghe be,
Mà lại Điên nhè nước ngược thẳng xông.
Ra oai thuyền chạy như dông,

3. Cô Lê-thị-Cứng tức tư Cứng ở gần nhà Đức Thầy, có mất một cây lãnh và rất nhiều quần áo. Cô khóc lóc buồn rầu. Khi đó có một chiếc ghe (trong có bốn người) ghé lại nhà cô để coi bói. Một trong bốn người nầy (tức là ông thầy bói) sau khi xem xong bèn nói với cô: ”Của đã mất thì thôi, cô không nên buồn rầu; vụ trộm nầy do bà con của cô điềm chỉ. Cô rán làm rồi sau sẽ khá bằng hai” (1).


—————–

I. Quả thật: hiện giờ cô tư Cứng khá lắm vì nhờ mua bán vải tại chợ Mỹ-Lương (Hòa-Hảo).

Ở làng Hòa-Hảo, ai cũng biết rằng mấy câu dưới đây (trong quyển nhứt) nói về trường-hợp của cô tư Cứng:

Có người ở xóm bằng nay
Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn.
Du-thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đang hờn phận-duyên.
Điên nghe vội-vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ nguồn cơn,
Xin cô đừng giận đừng hờn làm chi.

Sau lại, Đức Thầy sai bào đệ của Ngài là cậu út Huỳnh-Thạnh-Mậu đem trao cho cô tư Cứng hai bài thi tứ cú dưới đây Ngài dặn nói rằng là của Ông thầy coi bói hôm nọ cậy đưa cho cô:

Kích động thiện tâm lụy xót-xa,
Thoàn loan trở gót dụng tiên khoa.
Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn,

Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra.
Thương đó lòng đây rất thiết-tha,
Thiên định số căn mới xảy ra
Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét,
Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra

4. Ông Tài-công Hợi ở Hòa-Hảo cũng nhìn nhận có hai người lạ mặt lại nhà ông, một người thì giã gạo, một người thì bán thuốc Sơn-đông. Ông bán thuốc Sơn-đông mời, cô tư Cơ mua một ve thuốc bổ trị phong và dặn nên pha với nước nóng chớ đừng pha với rượu vì nó kỵ thai. Khi đó có anh Huỳnh-văn-Gọn (sau nầy là Đại-Đội Gọn) và một người bạn của anh là anh Khâm lại coi, bảo cô nầy đừng mua vì anh nói thuốc Sơn-đông đi bán dạo mà hay-ho gì. Lúc đó, thân-phụ của anh Gọn là ông út Huỳnh-văn-Quốc lại rầy anh (1). Người bán thuốc Sơn-đông có nhổ răng cho một người ở xóm đúng như những câu nầy:

Rồi đi dạo xóm một khi,
Đi lên nhà thì giã gạo mà chơi.
Hai thằng ở xóm bằng nay.
Nó nói ngày rày thuốc chẳng có hay,
Người cha đi lại thấy rầy,
Thiệt mấy đứa nầy cãi-cọ làm chi
. . . . . . . .

Xóm nầy kẽ ghét người ưa.
Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.
—————–

(1). Theo lời ông Út thuật lại thì sáng hôm ấy, đức Thầy có dặn ông coi chừng phần xác Đức Thầy. Sau khi căn dặn, Đức Thầy nằm dài trên một cái ghế bố (đầu day vô nhà, chơn đuổi thẳng ra ngoài đường lộ) từ sớm mai đến lối 11 giờ sáng. Lúc đó Đức Thầy nằm im lặng, ngực chỉ thoi thóp với những hơi thở yếu ớt và đều đều. Có một lần Đức Thầy mở mắt ra bảo ông Út đi hái một mớ bông trăm ổi rải chung quanh chỗ Đức Thầy nằm.

Trong khi ông Út làm phận sự ”coi chừng” nói trên, ông có lẻn bước ra ngoài đường tiểu tiện. Chính trong lúc đó là lúc ông gặp anh Gọn và anh Khâm trong vụ bán thuốc Sơn-đông và có rầy hai anh nầy.

—————–

Mình người tu niệm vậy mà
Nói chi lớn tiếng người mà khing khi!

Chính ông Hẳng cũng có quả-quyết rằng ông có cúng tiền đi non Bồng.

Mấy chuyện ấy quả thật ăn khớp với những câu dưới đây trong quyển thứ nhứt:

Có người xưng hiệu ông Quan;
Tên thiệt Vân-Tràng ở dưới Dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.

Nói chi lớn tiếng mà người khinh khi.
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non Bồng.

Điều nên để ý là:

Trong lúc mà Đức Thầy gọi là ”Đi dạo lục châu” thì Đức Ông mất chiếc ghe lường có mui. Đức ông cố tìm mãi mà không được. Đức Thầy cười và cho Đức ông bài thơ dưới đây:

Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu-sanh du lịch lục-châu giang.
Kim-Sơn thương mãi toàn lê-thứ,
Thức-tỉnh bá-gia giấc-mộng tràng.

—————–

I. Bởi vì ông thường xưng là phần xác của ông Quan-Vân-Trường.

—————–

2. Cuốn thứ nhì nhan đề ”Kệ dân của người Khùng” viết tại Hòa-Hảo theo điệu thất ngôn ngày 12 tháng 9 Kỷ-Mão (1939), và gồm 476 câu, khởi đầu bằng câu ”Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế“.

Cũng như trong quyển nhứt, ở đây Đức Thầy vừa tiên-tri những tai nàn sắp đến, vừa khuyên bá tánh lánh dữ làm lành:

Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn-cầu thiết-thiết tha-tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ ma-ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa…
Trung với hiếu ta nên trau-sửa,
Hiền với lương bổn-đạo rèn lòng.
Thường nguyện-cầu siêu-độ Tổ-tông,
Với bá-tánh vạn-dân vô sự.
Đời Nguơn-hạ nhiều người hung-dữ,
Nên xảy ra lắm sự tai-ương…

Ngoài ra, Đức Thầy không ngần ngại đánh đổ những sự mê tín dị đoan của những nhà sư chỉ dụng thinh âm sắc tướng và bồ đề chuổi hột để mê hoặc bá tánh thập phương. Dưới đây là vài lời thơ giản dị, lưu loát và đầy lương tri của Ngài:

Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ,
Mà xưa nay có mấy ai thành…
Làm hiền lành hơn tụng hơ-hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó-ré…
Nếu làm đám được về Cực-Lạc,
Thì giàu sang được trọn hai bề.
Ỷ tước-quyền làm ác ê-hề,
Khi bỏ xác nhiều tiền lo-lót…
Những giấy tiến vàng bạc cũng thôi.
Chớ có đốt tốn tiền vô lý…
Tu vô-vi chẳng cúng chè xôi.
Phật chẳng muốn chúng-sanh lo-lót.
Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng.
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?

Hơn thế nữa, Đức Thầy không quên những bực thượng trí thượng căn nên Ngài cũng giáo thuyết thêm những điều vừa cao siêu, vừa đầy chơn lý:

Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tìm kiếm ở nơi non núi…
Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu,
Phải tìm kiếm cái không mới có.

3.- Cuốn thứ ba nhan đề ”Sám Giảng” viết tại Hòa-Hảo hồi năm Kỷ-Mão (1939), dài 612 câu thượng lục hạ bát, khởi đầu bằng câu: ”Ngồi trên đảnh núi liên đài“.

Trong quyển nầy, Ngài dạy tu nhân dạo một cách hoàn bị.

Theo Ngài, thì chúng ta phải:

Tu cầu cha mẹ thảnh thơi.
Quốc-vương thủy thổ chiều mơi phản hồi.
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.

Ngài cũng khuyên trai thì giữ tam cang, ngũ thường; gái thì gìn tam tùng, tứ đức.

Đức Thầy lại cũng chỉ cách đối đãi với bà con nội ngoại, cô bác anh em, xóm giềng lân cận.

Trong lúc kêu gọi giáo viên, các sở các thầy hãy ”giúp đời đừng đợi trả ơn, miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng“, Ngài không quên nói đến những vị tây y sĩ:

Mấy anh thầy thuốc lang-sa,
Cũng là mổ mật người ta lấy tiền.
Khuyên trong anh chị đừng phiền,
Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân.

Về việc hiếu đạo khi cha mẹ lâm chung, Ngài dạy bỏ bớt cốc keng, trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì:

Bỏ bớt rình-rang một khi,
Nếu cha mẹ chết, làm y lời nầy.
Là lời truyền giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
Còn mình muốn đãi làng thôn,
Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.

Đức Thầy lại nhiệt-liệt bài xích-hạng người

Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo-quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.

Tại sao thế? Vì hạng người nầy chỉ biết chạy theo cái mới, để hào nhoáng bề ngoài rồi trở lại chê bai hạng người xưa mà họ cho là ngu tố, cũ kỹ:

Người xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ-bại u-mê hơn mình.

Nhưng mà, Ngài quả quyết:

Ông cha thuở trước ngu-si,
Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.

4. Cuốn thứ tư nhan đề ”Giác mê tâm kệ” viết tại Hòa-Hảo ngày 20 tháng 10 năm Kỷ-mão 1939, dài 900 câu viết theo điệu thất ngôn, mở đầu bằng câu ”Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện“.

Như trong ba cuốn đã kể trên, ở đây Đức Thầy cũng nói trước những tai họa hãi hùng mà chúng sanh sẽ phải trải qua trong đời Nguơn hạ:

Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.
Trừ tà-gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu núi xương tha-thiết.
Chừng lao-xao dân-chúng nước Tần
Thì Nam-quốc lương dân mới biết.

Đức Thầy lại giảng giải thế nào là tứ đổ tường, tứ khổ, ngũ uẩn, lục căn, lục trần, tứ-diệu-đề, bát-chánh-đạo và bát-nhẫn.

Còn gì biểu lộ lòng từ-bi hỷ-xả của Đức Thầy bằng những câu sau đây mà chúng ta có thể dùng làm châm ngôn?

Ai chưởi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán.
Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù-oán tiêu-tan mất hết.
Thương quá sức nên ta bịn-rịn,
Quyết độ đời cho đến chung thân.
Nếu thế-gian còn chốn mê-tân,
Thì ta chẳng yên vui Cực-Lạc.

Và, điều cần phải chú ý nhứt là trong quyển nầy Đức Thầy cũng không quên tuyên dương những lời cao siêu về Phật pháp:

Đẹp năm tên (1) được mới mừng cười,
Vô pháp-tường mới là thiệt tướng.
Địa ngục cũng tại tâm làm quấy,
Về thiên-đàng tâm ấy tạo ra.
Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,
Tiên hay Phật cũng là tại nó.
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp quá rành.
Lựa làm chi cao chữ học hành,
Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo
Nếu ai mà biết chữ tu-tri,
Tâm bình-tịnh được thì phát huệ.

____________________________

(1). Đức Thầy ám chỉ NGŨ-UẨN.

____________________________________

Trong quyển nầy, Đức Thầy nhắc sự tích Đức Phật Thích-Ca và luận-giải về tám sự khổ trong cõi Ta-bà, – pháp môn Tịnh độ – sự diệt ngũ trược, trừ thập ác và hành thập thiện.

Sau rốt, Ngài kêu gọi lòng hy sinh với sự thành thật của tăng-đồ nhà Phật và sự hưởng ứng của tín nữ thiện nam:

Nếu xuất gia thì phải hy-sinh,
Cả vật-chất tinh-thần lo Đạo.
Chớ giả-dối mà mang sắc áo,
Mượn bồ-đề chuổi hột lòe người.

6. Cuốn thứ sáu nhan đề ”Những điều sơ-lược cần biết của kẻ tu hiền“. Quyển nầy Đức Thầy viết hồi năm 1945, trong vòng tháng 5 dl, theo lối văn xuôi (tản văn). Tuy là văn xuôi nhưng lời văn lưu loát âm hưởng khéo dùng nên có lắm đoạn đọc lên như khúc nhạc khi bổng lúc trầm…

Trong quyển nầy, Đức Thầy minh giải về tứ ân, tam nghiệp, thập ác và bát chánh, Ngài lại chỉ cách thờ phượng, cúng lạy, cách hành sự lúc tang lễ, hoặc cách cư xử lúc có cuộc hôn nhơn, cách đối đãi với các tăng sư, chùa chiền, với các tôn giáo khác và nhân sinh. Ngài cũng khuyên tất cả mọi người: nên chăm cần học hỏi để mở mang trí tuệ, nên luyện tập thể dục, giữ phép vệ sinh để tạo cho mình một sức khỏe dồi dào ngõ hầu làm việc đạo nghĩa một cách đắc lực, nên làm những nghề lương thiện và trách những sự tráo đấu lường cân, đầu cơ buôn lậu…

7. Ngoài ra 6 quyển kể trên đây, Đức Thầy còn viết rất nhiều bài thi, bài văn mà chúng tôi đã gom góp để in thành quyền ”Sưu Tập Thi-Văn Giáo-Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ“. Quyển sách nầy dày hơn 350 trang và gồm từ những bài thi tứ cú, bát cú, ngũ ngôn, thất ngôn đến những bài trường thiên, điệu thượng lục hạ bát, lục bát gián thất – thất ngôn hay những bài văn lời lẽ hùng hồn cảm động, ý tứ bí ẩn sâu xa…

Sau khi nghiên cứu và phân tách tất cả các tác phẩm của Đức Thầy, chúng ta có thế kết luận như vầy:

Trước hết Ngài thức tỉnh người đời rằng tuồng đời sắp hạ và mách bảo vô số tai họa thảm khốc sẽ xảy ra. Ngài nói Phật pháp cho kẻ thượng căn và chữa bịnh cho người hạ trí đặng dẫn họ trở về chánh đạo, học Phật tu Nhân, giải thoát thân tâm và giải thoát cho non sông đất nước.

IV- Về việc Đức Thầy đi núi.

a. Đăng sơn kỳ nhứt. 
– Lần đầu tiên nầy Đức Thầy đi núi Tà-Lơn với Đức Ông để cho Đức Ông đảnh lễ chư vị Phật, Tiên và cảm thấy sự linh thiêng huyền diệu của chư sơn liệt vị, và cũng để cho Đức Ông hoàn toàn tin tưởng rằng: Đức Thầy là một bực siêu nhân chớ không phải thượng xác cỡi đồng như trước kia đã tưởng…

Núi Tà-Lơn (Bokor) nằm trên địa phận tỉnh Cần-Giọt (Kampot) thuộc xứ Cao-Miên, giáp giới Hà-Tiên. Từ trước đến giờ Đức Thầy chưa hề có dịp bước chơn đến vùng nầy. Thế mà khi còn ở tại nhà, Đức Thầy đã kể cho Đức Ông nghe cuộc hành trình phải từ đâu đến đâu. Đức Thầy cũng biết từ chặng nào tới chặng nào phải trả bao nhiêu tiền xe hơi hay xe ngựa.

Dọc đường, khi đến Sóc-Mẹt (Tuc-Méak) Đức Thầy có trị bịnh cho một đứa trẻ đau nặng. Cha mẹ nó là người Miên và không biết nói tiếng Việt. Đức Thầy bèn nói chuyện bằng tiếng Miên với họ (1) rồi trị bịnh đứa trẻ ấy bằng cách mà Ngài đã dùng lúc ở nhà.

——————-

(1). Chẳng những Đức Thầy biết nói tiếng Miên, – một thứ tiếng Ngài chưa học – mà Ngài còn biết nói tiếng Tàu, tiếng Pháp, tiếng Nhựt v.v… mặc dù không có học các thứ tiếng ấy. Ngài lại còn đọc kinh bằng 18 thứ tiếng khác cho Đức Ông và ông Út đếm.

——————-

Đêm đến, Đức Ông nhớ lại rằng ở trên núi to thường có cọp mà người ta kêu là ”sơn thần” hay ”ông hổ“. Một chập sau, hai ”Thần hổ” to tướng lại nhìn Đức Ông với hai cặp mắt sáng ngời, Đức Thầy nói: “Thôi, hãy đi đi, đừng để ông cả sợ!” Cặp chúa sơn lâm bèn ríu ríu rút lui.

Lúc đi ngủ, Đức Ông lạnh run vì sương gió và khí lạnh của đá núi. Đức Thầy để hai bàn tay trên ngực Đức Ông, làm cho ấm áp như đắp mền. Nhờ vậy Đức Ông ngủ một giấc ngon lành cho tới sáng. Càng lạ hơn nữa là lúc thức dậy, Đức Ông thấy mình ở trên chỗ khác rất xa và đối diện với chỗ mà Đức Ông nằm ngủ đêm rồi.

Trong cuộc đăng sơn nầy, có lúc Đức Ông được Đức Thầy dẫn lên những cảnh cao tột bực, mặt bằng phẳng, ít cây, có suối trong veo, có cát trắng phích, có tòng bá xinh tươi… thì, trái lại, cũng có rất nhiều khi đường đi hiểm trở, đầy dẫy gốc gai, có lúc phải bò, lắm phen phải mọp, khi lên vồ núi, lúc xuống triền non làm cho Đức Ông vô cùng mệt nhọc và mặc dù có tinh thần dũng cảm chớ cũng có lúc phải rởn ốc ghê mình..!

Sau khi qua cuộc thử lòng (thử đức tín), Đức Ông được nghe Đức Thầy giảng giải: “Ông đi kỳ nầy là để giải quả căn, cũng như các vị hòa thượng đã mấy chục năm công phu bái sám“.

Cuộc đăng sơn nầy đáng lẽ phải được 8 ngày như đã định, nhưng đến ngày thứ ba Đức Ông nguyện xuống non để kịp trở về Hòa-Hảo nơi mà Đức Ông còn một bà mẹ già cần phải phụng dưỡng. (Theo lời Đức Ông nói lại thì vì đi non còn thiếu 5 ngày nên khi về đến nhà Đức Ông bị đau bàn chơn trái 2 tháng mới lành),

Thế là Đức Thầy và Đức Ông xuống núi trở về Hòa-Hảo.

Khi về đến Tân-Châu, Đức Thầy nghỉ đêm tại nhà Ba sánh, nơi mà khi trước Ngài ở trọ đặng đi học.

Sáng ra, đức Ông trở về Hòa-Hảo, Đức Thầy còn ở lại, Ngài đi thẳng vô chùa cô Năm Hí, ở làng Long-Phú, cách đó hơn 1 cây số ngàn, ở về phía tả con lộ Tân-Châu – Châu-Đốc. Khi vô đến đó. Ngài có gặp một bà tuổi độ tứ tuần, ở vùng rạch Ông-Chưởng (Long-Xuyên) mà xác thân Ngài chưa biết lần nào.

Và đây là cuộc nói chuyện giữa Đức Thầy và bà ấy.

– Sao cô biết tôi đến đây mà chờ?

– Bạch Thầy, vì có chư Thần mách bảo.

– Ba tờ giấy bạch còn không?

– Bạch Thầy, vì có người nài nỉ quá nên đã cho hết hai, chỉ còn một.

– Đó là dấu tích của ”Người Xưa“. Khi về cô hãy xem lại. Chừng nào có lộ chữ vàng thì được!

Sau cuộc nói chuyện nầy, Đức Thầy đi qua làng Phú-Thuận (phía bên bãi), đến nhà cô Hai Đê (là chị của Ngài) để cứu bịnh mấy đứa con cô hai (vì Ngài đoán biết chúng nó đang đau). Ngài ở đó một đêm một ngày mới trở về Hoà-Hảo.

b. Đăng Sơn kỳ nhì. 
– Lần nầy, Đức Thầy đi với ông Ngô-ngọc-Chơn (tục gọi ông Đạo Năm) trong vòng tháng 7 năm Kỷ-Mão (1939).

Hai Thầy trò đi bộ qua vàm Cái-Đầm rồi xuống đò qua Năng-Gù đón xe đi xuống lộ tẽ Mặc-Cần-Dưng để sang xe khác đi Xà-Tón (Tri-tôn).

Sau khi đến chợ Xà-Tón, hai Thầy trò nhắm hướng núi Tô thẳng tiến, Đức Thầy và ông Chơn băng qua một cánh rừng rồi mới lên núi. Nhưng vì đường khó đi nên lại trở xuống kiếm đường mòn mà người đi núi nầy thường dùng. Gặp một người Miên (Thổ) Đức Thầy dùng tiếng Miên nói chuyện một người rồi mới khởi sự đi.

Hai thầy trò lần lượt lên Sân-Tiên, Điện Năm Căn, Mũi Hải (tại đây có một chiếc thuyền chìm thành đá cả thuyền lẫn chèo) rồi lên chót núi là nơi có Điện Kín.

Nghỉ tại đây một đêm, Đức Thầy và ông Chơn trở xuống để đi qua núi Cấm.

Sau khi đến Rầy Đét, (một đường lên núi Cấm) Đức Thầy băng rừng vượt núi, vẹt phá chông gai mãi đến bữa sau mới tới vồ Bò-Hong. Đức Thầy nghỉ đêm tại đây. Trong đêm ấy, nhơn thấy một ông Yết-ma (ở Vĩnh-Long) chữa bịnh cho bổn-đạo của ông Đức Thầy kêu ông bằng ” con ” và cho biết rằng ông hiện còn giữ vật báu của ” Người xưa “. Ông bèn xuất trình một tờ giấy bạch có bốn chữ son Bửu Sơn Kỳ Hương và lạy Đức Thầy hai lạy để tạ lỗi gặp bực ”Trên-Trước” mà không biết.

Đến 4 giờ khuya, Đức Thầy và ông Chơn đi về hướng Tây. Bữa sau, hai Thầy trò xuống núi (không đi Hà-Tiên như đã tính) về Châu-Đốc.

Khi đi ngang “Nhà Lớn” (của gia-quyến Lê-Công ở Châu-Đốc), Đức Thầy gặp một lũ trẻ thảy đáo lạc. Chẳng biết tại sao Ngài dừng chơn và ở xẩn vẩn ngoài đường rất lâu. Sau rốt Ngài chọi vào hàng rào “Nhà Lớn” hai đồng xu rồi mới chịu đi…

Rồi đó Đức Thầy trở vô trại lính mã tà kiếm Bếp Ngoan bảo đã đến thời kỳ rồi đừng giúp việc cho ngoại địch nữa, hãy lo việc rút lui và bỏ dứt việc phù phép ngải gồng.

Xong vụ nầy, Đức Thầy qua Tân-Châu đi xe hơi về Chợ-Vàm. Tới đây, Đức Thầy qua bên bãi (Phú-Thuận) một lần nữa. Nghỉ ở đó một đêm, sáng ra ông Chơn đi về Hòa-Hảo trước, Đức Thầy về sau, trưa mới tới nhà.

c. Đăng Sơn kỳ ba. 
– Lần nầy, Đức Thầy theo 5 tín đồ: Ông Phan-văn-Báo (tức Hai Báo người làng Phú-An, hiện ở chùa Hòa-Hảo), ông Võ-văn-Gia (tức Ba Gia), ông Võ-văn-Ban (tức Sáu Ban) và ông Ngô-ngọc-Chơn (tức Đạo Năm) ở Hòa Hảo.

Khởi hành tại Hòa-Hảo ngày 21 tháng 8 năm Kỷ-Mão, sáu Thầy trò đến viếng núi Két nội trong bữa ấy và nghỉ đêm tại đó.

Sáng lại, sáu Thầy trò trở xuống và đi tuốt vô Cấm-Sơn, lại đường Rầy-Đét lướt xông lên núi. Thấy năm người tùy tùng quá mệt nhọc trong lúc leo trèo, Đức Thầy nói: ”Phải rán đi đặng giải quả”.

Trải qua lắm cuộc mỏi gối chồn chơn, mồ hôi như tắm, đoàn lữ hành đến một vùng rộng hơn 100 công, có cây tòng, bá, và nhất là thiên tuế mọc đều đều, thỉnh thoảng lại có những hòn đá mặt bằng phẳng như cẩm đôn và bốn cây thiên tuế ở bốn góc. Ngoài ra, lại có rất nhiều cây le đọt bằng như đã hớt. Dừng trước cảnh thiên nhiên kỳ bí nầy, ai nấy đều có cảm tưởng rằng mình đang ở giữa một cái vườn kiểng của những đấng vô hình. Càng tin chắc hơn nữa là Đức Thầy dặn 5 vị tín đồ đi ra khỏi chỗ nầy mới được tiểu tiện.

Lần lượt, Đức Thầy đến chùa Phật-lớn, điện Đá-Dựng. Tại đây, ông Ba Gia có thấy tận mắt một chúa sơn lâm. Nghỉ đó một đêm, Đức Thầy trở xuống đường chùa ông Ba Đạo rồi qua thất Cao-Đài, điện Rau-Tần. Trong khi nghỉ đêm tại đây, Đức Thầy có trị bịnh tà cho một người mà ông Bảy Ngọc (một ông thầy phù thủy) đang chữa không hết. Đức Thầy bảo người bịnh cầu nguyện rồi uống một chung nước lã. Uống vừa xong, người bịnh rên vang dội. Đức Thầy bảo: ”Vậy thì mi hãy ra, đừng phá cái xác nầy nữa!“

Sáng lại Thầy trò trở xuống đi vô núi Tô, lên Điện Kín (1), trở ra Sân Tiên nghỉ đó một đêm. Tại đây, Đức Thầy mệt nên ở trần, ngồi trên một tảng đá có để một cái lư hương. Vài người đàn bà thấy vậy nói: ”Cũng thời đi núi mà có người đi rồi về mạnh giỏi, có người đi rồi về phải chết là vì vậy đó!” Đức Thầy kêu 5 ông tùy tùng vừa cười vừa nói: ”Họ rủa tôi đó đa!“.

Bữa sau, sáu thầy trò về Châu-Đốc để qua Tân-Châu trở về Hòa-Hảo.

d. Đăng Sơn kỳ thứ tư
 Lần ầy Đức Thầy đi núi Tà-Lơn và dẫn theo có một mình ông Ngô-thành-Bá tức Biện Đài ở Hòa-Hảo (2).

Khởi hành ngày mùng 6 tháng giêng năm Canh-Thìn (1940), hai Thầy trò được chở đưa bằng xe đạp đến vàm Cái-Đầm. Sau khi đò cập bến nhà máy Năng-Gù (thôn Bình-Mỹ) Thầy trò lên xe hơi đò đi Châu-Đốc, rồi sang xe khác đi tới Tịnh-Biên vào lúc ba giờ chiều.

——————-

(1). Theo lời ông Chơn và ông Hùm thì tại Điện-Kín có đường hầm đi suốt qua tới núi Cấm. Ông Chơn có đốt đèn cầy đi thử một đỗi rồi trở lại.

(2). Ông Ngô-Thành-Bá có tường thuật cuộc đi non nầy trong quyển ” Dõi gót theo Thầy “.

——————-

Sáng bữa sau, Thầy trò lên xe đò đi Cần-Giọt và tới đó lối 3 giờ chiều. Đức Thầy lại nghỉ trọ nhà một ông lão tuổi ngoài 70, đệ tử của ông Cử Đa và là em của ông Trần-bá-Lương tức là Hai Lương đã nói ở đoạn trước.

Đức Thầy có minh giải về sự khai mở trực giác cho ông chủ nhà và nhiều người lân cận đến nghe. Ngài cũng có đọc thuộc lòng rồi giải nghĩa cuốn thứ ba (Sấm giảng) để khuyến khích các vị ấy nên vững bước trên con đường đạo hạnh.

Nghỉ đây một đêm, sáng lại Đức Thầy từ giã ông lão để lên non.

Tới chơn núi hồi 8 giờ, hai Thầy trò xuống suối tắm rửa, thay đổi quần áo, mỗi người mặc một bộ đồ dà.

Tiến theo con đường “cam chại” (đường đi non) Thầy trò tới Trung-Tòa (hay là Long-Thuyền) lúc 1 giờ trưa, ghé vào một ngôi chùa nhỏ và tặng mấy nhà sư trong chùa 3 cuốn giảng của Đức Thầy (quyển thứ nhứt, thứ nhì và thứ ba) rồi từ giã ra đi.

Đến ngã tẻ, Đức Thầy bảo đi qua diện Cô Nhứt (gần hơn một phần ba đường lên điện Minh-Châu). Đường đi dốc ngược, gập ghềnh bước tới muốn sụt lui, nên 3 giờ chiều mới đến điện Cô-Nhứt. Lối 5 giờ chiều, Thầy trò đi ngang qua lộ lớn (bề ngang trên 4 thước) rồi đi lần tới điện Cao-Vân. Đêm đó đoàn lữ hành nghỉ trên một tảng đá cao khỏi đầu, rộng bằng 2 bộ ván ngựa, mặt bằng phẳng.

Sáng ngày mùng 9, Thầy trò đi lên ”Ruộng Năm dây“. Tại đây có đường mòn đi qua Bà-Ngự, nơi ông Cử đắc Đạo.

Rồi Thầy trò đi lần lên tới “Châu-Thiên“, một cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp nhờ tòng bá lộn chen không cao không thấp. Khi còn cách “Tứ Giao điện” lối 100 thước, mặt trời vừa chen lặn. Đức Thầy dừng chơn bảo đừng nói chuyện. Chẳng có một bóng người! Chỉ có chén bát, tương chao và những chiếc đũa nằm bừa bãi trên bàn.

Sẵn có nồi nước tại đó và vì đói quá, ông Đài hốt cơm khô đeo theo bỏ vào nồi đun lửa nấu. Theo lời ông Đài thì bữa cơm ấy ông ta ăn ngon nhứt trong đời mặc dù thực đơn chỉ gồm có một dĩa đọt khoai lang luộc.

Đêm ấy, Đức Thầy lên nóc điện thắp nhang đèn cầu nguyện, cúng lạy. Ngài nói với ông Đài: ”Thầy đây chỉ lạy Phật-Tổ thôi kỳ dư các bực khác Thầy được miễn“.

Sáng ngày mùng 10 tháng giêng, Đức Thầy bảo sửa soạn đặng trở về, vì Ngài biết ở nhà có việc lộn xộn (1).

Bận về, Đức Thầy có vào điện của quan Ngự-Sử cựu trào, đã vào đây tu đến đắc Đạo vì bất phục nhà nước Pháp vừa mới thôn tính Việt-Nam. Đức Thầy bảo ông Đài lên hương, đèn đảnh lễ. Ngài nói “tiếng trên” với quan Ngự-Sử.

Xong xuôi, Đức Thầy cầm một khúc cây đi trước dọn đường.

Trải mấy lúc xuống triền lên đỉnh, hai Thầy trò đến trước một cái miệng hang, dòm vô thấy tối đen, mùi hôi bám khó chịu. Ấy là hang cọp! Đức Thầy hỏi ông Đài.

– Mầy muốn coi cọp núi không? Đây mầy chun vào hang nầy sẽ gặp!

Nói xong, Đức Thầy đẩy ông Đài vô hang và nói: ”Mầy chun vô đi!“. Ông Đài thụt lại và bạch với Đức Thầy:

– “Úy, Thầy ôi! Coi kìa, đầy dẫy dấu chưn “ông thầy“. Trong hang tối nầy ”khềnh” con! Vô không được đâu!

– Sao mày nhát quá? Cọp kêu cọp, tượng kêu tượng“.

Ngồi nghỉ đây gần nửa giờ, Đức Thầy cứ bảo Ông Đài chun vô hang cọp mãi, nhưng ông ta cũng vẫn không dám. Rốt cuộc Đức Thầy nói:”Không chun vô thì thôi, ta hãy đi“.


——————-

(1). Khi về đến Cần-Giọt, mới hay tin ông Đạo Quốc làm giặc, chém người lấy máu tế cờ tại Tân-Châu nên bị Pháp bắn chết và bắt hàng ngàn người bị tình nghi là tín-đồ của Quốc.

——————-

Rồi đó, Thầy trò xuống triền, gặp nhiều cái suối (có cái thật lớn, một vài nơi rộng trót trăm thước tây) rồi đi ngược lên non vào một cái điện cảnh rất xinh. Tại đây, một lần nữa, Đức Thầy có nói “tiếng trên” với các bực siêu hình. Ngài cũng thường nói lớn những câu nầy: “Hỡi các chư vị Thánh, Thần! Hãy theo Thầy xuống núi cứu thế trợ dân! Hôm này Thầy đã lâm phàm rồi, sao các ông còn ở đây?”

Rời khỏi điện nầy, Thầy trò đi đến tối để rồi nghỉ đêm trên một tảng đá cao bằng phẳng.

Sáng ngày 11 tháng giêng, Thầy trò vẫn còn đi theo ngọn suối lớn hôm qua. Có một lần Đức Thầy đi trước ông Đài cả một công đất rồi đứng chờ ông ta đi tới. Khi ông Đài vừa đến gần Đức Thầy thì ông gặp một con cọp xuống uống nước gần chỗ Đức Thầy đứng. Trong lúc ông ta đang kinh tâm tán đởm thì Đức Thầy kêu ông mà nói: “Lại đây kiếm cọp, mùi nó bay khét quá!” Ông Đài nắm Đức Thầy và nói nho nhỏ:”Đi cho lẹ Thầy ôi! Tôi thấy rồi!”

– Thấy giống gì?

– Bạch Thầy, “ông thầy” xuống uống nước kia kìa!

– Mầy thật nhát quá! Lên non sợ cọp, xuống thế sợ Thổ!

Đi đến 10 giờ trưa, ông Đài mệt quá mắt hết thấy đường, ôm cứng vào một thân cây. Đức Thầy vuốt ngực ông ta và đọc chú bằng “tiếng trên”. Đức Thầy cho ông nhai nuốt một thứ lá cây có chất ngọt. Vài phút sau ông ta được khỏe lại như thường.

Có lần Đức Thầy lội ngang một cái suối sâu chừng một thước tây. Ông Đài đi sau thấy có cây ngã nằm ngang suối bèn đi trên thân cây ấy cho khỏi ướt mình, Đức Thầy nghiêm nghị bảo: ”Thầy đi đàng nào thì phải theo đàng nấy, cấm mầy không được đi như vậy nữa!”.

Cũng có lúc Đức Thầy tỏ ý muốn kêu cọp hoặc tượng đến đặng cỡi đi cho khỏe, nhưng lần nào ông Đài cũng trả lời không dám.

Sáng ngày 12 tháng giêng, hai Thầy trò phải băng ngang một trảng mây gai dài cả gang tay, tàu lớn như tàu cau. Xế qua, Thầy trò mới trổ ra lộ đá và về đến Cần-Giọt tới 6 giờ chiều.

Điều đáng để ý là kể từ ngày băng đường rừng trổ ra lộ thì hễ đi lối 100 thước là thấy vài nhánh cây bằng ngón tay cái chặt xéo, lá còn tươi xanh. Đức Thầy nói đó là những dấu hiệu của ” trên trước” dẫn đường.

Ba giờ chiều ngày 13 tháng giêng, đoàn lữ hành về đến Nhà-Bàng dùng cơm tại nhà ông Hương-giáo Tập.

Tối lại, một ông lão hỏi Đức Thầy: ”Bạch Thầy, mấy ông Đạo trên núi thường luyện phép để ngày sau phò vua giúp nước, còn Đức Thầy sao không dạy đệ tử luyện phép như bên Tiên-đạo?”

Đức Thầy ung-dung đáp lại:”Phép linh cũng như cá linh; nước vừa chớm hạ loài cá nầy đua nhau lên trước nên phải chịu chết sớm. Các ông đừng ham linh mà bỏ mình!”

Sáng ngày 14 tháng giêng, Đức Thầy đi núi Trà-Sư và chiều lại, Ngài đi núi Két, dẫn theo ông Đài và sáu, bảy người nữa. Đến “Sân Tiên”, Đức Thầy ngâm cho Hương-giáo Tập chép bốn bài thi dưới đây:

Non tiên gió mát toại lòng thay!
Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Cố tưởng ước mong về nhược thủy,
Ngặt vì không cánh lấy gì bay?

Dắt xác phàm-phu viếng non đoài,
Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.
Chư sơn Bảy Núi đồng qui tựu,
Thầy tớ kiểng Tiên rõ mặt mày.

Nhìn xem cây cỏ gió lung lay,
Sáng lại lui chơn trở gót hài.
Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay.

Lầu đài núi Cấm lộ nay mai,                                                                                                                       

Thức tỉnh chúng-sanh mới trổ tài.

Khuyến dụ dân tình minh đạo đức,
Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai.

V- Đức Thầy giã từ làng Hòa Hảo.

Đã đoán trước công chuyện sẽ xãy tới cho mình nên ngày mùng 1 tháng tư năm Canh-thìn (1940), Ngài viết bài ”Từ-giã bổn-đạo khắp nơi“, trong đó có câu:

”Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy!
Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,
Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa!”

Qua ngày mùng 10 tháng tư năm Canh-thìn, Đức Thầy lại viết bài ”Diệu-pháp quang-minh” để biểu dương tinh thần ưu dân vị quốc, khuyến khích kẻ trung lương, mạt sát quân phản nịnh.

”Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ,
Dám thiết kế hại tôi lương-đống“.

a. Đi Châu-đốc. Ngày 12 tháng tư năm Canh-thìn, vào lúc 7 giờ sáng, nhà đương cuộc Pháp đến Hòa-Hảo dời Đức Thầy qua Tòa-bố Châu-Đốc.

b. Xuống Sa-Đéc. Vài giờ sau, họ lập tức chở Ngài đi thẳng xuống Sa-Đéc, làm cho biết bao tín đồ phải đau thương bực tức, ngơ ngác xôn xao…

Khi đến Sa-Đéc, Đức Thầy được giao cho Chủ sở Mật-Thám Bazin lãnh trách nhiệm xét tra, dòm ngó. Thay vì bị khó dễ lôi thôi, Đức Thầy lại được Bazin phu nhơn (lúc đó viên cò Bazin đi vắng) đem dâng một dĩa xoài và nói với Đức Ông rằng: ”Tôi biết mấy ông đạo ở trên núi thường ưa ăn trái cây“. Sau lại Đức Thầy được viên cò Bazin cho đến ở tại nhà ông thông phán Đặng.

Chính tại đây là nơi Đức Thầy viết bài ”Rằm tháng tư năm Canh-thìn” hay là bài ”Sa-Đéc” để trấn tỉnh môn sinh, nhắc câu thi đức… chớ Ngài “… cũng chẳng lấy chi buồn bã; bởi sự thường của bậc siêu nhân” Ngài chỉ “… còn thương, thương trò lịu địu; chớ cũng mừng được dịp phổ thông” lý tưởng cao siêu của Ngài cho khắp nơi được biết.

c. Đến Cần-Thơ. Vì nhà cầm quyền ở Sa-Đéc cho hay rằng có lịnh cấm Đức Thầy truyền Đạo ở tỉnh nầy nên ngày 18 tháng tư năm Canh-thìn, anh em tín đồ thỉnh Ngài về lưu trú tại nhà ông Hương-bộ Võ-mậu-Thạnh ở rạch So-đũa (hay là kinh xáng Xà-No) thuộc làng Nhơn-Nghĩa (Cần-Thơ) (1)
—————–

(1). Chính chiếc xe Renault số CL 609 màu da của ông phán Hồ-viết-Long (Sa-Đéc) mới mua về đã được dùng để đưa Đức Thầy qua Cần-Thơ. Chiếc xe nầy sau lại cũng đã được dùng để đưa Đức Thầy từ Hà-Tiên về Châu-Đốc trong dịp Ngài đi Khuyến nông (1945) tại Hà-Tiên, Đức Thầy có nói: ”Chiếc xe nầy có duyên với tôi“.

Thế rồi mùa thu 1945, chiếc xe ấy bị V.M. trưng dụng. Khi quân Pháp lại Sa-Đéc V.M. lủi bỏ nó lại Cái-Tàu-Thượng. Lợi dụng sự ủng hộ của quân đội Pháp, ông Phạm-văn-Ngỡi đem nó về Sa đéc sửa sang. Rồi ông Ngỡi lại phải bỏ nó trong một dịp chạy trên đường Vĩnh Long Sa-Đéc vì bị V.M tấn công bất ngờ. Sau vụ nầy, Ban Trị Sự P.G.H.H. tỉnh Sa-Đéc lấy lại được chiếc xe đã mấy lần thay chủ và gởi về Đức Ông để dành cho Đức Thầy sử dụng.

Xem qua lịch sử chiếc xe Renault nầy anh em cũng thấy rõ lời Đức Thầy tiên tri rất đúng.

Tại Xà-No, Đức Thầy tiếp tục phát phù trị bịnh, hoằng pháp độ nhân. Thiên hạ xa gần tới lui nườm nượp. Chính tại đây Đức Thầy đã viết bài ”Nang thơ cẩm tú” (ngày 29-5 Canh-thìn). Tiên đoán rằng Ngài còn phải đi xa nữa nên ngày rằm tháng 6 năm Canh-thìn, Ngài viết bài ”Từ giã làng Nhơn-Nghĩa” để khuyên bổn đạo hãy:

“Gìn câu nguyện vái chớ lơi nghĩa Thầy.
Bớt lòng thương nhớ từ đây,
Chẳng còn bịn-rịn để thầy an tâm” .

Tại sao Ngài khuyên bổn đạo không nên bịn rịn? Là bởi vì Ngài đi đến đâu là ban rải nguồn ân đến đó:

Càng đem chơn-lý tuyệt vời phổ thông“

Vả lại Đức Thầy là một bậc vĩ nhân thánh triết, tự ví mình như:
”Cá to mà phải ở ao,
Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sông“

Quả thật như Ngài đã tiên đoán, nhà đương cuộc Pháp không muốn cho Ngài ở làng Nhơn-Nghĩa nữa vì số người qui ngưỡng Ngài gia tăng không thể tưởng tượng được. Ngài bèn gởi một

”Lá phép xin về tỉnh Bạc-Liêu,
Ngụ nơi gia-trạch Hội-đồng Điều”

d. Bị dời về nhà thương Chợ-Quán – Ngày 29 tháng 6 năm Canh-thìn, Ngài ra Cần-Thơ. Đến đây Ngài bị nhà cầm quyền giữ lại và gởi vô Nhà thương Cần-Thơ khám bệnh.

Để thử tài Ngài, viên Giám-Đốc Dưỡng-Đường Cần-Thơ (nếu chúng tôi nhớ không sai thì là Bác-sĩ Favot) bảo Ngài nói về đạo Lão (le Taoisme). Đức Thầy bèn giảng giải một cách lưu loát lối nửa giờ. Chẳng biết ông Thầy thuốc Chí (Y-sĩ ngạch Đông-Dương đang giúp việc tại đó) thông ngôn cách nào mà sau lại, khi gặp ông Đỗ-văn-Viễn (Thú y-sĩ ở Cần-Thơ, hiện nay ở Châu-Đốc), Đức Thầy nói: ”Ông Thầy thuốc Chí… thông ngôn không đúng ông à!“.

Thế là qua ngày mùng 4 tháng 7 năm Canh-thìn, Đức Thầy bị dời về Nhà thương Chợ-Quán (Chợ-Lớn) để khám nghiệm coi Ngài có mắc bịnh thần kinh hay không?

Tại đây, Đức Thầy thâu phục viên y sĩ có phận sự xem xét về bịnh tình (!) của Ngài. Viên y sĩ đó là ông Trần-văn-Tâm, lương y ngạch Đông-Dương hồi thời Pháp thuộc. Ông nầy kỉnh tin Đức Thầy vì Ngài đối đáp trôi chảy những câu hỏi nan giải về Phật học do ông đưa ra. Đức Thầy lại còn chỉ ông cho về nhà tìm bài ”Vô thường khổ não vô ngã” ở trong một quyển sách về Phật học của ông. Ông Tâm lại còn được Đức-Thầy cho thấy nhiều huyền diệu nhiệm mầu, nên không ngần ngại quy y thọ giáo.

Đức Thầy lại còn thâu phục được anh gác cửa nhà thương bằng cách chữa lành bịnh đau mắt của thân mẫu anh ta (chữa bằng một chai nước lã).

Nhờ vậy từ đây anh em tín đồ muốn vô nhà thương thăm Đức Thầy thường được sự dễ dãi. Nhiều người thuộc hạng trí thức và danh gia vọng tộc có dịp đến đây trước để biết Đức Thầy sau để quy y đầu Phật.

Trong thời gian ở đây, Đức Thầy có viết bài ”Thu đã cuối” (ngày 30-9 Canh-thìn), bài ”Trao lời cùng ông Táo” (ngày 3-12 Canh-thìn), bài ”Tự thán” (tháng chạp Canh-thìn) và rất nhiều bài khác nữa…

e. Lại được về Bạc-Liêu. Lúc còn ở Xà-No, Đức Thầy có xin về Bạc-Liêu. Lại nữa, vì khám nghiệm đã lâu mà không thấy Đức Thầy có gì gọi là mắc bịnh thần- kinh nên nhà chức trách Pháp bằng lòng cho Ngài về Bạc-Liêu.

Ngày 11 tháng 5 năm Tân-tị (1941), Ngài được đời ra ở 8 ngày tại sở Công-An Saigon (tục gọi là bót Catinat).

Qua ngày 19 tháng 5 năm Tân-tị (19-6-1941) Ngài mới được đi Bạc-Liêu.

Đến Bạc-Liêu, Đức Thầy được giao cho sở Cảnh sát tuần thành (Commissariat de Police). Chính bà Phùng-thị-Liên (tục gọi bà Cò-tàu Hảo) đã bàn tính với ông và bà Võ-văn-Giỏi (lúc đó là cựu Thơ-Ký Soái-Phủ Nam-Kỳ) để Đức Thầy được lưu cư tại nhà hai ông bà. Mỗi tuần Đức Thầy phải đến sở Cảnh-sát trình-diện vào ngày thứ hai (buổi sáng).

Ở đây, Ngài không được phép phát phù trị bịnh hoặc thuyết pháp độ nhân. Nhiều người đến ngóng trông ngoài cửa song sắt của ông Ký Giỏi nhưng phải thất vọng trở về vì sở Mật-Thám Chính trị (Police Spéciale) đang tò mò dòm ngó. Vì lẽ đó nên Đức Thầy tức cảnh có làm mấy bài thi dưới đây (14-7-41):

Gặp lúc truân-chuyên lắm buộc-ràng,
Cảm-tình bổn-đạo tiếng riêng than.
Tạm ngưng lý-lẽ trong cơn túng,
Xin chớ ưu-sầu cuộc dở-dang.

Nghĩ cuộc đời lương-tâm càng cố-gắng,
Lòng ta rối-rắm cuộc tằm-tơ.
Vì đâu nên nỗi hẫng-hờ,
Với người tha-thiết đợi chờ ngoài song?!

Những người đến viếng Đức Thầy nhưng vô nhà ông Ký Giỏi không được thì khi trở về tất phải đồn đãi tin nầy. Bọn lính kín lấy tin cho Pháp thấy vậy mới lơi sự dòm ngó. Nhờ vậy mà, sau lại, có nhiều người được đến vấn an, diện kiến và quy y.

Trong khi ở Bạc-Liêu, Đức Thầy có thâu phục nhiều tín đồ quan trọng như ông Dương-vĩnh-Phước (tức Cả Hốt), một tín đồ tu theo Đức Bổn  Sư ở núi Tượng (1), ông Võ-văn-Giỏi, một tín đồ chí thành chí chơn của Đức Thầy, – ông Chung-bá-Khánh, một đại điền chủ đã từng du học bên Pháp và sau nầy (1945) có đại diện cho khối P.G.H.H. để ký tên vào một tờ hiệu triệu với Nguyễn-văn-Tây, Thanh-Tra Chính-Trị Miền Tây Nam-Bộ (V.M) v.v…
—————–

(1). Trước khi gặp Đức Thầy, ông cả Hốt đã có một cái chùa (chỉ thờ trần đỏ) và đã  ”có phần thiêng liêng“. Ông có lên Xà-No với ông Hội đồng-Điều để thử Đức Thầy. Ông mặc một cái áo tây (paletot) và ngồi ở đàng sau anh em bổn đạo, nhưng Đức Thầy lại vỗ vai và nắm tay ông ra đàng trước mời ngồi với Ngài.

Trong lúc Đức Thầy ở Bạc-Liêu, ông Cả Hốt thỉnh thoảng có đến thăm Đức Thầy. Có lần ông dùng ”tiếng trên“, ”hình vẽ” hoặc ”chữ riêng” (giống chữ Hán, nhưng người thường đọc không đươc mà trao đổi tư tưởng với Đức Thầy.

—————–

Ông bạn Lê-minh-Tòng, một cách mạng gia chơn thành, làm nghề nhiếp ảnh tại Bạc-Liêu (biết coi tay, coi tướng và có cảm tình với P.G.H.H.) có đến chụp hình và coi tay Đức Thầy. Ông ta nói: ”Theo bàn tay của Đức Thầy thì Ngài phải là một nhà đại cách mạng hơn là một thầy tu!” Đức Thầy cười và đáp: ”Ông biết được chiếc xe hiệu gì, tốt hay xấu mà không biết người lái xe ấy là người thế nào!”

Ông Lê-minh-Tòng (bị đày Côn-đào năm 1943, được trở về xứ năm 1945, sau cuộc đảo chánh 9-3-45) có thú thật với chúng tôi trong một cuộc gặp gỡ hồi năm 1947 rằng: chính ông đã cảm hứng làm ra bức ảnh cở 9×12 (carte postale), chụp bản đồ Đông-Dương trên đó có ba cái hình tròn bằng đồng xu. Ấy là ba bức ảnh của Chiêu-Hòa Thiên hoàng (ở đầu trên, ngay thủ đô Hà-nội), Kỳ Ngoại-hầu Cường-Để (ở ngay kinh-đô Huế) và Đức Thầy (ở ngay thủ-đô Saigon). Vì có bức ảnh nầy nên ông Hiền-Sĩ trong số báo Phục-Hưng ngày 26-8-1916, đã lầm tưởng rằng Đức Thầy có mộng tranh bá đồ vương, mặc dầu từ trước ông Hiền Sĩ đã có lòng tín phục Ngài.

Chúng tôi tưởng cần phải nhắc lại chuyện nầy:

Trong lúc Đức Thầy ở Bạc-Liêu thì tại làng Thới-Thạnh (Cần-Thơ) có xảy ra vụ Lê-văn-Nguyên mê tín sát nhơn. Vụ nầy bị đưa ra Tòa Đại Hình Cần-Thơ. Vài tín đồ H H. vô tình liên can ít nhiều trong vụ nầy nên cũng bị bắt giam chờ ngày xét xử. Thân nhơn mấy người nầy có đến khẩn khoản cầu xin Đức Thầy cứu nạn. Đức Thầy bảo hãy kiếm Trạng-sư Thơi (mà Đức Thầy chưa hề biết danh và gặp mặt) để nhờ ông nầy biện hộ, Trạng-sư Thơi (ở Sàigòn) khi được người đến xin bào chữa giùm vụ nầy, cũng không có chút hy vọng nào gỡ rối được cho thân chủ. Nhưng may mắn làm sao! Vụ nầy lại được một quan Tòa ở Pháp mới qua và là bạn cũ của Trạng-sư Thơi xét xử. Trước khi xử, hai người có gặp nhau. Sau khi hàn huyên han hỏi, Trạng-sư Thơi có dịp nói sơ qua cho ông bạn của mình biết nội dung vụ mà ông ta lãnh cãi. Thế là, vì muốn tỏ cảm tình với người bạn cũ mới vừa gặp lại, quan Tòa nói trên cho mấy người thân chủ của Trạng-sư Thơi được trắng án.

g. Lại được dời về Sài Gòn. Lúc ấy, người Nhựt đã chú ý đến Đức Thầy là người có sau lưng một khối quảng đại quần chúng. Họ định dời Đức Thầy về Sài-Gòn để lợi dụng sự cộng tác của Ngài. Biết rõ ý định ấy, nhà cầm quyền Pháp tính dời Đức Thầy lên Lào, nhưng họ chưa kịp trở tay. Vài ngày trước khi họ thực hành ý định, viên đội Kimura trong Sở Hiến-Binh Nhựt (Kempetai) dùng xe hơi xuống Bạc-Liêu chở Đức Thầy về Sài-Gòn trong đêm mùng 2 tháng 9 năm Nhâm-ngọ (Octobre 1942).

Vì đi ban đêm và bởi lạ đường nên anh tài xế nhè đường Cà-Mau thẳng tiến. Khi đến Tắc-Vân, xe hư máy nên Kimura phải mượn chiếc xe của ông Lâm-Canh, Bang-trưởng Triều-Châu ở đó để trở lại Bạc-Liêu rồi về Sài-Gòn. Về đến Trung-Lương (Mỹ-Tho) y bị sở Công-An Pháp chận lại và điệu tất cả những người ở trong xe về Sài-Gòn. Hay tin nầy, Bộ Tham-Mưu Nhựt phản kháng kịch liệt. Thống Đốc Hoeffel giành bắt Đức Thầy nhưng Bộ Tham-Mưu Nhựt không cho, viện lẽ Đức Thầy có liên lạc với Chính-phủ Trùng-Khánh.

Sau một thời gian hai tháng ở lại Sở Hiến-Binh Nhựt (tại Phòng Thương-Mãi Saigon) Đức Thầy được về ở căn phố lầu số 168 đường Lefèvre (sau dời qua căn kế đó, số 150).

Lợi dụng sự có mặt của quân đội Phù-Tang trên đất nước Việt-Nam các nhóm quốc gia khởi sự hoạt động ráo riết.

Dưới sự điều khiển của ông Đinh-khắc-Thiệt, một cộng sự viên đắc lực của Nhựt, Việt-Nam Thanh-Niên Ái-Quốc Đoàn được thành lập. Đức Thầy có tặng viên Đoàn-trưởng một bài thi, mở đầu bằng câu:

”Vừa nghe nói Đoàn Thanh-Niên Ái-Quốc,
Lòng sĩ-tăng bỗng bật sự vui say!”.

Đức Thầy cũng có phái ông Hồ-nhựt-Tân đến tham dự các cuộc hội họp của Đoàn và giúp đỡ Đoàn về mặt tinh thần và tài chánh. Ngài cũng giúp nhóm Nichi-Nan Shokai của ông Trần-văn-Ân, Ngô-đình-Đẩu trong Ủy–Ban Trung–Ương Việt Nam Phục Quốc Hội ở đường Chaigneau.

Mặc dù Nhựt có công giải cứu Đức Thầy khỏi sự câu thúc của thực dân Pháp, Ngài cũng giữ một thái độ dè dặt với họ, không ỷ lại bôn chôn, mà vẫn âm thầm củng cố lực lượng để chờ khi sử dụng:

”Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại,
Của cọp rồng trên dải đất ta.
Một mai cọp đã lìa nhà,
Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng?”

Để tỏ tinh thần bất khuất của Ngài, Đức Thầy có đọc hai câu đối:

“Trương Tiên tá Hớn phi thần Hớn,
Quan Thánh cư Tào bất đế Tào.”

VI- Thành tích tranh đấu của Đức Thầy

a. Việt-Nam Độc-Lập Vận-Động Hội. Sau cuộc đảo chánh 9-3-45, ông Hồ-văn-Ngà và các đảng-phái đều vô cùng lạc quan.

Trong cuộc lễ quốc khánh tại Vườn Ông Thượng, họ tuyên bố nước nhà đã thống nhứt và độc lập, và lấy làm lạ sao Đức Thầy lại đưa ra bài Hiệu-Triệu của Việt-nam Độc-Lập Vận-Động Hội, kêu gọi đồng bào các giới đứng lên vận động cuộc độc lập? Đức Thầy cho các vị ấy biết rằng nước Việt Nam chúng ta chưa độc lập đâu! Cần phải ráo riết vận động mới được! Quả thật vậy: Hơn 24 năm chiến đấu gay go đã qua mà Nước Nhà vẫn còn trong vòng đau khổ.

Cũng sau cuộc đảo chánh nói trên, tình thế ở các tỉnh miền Tây Nam Việt có nhiều chỗ bất an vì sự thay đổi chánh quyền. Nhà binh Nhựt yêu cầu Đức Thầy đi trấn an dân chúng. Nhờ cơ hội ấy nên Ngài mới thăm viếng được các nơi theo bản hành trình dưới đây:

9-2 Ất-dậu (1945) : rời Saigon, ghé Mỹ-Tho, Cai-Lậy, Vĩnh-Long và đến Cần-Thơ ở đó ba hôm.

13-2 Ất-dậu: đến Long-Xuyên.

14-2 Ất-dậu: đi Châu-Đốc.

Rằm tháng 2 Ất dậu: Về Hòa-Hảo thăm Đức Ông và Đức Bà.

16-2 Ất dậu: đi Long Xuyên ở đó hai ngày.

19-2 Ất dậu: về Saigon (có ghé Sa đéc).

Trong kỳ Đức Thầy đi về miền Hậu giang nầy Ngài được toàn thể anh em tín đồ hoan nghinh nhiệt liệt. Người Nhựt vì muốn nắm trọn Việt Nam hay ít nữa là Nam Việt, và vì sợ lực lượng quần chúng của Đức Thầy, nên họ yêu cầu Ngài chỉ giữ vị trí tôn giáo và đừng làm chính trị. Chương trình Việt Nam Độc-Lập Vận Động Hội vì thế mà chưa thực hiện được.

b. Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội. Đức Thầy liền kêu gọi “các tông phái Đạo Phật, các nhà sư, các tín đồ, các nhà trí thức có xu hướng về Phật đạo để:

1. Tìm cách nâng cao tinh thần đạo Phật;
2. Tìm những phương tiện cứu giúp kẻ nguy nàn vì thời cuộc gây ra;
3. Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang tế,
4. Binh vực lấy nhau trong sự tín ngưỡng tự do.”

Nhưng vì các nhà sư thiếu tinh thần đoàn kết chân thành nên Hội Việt-Nam Phật-Giáo Liên-Hiệp phải ngưng hoạt động.

c. Đức Thầy đi khuyến-nông. Vì thế-giới chiến tranh thứ hai làm cho hàng hóa ngoại bang đắt đỏ mà giá lúa lại quá rẻ nên nông gia thối chí nản lòng bỏ ruộng nương lo làm nghề khác. Tình-hình nông nghiệp rất là nguy khổn. Viễn ảnh của nạn đói (đã làm chết gần 2 triệu người ở Bắc-Việt) đang bao trùm non sông đất nước. Người Nhựt dư biết uy tín của Đức Thầy ở miền Tây Nam-Việt (vựa lúa của Việt-Nam) rất nhiều nên yêu cầu Đức Thầy đi khuyến nông.

Thừa cơ hội độc nhứt vô nhị nầy, Đức Thầy đi khắp miền Tây khuyến nông thuyết pháp, thâu nạp tín đồ và củng cố hàng ngũ để chờ cơ ứng dụng.

Trong vòng hai tháng, từ 10-6-1915 đến thượng tuần tháng 8 dl 1945, Đức Thầy diễn-thuyết 107 chỗ. Số thính giả có nơi đến 10 ngàn người. Chỗ ít lắm cũng là một hay hai ngàn người.

Không bút mực nào tả nỗi sự hân hoan vô hạn của anh em tín đồ khi gặp Đức Thầy sau hơn 2 năm xa cách. Nhiều khải hoàn môn làm ở giữa đường và nhiều bàn hương án được đặt hai bên lộ để tỏ lòng tín đồ kính mến Thầy, còn hơn cuộc tiếp rước quan Toàn-Quyền đi kinh lý. Hai bên đường, anh em tín đồ nam phụ lão ấu đứng chờ cả buổi cả ngày để gặp mặt Đức Thầy đáng yêu đáng kính.

Giờ đây, ta thử xem Đức Thầy diễn thuyết như thế nào?

Bước lên diễn đài (thường thường ở sân vận động, đình, chùa hay rạp hát) và sau khi chào thính giả, Đức Thầy khởi sự nhập đề. Với một giọng nói trong trẻo thanh tao, rõ ràng hấp dẫn, khi bi cảm lúc hùng hồn, Đức Thầy dùng lối văn tả chân để vẽ lại những cảnh chết đói rùng rợn ở Bắc-Việt làm cho phần đông thính giả mủi lòng rơi lụy. Đến lúc Ngài kêu gọi đồng bào lo khuếch trương nông vụ thì thính giả lần lượt trở nên hân hoan. Rồi đến khi Ngài khởi sự thuyết pháp Phật với những lời văn châu ngọc thường có ẩn ý hay ho và những triết lý huyên thâm thì thính giả lại vô cùng cảm kích, phát tâm tu hành, quy y Phật pháp. Số tín đồ, vì có cơ hội nầy, đã gia tăng gấp năm gấp bảy.

Có khi mỗi ngày Đức Thầy phải lên diễn đàn 5 hay 6 chỗ. Có lần Ngài nói ngót 2 giờ, cố nhiên là không có nghỉ trưa. Tuy vậy, người ta không thấy Đức Thầy có vẻ mệt nhọc. Đáng chú ý là Ngài nói không vấp, không ngưng và luôn luôn có mạch lạc, bố trí hẳn hòi. Ai có đi theo Đức Thầy trong kỳ khuyến nông nầy cũng đã thấy không có nơi nào mà Đức Thầy diễn giảng giống nơi nào. Tùy theo trình độ của toàn thể thính giả (auditoire), Ngài nói khi thì cao diệu văn hoa, khi thì thông thường giản dị.

Nếu chúng tôi nhớ không sai thì cuộc hành trình của Đức Thầy trong lúc khuyến nông đã diễn ra theo thứ tự lược kể dưới đây:

Khởi hành tại Sài-Gòn (nơi căn nhà số 38 đường Miche) ngày 10-6-45, Đức Thầy và ông Lương-trọng-Tường cùng vài đồ-đệ thân tín xuống Cần-Thơ rồi trải qua Cái-Răng, Sóc-Trăng, Bãi-Xào.

Sau khi khuyến nông thuyết pháp tại Sóc-Trăng và Bãi-Xào, Đức Thầy đến Bạc-Liêu ngày mùng 6 tháng 5 Ất -dậu (1945), ở nhà ông Võ-văn-Giỏi.

Chiều bữa sau, Đức Thầy khuyến nông và thuyết-pháp tại đình Tân-Hưng (Châu thành Bạc-Liêu). Thính giả đông nghẹt làm cho mấy người đi sau không thể vô nghe được. Tỉnh-trưởng Truyện, Thẩm án Nguyễn-văn-Đây, Dược-sư Dương-thành-Quới, Trưởng-tòa Le Mons, tu-sĩ Trần-hữu-Lân và nhiều nhà trí thức trong tỉnh lỵ có đến dự thính. Sau hai giờ chăm chú xem nghe, mọi người đều hoàn toàn thán phục tài hùng biện của Đức Thầy.

Bữa sau, Đức Thầy đi khuyến nông tại Vĩnh-Châu, chiều lại Ngài thuyết-pháp ở Sóc-Đồn (làng Hưng-Hội).

Ngày kế đó, Đức Thầy đi ghe vô chùa Linh-Quang-Tự của ông Chung-bá-Khánh dựng lên trong đồn điền của ông tại làng Vĩnh-Lợi.

Chính Đức Thầy đã đặt tên cho ngôi chùa nầy và có làm hai đôi liễn (theo lời yêu cầu của ông Khánh) như vầy:

a. Phật pháp khai thông khổ hải trùng trùng tâm bất khiếp,

Trần duyên bế tắc, liên đài điệp điệp đạo vô cùng,

b. Phập pháp hoằng khai, chuẩn tế thương sanh đăng giác ngạn.

Trần tâm tịnh tận, siêu thăng cực lạc tọa liên đài.

Chùa nầy ông Chung-bá-Khánh giao cho một ông Giáo-Thọ ở Châu-Đốc xuống trụ trì.

Khi Đức Thầy vừa đến thì trong chùa nổi trống sấm, gióng đại hồng chung, và gõ mõ tiếp nghinh trọng thể. Thấy vậy, Đức Thầy hỏi ông Giáo Thọ có biết chuyện tích về chuông mõ chăng? Thấy ông lúng túng, Đức Thầy liền tiếp: ”Thôi, để lát nữa Thầy sẽ nói cho mà nghe“. Thế rồi trong khi thuyết pháp, Đức Thầy có nhắc lại chuyện tích cái chuông, cái chày kình (có hình cá kình) và cái mõ có chạm hình con cá ngạc. Ở đây chúng tôi xin miễn thuật tích ấy để bớt sự dài dòng.

Nghỉ trưa tại đây, chiều lại Đức Thầy mới về nhà ông Ký Giỏi.

Trước khi rời khỏi Bạc-Liêu, Đức Thầy có đi Hòa-Bình (khuyến-nông tại nhà ông cả Hốt), Giá-Rai và Cà-Mau.
Trong thời gian còn ở Bạc-Liêu, Đức Thầy có lại nhà một vài tín đồ như: ông Lâm-ngọc-Vàng, bà Trần-văn-Minh, ông Đoàn-văn-Hoe, ông Trần-văn-Nhựt (Dật Sĩ), ông Trần-văn-Thắng. Ngài cũng có đến thăm vài nhân viên quan trọng trong Cao-Đài giáo như Y-sĩ Nguyễn-văn-Tiềng và ông Cao-triều-Phát.

Cũng trong dịp nầy, Đức Thầy có nói chuyện ”tam sách” cho vài nhân viên giúp việc trong Tòa-Bố và Tòa-Án Bạc-Liêu nghe. Đức Thầy luận thuyết đại khái như thế nầy:

Ở đời, làm chuyện gì cũng có tam sách là: thượng sách, trung sách và hạ sách. Người thượng trí thi dùng thượng sách, người trung trí dùng trung sách, người hạ trí thì dùng hạ sách.

Thượng sách là không phí công mà được chuyện, trung sách là có phí công mới được chuyện, hạ sách là phí đủ công đủ sức mà không được chuyện.

Nếu Pháp biết dùng thượng sách thì trong lúc Nhựt đóng quân trên đất Việt (thuở ấy chủ quyền của Pháp vẫn còn trên đất nước của ta) họ cứ tuyên bố cho V.N độc-lập. Một khi được độc lập, dân Việt sẽ cảm ơn và ca tụng nước Pháp có thái độ quân-tử. Chẳng những thế, hoàn cầu thế giới cũng sẽ ngợi khen Pháp biết trọng tinh thần tự do dân chủ. Đã vậy, quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp trong nước V.N sẽ được kính nể. Đó là không phí công mà được việc.

Nếu biết dùng trung sách thì Pháp đã cộng tác thành thật với Nhựt. Như thế, sau khi Nhựt đầu hàng, chủ quyền và binh lực của Pháp sẽ còn nguyên vẹn trên nước ta. Phong trào quốc gia sẽ khó bành trướng.

Đó là phải phí công mới được việc.

Nhưng Pháp lại áp dụng chánh sách thứ ba, nghĩa là trong lúc giả vờ cộng tác với Nhựt, họ âm thầm chuẩn bị để cùng phe De Gaulle thi hành chiến lược nội công ngoại kích hầu tiêu diệt lực lượng của Nhựt trên bán đảo Động-Dương. Mưu mô bại lộ, chánh quyền của Pháp bị lật đổ, quân đội Pháp bị giải giới và giam cầm. Đó là phí công mà không được việc.

Ngày 12 tháng 5 năm Ất-dậu, Đức Thầy từ giã Bạc-Liêu đi qua Vị-Thanh, Giồng-Riềng và đến Rạch-Giá ngày 16-5 năm Ất-dậu, ở tại nhà ông Nguyễn-công-Hầu. Bữa sau, Đức Thầy đi Kinh xáng Cái-Sắn. Ngày kế đó, Ngài đi Tân-Hội, ở nhà ông Doãn-thiện-Kế (tức Chín-Cây). Rồi Ngài trở về Rạch-Giá ở đó ngày 19 và 20. Bữa sau có ca nô đưa Đức Thầy đi Sốc-Xoài và Ba-Hòn.

Trong lúc ở Rạch-Giá, Ngài khuyến nông thuyết pháp tại rạp hát Hòa-Lạc. Sau khi Đức Thầy xuống diễn đài, một giáo viên hỏi Ngài: “Tại sao đi đâu ông cũng ở nhà những người giàu có chớ không thấy ở nhà kẻ nghèo nàn?” Đức Thầy ung dung đáp lại: ”Nhà giàu như cái gò, nhà nghèo như cái hố. Tôi ở nhà kẻ giàu cũng như để ban cái gò xuống cho cái hố nhờ vậy!”

Trong lúc ở Rạch-Giá, Đức Thầy có viếng đình làng Vĩnh-Thanh-Vân (tại tỉnh-lỵ) vì đình nầy có thờ quan Thượng-Đẳng Đại Thần Nguyễn-Trung-Trực và thủ cấp quan Phó Cơ Điều (Ông Phó Cơ bị tử nạn trong một trận đánh với quân Miên tại Trà-Niên, Rạch-Giá).

Cũng tại Rạch-Giá, Đức Thầy đã trả lời trôi chảy nhiều câu hỏi về tôn giáo, chánh trị và khoa học huyền bí do các bậc trí thức đưa ra, làm cho họ tấm tắc ngợi khen. Bác sĩ Trần-Lũy hỏi thêm: ” Ông có thể cho tôi biết quan niệm của ông về thuyết Darwinisme không?” (1)

Đức Thầy ung dung hỏi lại: ”Phải ông muốn hỏi tôi về vấn đề ông Darwin cho rằng thỉ tổ của loài người là con khỉ chăng? – Ồ! Tưởng chuyện gì, chớ chuyện đó cũ mèm và dễ hiểu quá. Nếu quả thật khỉ là thỉ tổ của loài người thì từ mấy chục ngàn năm nay nó đã thành người hết rồi, trong rừng sẽ không còn con khỉ nào. Còn như nói người là biến thân của khỉ cũng như con ếch là biến thân của con nòng nọc thì khi sinh ra, loài người phải có cái đuôi như khỉ, đến lớn lên cái đuôi đó rụng như đuôi nòng nọc mới phải chớ!“

Khi Đức Thầy nói đến đây, ai cũng cười xòa và khen phục Ngài là một bậc sáng suốt phi thường.

Từ giã Ba-Hòn (Rạch-Giá), Đức Thầy đi thẳng Hà-Tiên.

Ông phán Hồ-viết-Long và ông Thầy thuốc Đỗ-văn-Viễn (ở Châu-Đốc) đem xe vô Hà-Tiên rước Đức Thầy về Châu Đốc.
—————-

(1). Câu hỏi nầy khó trả lời vì tuy đã được nhiều nhà bác học thế giới nhiệt liệt bàn tán nhưng vẫn còn phân vân bất nhứt.

—————-

Trưa lại, Đức Thầy đi Bình-Di (Benghi) thuộc quận Châu-Phú thuợng bây giờ là quận An-Phú đến tối mới về tới Châu-Đốc.

Lúc Đức Thầy thuyết pháp tại Khánh-Bình ông Đạo Nổi (1) vì cảm phục quá bèn la lớn ”Hoan nghinh” Đức Thầy day qua phía ông ta và nói lớn tỏ ý rầy: ”Đạo Nổi!” mặc dầu Ngài chưa biết ông ta lần nào.

Cũng trong dịp nầy, vài ông sãi ở Khánh-An có nằm mộng thấy Phật về thôn họ. Nhưng khi Đức Thầy đến (nhằm lúc dùng cơm), mấy ông sãi vẫn cứ tiếp tục bữa cơm và không đứng lên thi lễ. Đức Thấy mỉm cười nói với ông Hồ-văn-Lang: ”Ngộ quá há! Người ta trông Phật, nhưng khi gặp, lại chẳng biết nhìn!”
—————-

(1). Ông ta có cái đặc tài ngồi xếp bằng dưới sông (chỗ sâu) mà không chìm.

—————-

Hôm sau, cuộc khuyến nông thuyết pháp cử hành tại chợ Cái-Dầu.

Biết ông phán Long có việc nhà (đám giỗ) tại Sa-Đéc, Đức Thầy bảo ông cứ đi về, và cho ông biết ngày Đức Thầy sẽ đến Long-Xuyên để ông đón Ngài tại đó.

Bữa sau, Đức Thầy qua Tân-Châu khuyến nông tại sân vận động rồi đi Hồng-Ngự khuyến thuyết tại nhà Hương-sư Sô (Chánh Hội-Trưởng Ban Trị-Sự quận Hồng-Ngự). Chiều lại, Đức Thầy về tới Hòa-Hảo (26-5 Ất-Dậu).

Đêm đó, anh em tín-đồ tựu lại quá đông, chen lấn bất kể hàng rào và kiểng vật của Đức Ông. Anh em ấy ngồi sắp hàng ngoài lộ, từ nhà Đức Ông lên tới chợ Mỹ-Lương (Cái Tắc). Đức Thầy phải ra đường đi lên đi xuống, ngó qua ngó lại cho anh em thấy mặt Ngài nhờ ánh sáng của chiếc đèn măng sông do một người cầm theo.

Sáng bữa sau (27-5 Ất-dậu), Đức Thầy lên diễn đài tại chợ Vàm (sân vận-động). Dọc đường Đức Thầy ghé nhà ông năm Hiệu, người làng Phú-An, có công đi theo Đức Thầy hồi Ngài ở căn phố đường Lefèbvre (Sài-Gòn) vì ông nầy vừa mới tắt thở hôm qua. Đức Thầy cầu nguyện cho ông Hiệu và đưa linh cửu đến phần mộ (1) rồi mới đi Chợ-Vàm.

Chiều ngày 27 Đức Thầy thuyết pháp khuyến nông tại đình Hòa-Hảo.

Ngày 30-5 Ất-dậu Đức Thầy đem lư hương từ Tổ-đình xuống chùa An-Hòa Tự (Hòa-Hảo).

Ngày mùng 1 tháng 6 Ất-dậu, Đức Thầy qua Năng-Gù. Ban Trị-Sự tỉnh Long-Xuyên đón Ngài tại đó và rước Ngài về Long-Xuyên. Tới tỉnh-lỵ nầy hồi 11 giờ trưa, Ngài lại ở trọ trong khách sạn của tỉnh thành.

Chiều bữa đó, Đức Thầy dùng cơm tại nhà một bà Bang-trưởng, tín-đồ P.G.H.H.

Ngày 2-6 Ất-dậu, Đức Thầy đi Vĩnh-Trạch và núi Sập.

Ngày 3-6 Ất-dậu, Đức Thầy đi Chợ-Mới, ngày 4-6 Ngài đi Mỹ-Luông, ngày 5-6 Ngài đi Đốc-Vàng (Tân Thạnh). Chiều lại, Ngài về Mỹ-hôi-Động. Sáng bữa sau, Đức Thầy thuyết pháp tại sân vận động thôn Mỹ-hội-Đông rồi về Long-Xuyên.
—————-

(1). Đức Thầy dạy khiêng cái bàn Phật (đã đặt ngoài trời để cầu nguyện) đi trước. Anh em tín-đồ cầm nhang chắp trước ngực niệm “Nam-mô tây-phương Cực-lạc thế-giới, tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp-dẫn vong-linh A-Di-Đà Phật”. Linh cửu đi chót hết.

—————-

Bữa sau, Đức Thầy thuyết-pháp tại Công-sở làng Mỹ-Phước (châu-thành Long-Xuyên), hiện giờ cũng là công sở.

Ngày kế đó, Đức Thầy đi Cái-Sắn.

Bữa sau, Ngài đi Thốt-Nốt rồi trở về Long-Xuyên. Rồi 11 giờ tối ngày ấy Đức Thầy đi luôn xuống Cần-Thơ.

Diễn-đài ở Cần-Thơ là sân vận động của tỉnh thành. Không cần phải nói, chư độc giả cũng dư biết rằng số thính giả ở Tây-đô phải nhiều hơn các chỗ.

Bữa sau, Đức Thầy đi Xà-No thăm gia quyến ông Hương-bộ Thạnh rồi thuyết pháp tại Cái-Tắc (nhà ông Hội-đồng Lý-khắc-Tính). Bữa sau nữa, Đức Thầy khuyến nông tại Phụng-Hiệp và Cái-Răng. Trong các ngày kế đó, Đức Thầy thuyết khuyến tại Trà-Mơn, Ô Môn, Cờ-Đỏ. Có điều kỳ lạ là trong khi Đức Thầy khuyến nông tại Phụng-Hiệp, trời chuyển mưa, mây đen kìn kịt rồi mưa tuôn xối xả ở tại chợ, cách đó chừng 100 thước. Nói tóm lại là chung quanh đều mưa to, duy có vùng Đức Thầy đang thuyết pháp không có mưa?

Sau Cần-Thơ là đến lượt Sa-Đéc, Cao–Lãnh Vĩnh-long, Tam–Bình, An-Trường, Trà–Vinh, Càn-Long, Bến-Tre tiếp rước Đức Thầy.

Chính tại Sa-Đéc, trong dịp đi khuyến nông nầy, Đức Thầy đã viết ra bài ”Phụ nữ ca diêu“.

Ngày 28-7-45, Đức Thầy đến Vĩnh-Long. Tại đây cũng như tại Sóc-Trăng, Cần-Thơ, Đức Thầy ở trong một khách-sạn. Các ông Hội-đồng Nguyễn-hữu-Lễ, Nguyễn-tiến-Hương và Thông-phán Nuôi túc trực ở đó với Đức Thầy.

Sáng bữa sau, Đức Thầy thuyết khuyến tại sân vận động tỉnh thành. Trưa lại, anh em Thanh-Niên Tiền-Phong và anh em tín đồ ở các thôn tụ họp lại để mong Đức Thầy thuyết nữa. Lúc đó, gương mặt Đức Thầy thật là khả ái. Toàn thể thính giả đều quì để nghe, trong lúc trời lâm râm rớt hột.

Tại Bến-Tre, cô Võ-phụng-Kiều pháp–danh Diệu-Minh (một tu sĩ đã từng tuyệt cốc, chỉ ăn ròng trái cây) có đến viếng Đức Thầy và được Ngài cho một bài thơ theo lời yêu cầu của cô.

Trên đường về Sài-Gòn, ngồi trong xe với Đức Thầy, có thi sĩ Việt-Châu mà Ngài vừa mới thâu phục tại Sa-Đéc. Dọc đường, ông Việt-Châu có trình Đức Thầy một tập thơ nhan đề ”Lông ngỗng gieo tình“, vẽ lại, bằng những lời thơ chải chuốt, du dương, cuộc tình duyên ngắn ngủi giữa Trọng-Thủy và Mỵ-Châu. Để phê bình tập thơ nầy, Đức Thầy ngâm:

Mỵ-Châu ơi hỡi Mỵ-Châu,
Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha?!

Rồi Đức Thầy bảo ông Việt-Châu thử làm thơ tả cảnh ngồi trong xe trên đường về Sài-Gòn. Thấy ông ta nặn óc mãi mà chẳng ra thơ, Đức Thầy liền ứng khẩu ngâm bài dưới đây:

Xe về chở theo chàng thi-sĩ,
Bảo làm thi mãi nghĩ không ra.
Vậy mà giữa chốn phồn-hoa,
Vang danh thi-sĩ hiệu là Việt-Châu.
Quen thói viết thơ sầu thơ cảm,
Không dìu dân hắc-ám qua truông.
Ngâm nga giọng quá u-buồn,
Làm cho độc-giả quay cuồng mê ly.
Theo dõi gót từ bi mấy bữa,
Phàm tâm kia đã rữa hay chăng?
Đương cơn sóng dậy đất bằng,
Thi-nhân đứng ngó để tăng-sĩ làm.
Tăng sĩ quyết chùa, am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông-pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền-môn trở gót Phật Đà nam-mô.
Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,
Bụi hồng-trần rứt sạch cửa không.
Chuông linh ngân tiếng đại-đồng.
Ta-bà thế-giới sắc-không một màu.
Sài-Gòn đến trống lầu đã trở.
Đề-huề nhau cửa mở xuống xe.
Khuyến nông chấm dứt mùa hè…

Nói về vấn đề khuyến nông mà không nói đến bài ”Khuyến nông” (1) của Đức Thầy đặt ra là một khuyết điểm vậy.

—————-

(1). Hai câu đầu của bài ”Khuyến nông” như vầy:

Hỡi đồng bào, Hỡi đồng bào.

Thần chết đã tràn vào Trung, Bắc.

—————-

Muốn cho dân được lòng bền,
Mua giùm canh-cụ là nền khuyếch-trương.
Kẻ phu-tá cũng là trọng-trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.
Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,
Chí hy-sinh dù thác cũng cam,
Miễn sao cho cánh đồng Nam,
Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà.

Điều mà chúng ta cần phải chú ý là Đức Thầy có nói với ông Lương-trọng-Tường (thuở ấy Chánh Thơ-Ký Ban Trị-Sự Trung-Ương P.G.H.H. thành lập trong vòng tháng 5 dl 1945) như vầy: Bây giờ tôi viết: ”Thần chết đã tràn vào Trung, Bắc” mà ngày sau người ta sẽ đọc ”Thằng chệt đã tràn vào Trung, Bắc” cho mà coi!

Quả thật, ít tháng sau, khi Nhựt đầu hàng Đồng Minh đạo binh của Lư-Hàn được lịnh chiếm đóng nước ta từ vĩ tuyến 16 trở lên để giải giới quân Nhựt. Chừng đó ông Tường mới hiểu ra là Đức Thầy tiên tri.

Khi đi khuyến nông về, Đức Thầy có cảm tác làm một bài thi mà dưới đây chúng tôi xin chép bốn câu đầu:

Lìa Sài-Gòn trong vòng hai tháng,

Khi lộn về tiệm quán tanh-banh.

Bởi chưng pháo-lũy phi-hành,
Quăng bom mù-quáng tan-tành còn chi.

đ. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt. – Sau khi về Sài-Gòn, Đức Thầy ra lịnh tổ chức trước nhứt những đội Bảo-An để giữ việc trị an trong làng, phòng ngừa trộm cướp, giải tán những cuộc ấu đả tìm bắt kẻ gian và các vụ cờ bạc, giữ gìn trật tự (hương thôn, bảo vệ mùa màng)

Thượng tuần tháng 8 năm 1945, bom nguyên tử nổ ở Quảng-Đảo, Trường-Kỳ. Rồi tin Nhựt-Bổn đầu hàng vô điều kiện đã bắn ra.

Các đảng phái quốc gia và các tổ chức chánh trị công khai hoạt động.

Đức Thầy đặt trụ sở Việt-Nam Độc Lập Vận-Động Hội tại căn nhà mới vừa dọn lại ở góc đường Sohier- Miche. Ngài gấp rút thành lập Đệ-tứ Sư đoàn Dân-quân (có Bác-sĩ Đào-tuấn-Kiệt coi việc quân y và tuyển lựa quân sĩ) để đối-phó với tình thế bất trắc.

Ngày 14-8-45, Mặt Trận Quốc-Gia Thống-Nhứt được thành lập tại Sài-Gòn với bốn khẩu hiệu:

Chống đế-quốc Pháp,
Chống họa thực-dân,
Bảo-vệ trị an,
Bài-trừ phản-động.

Mặt Trận nầy gồm có: Việt-Nam Quốc-Gia Độc-Lập Đảng (của các ông Hồ-văn-Ngà, Nguyễn văn Sâm, Trần văn Ân.v.v…), Thanh niên Tiền Phong, Nhóm Trí Thức, Liên Đoàn Công Chức, Tịnh Độ Cư Sĩ, Cao Đài Giáo, Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội. Về sau nhóm “Tranh Đấu” (Đệ tứ Quốc tế) cũng gia nhập.

Ngày 21-8-45, Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt có tổ chức một cuộc biểu tình khổng lồ: Trên 200 ngàn người biểu diễn gần khắp các nẻo đường ở Sài gòn. Sau đó, Mặt trận thường hội họp mỗi đêm tại đường Léon Combes, người ta đã bắt đầu nói đến hai tiếng Việt Minh, nhưng chưa ai biết đại biểu VM ở đâu để mời họ gia nhập Mặt trận. Đức Thầy mỉm cưới và nói một cách có ý nghĩa mà không ai để ý: “Thì VM cũng có đâu đây chớ gì!” té ra Đức Thầy ám chỉ Trần văn Giàu.

e. Mặt trận Việt Minh. Ngày 24-8-45 có thông cáo cho hay các Đảng phái trong Mặt trận Quốc gia Thống nhứt đã thỏa thuận gia nhập Mặt trận Việt minh.

…biểu tình độc lập ngày 2-9-45 và sau khi quần chúng xôn xao vì nghe tin bốn Sư đoàn dân quân bị VM giải tán theo lời yêu cầu của Đồng minh.

Việt minh ở Nam bộ trước nhứt là ai?”

Ngày 7-9-45, theo chỉ thị Trung ương, Cao hồng Lãnh và Hoàng quốc Việt triệu tập một Hội nghị để cải tổ Ủy ban Hành chánh Nam bộ, Đức Thầy được đề cử vào Ủy Ban nhân dân. Nhưng sau khi hội nghị giải tán, Trần văn Giàu cho cảnh sát bắt Đức Thầy lúc Ngài vừa bước xuống thang lầu. Ngài kháng cự nên họ không dám làm hổn. Trong số đại biểu các Đảng phái, có người lại can thiệp nên họ đành phải để cho Đức Thầy thong thả trở về.

Đức trước những hành vi mờ ám, độc tài thế ấy, và trong lúc nền Đôc lập của nước nhà bị đe dọa, toàn thể tín đồ PGHH có bổn phận áp dụng quyền Tự do của người công dân sống dưới chánh thể Dân chủ Cộng hoà để phản kháng trước dư luận quần chúng.

Vì thế, anh em tín đồ ở Cần thơ được lịnh tổ chức ngày 8-9-45 (mùng 3 tháng 8 năm Ất dậu) một cuộc biểu tình lớn lao để đưa ra ba khẩu hiệu:

– Võ trang quần chúng.

– Tẩy uế những phần tử thúi nát trong Ủy ban Hành chánh Nam bộ.

– Ủng hộ triệt để Chánh phủ Việt minh.

Ban tổ chức cuộc biểu tình nầy đã có xin phép trước với Ủy ban Hành chánh Cần thơ, thế mà, ngày nói trên đây, bọn độc tài không cho mấy vạn tín đồ HH đi biểu diễn.

Ba ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ của Đức Thầy), Nguyễn xuân Thiếp (tức Thi sĩ Việt Châu) và Trần ngọc Hoành (trưởng nam của ông Trần văn Soái, đương kim Tổng tư lịnh quân đội PGHH) điều đình mãi với họ mà cũng vô hiệu quả.

Anh em tín đồ nhẫn nhịn chờ đợi tới trưa, nhưng rốt cuộc họ đành tự giải tán ra về. Thình lình bên VM bắn xả vào đám quần chúng không võ trang, bắt ba ông Mậu, Thiếp, Hoành và cả vạn tín đồ ở Cần thơ và ở các tỉnh miền Tây Nam bộ giam cầm, đánh đập và phao vu đủ điều… Trong số những người bị VM giam cầm, có các ông Lâm thành Nguyên (một ông Đạo đã từng tuyệt cốc, ăn ròng bông, trái và hiện nay là phó Tư lịnh Quân đội PGHH), Chung bá Khánh, Đỗ hữu Thiều và nhiều nhân viên trọng yếu của Ban trị sự PGHH ở các tỉnh.

Sau lại, ngày mùng 2 tháng 9 năm Ất dậu (7-10-45) bọn độc tài hành quyết ba ông Mậu, Thiếp, Hoành tại sân vận động Cần thơ.

Rồi ngày 24 tháng 9 năm Ất dậu, họ giết các ông Chung bá Khánh, Đỗ hữu Thiều, Võ văn Thời, Nguyễn hữu Giáp….tại vàm Láng Thé (Trà Vinh).

Ở Sài Gòn đêm mùng 4 tháng 8 năm Ất dậu (9-9-45) bọn thuộc hạ của Trần văn Giàu bao vây Văn phòng Đức Thầy tại số 8 góc đường Sohier-Miche (1) và bắt giam nhiều nhân viên trọng yếu, chỉ có một mình Đức Thầy thoát thân dễ dàng, mặc dù trước khi bạo hành Trần văn Giàu có gọi điện thoại nói chuyện ngay với Đức Thầy và biết chắc rằng Ngài có mặt tại Văn phòng.

____________________________________

(1).
Đức Thầy dời Văn phòng về đây ngày rằm tháng 7 năm Ất dậu.

Bữa sau, Đức Thầy từ Gia Định đi Biên Hòa để ẩn lánh.

Ngài lại đi Long Khánh (Biên Hòa) với một tín đồ tại đây. Ngài ẩn thân trong một vườn trà Huế ở giữa rừng. Vì có việc lôi thôi cho mấy anh em theo hộ vệ Ngài nên Đức Thầy cùng họ phải di cư đến Cỏ May (Bà Rịa). Về sau, Ngài phải đi sâu trong rừng chà là. Thật là:

Từ ấy lao mình vượt khổn nguy,

Băng rừng lội suối giả man di.

Ngày mong ải Bắc, oan nầy giải,

Đem sức ra nâng lá quốc kỳ.

…bộ dời về chợ Đệm.

Việt gian phản quốc (?) trong hàng Nhân sĩ hay thường dân tản cư làm cho dân chúng phẩn uất chán nản.

Nam. Trong lúc đó, tướng Nguyễn hòa Hiệp, Trưởng Đệ tam Sư đoàn khởi xướng phong trào chống họa độc tài đỏ, giàn binh chận ngang trung tâm Cao Lãnh và Đồng Tháp Mười.

Ở miền Tây Nam bộ, có những cuộc xô xát lưu huyết xảy ra (giữa VM và HH) do sự phẩn uất của một nhóm võ sĩ mà Đức Thầy đã kết nạp vào hàng ngũ Bảo An đội.

Gần cuối năm Ất Dậu, tình hình ở Nam bộ trở nên vô cùng rối rắm. Bọn Trần văn Giàu đào tẩu ra Bắc bộ. Đức Thầy mới cùng anh em tín đồ ở Cần Giờ (đã đến lo liệu mọi việc ăn ở cho Ngài ờ rừng chà là) trở về Chợ Lớn vào thượng tuần tháng chạp năm Ất dậu.

Sau lễ Tết năm Bính tuất, nghĩa là trong vòng tháng 2 dl năm 1946, Đức Thầy có vài liên lạc gián tiếp với anh em tín đồ. Những cuộc xung đột dữ dội ở miền Tây ngừng dứt một cách rõ rệt nhờ những lời lẽ cảm động của Đức Thầy trong bài “Tiếng chuông cảnh tỉnh” mà chúng tôi xin chép dưới đây:

Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến-sĩ,

Mở lòng ra thương nghĩ sanh-linh.

Đồng-bào ai nỡ dứt tình,

Mà đem chém giết để mình an vui.

Dù lúc trước nếm mùi cay đắng,

Kẻ độc-tài đem tặng cho ta.

Sau nầy tòa-án nước nhà,

Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình.

Lúc bây giờ muôn binh xâm-lược,

Đang đạp vày non nước Việt-Nam.

Thù riêng muôn vạn cho cam,

Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công.

Khắp Bắc Nam Lạc-Hồng một giống,

Tha thứ nhau để sống cùng nhau.

Quí nhau từng giọt máu đào,

Để đem máu ấy tưới vào địch quân.

Đứng anh-hùng vang lừng bốn bể,

Các sắc dân đều nể đều vì.

Đồng-bào nỡ giết nhau chi,

Bạng duật tương trì lợi lũ ngư-ông.

Hỡi những kẻ có lòng yêu nước,

Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê.

Anh em lớn nhỏ quày về,

Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly.

Đả-đảo bọn Nam-kỳ nô-lệ,

Kiếp cúi lòn thế-hệ qua rồi.

Lời vàng kêu gọi khắp nơi,

Anh em chiến-sĩ nhớ lời ta khuyên.

(Viết vào lối tháng 2 tại Miền-Đông, năm 1946 để khuyên anh em tín đồ Hòa-Hảo chấm dứt
các cuộc xung đột với Việt-Minh).

Mặc dù khi trước bị bọn độc tài âm mưu hãm hại hay là phao vu đủ điều, nhưng Đức Thầy cũng không đành để cho nước non tan vỡ dưới gót giày của bọn xâm lăng:

Nếu mất, thôi đành xong mối nợ,

Nay còn há dễ ngó lơ sao?

Bởi vậy cho nên, một lần nữa, Ngài cũng “Quyết rứt cà sa khoác chiến bào”. Và mặc dù quân xâm lăng hùng cường thế mấy, Ngài cũng không hề thối chí nản lòng:

Dầu cho giặc mạnh há lòng nao,

Nam Việt ngàn xưa đúc khí hào.

Lúc giặc xâm lăng mưu thống trị,

Anh hùng đâu sá cảnh gian lao.

g. Mặt trận Quốc gia Liên hiệp. Thế là, từ đó Đức Thầy khởi sự gặp gỡ đại diện các đảng phái, các đoàn thể khác.

Ngày 2-4-46, tướng Huỳnh văn Trí tức Mười Trí (Bình Xuyên), Chỉ huy trưởng Chi đội 4 Vệ quốc đoàn triệu tập một hội nghị bất thường tại Bà Quẹo, có đại diện chính trị các nhóm và các vị chỉ huy quân sự tham dự. Ủy ban Liên hiệp Kháng chiến được thành lập và gồm có các ông Phạm Thiều, Nguyễn Bình, Phan định Công, Mai thọ Trân thay mặt cho VM cùng nhiều nhân vật khác trong giới quốc gia để phân chia công tác (thay thế Ủy ban Hành chánh và Kháng chiến Nam bộ).

Ngày 20-4-46, ông Vũ tam Anh, Trưởng Đệ nhị Sư đoàn, hiệp tác với tướng Huỳnh văn Trí, có triệu tập cũng tại Bà Quẹo, một Đại Hội nghị quân sự và chánh trị đầy đủ hơn, nghĩa là, ngoài những yếu nhân có mặt kỳ trước, lại còn có các tướng lãnh Bình Xuyên, tướng Nguyễn hòa Hiệp và một người mà toàn thể Hội nghị ước ao mong đợi, ấy là Đức Thầy!

Sau những cuộc thảo luận sôi nổi kéo dài ba ngày đêm, mọi người đều chấp thuận giải pháp liên hiệp các đoàn thể, không phân biệt màu sắc chánh trị, tôn giáo để huy động toàn lực chống xâm lăng.

Đức Thầy (dùng biệt danh Hoàng Anh) được bầu cử làm Chủ tịch cơ quan lấy tên là Mặt trận Quốc gia Liên hiệp. Ông Vũ tam Anh làm Phó chủ tịch, ông Lê trung Nghĩa làm Ủy viên Thông tin và Tuyên truyền. Các tướng lãnh Huỳnh văn Trí, Nguyễn Bình, Lê văn Viễn, Dương văn Hà, Lại hữu Tài, Bác vật Hồ ngọc Chiếu… được dự vào Ban chấp hành Trung Ương và thành lập Ủy ban Quân sự tối cao.

Mặt trận nầy quả thật là một Mặt trận kháng chiến, võ phòng đóng tại ấp Tám làng Vĩnh Lộc (miệt Bà Quẹo, 18 thôn vườn trầu) và có một tờ báo bí mật là tờ Tự Do.

Đức Thầy nhơn danh Chủ tịch của Mặt trận, lo củng cố lại các cơ quan quân chính đã tan rã sau cuộc đào vong của Trần văn Giàu và bè lũ của hắn.

Sau đó, Đức Thầy, ông Lê trung Nghĩa và giáo sư Phạm Thiều lãnh sứ mạng về Sài Gòn hoạt động, cộng tác, tăng gia lực lượng dân chúng kháng chiến, ủng hộ Mặt Trận.

Nhưng rồi nhiều người bị đối phương bắt, trong đó có Cha Luật, Cha Sang…Duy có Đức Thầy, ông Lê trung Nghĩa và một số nữ liên lạc thoát khỏi.

Thừa dịp nầy, Ung văn Khiêm và Nguyễn Bình tách khỏi Mặt trận Quốc gia Liên hiệp và đề nghị đổi M.T.Q.G.L.H. ra Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, nhưng đề nghị nầy bị đa số bát bỏ.

Nguyễn Bình liền lợi dụng chánh quyền ra lịnh giải tán Mặt Trận và khủng bố các đoàn thể có chơn trong ấy. Ở miền Tây Nam bộ, cuộc xung đột giữa HH và VM bắt đầu tái diễn. Ở Bắc bộ, các đảng phái Quốc gia bị VM (hiệp tác với quận đội Pháp) tấn công, phải kéo sang Tàu.

Đứng trước tình thế nguy ngập của nước nhà, Đức Thầy liền triệu tập Đại hội để quyết định thái độ của phái Quốc gia đối với sự phản bội của phe Cộng sản. Nhận thấy dã tâm ấy, các đoàn thể không tự cho phép mình dùng võ lực để đối phó (sợ e làm suy giảm lực lượng kháng chiến) nên tạm giải tán Mặt Trận (trung tuần tháng 7 năm 1946), nhưng không gia nhập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam.

h. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Đứng trước tình thế ấy, Đức Thầy thấy có bổn phận tiếp tục công tác với các cấp chỉ huy quốc gia như các ông Huỳnh văn Trí và Lê văn Viễn.

Ngày 21 tháng 9 năm 1946, Đức Thầy đã cùng các ông Nguyễn văn Sâm, Trần văn Ân, Nguyễn hoàn Bích, Lâm văn Tết… đề thành lập Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng ngõ hầu kết nạp những đoàn thể quốc gia lẻ tẻ khác.

Trong một cuộc hội nghị, giáo sư Phạm Thiều biệt hiệu Trường Phong (Ủy viên Tuyên truyền Ủy ban Hành chánh Nam bộ) có chỉ trích hành vi của tín đồ Hòa Hảo ở miền Hậu Giang. Đức Thầy trả lời: “Đứng về mặt tôn giáo, tôi lấy đức hiếu sinh của nhà Phật là tiêu chuẩn, song tôi đã ra làm chánh trị thì những sự xô xát thương tâm do bên Việt minh gây ra, tín đồ PGHH chỉ đứng về phương diện tự vệ mà thôi”.

Đáp lại lời Ông Phạm Thiều cho rằng Mặt trận Việt Minh là một Mặt trận dân chủ, đã thực hiện được một chánh phủ hoàn toàn dân chủ, Đức Thầy nói:” Tôi chỉ nhìn nhận những phần tử Việt Minh chân chánh, còn cái quái thai của Việt Minh vừa qua, tôi nhứt định không nhìn nhận”.

Đầu tháng 10 năm 1946, ông Phạm Thiều có làm 5 bài thơ tứ cú, đại ý xin Đức Thầy dẹp mối hiềm xưa để trở về tham chánh cứu nước cứu dân:

Chẳng áo cà sa chẳng chiến bào,

Về đây tham chánh mới là cao.

Non song còn đợi người minh triết,

Đừng để danh thơm chỉ Võ Hầu.

Đức Thầy có đáp họa, đại khái nói tâm Ngài đã từ bi thì đâu có vướng mối hiềm xưa, nhưng Ngài vẫn lọc lừa những đồng chí trong sạch! Và nếu quả có bậc tri âm tri kỷ thì ta hãy hiệp lực vậy.

Thế là, trung tuần tháng 10 dl. 1946, Đức Thầy đã nhận tham gia Ủy ban Hành chánh Nam bộ với nhiệm vụ Ủy viên Đặc biệt:

1.- Để tỏ cho quốc dân và chánh phủ VM thấy rằng Ngài chủ trương thống nhứt lãnh thổ và độc lập quốc gia.

2.- Để biểu dương tinh thần đoàn kết của dân tộc hầu mau đem lại thắng lợi cuối cùng;

3.- Để tỏ cho các Đảng phái thấy rằng Ngài không khi nào có những tham vọng cao sang, vương bá hay vì hiềm riêng mà hờ hững với phận sự cứu quốc.

Sau khi Đức Thầy tham chánh, đoàn thể Hòa Hảo bắt đầu tín nhiệm nơi sự hiệp tác với VM. Sự tham chánh nầy “cáo chung những tuyên truyền láo khoét phao vu từ trước tới giờ. Những sự tuyên truyền đó làm cho đoàn thể bị tủi nhục”.

Thấy Đức Thầy tham chánh, ông Hồn Quyên có xin Ngài cho biết lý tưởng chánh trị của Ngài có liên quan với Giáo lý nhà Phật chăng? (Báo Nam Kỳ ngày 29-11-46).

Đức Thầy trả lời như vầy:

“Theo sự nhận xét của tôi về giáo lý nhà Phật do nơi Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã khai sáng lấy Chủ nghĩa từ bi bác ái đại đồng đối với tất cả chúng sanh làm nòng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách mạng triệt để về tư tưởng; vì những câu “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình đẳng với chúng sanh”. Đã có những sự bình đẳng về thể tánh như thế mà chúng sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình độ giác ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn-gian nầy còn có chúng sanh tiền tuyến áp bức những chúng sanh lạc hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo lý chơn chánh ấy. Giáo lý đó, Đức Thích-Ca Mâu-Ni không áp dụng được một cách thiết thực trong đời của Ngài là do nơi hoàn cảnh xã hội Ấn-Độ xưa không thuận tiện. Thế nên Ngài chỉ phát dương cái tinh thần đó mà thôi. Ngày nay, trình độ tiến hoá của nhơn loại đã tới một mức khả quan, đồng thời với tiến bộ về khoa học thì ta có thể thực hành giáo lý ấy để thiệt hiện một xã hội công bằng và nhơn đạo. Thế nên với cái tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng-sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại.”

Trong tuần tháng giêng năm 1947, Đức Thầy ra lịnh cho ông Trần văn Soái di chuyển lên miền Đông một đạo binh để củng cố thực lực ở đó.

Về vấn đề quân sự, từ tháng 6 năm 1946, lực lượng Hòa Hảo đã được tổ chức thành 3 Bộ đội (1, 2, 3) lấy tên là Nghĩa quân Cách Mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn trung Trực. Sau ngày thành lập Đảng Dân Xã, lực lượng nầy trở thành Chi đội 30 Nguyễn trung Trực. Ban chỉ huy Bộ đội nầy gồm có các ông:
Nguyễn giác Ngộ, Chi đội Trưởng, Lâm thành Nguyên, Chi đội Phó, Trương kế Tự, Chánh trị viên. Sự chỉ huy Bộ đội lưu động số 2 miền Đông được Đức Thầy giao cho ông Trần văn Soái. Còn ông Lê quang Vinh tức Ba Cụt (Đương kim Chỉ huy Trưởng Bộ đội Nghĩa quân Cách Mạng) thì lúc ấy chỉ huy một phân đội trong Chi đội 030
(1).

Trong hạ tuần tháng 3 năm 1947, do lời mời của ông Lê trung Nghĩa, một phái đoàn gồm Đức Thầy, ông Huỳnh văn Trí, ông Lại hữu Tài (Đại diện phó Khu trưởng Lê văn Viễn) đến Tòa thánh Tây Ninh hội đàm cùng Hộ pháp Phạm công Tắc.

Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai vị Giáo chủ, Đức Thầy đã được các chánh giới Cao Đài kính yêu tín nhiệm nhờ tánh khiêm tốn, tài hùng biện và trí sáng suốt của Ngài.

i. Đức Thầy về miền Tây và thọ nạn. Nhưng rồi giữa Việt Minh và Hòa Hảo lại tái diễn nhiều cuộc xô xát ở miền Tây Nam bộ.

Ngày 17-2-47, Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt toàn quốc gọi tắt Mặt Trận toàn quốc ra đời (2) tại Nam Kinh (Trung Hoa) sau khi vài nhân viên trong Mặt Trận Quốc gia Liên hiệp liên lạc với các đoàn thể bên ngoài như:
Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Nguyễn hải Thần), Việt Nam Quốc dân Đảng (Nguyễn tường Tam).

(1). Chi đội 30 gồm có 3 Đại đội: Ông Trần tín Nghĩa chỉ huy Đ Đ.1, ông Ngô trung Hưng tức Lâm thế Xương chỉ huy ĐĐ.2, ông Lê hoài Nam chỉ huy ĐĐ.3, ông Lê phát Khuynh là Tham mưu của ĐĐ.3

(2). Mặt trận nầy gồm có:

Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội.

Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Viết Nam Dân chủ Xã hội Đảng.

Việt Nam Quốc gia Thanh niên Đoàn.

Cao Đài.

Đoàn thể dân chúng.

Liên đoàn Công chức.

Vì trong bưng bị địch quân đốt phá nên vào lúc 9 giờ tối ngày 23-3-47 (1-2 nhuần Đinh Hợi) Đức Thầy chuẩn bị cuộc di binh khởi hành tại Vàm Vè. Đến 6 giờ sáng bữa sau, đoàn binh đến thôn Thủy Đông (tục gọi vùng Hội Đông sáng tạo). Chiều bữa đó đoàn binh di chuyển đến thôn Thuận Nghĩa Hòa (chiến khu 8) vào lúc 9 giờ tối. Lúc đó Chi đội 4 và 25 của Bình Xuyên đóng tại Sông Soài và vịnh Sao. Đức Thầy ở gần Bộ đội lưu động số 2 đóng tại Cái Cỏ.

Ngày 5-4-47 (14-2 nhuần) vào lúc 2 giờ chiều, Đức Thầy đi từ giã anh em trong Chi đội 4 và 25. Đến 5 giờ chiều, Đức Thầy di hành về miền Tây. Vào lúc 1 giờ khuya đêm đó, Đức Thầy đến trạm gác của Chi đội 18 (VM). Nhờ dịp nầy, 3 chiếc ghe, trong đó có một chiếc của Bà Xã Được, được trả tự do sau khi bị bắt giữ mấy hôm. Đến 6 giờ sáng, đoàn binh đến “Gãy” (Kinh Gãy).

Vào lúc 8 giờ sáng ngày 6-4-47, Đức Thầy đến chợ Tháp Mười, 1 giờ trưa Ngài đến chợ Cái Bèo, 2 giờ chiều đến Ba Sao, 5 giờ chiều đến vàm Kinh Phong Mỹ, 3 giờ rưỡi khuya đến ngọn Ba Răng, Đức Thầy lên nhà nghỉ và sai liên lạc cho Chi đội 30 hay.

Thế là, để cứu vãn tình thế, Đức Thầy đã từ Chiến khu 7 (miền Đông) trở về Chiến khu 9 (miền Tây) vì ban hòa giải gồm có ông Hoàng Du Khương (VM), Linh mục Nguyễn bá Luật (Công giáo), ông Mai văn Dậu (HH) đã trở thành vô hiệu.

Đức Thầy đặt Văn phòng gần ngọn Rạch Ba Răng, thôn Phú Thành (Long Xuyên) tại nhà ông Bí thơ Ban chấp hành thôn nầy, nghĩa là kế cận Chi đội 30 Vệ quốc Đoàn Việt Nam do ông Nguyễn giác Ngộ chỉ huy
và Bộ đội lưu động số 2 do ông Trần văn Soái chỉ huy.

Cách mấy bữa sau, Đức Thầy có được Thư Mời dự hội nghị của Trần văn Nguyên, đặc phái viên kiêm Thanh tra Chánh trị miền Tây Nam bộ. Đức Thầy nhận lời. Thế là ngày 15-4-47 (24 tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi) lối 7 giờ sáng, Đức Thầy xuống ghe đi với 3 người chèo, 4 tự vệ quân, ông Đại đội Trưởng Đại đội 2, Chi đội 30 và ông Huỳnh hữu Thiện (Thơ ký Văn phòng Đức Thầy). Kể luôn Đức Thầy thì trong ghe có tất cả 10 người, võ trang 4 Mi-trây-dết, 3 súng lục.

Lối 8 giờ sáng, ghe tới chợ Ba Răng, Trần văn Nguyên xuống bến chợ đón rước Đức Thầy. Mười lăm phút sau, Đức Thầy đứng lên diễn thuyết tại chợ nầy. Trước một số thính giả khá đông, Ngài kêu gọi hai bên VM và Dân xã nên gát bỏ thù hiềm cá nhân để chung lo vận mạng của nước nhà. Trần văn Nguyên đứng lên nối lời Đức Thầy và cũng kêu gọi đoàn kết.

Bữa ấy, Đức Thầy dùng cơm trưa với Trần văn Nguyên trong một căn phố gần đó. Lối 12 giờ trưa, Trần văn Nguyên và một người Thơ ký xuống ghe đi chung với Đức Thầy đến Văn phòng Ủy ban Hành chánh tỉnh Long Xuyên đóng tại ngọn rạch Đốc Vàng Hạ (thôn Tân Phú).

Tại đây, Đức Thầy và Trần văn Nguyên có thảo ra nhiều tờ Hiệu triệu kêu gọi hai bên đừng xô xát nhau và bố cáo cho dân chúng biết rằng hiện giờ các vị chỉ huy cao cấp hai bên đang bắt tay nhau lo việc hòa giải.

Sau khi dùng cơm chiều tại đây xong, Đức Thầy xuống ghe lại nhà của một tín đồ ở gần đó chừng 300 thước để nghỉ.

Bữa sau, nghĩa là ngày 14-4-1947 (25 tháng Hai nhuần năm Đinh Hợi), lối 7 giờ sáng, Đức Thầy trở lại chỗ cũ hội đàm với Trần văn Nguyên và giàn xếp nhiều vụ xung đột. Ông Ngô trung Hưng Đại đội Trưởng Đại đội 2/30 và một nhân viên của Trần văn Nguyên được phái đi các thôn trong tỉnh Long Xuyên để hòa giải đôi bên.

Sau khi dùng cơm trưa tại đây xong, Đức Thầy xuống ghe nghỉ. Ông Huỳnh hữu Thiện vẫn còn ở trên Văn phòng với Trần văn Nguyên. Vào khoảng 12 giờ trưa, Đại đội 66 chi đội 22 do Bửu Vinh chỉ huy kéo binh kích xung quanh Văn phòng và trao cho ông Thiện một bức thơ gởi Đức Thầy yêu cầu Ngài cho yết kiến. Xem thơ xong, Đức Thầy bước lên Văn phòng (ở trọn trong vòng binh của Bửu Vinh), bốn tự vệ quân của Đức Thầy cầm súng đứng bốn góc Văn phòng.

Khi hầu chuyện với Đức Thầy, Bửu Vinh có một cử chỉ rõ rệt cừu thị. Mãi đến 3 giờ chiều, Bửu Vinh đưa ra một Bản phúc trình báo cáo rằng ở Lấp Vò, Vàm Cống (Long Xuyên) Dân Xã giết VM nhiều lắm nên y yêu cầu Đức Thầy đến tận nơi giàn xếp, Đức Thầy trả lời: “Để rồi tôi sẽ phái người đến đó!” Bửu Vinh nhứt quyết buộc Đức Thầy phải đi.

Đến đây cuộc bàn cãi trở nên sôi nổi, mạc dù biết mình đang ở trong vòng vây, Đức Thầy cũng không tỏ vẻ khiếp đảm. Trái lại, Ngài biện luận hùng hồn làm cho đối phương nhiều phen im lặng.

Sau rốt, Bửu Vinh cũng nhứt định yêu cầu Đức Thầy phải đi. Thấy thế, Đức Thầy ưng thuận đi nhưng với điều kiện là Bửu Vinh phải cùng đi với Đức Thầy. Bửu Vinh từ khước và trả lời:” Nếu một nhân viên cao cấp của chánh phủ đi với những người trong đoàn thể Hòa Hảo thì cần phải có một bộ đội Vệ quốc đoàn võ trang theo ủng hộ”.

Đức Thầy trả lời với một giọng đanh thép:”Nếu quý ông nói vậy, tại sao tôi có một ít người, không Bộ đội ủng hộ mà dám đi vào sào huyệt của mấy ông? Như thế thì quý ông không thành thật.”

Bửu Vinh trả lời không được nên chịu đi và mời Đức Thầy tới Văn phòng của y rồi sẽ đi luôn thể, Đức Thầy hứa chịu. Bửu Vinh rút binh ra đóng căn cứ phiá ngoài vàm.

Liền khi đó, Trần văn Nguyên trao cho Đức Thầy một mảnh giấy và nói rằng: ”Tôi vừa tiếp được tin điện (?) của Ủy ban Hành chánh Nam bộ gởi xuống mời ông và tôi lập tức trở về miền Đông dự phiên nhóm bất thường”.
Sau khi xem, Đức Thầy nói: ”Tôi không thể trở về miền Đông dự phiên nhóm nầy vì cần phải ở lại đây giải quyết cho ổn thoả những vụ xung đột”. Trần văn Nguyên cho biết y phải đi 6 giờ chiều ngày đó mới kịp thì giờ.

Trời sẫm tối, Trần văn Nguyên từ giã Đức Thầy, y lời hẹn, Đức Thầy xuống ghe ra Văn phòng Bửu Vinh, có một liên lạc của Ủy ban Hành chánh dẫn đường.

Trời tối như mực. Đi một đỗi xa xa, bỗng trên bờ có tiếng la: ”Ghe ai đó? Tại sao giờ nầy đã thiết quân luật mà còn dám đi?”.

– Đi ra Văn phòng ông Bửu Vinh, người liên lạc trả lời.

- Ghe ghé lại! một tiếng khác tiếp theo.

Đèn chóa rọi xuống ghe và có người ra lịnh trình giấy tờ. Ông Thiện lật đật chạy lên cho coi giấy. Thì ra người hỏi đó là Bửu Vinh. Y hỏi ông Thiện:” Ông Ủy viên Đặc biệt có dưới ghe không?

– Có!” Đức Thầy ở dưới ghe vội vã trả lời.

Bửu Vinh mời Đức Thầy lên Văn phòng, Ngài liền đi với bốn tự vệ quân.

Văn phòng nầy đặt trong một ngôi nhà ngói, Đức Thầy ngồi bàn giữa tiếp chuyện với Bửu Vinh, còn bốn tự vệ quân thì cầm súng đứng hai bên cửa, cách Đức Thầy một thước tây.


Mười phút sau, lối 7 giờ rưỡi tối, bọn VM ở ngoài đi vô 8 người chia ra cặp nách bốn tự vệ quân của Đức Thầy và đâm chết ba người, người thứ tư, anh Phan văn Tỷ tức Mười Tỷ nhờ võ giỏi và trí lanh nên thoát khỏi, chạy ra ngoài có bắn một loạt Mi-trây-dết. Lúc anh Mười Tỷ né khỏi mũi dao găm của một trong hai chiến sĩ VM cặp nách anh thì người chiến sĩ kia bị đồng chí của mình đâm trúng té quị. Vừa lúc đó thì Đức Thầy từ trước đến giờ vẫn bình tĩnh, lẹ làng thổi tắt cái đèn. Trong văn phòng tối thui, không ai biết Đức Thầy đi đâu cả..!

Tiếng súng nổ dữ dội… Ông Thiện nhảy xuống rạch tẩu thoát. Ba anh chèo ghe chạy trước về báo tin cho các tướng lãnh hay.

Tiếng tù và nổi dậy liên hồi, làm chấn động một góc trời Tây! Đoàn dân quân cương quyết đi báo thù. Nhưng vào lúc 12 giờ khuya, một người tín đồ PGHH ở gần chỗ xảy ra cuộc bạo hành, chạy ngựa mang đến Phú Thành một bức thơ chính của Đức Thầy trao tận tay ông ta.

Bức thơ ấy như vầy:

Ông Trần văn Soái và ông Nguyễn Giác Ngộ.


Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra tôi với ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra; trong mấy anh em phòng vệ không biết chếth ay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay là mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động.

Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ về sau.

Phải triệt để tuân lịnh.

Ngày 16-4-1947 9 giờ đêm.

(có ký tên)

Vì bởi có lịnh của Đức Thầy nên anh em sĩ binh Dân Xã cùng Ban chỉ huy các Bộ đội phải triệt để tuân hành. Thế là từ ngày 16-4-47 đến nay không ai biết Đức Thầy lưu trú hà phương.

Trong khoảng thời gian ấy, nhiều tin trái ngược đã được đưa ra. Đối phương thì nói Ngài đã bị VM làm hại, anh em tín đồ thì tin chắc rằng Ngài đã thoát thân một cách dễ dàng như kỳ trước (đêm 9-9-1945 tại Sài Gòn) và một ngày kia Ngài sẽ về, về để làm chấn động một góc trời Nam, về để cho thế giới hoàn cầu biết rằng ở nước Việt Nam nầy có một vị anh hùng vô địch mà cũng là một vị Giáo chủ vô song, về để thực hành câu “Khắp bốn biển liên dây Hòa Hảo”…

Ngày giờ ấy chẳng xa. Và cái gì phải đến thì nó sẽ đến.

Tại sao anh em tín đồ tin tưởng như thế? Đó là vì:

1.- Trước khi xảy ra tai nạn, Đức Thầy có hỏi một nhân viên hầu cận: Ngày bữa nay ngày mấy âm lịch. Nhân viên nầy có trả lời là ngày 25 tháng 2 nhuần. Đức Thầy bèn chép miệng than rằng: “Ngày nay là ngày đau khổ nhứt! Ôi! Sao mà khổ quá vậy!”

2.- Chính Đức Thầy có hỏi ông Mười Tỷ biết hướng nào về Phú Thành chăng. Khi anh nầy chỉ hướng thì Đức Thầy nói: Phải! Thì ra chính anh Mười Tỷ là người sống sót để chạy về báo tin, còn ba tự vệ quân kia đều bị giết hết.

3.- Đức Thầy có nói với ông Ngô thành Bá tức Biện Đài trong dịp dẫn ông Đài đi núi Tà Lơn rằng sau nầy Ngài xa vắng bổn đạo trong một thời gian và, trong khi ấy, không một người tín đồ nào biết Ngài ở đâu. Ngài cũng nói với nhiều tín đồ câu ấy.

4.- Trong Sấm Giảng của Ngài, Đức Thầy cũng có nói:

“Rán nghe lời dạy của Thầy,

Để chừng đến việc kiếm Thầy không ra.”

Và:

“Tu kíp kíp nếu không quá trễ,

Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.”

Bốn khoản trên đây chứng minh một cách hùng biện rằng Đức Thầy biết trước những nạn tai mà Ngài sắp phải gánh vác.

Suy luận như thế, chúng tôi tự hỏi vì sao Đức Thầy vắng mặt? Theo chúng tôi tin tưởng thì sở dĩ Đức Thầy vắng mặt là vì:

1.- Ngài nhận thấy thời cơ chưa thuận tiện. Mà hễ thời cơ chưa thuận tiện thì phải “Ẩn nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Cái thái độ không bôn chôn không ỷ lại của Đức Thầy về vấn đề cứu quốc đã bộc lộ trong câu:”Dùng sức mình đánh bại kẻ thù, Tỏ ra khí phách trượng phu, Vung Long tuyền kiếm tận tru gian thần”.

2.- Học chữ nghĩa ở nhà trường thì phải thi mà học Đạo lý với Phật, Tiên thì phải chịu thử thách. Đức Thầy xa vắng để thử lòng môn đệ. Tại Sài Gòn năm 1934, Ngài có nói với Ông Cả Hốt ở làng Hòa Bình (Bạc Liêu) rằng sau nầy Ngài sẽ có một diệu pháp để biết lòng bổn đạo. Chắc chắn diệu pháp ấy Đức Thầy đang thi thố bằng sự vắng mặt của Ngài.

3.- Anh em tín đồ càng hoài vọng Đức Thầy bao nhiêu thì sự hồi hương của Ngài càng trọng yếu và thú vị bấy nhiêu.

Đã biết rằng Đức Thầy là một “Đấng anh hùng dựng nên thời thế” có lãnh sứ mạng Ngọc Đế và của Phật Tổ, chúng tôi tin chắc rằng Ngài thế nào cũng sẽ về, vì nếu Ngài không về thì:

1.- Có ai mà “Thâu cho được con long ác nghiệt”?

2.- Có ai mà “Trên đài cao gọi các linh hồn”?

3.- Có ai mà “Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành” để chọn “Người hiền đức đặng phò chơn Chúa”?

Để chấm dứt, chúng tôi xin lấy thái độ khách quan mà chép y nguyên văn bài dưới đây của ông X.M. đã đăng trong báo Phục Hưng ngày 16-4-1949 nghĩa là đúng ngày lễ Kỷ niệm Đệ nhị chu niên ngày Đức Thầy thọ nạn tại Đốc Vàng (kể theo dương lịch). Bài ấy như vầy:

Đức Huỳnh Giáo Chủ vẫn còn sống!!!

(Báo PHỤC HƯNG ngày 16-4-1949 dl)

Ngay sau cái đêm mà Giáo Chủ họ Huỳnh bị Bửu Vinh, Ủy viên quân sự VM tỉnh Long Xuyên âm mưu bắt ở Văn phòng Đại đội của y trên tả ngạn một con rạch ăn sâu vào làng Tân Phú thì cả một vùng chung quanh sôi nổi như muôn lượn sóng ba đào giữa cơn phong ba bão táp. Bởi thế Bửu Vinh lo sợ một cuộc phản công của các tín đồ và Bộ đội Hòa hảo.

Trong óc con nhà quân sự ấy nảy ra một ý kiến quá khích: Thủ tiêu!

Nhưng bên cạnh viên tướng nóng nảy ấy lại còn một người khác, mềm dẽo và sâu độc. Người ấy là Giáo sư Trần văn Nguyên lúc ấy giữ chức Thanh tra chánh trị VM ở miền Tây. Nguyên nhứt định phải đem ông Huỳnh về Nam bộ, để chờ sự quyết định ở đây. Bửu Vinh cự tuyệt quyết liệt, bảo rằng đó là thuộc quyền hạn địa phương, nhứt là cuộc rối rắm xảy ra ở địa phương y. Cuộc tranh luận trở nên gay go.

Trần văn Nguyên lớn tiếng:

– Đồng chí không có quyền xử đoán một Ủy viên Đặc biệt của Nam bộ trong khi đồng chí chỉ là Ủy viên Tỉnh!

– Cái đó thuộc về một việc xảy ra ở địa phương tôi, vả lại tình thế đang nguy ngập.

Rốt cuộc, Trần văn Nguyên phải nhượng bộ vì trong tay không có binh lực. Nguyên đổ trách nhiệm:

– Có chuyện gì sau nầy với Nam bộ, trách nhiệm về đồng chí hết!

Bửu Vinh đã sợ Hòa Hảo, lại háo thắng, nhứt định tối bữa sau đem xử hình Giáo chủ họ Huỳnh.

Bửu Vinh lại còn nỗi lo sợ bị cướp pháp tràng nên y tính sẽ xử bí mật vào ban đêm. Một cái hố đã đào sẵn lại còn một điều nữa là Bửu Vinh không muốn tự mình thi hành thủ đoạn ấy hay là có mặt ở giờ phút ấy, có lẽ là vì sự cảm thấy thẹn thùng và xấu hổ (dù sao y cũng là người có chút trí thức!) vì những hành vi quảng đại ngay thẳng của ông Huỳnh Phú Sổ đối với y.

Thế là tối ấy, ba kẻ tâm phúc của Bửu Vinh được lịnh dẫn ông Huỳnh đi hành hình.

“Đến pháp tràng, ba người nầy (đao phủ) tuốt kiếm sửa soạn ra tay thì Huỳnh Giáo Chủ nghiêm nét mặt khoát tay nói:”Mấy anh em hãy để tôi nói đôi lời”.

“Nói đi.

Ông Huỳnh nói thao thao bất tuyệt một lúc lâu với giọng điệu chẩm rải và rõ rệt, lời lẽ dễ hiểu, giản dị,

“Không thể nhắc lại được những lời nói ấy của ông. Nhưng chỉ biết rằng trong khi ông nói, ba tên đao phủ nhìn nhau, rồi lâu lâu thở dài, dần dần cúi đầu xuống. Những nét hung ác trên mặt chúng lần biến đi, thanh kiếm rời khỏi bàn tay hoen máu của chúng. Chúng trở nên hiền lành như ba con chiên nhỏ.

“Những lời của đạo đức, những câu chơn lý của sự thật, đã cảm hóa được ba con người. Chỉ nội trong mười phút đồng hồ mà ba tên đao phủ biến thành ba tín đồ của người mà chúng sắp xử.

“Nói vừa đoạn, Giáo chủ họ Huỳnh hỏi chúng:

- Bây giờ ta nói đã xong, các anh cứ phận sự thi hành đi…

- Câu nói ấy rơi bất thần vào óc ba tên đao phủ giữa lúc lòng đã mềm vì những lời bác ái, lòng đã trắng vì những sự thật làm cho chúng trở nên kinh ngạc đến ngây ngô.

- Chúng không còn can đảm cầm đến thanh kiếm nữa. Chúng nhìn nhau và nhìn vị giáo chủ ngại ngùng. Một tên ấp úng nói:

- Thưa ông Tư! Chúng tôi hiểu rồi. Xin ông Tư đi đi. Đi ngay bây giờ!

- Thế còn nghĩa vụ và trách nhiệm của các anh?

- Không sao. Ông Tư cứ đi. Chúng tôi sẽ tính được. Chúng tôi hiểu ông nhiều rồi và tay chúng tôi không còn gân sức đâu để giết ông. Ông hãy đi cho thoát và độ trì cho ba chúng tôi.

- Các anh nói thiệt à!

- Thửa lòng chúng tôi lúc nầy có biết nói dối là gì đâu?

Thế là vị Giáo Chủ họ Huỳnh lại khoan thai lên đường đi hút lẫn trong bóng tối.

“Và cũng đêm ấy, tại chỗ ấy có một người bị chặt làm ba, liệng xuống hố vùi đất lên”.

Và ba tên đao phủ lạ lùng vẫn về phúc bẫm với Bửu Vinh rằng phận sự chúng đã làm xong.

Trong khi ấy, ông Huỳnh lần trong bóng tối mà thất thểu đi, thỉnh thoảng dừng lại dừng lại, đau lòng nhìn mấy bàn thông thiên thờ Phật Trời vừa bị lật tung lên, nằm chơi vơi lỏng chỏng giữa hoang vu vắng vẻ.

Vài bữa sau, quả nhiên có lịnh ở Nam bộ về đòi Bửu Vinh phải đem trả Ủy viên Đặc biệt Huỳnh phú Sổ về Tháp Mười.

Lúc nầy thì kẻ thắng lý là Trần văn Nguyên. Còn Bửu Vinh thì chỉ còn cách kiếm thế đổ thừa cho tình thế khẩn bách không thể làm hơn.

Tuy nhiên, ít lâu sau, các báo ở bưng cũng như ở thành đều có đăng một cảnh Tòa án và pháp tràng xử án ông Huỳnh với tất cả những chi tiết như lúc tuyên án, nét mặt của ông Huỳnh, vài giọt nước mắt trước đoạn đầu đài…

Các báo bày vẻ khéo léo làm cho kẻ nhẹ dạ và không biết chuyện cứ yên trí nhắm mắt mà tin. Ai có biết đâu đó chỉ là tiểu thuyết.

Và ai có biết đâu giữa lúc người ta tả cái chết của chính mình, tại một cái lều nhỏ cô đơn giữa rừng kia, vị Giáo chủ họ Huỳnh bằng da bằng thịt vẫn an nhiên sống như chúng ta đang sống giữa cảnh trời đất nước mây bao la trùng điệp, và mỉm cười trước thế sự đảo xoay mà chờ, chờ một ngày kia, cuốn thiên thơ đến trang xuất đầu lộ diện là ông lại trở lại giữa đám đông người.

Lúc ấy sẽ có những cặp mắt kinh ngạc, sẽ có những trái tim thán phục và chắc cũng có những chiếc mặt nạ rơi!

PHẦN THỨ BA - MẦU NHIỆM CỦA THẤT SƠN

CHƯƠNG I: Các vị trong phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã nói gì về Thất Sơn?

Vì những lẽ trên đây, chúng tôi xin chép y nguyên văn, từ vấn đề một, những điều các Ngài trong phái B.S.K.H đã nói về Thất Sơn

I- Về sự sấm nổ

 

Nói cho già trẻ gái trai hay mừng .Đức-Huỳnh Giáo-Chủ cũng có nói:

” Thất-Sơn tiếng nổ Qui cổ diệt kim

Và:

Chừng nào tiếng sấm nổ vang,
Thất-Sơn lộ vẻ đền vàng báu thay!”

 

II- Về sự xuất hiện đền đài.

 

Ông Sư-Vãi Bán Khoai thì nói:

Chừng nào núi Cấm hóa lầu.
Thời là bá tánh đâu đâu thái-bình.
Chừng nào cá nọ hóa long,
Cấm-sơn lộ vẻ đền rồng mới yên.

“Chừng nào Bảy Núi thành vàng.
Thì là mới đặng thanh-nhàn tấm thân“,
Ông Ba Thới lại tiên tri:

“Cửa Ngả-Bát có nổi nhị sơn,
Núi Sam tiêu mất Thất-Sơn điệu đền.
Chí anh-hùng lập chí cho bền,
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bửu-Sơn“.


Và: “Ông Cấm đá tiêu, Thuấn-Nghiêu tỏ rõ“.

 

Đức-Huỳnh Giáo-Chủ nói nhiều hơn hết về điểm nầy, Ta hãy đọc những đoạn trích lục dưới đây thì biết:

“Thất-Sơn lộ vẻ đài lầu,
Chừng ni mới thấy nhiệm-mầu của ta.
Chừng Bảy Núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi!
Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi,
Miền Bảy Núi mà sau báu quí.

Đặng coi báu ngọc ly-kỳ Năm Non,


Lầu đài núi Cấm lộ nay mai,
Thức tỉnh chúng-sanh mới tỏ bày.
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài “.

Và:

ngọc trường quang ẩn tích kỳ,
SƠN đài lộ vé liễu huyền-vi
KỲ thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG vị âm thầm mộc túy vi.
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử,
NON lịch đài mây rạng tu mi,
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ,
NÚI ngự Hoàng-san tự Đỉnh-Chi.

 

III– Về sự chiến tranh ở miền sơn lãnh

 

“Mãn nhứt thinh các nước đều vô,
Đầu sơn giao chiến nam-mô tranh tài
Và : Thập bát quốc làm hội đầu sơn“,

Đức Huỳnh Giáo Chủ lại rành-rẽ hơn trong những câu:

”Lôi-âm giục khởi tiếng đờn,
Thất-Sơn đấy loạn là cơn hiểm-nghèo,
Nơi phía trước cheo-leo tiếng khóc,
Đứng sau lưng hình vóc dẫy chưn,
Nước kia lửa nọ tưng bừng.
Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn-tai“.

Trong mấy năm nay, nhiều trận giao-phong khá lớn đã xảy ra trong vùng Thất-Sơn. Phải chăng đây chỉ là sự mở màn cho những cuộc so tài thử sức ác liệt sau nầy?

IV– Về sự dời non đổi núi

Mòn sông, mòn biển lại còn mòn non,
Đổi chồng, đổi vợ, đổi con,
Đổi non, đổi núi, đổi hòn Hà-Tiên,
Đổi Châu-Đốc, đổi Tịnh-Biên,
Thất-Sơn lại đổi qua liên Nhà-Bàn“,

Hay là: “Trong hai ngàn xử biến Thất-Sơn,
Biến thiên, biến địa, biến nhơn thay đời.

b. Đức Huỳnh Giáo-Chủ cũng quả-quyết rằng:

 

“Nước cờ mới nay đà khởi sắp,
Trổ tài hay biễn lấp non vời,
Sau đến việc sơn băng thủy kiệt,
Khùng thảm thương bá-tánh quá chừng“.

V- Về Hội Long Hoa tại Thất Sơn

Đến cái việc Hội Long-Hoa sẽ chuyển lập lại Thất-Sơn thì:

a. Tứ-Thánh tiên tri như vầy:

“Núi rừng trổ ngọc trổ ngà,
Long-Hoa lại trổ trên tòa Thượng-nguơn.
Nam bang một lá quế đơn,
Năm châu tựu hội Thất-Sơn đông vầy,
Ngày sau có một không hai,
Thất-Sơn duy nhứt Như-Lai lập đời“,

b. Đức- Huỳnh Giáo-Chủ có nói: “ Hội long-Hoa chọn kẻ tu mi, Người hiền đức đặng phò Chơn Chúa“. Bởi vậy, Ngài khuyên tín đồ phải rán:

“Làm cho rồi phận tu-mi,
Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm Non”.

Ngài khuyên anh em tín-đồ:

“Nền đạo-đức, sắc-thinh chớ mến,
Có thuyền từ đưa đến Non Tiên.
Và đã là tín đồ Hòa-Hảo thì phải:
Hiệp hòa nhau chờ đợi Năm Non “.

 

VI- Về việc phân xử công minh.

Nhưng mà chưa hết đâu. Trước khi cái cảnh:

“Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ, Non thần biến đổi hết rừng lâm” được xuất hiện, thì lại có cuộc:

“Xử những kẻ hung-hăng tồi-tệ, Thưởng những người trung hiếu vẹn toàn”.

Ta hãy nghe Đức Huỳnh Giáo-Chủ quả quyết:

 

” Sau kẻ ấy làm mồi mãnh hổ,
Cảnh núi non nhiều thú dị-kỳ.
Nó trọng ai hiền-đức nhu-mì,
Sát phạt kẻ bội cha phản chúa “.

 

VII- Về việc lúa bay

Mà muốn cử đồ đại sự, trước nhất phải nghĩ đến vấn đề lương thực. Muốn biết các vị Sơn-Thần đã lo lắng đến vấn đề nầy thế nào, xin đọc mấy câu dưới đây của Đức-Huỳnh Giáo-Chủ trong quyển ”Sấm-giảng khuyên người đời tu niệm ” viết năm 1939:

“Ngồi chơi đạo-lý bàn qua,

Mấy người có biết lúa mùa bay không?

Có người đạo lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày,
Lúa bay về núi dành rày ngày sau“.

Lối từ năm 1943, nhiều người ở miền Hậu-Giang đã có dịp nghe tiếng lúa bay hoặc hứng được lúa bay…

VIII- Về tinh thần ưu quân ái quốc

Nhưng nếu nhắc lời các vị trong phái B.S.K.H. nói về Thất-Sơn, ta phải nhắc đến tấm lòng ưu Quân ái Quốc, mưu Đạo vị Dân của các Ngài.

a. Ông Ba Thới há không có nói:

“Mắt đoái nhìn Tiên cảnh Thất-Sơn,
Ngùi ngùi nhớ Chúa đội ơn lộc Thầy.
Oán đa oán ơn kiến thiểu ơn,
Hội lành nỡ bỏ Thất-Sơn sao đành.
Dạ bao đành vong kiểng Thất-Sơn,
Chí bất luận phủi ơn đại đế.
Người ở đời có chí thì hơn.
Bất quí Thất-Sơn nhơn bất lực.
Ngó lên Bẩy Núi thấy rừng.
Thương người trung nghĩa biết chừng nào nguôi.
Bề nào hội thí Thất-Sơn,
Biết rằng quân-tử tiểu nhơn vuông tròn.
Thiện dươn hậu nhựt hớn hài,
Sum vinh quyền-quí lâu dài Thất-Sơn”

 

b. Đức Huỳnh Giáo-Chủ sau khi nghĩ đêm tai núi Két hồi năm 1939 và sáng lại, trước khi lui chơn, có kêu ”Chư Sơn Bảy Núi” (Chư-vị Sơn-Thần Năm Non Bảy Núi) mà bảo:

  “Vậy hỡi chư thần mau nối gót.
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay”.


CHƯƠNG II: Những sự mầu nhiệm nơi miền Thất Sơn

Trừ những hạng người vô thần hay những người có óc hoài nghi thì ai ai cũng nhìn nhận vùng Thất-Sơn có chứa lắm điều lạ lùng kỳ bí.

Sự mầu nhiệm ấy người ta có thể nhận thức bằng mắt bằng tai hoặc cảm thông bằng tâm bằng trí.

 Điện Cây Quế. Nếu đi lên Cấm-sơn bằng ngả Rầy-Đét và khi tới Đá Chài rồi dòm qua phía tả người ta sẽ thấy vùng điện Cây Quế, nơi có cây quế và bắp trầm hương. (Mùi thơm kỳ lạ của trầm hương có thể bắt hơi ngửi được tại Đá Chài). Những người đi núi Cấm đều có nghe thuật rằng tại Điện Cây Quế có một cặp rắn hổ mây khổng-lồ, hằng lo giữ gìn hai vật quí nói trên. Vả lại người tình cờ đi đến đây thì mới gặp trầm, gặp quế, còn người cố ý đem dao mác theo để tìm thì không khi nào gặp được. Người ta cũng có thuật lại rằng mười mấy năm về trước có ba người Chà-Và (Mã-Lai) ở Nam-Vang, phép-thuật rất cao cường, cố đến Điện nầy với cái mộng làm phú hộ nhờ trầm và quế. Nhưng họ đã hộc máu chết tươi, bỏ rơi mộng đẹp.

Người ta cũng nói gần Điện nầy có một cái hầm chứa đồ kiểu xưa. Người Miên ở vùng nầy mỗi khi có việc cần dùng nhiều chén bát thì cứ đến đây mượn về xài rồi đem lại trả. Có người thấy đồ tốt, động tánh tham, đem đồ xấu lại để đổi. Từ đó hầm chén bị một tảng đá to tướng lắp kín, không vào được.

 Điện Ông Hổ. Trước cửa chùa Phật Lớn (1) có con đường đi xuống Điện Ông Hổ (2), và Điện Thiêng-Linh, nơi mà các pháp-sư đến luyện bùa ghép (3). Chỉ đôi khi người ta mới gặp một con cọp nằm trong Điện. Người ta nói cọp ở núi Cấm là cọp tu không hề ăn thịt ai. Trái lại cọp bên núi Bà Đội Om gần đó không tu nên rất hung bạo. Người ta cũng có nói mấy con cọp ở núi Bà Đội bén mảng qua núi Cấm thì lập-tức bị cọp ở núi nầy đuổi về liền.
————————-

(1). Chùa nầy có một cốt Phật bằng xi-măng rất lớn và do ông Bảy Do cất.
(2). Kêu theo tiếng người ta thường dùng, chớ theo Đức Thầy thì cọp kêu cọp, tượng kêu tượng.
(3). Điện nầy của cô Thiêng linh, một thiếu nữ đã lên đây tu với thân mẫu từ năm 14 tuổi. Khi bà thân cô qua đời thì điện nầy để cho cô.

————————-

Hang Khỉ. Theo con đường đến Điện Ông Hổ, người ta cũng còn gặp một cái hang gọi là hang Khỉ. Tuy là gọi thế chớ không thấy trong hang nầy có con khỉ nào. Người ta chỉ biết miệng hang ấy rộng bằng cái thúng giạ. Từ miệng xuống tới đáy độ hơn 5 thước tây. Đường đi xuống hang rất khó khăn vì đây những đá lởm chởm. Đáy hang khá rộng, vuông vức chừng 5 thước. Chính giữa có tấm vách ngăn, có cửa qua lại bên phòng. Bên nào cũng có bàn nhị đẳng. Hai bên bàn nhị đẳng nầy có hai cái ghế đẩu bằng đá để bước lên đốt và cắm nhang.

 Năm 1940, một người bạn của chúng tôi có thấy ba người đến ở tu trong hang nầy. Mấy người nầy là một thiếu nữ lối 16 tuổi, bỏ tóc xả, ở bên hữu phòng, và hai người đàn ông đầu để tóc, mặc quần ngắn đen và áo khỉ ở bên phòng phía tả. Có lẽ ba người nầy ở đây khá lâu nên khi rọi đèn chóa mắt thấy mặt mày họ trắng xanh.

Điện Kín. Trên chót núi Tô có một cái điện gọi là Điện-Kín. Một vài người đi núi về có thuật lại rằng tại Điện nầy có rắn hổ-mây to lớn (bề tròn bằng thúng giê). Người ta nói rắn ấy chầu ”Bà” ở Điện Ngũ-Hành.

 Người ta cũng nói hang đá ở Điện-Kín ăn qua tới núi Cấm. Muốn thám hiểm địa huyệt nầy, phải dùng đèn cầy thứ lớn. Nhưng chưa thấy có ai đi suốt huyệt nầy. Trong kỳ đăng sơn với Đức Thầy (kỳ thứ ba) ông Ngô-ngọc-Chơn có xuống Hang-Kín nầy và đi được một chập. Nhưng vì âm khí làm cho ông lạnh người và ghê rợn vô cùng nên ông phải quày trở lên.

 Nói tóm lại là người ở miệt đồng ruộng mà chưa từng viếng non thì khi lên đây sẽ vô cùng ngạc nhiên mà thấy nhiều chuyện lạ: nào là những tảng đá hơn mười thước bề cao, nào là những đại thọ gốc độ chục ôm, cao mút ót, thẳng như cây đèn cầy, nào là những lá dầu bề dài hơn 7 tấc tây, nào là những bụi mây gai dài cả gang tay, nào là rít to, mình bằng cái thúng, nào là cọp, khỉ, đười-ươi, nào là heo rừng, hươu, nai, hồng hoàng, cao các.

 Nhưng đáng chú ý hơn hết là sự linh thiêng huyền diệu nơi chốn rừng thẳm non cao. Các đấng vô hình ở trên non luôn luôn sẵn sàng làm cho các bạn biết sự hiển linh của non núi. Bạn nguyện ước điều gì sẽ được toại nguyện ngay, hoặc sẽ được lãnh hội sự thù đáp ngay. Các việc đó các bạn sẽ có dịp để thí nghiệm, nếu bạn muốn.

 Cách hơn hai năm về trước, tại chợ Mỹ-Lương (Hòa-Hảo) có một ông bạn lên núi Cấm phát nguyện chịu khổ lao 3 tháng 10 ngày để tìm hiểu một vấn để nan giải. Sau khi phát nguyện vài ngày, ông ta bị V.M. bắt giam cầm đúng 100 ngày. Trong khi bị lao khổ, ông đã lãnh hội tất cả những chỗ bí ẩn của vần đề.

 Nói vắn tắt là mình tưởng nghĩ thế nào các vị Sơn-Thần đều biết hết và tùy theo sự hành động của mình, mình sẽ được hữu hạnh hay phải chịu họa tai trong khi bước chơn lên núi.

PHẦN PHỤ THÊM

Bài vè Thất Sơn của ông Vuơng Thông tục gọi ông Sáu (1)

Đoái xem phong cảnh Thất-Sơn,
Tuy là rẫy-bái sau hơn Sài-Gòn (2).
Bạc bài đánh tợ trường bon,
Kẻ voi người ngựa đường mòn vô ra.
Xuân-Sơn, Hưng-Thới, Nhơn-Hòa,
Ba làng thiên-hạ người ta vầy-vầy.
Đua nhau cuốc đất trồng cây,
Vài Phật cùng Thầy dạ ở làm ăn.
Tháng năm tháng sáu lăng-xăng,
Trồng khoai tỉa bắp mà ăn đỡ lòng.
Nam thanh nữ tú vui thay,
Chợ thời buôn-bán tối ngày không tan.
Khai kinh dọn lộ đắp đàng,
Thương-hồ qua lại cả ngàn vô ra.
Bán rau, bán ớt, bán cà,
Bán thơm, bán mít, cùng là bán dưa.
Sớm mai chợ nhóm tới trưa,

————-

(1). Ông Sáu là một đại đệ-tử của ông Trần-văn-Nhu,
(2). Có chỗ chép: vui hơn Sài-Gòn.

————-

Đậu xanh, đậu trắng, bán đường trà-om.
Bán gà, lại bán heo con.
Hươu nai cũng có món ngon đồ rừng.
Đọt lang, đọt sợp, đọt vừng,
Bán rau ngành-ngạnh, bán gừng, bán me.
Tháng tám kẻ bộ người ghe,
Khoai lang, khoai tím, bán mè, bán lươn.
Chuối cao, chuối ngự, đồ thường.
Mảng-cầu, đu-đủ, trong vườn gánh ra.
Tuy là ở núi non xa (1),
Vật chi cũng có, cau bòn, cau ta.
Dưa leo, dưa hấu, khổ qua,
Sớm mai hành hẹ gánh ra dẫy-đầy.
Cao-Miên bán gióng, bán mây,
Giáng-hương củi bó, trái cây vú-bò.
Người thời bán gạo bo-bo,
Bột lùng, bột ngải, mừng-rò, trái-dâu.
Tóc xanh chí những bạc đầu,
Bán-buôn từ-thiện giữ câu tu-trì.
Thuở xưa Thầy cựu có ghi,
Ngày sau Bảy Núi vĩnh-vi đời đời.
Danh thơm có báu Kỳ-Hương,
Ở cho đạo-đức bốn phương phục-tùng.
Tích hiền đừng có tích hung,
Tích nhơn tích nghĩa tích trung tích lành.
Nhơn-dân đâu đó cũng đành,
Trời cho hương-đảng đạo đồng giữ ngay.
Sài-Gòn, Gia-Định tới đây,
Long-Hồ, Sa-Đéc, Tấn-Cây, Cái-Vồn.

————-

(1). Có chỗ chép: Ở xứ núi non.

————-

Bằng-Tăng, Thốt-Nốt, Trà-Ôn,
Tùy-Son, Rạch-Lá, Trà-Hôn, Cái-Tàu.
Cần-Chông, Rạch-Giá, Cà-Mau.
————-
Cả-Thia, Cả-Cối, Cả-Còng,
Sông sau sông trước đôi sông.
Tam-Kỳ lục-tỉnh cũng đồng tới đây.
Người thời lên ở Nhơn-Hòa.
Kẻ qua núi Tượng, người qua Giang-Thiền
Người thời đi thẳng Hà-Tiên.
Kẻ vô Xà-Tón ở liền Nam-Vi,
Chẳng qua Trời Phật khiến đi,
Người thời lỡ bỏ, kẻ thời đi tu.
Đêm ngày giữ đạo công phu,
Ngày sau Bảy Núi thiên thu đời đời.


Những bài thơ của Đức Thầy viết theo điệu khoán thủ hoặc ẩn từ có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương.

BỬU châu công luyện chốn non Thần,
SƠN thủy môn giang bảo giác dân.
KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân.

BỬU-ngọc vãng lai rõ Đạo mầu,
SƠN tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
KỲ giả thức tâm tìm đạo-lý,
HƯƠNG tuyệt đăng lui bãi phục cầu.


BỬU ngọc trường quan ẩn tích kỳ,
SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi.
KỲ thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG vị âm thầm mộc túy vi.

NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử.
NON lịch đài mây rạng tu mi.
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ.
NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi.


BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng.
SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang.
KỲ sanh tạo giả thi truyền tục,
HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang.


BỬU kiến từng tâm dụng thể tiên,
SƠN sanh giả kế chưởng huyền thiên.
KỲ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
HƯƠNG vị trầm thinh bí kỷ tiên.


Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
Tự giác âm-thầm kiến Tiên-bang.
BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí.
Tứ hải bất hòa khởi liên giang.

                HẾT

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn